&
Một trang bản thảo tìm lại được

Đây là những trang bản thảo viết những ngày ở trại tị nạn Thái Lan, 'tiền thân' của hai truyện ngắn, Lần Cuối Sài Gòn và Bụi. Như đoạn sau đây.

"Ông Nghị, tướng người cao lớn, mấy đời vợ, mấy dòng con, không kể con rơi con rớt, con làm phước. Bà Trẻ kể cho tôi nghe về một cặp vợ chồng hiếm hoi, đã nhờ vả ông. Và đứa con gái, kết quả của mối tình "thả cỏ", của một bữa rượu say sưa bên mâm thịt cầy trong lúc người chồng giả đò mắc bận đi ra bên ngoài, đã bị câm ngay từ lúc lọt lòng. Nghe bà kể, tôi mơ hồ nhận ra nỗi thất vọng của một người đàn bà đã hy sinh một cách vô ích tuổi trẻ, nhan sắc, sự thông minh và luôn cả lòng tốt, tính vị tha của nình. Cậu H. vì không thể là đứa con của hạnh phúc, cho nên không được thừa hưởng tính thông minh của người mẹ, vóc dáng cao lớn của người cha, nhưng vẫn giữ nguyên được truyền thống của những người đàn ông trong họ, luôn coi người đàn bà là chủ trong gia đình. Cậu luôn tỏ ra bất lực trước người chị cùng bố khác mẹ, một cô gái tuy chưa đến tuổi lấy chồng mà đã là gái già. Những lần bị đay nghiến hành hạ quá mức, cậu chỉ phản ứng bằng cách đập đầu vào tường. Âm thanh của sự nhẫn nhục không chịu dừng lại ở ngưỡng cửa chiến tranh: Trong những năm miền Nam ngày đêm bị Thần Chết réo đòi mạng, cậu H. đã áp dụng khí giới hữu hiệu nhất mà cậu có, là tự hành xác để được hoãn dịch. Cậu nhịn ăn, nhịn ngủ, uống cà phê đen đậm đặc, cố làm cho xuống cân, phổi có vết nám... Không chịu ngừng lại mà còn vượt xa hơn nữa, tới miền đất của phúc phận, nghiệp duyên: Cuộc sống gia đình hạnh phúc những năm sau 1975, theo Bà Trẻ, là do Đức Phật đã hiểu thấu nỗi khổ đau, lòng ăn chay, niệm Phật của bà, nhưng tôi cho rằng Ngài đã bị những tiếng đập đầu binh binh của cậu H. làm giật mình, nhìn xuống cõi đời ô trọc này."
Tôi viết dưới ánh sáng của một ngọn nến: Sài-gòn.
Lần Cuối Sài Gòn

Riêng câu văn chót, cả đoạn nháp nó như vầy:
28.3.1966. Tôi trở lại con đường Cộng Hoà chỉ để nhìn một phần đời của mình đã thực sự bỏ đi, theo cái
&
Chỉ một đoạn văn này lôi kéo Gấu trở lại Đất Bắc. Nhìn đầm làng Vân Xa. Nhìn lại căn nhà cũ của ông Ngoại. Gặp lại mấy ông Cậu, con Bà Ba. Gặp lại Cậu Toàn....

"Hãy nhớ rằng, trong một cuộc hôn nhân tốt, người này trở thành thiên thần hộ mạng, cho nỗi cô đơn của người kia".
Rilke
Chép lại, từ Phỏng Vấn Steiner I để tặng Gấu Cái!
Tặng thêm đoạn này nữa!
Thình lình Kỳ ngây người ra: chàng vừa thấy người cha đứa bé rót cà-phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa mà uống. Cảnh này, chàng đã thấy rồi... trời ơi... lâu lắm... những hai mươi năm về trước...
Cảnh này, thằng bé Bắc-kỳ ngày xưa cũng đã thấy rồi, khi miền nam đã đổi chủ.
Bữa đó, hai vợ chồng từ rẫy lên chợ (chợ Cai Lậy). Bà vợ xà ngay vô một gánh bún, hay cháo lòng heo trong lúc anh chồng xớn xát kiếm một ly cà-phe túi. Khi quay lại anh thấy bà vợ đang thong thả lật phía bên trong chiếc gấu quần, hài lòng lau miệng...
Trời ơi, nó đây rồi, bấy lâu nay anh tìm kiếm hoài lúc đó mới hiểu ra, tình yêu là gì...
Nhà văn Gấu và nhà văn Oz làm thế nào quen nhau?
Lần đầu tiên Gấu đọc Oz, là qua một bài viết của ông trên tờ Partisan Review. Bài viết gãi đúng chỗ ngứa của Gấu. Một cái ngứa âm ỉ hoài hoài, kể từ khi đọc truyện ngắn Y Sĩ Đồng Quê của Kafka, nghĩa là từ những ngày chập chững bước vào chốn giang hồ, tập tễnh làm nhà văn!


Cái thú lưu giữ kỳ tích, không phải chỉ ở trẻ em, thí dụ như em bé nhi đồng đã từng được gặp Bác, nhưng luôn cả ở người nhớn, nhất là những anh chàng mê gái, và, những anh chàng "nhà dzăng"!
Càng nổi tiếng, lại càng ưa khoe, kỳ tích, thí dụ, những lần đi kiếm em út, bởi vì đây, cũng hình thức, sinh hoạt văn học nghệ thuật!
Garcia Marquez chẳng đã từng khoe, ông có một danh sách, hơn 500 em.
Nhà văn Hồng Mao, Graham Greene không bỏ qua thú vui sưu tầm tên các loài bướm của ông.
*
Một trong những kỳ tích, của nhạc sĩ Văn Cao, theo như kể lại, là bắt bồ với một em làm vợ bé của một tay hiến binh Nhật. Một lần, sau khi cơm no bò cưỡi, ông ngủ quên đến sáng bạch, và khi tay hiến binh về, chỉ còn đủ thì giờ vơ vội bộ quần áo, phóng qua bờ tường.
Garcia Marquez, tệ hại hơn, bị bắt tại trận.

Gấu cũng có một hai kỷ niệm chết người, và, tức cười, như thế.
Kể chuyện tức cười trước. Kể lại. Vì đã kể một hai lần rồi.

Đó là lần ngủ ngay trên xóm, với một anh bạn. Anh bạn này cũng quen biết, còn trước cả Gấu, gia đình Bông Hồng Đen.  Hồi còn đi học, thân với Gấu lắm. Hay đi giang hồ với anh lắm. Khi đứa em trai Gấu mất, anh đang ở trong quân đội, trú đóng ở Cần Thơ. Trên đường đi mang xác đứa em về Sài Gòn, Gấu ghé Cần Thơ, kéo theo anh. Khi về, anh đi xe đò, xe trước bị mìn, xe anh, ngay kế, thoát.
Bữa đó, hai tên ngồi xích lô, rời xóm, vểnh mặt nhìn phố phường, vậy mà không nhìn thấy ông cụ thân sinh của BHĐ đi ngược chiều. Ông cụ lên xóm, hai đứa rời xóm.
Sau này, sau bao nước chẩy qua cầu, Gấu cứ thắc mắc mãi, tại sao mới sáng sớm, ông cụ lên xóm. Mãi mới đây, gặp lại anh bạn, kể lại chuyện cũ, anh cho biết, gia đình BHĐ có bà con ở trên Gò Vấp.

Lạ, một điều là, rất ư là đạo đức như ông cụ, vậy mà cũng đem kể câu chuyện trên cho con gái nghe!
Hoá ra ông cụ tìm đủ mọi cách để 'ly gián' hai đứa!

Bữa đó, vừa gặp, em tủm tìm cười, nhe chiếc răng khểnh thật là tuyệt vời, nói:
-Hôm qua anh với anh V. đi lên xóm phải không?
Gấu mặt nghệt ra, không biết nói năng ra làm sao. Em nói tiếp:
-Ông cụ nói, gặp hai người, mới sáng sớm từ trên đó về!
Mãi sau này, sao bao nước chẩy qua cầu, sắp xuống lỗ, Gấu mới ngộ ra câu của em, hồi đó:
-Thứ tình yêu chỉ gồm có chiêm ngưỡng và kính trọng, thứ 'amour platonique' mà anh nói đó cũng làm Hương sợ.

Một chuyện tức cười nữa, là lần đang lụi cụi làm việc ở sở, chừng 10 giờ sáng, bỗng nổi hứng ẩu, lấy xe dọt lên xóm. Vừa xong xuôii ra về, là đụng đầu cảnh sát đi vô.
-Đi đâu?
-Thì cũng tính đi, nhưng nghe báo động có mấy ông tới viếng thăm mấy em, nên vội dọt trở ra!
Vậy mà thoát!
Anh cảnh sát bật cười, vẫy tay cho đi!