*

TẠP GHI



Làm Thơ Ở Sài Gòn
3
Có vẻ như độc giả ưa đọc thơ, và, đọc, viết về thơ.
Đây là kinh nghiệm riêng của Tin Văn, từ thuở khai sinh của nó tới giờ. Cũng được sáu, bẩy niên, nếu kể luôn thời ăn nhờ ở đậu VHNT của PCL. Phải từ 1998 hoặc 1999. Thời chấm dứt, và mở ra thiên niên kỷ!
"Hot Item" của Tin Văn hiện nay là Giọt Mưa Trời Khóc và Mần Thơ Ở Sài Gòn.
Cũng như trước đây, mấy trang thơ NLV, THH đều là Top 25 trong tháng.
Chính vì thế mà trong tương lai, càng cận ngày xuống lỗ, Tin Văn sẽ chỉ còn có mỗi một Item, hot hay khong hot: Thơ.
*
Nhớ lúc phong phanh áo mỏng rất gần tim
PTVA

Câu thơ làm Gấu nhớ Tiếng động thời gian, tập tản văn [không Thứ Sáu], của Osip Mandelstam.
Hành trang của Mandelstam, là những cuốn sách, và "tiếng động của thời gian", "le bruit du temps".
[Georges Nivat giới thiệu tập tản văn của nhà thơ Nga]

Và nỗi hoài nhớ quá khứ ám ảnh ông:

Người ta sống khá hơn, trước đây
Thật ra, người ta không thể so sánh
Máu bây giờ
Và máu ngày xưa
Nó rù rì khác nhau như thế nào.

On vivait mieux auparavant

A vrai dire, on ne peut pas comparer
Comme le sang ruisselait alors
Et comme il bruit maintenant.
[Trích Tiếng động thời gian, bản tiếng Tây, lời giới thiệu]

Hà Nội của anh, trước 1954, tụi này không có.
Sài Gòn của anh, trước 1975, tụi này cũng không có.

Nhưng Vàng Anh, có, Sài Gòn sau 1975, đám kia chẳng ai có được.

Liệu có quá không, khi nói, đây là hơi thở [hơi thơ, cũng được], đầu tiên của Sài Gòn hồi sinh, sau cái chết 30 Tháng Tư của nó? (1)

Máu chảy ở Sài Gòn, ngày xưa, Gấu có.
Máu chảy ở Sài Gòn, bây giờ, Gấu không có.

Áo phong phanh,
Rất mỏng ,
Rất gần tim.
PTVA

Nhớ Sài Gòn như thế mới là nhớ chứ !

Nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay
NQT
Prose nerveuse, ramassée, dure et tendue comme un poème
Tản văn bồn chồn, cô đặc, cứng, và căng, như là một bài thơ.
Nivat viết về "tản văn không Thứ Sáu" của Mandelstam.

Bỗng thèm đọc tản văn [có] Thứ Sáu của PTVA.
NQT
(1)
 What are poets for ?
Tại sao thi sĩ?
Thi sĩ để làm cái quái gì?

". . . and what are poets for in a destitute time?" asks Holderlin's elegy "Bread and Wine." We hardly understand the
question today. How, then, shall we grasp the answer that Holderlin gives?
". . . and what are poets for in a destitute time?" The word "time" here means the era to which we ourselves still belong.
For Holderlin's historical experience, the appearance and sacrificial death of Christ mark the beginning of the end of the day of the gods. Night is falling. Ever since the "united three"— Herakles, Dionysos, and Christ—have left the world, the evening of the world's age has been declining toward its night.

"... và tại sao thi sĩ cho một thời khốn kiếp? ai điếu "Bánh Mì và Rượu Vang" của Holderlin, hỏi.
Chúng ta, ngày này, [sau 30 Tháng Tư, với chúng ta, những cư dân của Sài Gòn. NQT], khá rành câu hỏi. Nhưng làm sao nắm bắt câu trả lời mà nhà thơ Đức đem đến cho chúng ta?
"... và thi sĩ để làm cái quái gì cho một thời khốn kiếp?"
Từ "thời" ở đây, có nghĩa thời kỳ mà chúng ta còn thuộc về nó. Bởi vì, với kinh nghiệm lịch sử của Holderlin, sự xuất hiện và cái chết của Chúa Ky Tô đánh "dấu ấn" cho sự bắt đầu chấm dứt ngày của những vị thần. Đêm xuống. Kể từ đó, ba ngôi tụ lại - Herakles, Dionysos, and Christ - rời bỏ thế giới, buổi chiều tàn đời của thế giới ngả dần sang đêm tối của nó.

Heideigger: Thơ ca, Ngôn ngữ, Tư Tưởng