*

TẠP GHI



Làm Thơ Ở Sài Gòn
2

Làm Thơ ở Sài Gòn  làm Gấu nhớ đến Nguyễn Tuân.
Nhớ cái xen trong Chữ Người Tử Tù, Huấn Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của đời mình rồi quay sang nói với viên cai ngục, hãy kiếm một nghề khác mà nuôi thân, (con người như ông, những chữ như thế này phải tìm đất khác để mà tụ lại): chẳng đợi người cai tù nói hết câu: xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ chưa khô mực.

Nguyễn Tuân nổi tiếng với tùy bút, và tùy bút Nguyễn Tuân, nổi đình nổi đám vì chất khinh bạc của nó. Những người viết sau này, không thể nào tới được cái chất khinh bạc "ròng" như vậy, đành phải thay bằng giọng thầy đời, giọng uyên bác, giọng có đi Tây, đi Tầu, có ở Paris, có biết khu "dân sinh" Saint-Germain-des-Prés... Ra cái điều đi hơn Nguyễn Tuân! Trúc Chi có thể "hơn" Nguyễn Tuân ở cái khoản đi, nhưng "may thay", chân truyền Nguyễn Tuân ở cái khoản khinh bạc: khinh bạc như là cực điểm của lòng nhân hậu. Lòng nhân hậu, hay hồn nhân hậu này, theo tôi nên "dịch ra tiếng Tây" bằng chữ la nostalgie, vốn thường được hiểu là hoài hương. Nó ngấm vào ông Adam và bà Eva, ngay phút đầu tiên bị văng ra khỏi vườn Địa Đàng.

Mắt xanh hay mắt trắng (To be or not to be?). Văn là người, nhưng văn cũng để giấu người: chất khinh bạc vốn lồ lộ trong Nguyễn Tuân, là để giấu con người thực của ông. Người đọc sướng điên lên, vỗ đùi bành bạch, vì nét tài hoa, vì con mắt trắng dã của Nguyễn Tuân, nhưng để lọt mắt xanh của ông, phải là độc giả của những câu văn nhẹ khôn kham: "cứ đến ngồi đây là mình lại nhớ đến nó. Không hiểu sao."
Một chuyến đi

Làm Thơ Sài Gòn còn làm Gấu nhớ tới ông cậu của Gấu. Cậu Toàn.
Ngay sau 30 Tháng Tư 1975, ông lập tức làm liền cái cú đi thăm Sài Gòn. Lần về gặp lại ông ở Hà Nội, nhắc tới vụ đó, ông cười, nói, mấy thằng Cầu, thằng Tiệp, thằng Lùn, [cũng mấy ông cậu của Gấu, con Bà Ba], hồi đó, có đứa nào dám khai báo có bà chị di cư vào Nam đâu.
Tao khai tuốt luốt. Trong hồ sơ Đảng có chi tiết đó. Khi nhà nước ra lệnh, ai có thân nhân ở Miền Nam thì được vào trước, thế là tao đi liền!
Đi liền, nhưng đi để làm gì cơ chứ? Có bà chị nghèo, có thằng cháu, nghe nói chẳng ra gì....
Ông buồn rầu, nói, tao nghe nói về chị về cháu như vậy, nên mới vội vàng đi.
Sợ không kịp nhìn thấy chị, thấy cháu !
Tuy nhiên, ông cậu Toàn không thể không về Hà Nội. Chỉ có ông cậu Cầu, là sau đó, dọn nhà vô Sài Gòn, tái định cư.

Theo những nghĩa đó, Làm Thơ ở Sài Gòn có nghĩa:
Đừng bao giờ tách những bản văn ra khỏi ý hướng của chúng. Và cũng đừng coi đây là một sự trở về "ngây thơ" với những dự tính của tác giả. Tương quan giữa bản văn và ý hướng của nó là tương quan giữa bản văn với tác giả, và với người đọc. Theo nghĩa đó, Tristan Tzara phán: "Thơ không chỉ là sản phẩm được viết ra đó, một chuỗi những hình ảnh những âm thanh, nhưng mà là một cách ở đời"
[La poésie n'est pas uniquement un produit écrit, une succession d'images et de sons, mais une manière de vivre". (1)
Henri Meschonnic: Pour la poétique I
(1) T. Tzara: Siêu thực và thời kỳ hậu chiến. Meschonnic trích dẫn.

Sự kiện, đi thực tế, đi, sống và viết, đẩy cao lên một mức nữa, nó liên can tới cái gọi là "thiên tài của nơi chốn", "genius loci", hay nôm na, thần đất.

Thành thử, Làm Thơ ở Sài gòn  xuất hiện, "như là một dấu ấn", điều này còn có nghĩa, ông thần đất, ông thổ địa Sài Gòn đã chấp thuận "mi", là cư dân của Sài Gòn !

Hồi năm 1954, Gấu cũng đã trải qua kinh nghiệm tương tự [?].
Với Gấu, đúng ra phải nói, những thử thách chết người !

1. Lần thứ nhất: Bị một anh lính Bình Xuyên dọa bắn bỏ không biết bao nhiêu lần, trong suốt một ngày trời.
2. Lần thứ nhì: Bị bắt bỏ bóp Quận Nhất, phía sau rạp xi-nê Đại Nam, gần khu Chợ Cầu Muối suốt một ngày, ngày hôm sau phải đi thi Trung Học Đệ Nhất Cấp.
3. Lần thứ ba: Ăn hai trái mìn claymore tại bờ sông Sài Gòn.

Cú thứ ba này chắc không phải lệnh của ông thổ địa Sài Gòn, mà có khi của ông ở tận... Hà Nội. Ông này nhờ mấy anh đặc công VC trị tội mấy thằng Mẽo, nhân tiện làm thịt luôn thằng bé Bắc Kỳ phản bội... ổng !

Octavio Paz kể chuyện thiên tài ở nơi chốn, khi ông ghé Paris, mới thú vị. Nhờ ông thần đất, ông còn ngộ ra được cái độc của chủ nghĩa Cộng Sản.

Trong số những con người "cô đơn" ông gặp tại Paris, là khuôn mặt còn trẻ, của Albert Camus, nơi hội tụ, trong con người và trong thơ văn, của hai uy tín (prestiges) trái ngược hẳn nhau: nổi loạn và sự chiết trung của chủ nghĩa cổ điển Pháp. Vào năm 1946, ông gặp Kostas Papaioannou.
"Ông ta trẻ hơn tôi, nhưng món nợ tinh thần của tôi với ông lớn hơn nhiều, so với sự cách biệt về tuổi tác. Tôi đã thử vẽ vời chân dung, bằng một vài trang, và tôi cũng đã nhắc tới hình tượng của ông, trong một bài thơ. Sự sống động, sôi nổi của ông ngang bằng với sự hiểu biết. Chúng tôi nói chuyện với nhau hàng giờ, giữa đám đông Paris, những câu chuyện chạy dài trên những đại lộ, hay những con hẻm thê lương, tăm tối của lịch sử. Nhiều khi chúng tôi đi lạc, nhiều khi chúng tôi nhập vào những hữu thể không hình hài, xác thân mà Người Xưa thường gọi là "thiên tài của nơi chốn". Mặc dù lúc nào cũng vui như Tết, không một chút bận tâm, tình trạng kinh tế của ông thật nguy nàn. Ông bỏ đảng CS Hy Lạp, sống như một kẻ tị nạn chính trị không giấy tờ, nạn nhân của cả tả lẫn hữu, những kẻ thù liên kết với nhau bởi lòng hận thù sự phê bình, và sự độc lập. Kostas chịu đựng được tất cả, không một chút vướng mắc: lòng yêu đời của ông vượt mọi rủi ro, bất hạnh. Chẳng bao lâu, tôi hiểu được, ông cũng có cùng nỗi ray rứt như tôi, về một bí ẩn, đâu là bản chất lịch sử đích thực của Liên Bang Xô Viết. Đề tài này, chẳng bao giờ ông cạn láng. Những nhận xét của ông soi sáng tôi rất nhiều. Ông chứng minh cho tôi, định nghĩa của Trotsky là một công thức trống rỗng: Liên Bang Xô Viết là một Quốc Gia thợ thuyền mất chất (dégénéré). Thật vậy, làm sao người ta có thể đánh giá một Quốc gia không được cầm quyền bởi những người thợ, nơi mà họ bị tước đoạt mọi tự do cơ bản? Tất cả những cuộc bàn cãi như vậy, chỉ là những ước đoán thuần tuý, nếu không có một biến cố quyết định: "Vụ David Rousset và tờ Les Lettres francaises."
Lộ Trình

Lần đầu Gấu xém chết, xẩy ra ngay những ngày đầu tiên chân ướt chân ráo tới Sài Gòn, thời gian Bình Xuyên còn nắm lực lượng Cảnh Sát.
Gấu có rất nhiều nickname. Nick đầu tiên, trời cho, có từ bẩm sinh: Thằng lác, [thằng lé].
Nick thứ nhì, thằng Mõ Phố. Cái này cũng quá xưa, từ hồi còn ông cụ, ông cụ ban cho.
Số là, ông dậy học, không khoái Tây, bị chúng đì, đổi trú sở hoài. Mỗi lần tới một trú sở mới, ông bố cần hỏi "dân tình địa phương", là hỏi thằng Mõ Phố.
Cái tật tới nơi nào là lò mò thăm thú, hít hít hửi hửi khiến Gấu, vừa mới tới Sài Gòn là tậu ngay cho mình một tấm bản đồ thành phố, và đường ta ta cứ đi, đâu ngờ, chỗ gần Ga Sài Gòn, trong bản đồ ghi có con đường, dẫn tới phía bên kia, tức phía Trần Hưng Đạo, nhưng vào lúc đó, đã bị lực lượng Bình Xuyên bít lại, khoanh vùng thành trại lính, mỗi đầu có một anh lính gác. Thằng bé Bắc Kỳ mắt lác, nhìn chẳng thấy anh lính gác, cứ thế xăm xăm tiến vô trại, bất ngờ, anh từ  một xó xỉnh nào không biết, xồ ra, xách tai thằng bé ra ngoài cổng, bắt đứng nghiêm, còn anh ta bồng súng đi đi lại lại, lâu lâu lên nòng đánh xạch một cái, nhắm thằng Gấu, hăm, tao bắn bỏ mày !
Mãi đến gần tối, chắc là sắp đổi gác, anh ta mới tha [thả] Gấu !

Lần thứ nhì, Gấu đã kể, trong Lần Cuối Sài Gòn .

Hãy cho tôi thăm lại con phố Bonard, nơi có bót Lê Văn Ken, chú bé di cư ngày nào ngơ ngác, rụt rè làm quen, tự mình khám phá Sài-gòn. Gần gốc cây chỉ còn trong cậu bé ngày xưa, một người đàn ông đánh đập dã man một người đàn bà. Không quên bài học Công Dân, chú bé chạy vào trong bót. Chú bị ăn bạt tai, cùng những lời sỉ vả, người ta đánh vợ, mắc mớ chi tới mày. Đồ con nít Bắc kỳ di cư, vô đây làm tàng. Ôi bài học đầu tiên khi tìm cách làm quen thành phố, được thời gian gọt giũa trở thành một nốt ruồi son đáng yêu biết là chừng nào trên khuôn mặt cô bé. Trên khuôn mặt Sài-gòn.

*

Sự kiện, đi thực tế, đi, sống và viết, đẩy cao lên một mức nữa, nó liên can tới cái gọi là "thiên tài của nơi chốn", "genius loci", hay nôm na, thần đất.
Thành thử, Làm Thơ ở Sài gòn  xuất hiện, "như là một dấu ấn", điều này còn có nghĩa, ông thần đất, ông thổ địa Sài Gòn đã chấp thuận "mi", là cư dân của Sài Gòn !

Giấc mộng lớn của Gấu, hồi niên thiếu, viết một cuốn tiểu thuyết nối liền hai thành phố, một cách nào đó, đã được thực hiện, chỉ với mấy câu thơ, trong Làm Thơ Ở Sài Gòn:
Nhớ Sài Gòn quá, tựa lưng vào tường mà khóc
Âm thầm thôi, trong đêm chỉ đôi mắt mèo động đậy
Nhớ lúc phong phanh áo mỏng rất gần tim
Nhớ những con hẻm nhỏ ít tiếng nói nhớ những con người lầm lũi...
*

"Niên học cuối của Lan Hương ở bậc Trung Học, bắt đầu bằng những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà-nội..."
1965, cùng với truyện ngắn đầu tay, "Những ngày ở Sài-gòn", đăng trên tuần báo Nghệ Thuật, tôi đã mơ tưởng một truyện dài nối liền được hai thành phố. Làm như cuốn sách nhỏ bé có thể xoa dịu cái xấu của cả một miền đất. Thiên nhiên, mặt hồ, mặt ao... in hằn vẻ khắc nghiệt của số phận từng con người, khiến họ chỉ nhìn thấy nỗi khổ đau, chỉ làm cho họ thù ghét trước khi tìm cách yêu thương nhau. Làm như những chữ mỏng manh yếu ớt có thể làm sống lại người cha thân yêu đã mất tích vì tai họa đảng phái ngay những ngày đầu mọi biến động và cũng là ngày đầu mọi khổ đau của một bà mẹ cùng bốn đứa con, người chị lớn nhất mới 9 tuổi. Người cha mất tích đúng ngày 30 tết năm 1945, sau này mấy anh chị em vẫn lấy mâm cơm giao thừa làm mâm cơm cúng... 

Giờ này, tôi chỉ còn nửa giấc mơ. Hà-nội đã chết trong tôi từ lâu, cũng như trong một số người thân quen. Thanh Tâm Tuyền chắc cũng rõ điều này, khi viết xong "Bếp Lửa", nhưng anh cố tình chống trả sự thật tàn nhẫn, trong bài viết khi cuốn sách được tái bản lần cuối tại Sài-gòn, trước khi lịch sử sang trang: "Tôi đã loay hoay, hì hục viết một Bếp Lửa khác". (Một Hà-nội khác, theo tôi). Nhưng rồi chính anh cũng phải giận dữ để cho một nhân vật thốt lên: "Hà-nội là cái quái gì". 

Hà-nội cũng đã chết với Mai Thảo trong "Đêm giã từ...": "Tôi nhìn xuống Hà-nội. Địa ngục ở đó". 

Hà-nội chết theo mối tình đầu. Tình yêu khi đó giống như căn bệnh lúc trưởng thành, là tiếng khóc chào đời. Đó còn là nỗi sợ hãi đời sống, và mong muốn có một người cùng chia sẻ. Nhưng cũng có thể đó chỉ là phản ứng của cơ thể trước sự thay đổi của thời tiết. Đứa nhỏ tuy đã quen với nắng ấm Miền Nam nhưng không làm sao quên được những đợt gió bấc lạnh buốt. Hình như bằng những xôn xao, những mơ hồ như vậy tôi viết cho Lan Hương những dòng cuối cùng: "Anh không sợ chúng ta không yêu thương nhau nhưng chỉ sợ chúng ta thương nhau nhiều quá". 

Hà-nội giá lạnh dần trong tôi theo hơi ấm toát ra từ hai bàn chân của đứa em trai, chuẩn úy Nguyễn Quốc Sĩ, sĩ quan khóa 23 Thủ Đức, biệt phái tiểu đoàn Địa Phương Quân canh giữ phi trường Sóc Trăng, tử trận ngày 23 tháng 11 năm 1967, trước biến cố Mậu Thân một năm, sau khi ra trường chưa đầy 7 tháng, chưa kịp lãnh lương theo đúng cấp bậc. Chưa kịp ghi địa chỉ cấp báo thân nhân. Mấy người sĩ quan cùng đơn vị chỉ nghe nói Chuẩn Úy có một người anh làm công chức Bưu Điện tại Sài-gòn, ngoài ra còn viết văn, viết báo. Và tôi biết tin em tôi tử trận qua tờ công lệnh gởi tới Đài Phát Thanh Sài-gòn, nơi tôi thỉnh thoảng gởi bài cộng tác, và qua hệ thống điện đàm nội bộ, giữa hai Đài Vô Tuyến Điện Sóc Trăng-Sàigòn, trong căn phòng kế bên văn phòng tôi làm việc. 

Trong những giờ phút thê lương ngồi bên xác đứa em tại nhà hội Thị Xã Sóc Trăng, nghe những người lính cùng đơn vị của đứa em kể lại những giây phút cuối cùng của người chỉ huy, nhìn hai hàng nến, lá quốc kỳ, viên sĩ quan đứng cứng người như pho tượng trước chiếc quan tài trong kẽm, ngoài gỗ, tôi có cảm tưởng đứa em đã đem cùng với nó giùm tôi tất cả những kỷ niệm còn sót lại về một thành phố đã có lần hai anh em cùng rời bỏ: Hà-nội maudit!
Lần Cuối Sài Gòn

Khác hẳn tác giả Làm Thơ Ở Sàì Gòn, tâm trạng của đám nhà văn Bắc Kỳ di cư đối với Hà Nội, có gì đó, giống tâm trạng của những người như Brodsky, như Herzen, vừa yêu vừa ghét thành phố quê hương của họ.

Herzen đưa ra nhận xét, đại khái, Petersburg tẩm vào người dân của nó một "chất độc", gây cơn sốt thường trực, về thể chất cũng như về tinh thần. Một hiện hữu nóng bỏng, và cái giá của nó là một cái chết trẻ. Nhiều nhà văn của Leningrad đã trả giá như vậy. Người thì chết trong tù. Tình trạng bỏ chạy ra nước ngoài không rầm rộ nhưng âm ỉ kéo dài suốt những năm 20. Những người ở lại đã phải đối diện với sự chọn lựa giữa sự nghẹt thở về tinh thần hay huỷ diệt thân xác. Nhưng một số trong họ vẫn cố giữ nhân cách, sự trung thực, và cố ghi lại thực tại quái đản là "Cuộc Khủng Bố của Stalin". Chẳng có chi là trùng hợp, những người nổi tiếng nhất trong số họ đều có gốc rễ văn hóa những năm tiền-cách mạng tại Petersburg. Nữ thi sĩ Akhmatova, và nhà soạn nhạc Shostakovich, đã biến đổi thành phố thành một biểu tượng cho số mệnh bi đát, và hy vọng hồi sinh của nước Nga.

Như tất cả những tác phẩm lớn của văn hóa Petersburg, Kinh Cầu là sáng tạo của một nghệ sĩ mà sự đồng nhất với thành phố là tổng hợp của rất nhiều tình cảm hỗn độn. Joseph Brodsky, một đứa con khác của thành phố, đã có lần đưa ra nhận xét, Petersburg đẻ ra một nền văn chương được đánh dấu bởi sự "âu lo, như thể nó được viết ra từ mép bờ trái đất. Và nếu có thể đưa ra một quan niệm chung, một âm điệu nào đó, thì đó là sự vong thân".

Thi sĩ TTT, trong những ngày tù, làm thơ, giữ trong đầu, những dòng đầy ẩn mật, lòng chẳng chút oán sầu, nhưng, khi được trả về với gia đình, trong giờ phút ghé Hà Nội chờ tầu xuôi Nam, đã nhớ tới câu văn của bạn mình, cuộc trùng phùng, tái ngộ mới cay đắng làm sao. Ông như đã cảm nhận ra "âm điệu vong thân" (1), của ông và bạn bè với thành phố quê hương,
Tôi trở lại thành phố của tôi, thân quen với những dòng lệ,
với cơn đau thịt thừa trong cổ họng thuở ấu thơ, và chứng chướng tĩnh mạch
Bạn đã trở về đây - vậy thì hãy nuốt
dầu đèn phố Leningrad
Hãy nhận ra bây giờ ngày tháng Chạp mù sương...
Petersburg, tôi chưa muốn chết
Tôi có số điện thoại của bạn ở trong đầu
Petersburg, tôi vẫn có những địa chỉ, tại đó, tôi sẽ tìm ra tiếng nói của những người đã chết...
(Osip Mandelstam, Leningrad)
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai "... Nhìn xuống vực thẳm... dưới ấy..",
Trong đất trời
(1) Hóa ra là "âm điệu tủi thân" của me-xừ nào đó, thuổng từ chữ này. NQT

**
Thương gia PTH và nữ đồng nghiệp e thẹn của anh
chẳng mắc mớ gì tới thực tại Việt Nam hiện nay.

[Hình từ Match du Monde ]

Sự kiện - đi thực tế, đi sống và viết - đẩy cao lên một mức nữa, nó liên can tới cái gọi là "thiên tài của nơi chốn", "genius loci", hay nôm na, thần đất.
Thành thử, Làm Thơ ở Sài gòn  xuất hiện, "như là một dấu ấn", điều này còn có nghĩa, ông thần đất, ông thổ địa Sài Gòn đã chấp thuận "mi", là cư dân của Sài Gòn !