Bàn Tay Năm Ngón
Truyện ngắn mới nhất của Thảo Trường

Back to Sorento
Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn


Đỗ Kh.
Được, được!
[Thuổng Mai Thảo]
Note: V/v Mai Thảo. Sự thực, Gấu không mặn với MT, cả văn lẫn người. Có lần, ngồi với ông anh tại Quán Chùa, chỉ có hai anh em, Gấu nói ra điều này, ông anh, không hiểu sao, lại đưa ra nhận xét, MT, tuy sống độc thân, nhưng không chướng như những người khác. Về cái chướng của dân độc thân, thì nhiều lắm. Bạn vô nhà chơi, kéo cái ghế ngồi ra khỏi cái vị trí thường lệ của nó, thì cũng không được. Lập tức, chủ nhà đẩy cái ghế về vị trí cũ. Đại khái thế. Cái sự không ưa nhau, có lẽ là do cái đọc khác nhau. Mỗi lần gặp, ông như giao hẹn, cấm nói chuyện văn chương. Thế đấy. Thành thử, sau này, Gấu nghe mấy ông, mấy bà đã từng được MT khen, Gấu vẫn buồn cười, tự hỏi, tại sao chẳng bao giờ MT khen đàn em Gấu nhỉ?
Có một lần, cũng ngay những ngày mới gặp MT, khi còn tờ Nghệ Thuật, nơi đăng truyện dài Viên Đạn Đồng Chữ Nổi, và khi xb thành sách, ông ký tặng Sơ Dạ Hương, khi Gấu ghé tòa soạn, và hỏi, lấy ở đâu ra cái biệt hiệu quái chiêu này. Gấu vờ, vì chẳng lẽ khoe với ông, BHD của Gấu?
Sơ Dạ Hương. Hương là Lan Hương, tên ngoài đời của BHD.
*
Sơ Dạ Hương, tại sao?
Một cái tên mượn từ Lâu Đài Họ Hạ, truyện Hoffmann, Vũ Ngọc Phan dịch. Trong đó chỉ có một từ, là thực.
NQT (1)

Note: Nhân nói chuyện LKP, coi hình ảnh đám đệ tử đến chúc Tết ông Trùm, "Đại gia Gatsby", Gấu lại nhớ đến phim Bố Già. Và cảnh đám cưới con gái Bố Già Corleone nickname LKP.
Ui chao, chỉ còn thiếu xen hôn tay Bố Già, và xen Bố Giá bị làm thịt hụt ở Chợ Đồng Xuân khi đi mua sắm Noel!


*
Hòn Đá Kiên Nhẫn

syngué sabour [s..ge sabur] n.f. (du perse syngue « pierre », et sabour « patiente»). Pierre de patience. Dans la mythologie perse, il s'agit d'une pierre magique que l'on pose devant soi pour déverser sur elle ses malheurs, ses souffrances, ses douleurs, ses misères ... On lui confie tout ce que l'on n'ose pas révéler aux autres ... Et la pierre écoute, absorbe comme une éponge tous les mots, tous les secrets jusqu'à ce qu'un beau jour elle éclate ... Et ce jour-là on est délivré.

Hòn đá kiên nhẫn, hòn đá thần, mỗi lần đau quá, nhân loại bèn chạy đến để “vãi lệ”, như định nghĩa trên đây, Gấu có tới... hai cục, một BHD, một Cô Bạn, he he!
*

Đọc Cục đá kiên nhẫn, TLS chỉ ra, nó từ kịch. Đúng như thế. [Tác giả của nó, còn nổi tiếng như là một nhà điện ảnh]. Và được viết bằng một thứ văn Tây thật giản dị. Không khí kịch của nó làm độc giả Mít, Miền Nam trước 1975, nhớ tới kịch Ba Chị Em của TTT. Trong Ba Chị Em, mỗi nhân vật bước ra sân khấu, là lảm nhảm mình nói mình nghe, về mình, và tình cảm của mình, với bà mẹ vắng mặt, đã mất, mà, như Gấu còn nhớ được, cũng không được đàng hoàng cho lắm, hết me Tầu, Me Tây lại Me Mẽo, chắc thế. Ở trong Hòn Đá Kiên Nhẫn, nhân vật câm nín, ngược lại, là một người đàn ông, người chồng, và người vợ trút hết hết lên thân xác bất động đó, nỗi đau thương của mình. Ở trong Ba Chị Em, hình ảnh kết thúc, là cả ba chị em cùng hiện diện, trong lúc căn nhà bốc cháy, và một trong ba cô con gái la lên, tôi không muốn chết theo mẹ, tôi muốn sống hạnh phúc, khác mẹ, sống đau khổ. Chị Em Hải của NDT, được viết ra từ ‘tôi muốn sống hạnh phúc’ đó, theo Gấu.
Có vẻ như hầu hết những tác phẩm nổi cộm của NDT, là từ TTT mà ra. Áo Mơ Phai,Bếp Lửa viết khác đi, hay đúng ra, viết ở dạng thấp hơn, chỉ như là một hồi nhớ Hà Nội, Chị Em Hải, từ Ba Chị Em. Có một nối kết giữa ba nhà văn di cư, là TTT, DNM, và NDT, như Gấu đã viết, trong bài viết về DNM:

... Nguyễn Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một bên là bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau. Dẫn chứng quá nhiều: Chị Em Hải (Nguyễn Đình Toàn) là một dị bản của kịch Ba Chị Em (Thanh Tâm Tuyền). Đêm Lãng Quên, truyện ngắn được Võ Phiến tuyển chọn ở hải ngoại, khi viết về những tác giả Miền Nam, thoát thai từ một truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền, tôi không còn nhớ tên, viết về ông già gác dan, (gác ga-ra?) (1) cho cặp nhân tình tạm trú, cuối cùng bị gã con trai nện cho sặc máu mũi, gục xuống một đống... Trước khi bỏ đi, gã thét cô bồ: lột cái xú-chiêng ra, ném lên mặt khứa lão! Mùi vị đàn bà, cuộc tình hối hả... làm ông lão tỉnh dậy, thấy mình đang ở Thiên Đàng, hay phía bên kia Địa Ngục (Chiến Tranh)... Hãy so sánh với Đêm Lãng Quên, về một già muốn làm con ong hút nhị từ cô gái.... Chất hung bạo trong thơ Thanh Tâm Tuyền tràn lan ra văn. Ở Nguyễn Đình Toàn, lại là sự tắt nghẹn, hết hơi, của những bóng dáng đàn bà, không còn đủ hơi sức, để kéo lê, thân xác của chính họ: Cái Chết, Cái Sống đều thoi thóp như nhau. Bóng dáng của Thần Chết, của Chiến Tranh lảng vảng ở trước, hoặc sau đời sống: nó vắng mặt, như một từ chối quyết liệt, bởi những con người đứng bên lề...
Dương Nghiễm Mậu..
(1) Tên truyện ngắn là Người Gác Cổng, in trong tập truyện Dọc Đường, theo như chú thích của talawas:

Truyện ngắn “Người gác cổng” tạm thời chưa được đưa vào tập, vì cuốn sách mà chúng tôi sử dụng để thực hiện bản điện tử bị thiếu nhiều trang, rơi vào truyện ngắn này. Rất mong được sự giúp đỡ, bổ sung của bạn đọc. (talawas)
*

Trong Văn Học Tổng Quan, Võ Phiến coi Dương Nghiễm Mậu có lẽ là người thành công nhất và sớm sủa nhất, sử dụng các kỹ thuật mới vào văn chương Việt Nam. "Trong cuốn truyện dài Con Sâu chẳng hạn, 'tôí không phải là một nhân vật nào, khi là nhân vật này, khi lại là nhân vật nọ; sự chuyển vị xẩy ra thoăn thoắt làm nổi bật sự thay đổi đột ngột những quan điểm nhìn sự vật khác nhau". Trong một bài viết của Mai Thảo, trong "Chân dung nhà văn", ông lại coi người tài hoa nhất của nhóm tiểu thuyết mới tại Việt Nam là Nguyễn Đình Toàn. Cả hai nhận định trên đều đúng, nếu chỉ nói về khía cạnh tài năng, nỗ lực cá nhân khi cố gắng làm mới văn chương Việt Nam. Nhưng bảo hai nhà văn nổi tiếng nói trên là thuộc nhóm tiểu thuyết mới, tôi muốn nói, như những người sáng tác theo quan điểm tiểu thuyết mới tại Pháp, điều này sợ chưa đủ sức thuyết phục.

 Lucien Goldmann, trong bài viết "Tiểu thuyết mới và Thực tại", in trong cuốn "Xã hội học về tiểu thuyết", cho thấy, trong khi nhiều nhà phê bình, và đa số công chúng thưởng ngoạn, nhìn tiểu thuyết mới, như là những kinh nghiệm hoàn toàn có tính hình thức, hay một toan tính chạy trốn thực tại xã hội, hai tác giả đại diện chính của trào lưu này là Nathalie Sarraute và Alain Robbe- Grillet, ngược lại, đã muốn nói với chúng ta rằng, tác phẩm của họ được sản sinh từ một cố gắng - càng chân xác, càng cơ bản chừng nào hay chừng đó - nắm bắt thực tại thời đại của chúng ta. Họ là mhững tác giả hiện thực cơ bản nhất, triệt để nhất trong số những nhà văn hiện thực Pháp, nếu chúng ta quan niệm chủ nghĩa hiện thực trong văn chương là sáng tạo bằng tưởng tượng ra một thế giới mà cơ cấu của nó tương ứng với cơ cấu thiết yếu của thực tại xã hội - một xã hội mà tiểu thuyết đã được viết ra từ trong lòng của nó. Một xã hội đã cưu mang, thai nghén ra tiểu thuyết. Và đây là giả thuyết của Goldmann: Trong các dạng văn học, tiểu thuyết là dạng liên can, tức thời nhất, và trực tiếp nhất, tới cơ cấu kinh tế, theo một nghĩa hẹp nhất của từ này. Tới những cơ cấu trao đổi và sản phẩm thị trường. Thực tại thời đại chúng ta cho thấy, nếu trước đây, con người là trung tâm vũ trụ, bây giờ đồ vật trở thành "thần vật". Liên hệ người-vật ngày càng nghiêng về phía đồ vật. Thế nhất quán mang tính cơ cấu "nhân vật-đồ vật" ngày càng biến đổi cùng với sự biến mất của nhân vật nhường chỗ cho đồ vật làm chủ. Từ đó, tiểu thuyết mới mang đủ thứ tên, phản-tiểu thuyết, phản-con người, phản-văn chương...

 Nhìn từ quan điểm đó, chúng ta không thể nào coi Nguyễn Đình Toàn và Dương Nghiễm Mậu là những nhà văn tiểu thuyết mới. Nhân vật của Dương Nghiễm Mậu là những con người có một ý thức sáng suốt đến chua xót về sự cô đơn, bất lực của mình trong một xã hội đang manh nha tan rã, cuối cùng lao vào những hành động "phá phách, nổi loạn", cố tìm một thái độ đạo đức bằng những hành xử vượt ra ngoài quan niệm đạo đức thông thường. Thế giới, khung cảnh truyện của ông "khô, đầy bụi", đầy "tóc rối", trong khi ở Nguyễn Đình Toàn, là một khí hậu ẩm, ướt, với những nhân vật hầu hết là nữ. Truyện của hai tác giả giống như hai mùa mưa nắng ở Miền Nam, trong khi chờ đợi cơn bão tố chiến tranh xóa sạch tất cả.
Tiểu thuyết mới ở Việt Nam
Đặng Tiến khi viết về TTT, đã cho rằng ông không có truyền nhân. Đúng, nếu nói về thơ, và lý do tại sao, Gấu đã nhận ra, khi so sánh thơ của TTT với của Milosz. Đó là thứ thơ trí tuệ.  Nhưng, TTT có một ảnh hưởng rất lớn, ở những nhà văn cùng thời, với ông, như DNM, NDT, và sau này, sau 1975, phải kể cả Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp. Theo nghĩa, họ bắt đầu viết, khi TTT đã ngưng viết, hoặc ở những vùng đất, mà TTT không có tham dự, như chính ông tự nhận về mình, chưa từng bắn một phát súng, nếu phải so với Bảo Ninh, hoặc không có một quãng cách với nó, như NHT, thời gian ông này dậy học tại những bản làng miền núi phía Bắc, như NHT từng nhận định về ông, suốt ngày "úp mặt và núi", để đọc sách.

Uống rượu một mình
Thơ Hoàng Lộc



Quê hương tưởng tượng

*

Trên TLS, số mới nhất, 13.2.2009, Philip Swanson điểm Garcia Marquez: A Life,  của Gerald Martin, có nhắc tới đoạn, ở ngay đầu cuốn Trăm Năm Cô Đơn. Vị cha già thành lập nên thành phố giả tưởng bụi bặm Macondo, còn là tâm điểm của thế giới văn học Colombia, dậy những đứa con của ông đọc, và viết, bằng cách dẫn giải cho chúng, “những điều dị thường của thế giới, theo một đường hướng, không chỉ đụng tới những giới hạn của tri thức của ông ta và những đứa con, nhưng hơn thế nữa, đẩy chúng tới những giới hạn cực điểm của sự tưởng tượng của ông, và những đứa trẻ”: Điều này có thể coi như một khuôn mẫu cho việc viết như thế nào, làm sao viết, nhưng mà còn là, làm sao đọc một bản văn hiện thực huyền ảo mà độc giả, vào lúc sửa soạn đọc nó.
Tất cả bí quyết, nghị lực, và sự hàm hồ của cách viết của Garcia Marquez nằm ở trong câu văn trên, theo người điểm cuốn tiểu sử của ông. Tuy nhiên, mở đầu đã ghê, mà kết thúc cũng khủng khiếp: Người điểm sách muốn nhắc tới tác phẩm sau cùng của tác giả, Hồi ức những bướm buồn của tôi: Hình ảnh thê luơng, của một anh già, hết xí oát, ngồi chiêm ngưỡng một trinh nữ tuổi teen đang nằm ngủ dưới ảnh hưởng của thuốc mê, vẫn toát ra một cái gì liên quan tới nghị lực và uớc muốn. Nó làm độc giả nhớ tới cuốn Tình yêu thời thổ tả của tác giả, câu chuyện một anh chàng chờ cả một đời để tái cầu hôn mối tình thời thanh niên của anh, chàng lúc này 76 tuổi, tỏ tình với người xưa, anh sẽ yêu em “suốt cả quãng đời còn lại của hai chúng ta”. Quãng đời còn lại đó, là mấy nả, thật khó mà nói, nhưng vấn đề quan trọng ở đây, theo người điểm sách, là phẩm giá, dignity. Và cái gọi là phẩm giá ở đây, là tầm nhìn chính trị của Garcia Marquez. Người viết tiểu sử của ông đã làm bật ra: What is the core of much of Garcia Marquez work is the sense of the unswerving endurance and resilience of the ordinary Latin American people as their social hopes repeatedly fall out of grim reality, tạm dịch: Ở cốt lõi của những tác phẩm của Garcia Marquez, là một cảm quan về sự kiên định, bền bỉ, sức bật của những con người Mỹ châu La tinh, sau bao thất vọng về thực tại xám xịt của xã hội ở đây.
Từ hình ảnh
Phúc phương phì, "răng cỏ chẳng còn, cỏ non cũng chê", đành chiêm nguỡng một nhan sắc tuổi teen, mà suy ra ước muốn của cả một miền đất tàn tạ vì tham nhũng thối nát, thì quái thật!
Đâu có thua gì ước muốn "Thành Phật không cần đọc Kinh Phật", của Gấu ?


Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn

Hello Gấu,
Gặp lại bác sau hai muơi mấy năm rất vui. Đúng là ‘gấu’, vẫn rất ‘gấu’ một cách bình thản, và ‘hách’ như hồi nào! Dám cả gan đòi đắc đạo mà không cần phải nghiên cứu kinh điển Phật Giáo thì quả là ‘gấu’ thật!
Cho hỏi thăm bà chị. Chẳng hiểu lần sau (sang tháng 7) có dịp gặp nhau chăng?
*
Tiến Dế, bạn của thằng em trai đã tử trận, sau khi đi tù cải tạo về, rất giỏi về Phật học, quái thế, không lẽ trại tù cải tạo VC cũng có thư viện Thiền, bởi vì nếu không, làm sao TTT viết được những dòng ẩn mật như trong Thơ ở đâu xa?
Tuy nhiên, v/v "thành Phật không cần đọc kinh Phật",Tiến Dế đếch hiểu Gấu. Chẳng có gì kiêu ngạo, nghị hách nghị hiếc gì gì hết ở đây.
Điều mà Gấu "băn khoăn", là như thế này:
Một khi bạn sống đời bạn thật đàng hoàng, không hề biết gì tới kinh Phật, hay tới bất cứ một thứ kinh gì, kể cả kinh VC [ui chao có cả kinh VC nữa ư ?], thì khi nằm xuống, có thành Phật, hay nói khiêm tốn có được vô nước Phật không?
Cái vụ này, lần đi thăm Paris, qua Thầy Thanh Tuệ, được tá túc tại ngôi chùa Khánh Anh nổi tiếng, nhân một bữa nghe Đại Hoà Thượng trụ trì giảng Kinh, Gấu đánh bạo hỏi, Ngài trả lời, thành Phật chứ, nhưng mà là một ông Phật Kiêu Ngạo.
Khổ thế đấy.

**

Kỳ cục làm sao, đúng vào lúc viết những dòng trên, "thành Phật không cần đọc kinh Phật", cũng là lúc Gấu tình cờ lướt qua vài dòng cuốn The Reader, Người đọc sách, và "ngộ" ra rằng thì là, cái cô quản giáo trại tù Nazi, mù chữ này, chính là hình ảnh nhập thân của cái tư tưởng trên, thành Phật, là do mù chữ không làm sao đọc được không chỉ Kinh Phật, mà do không đọc được Kinh Phật, nên làm quản giáo Trại Tù Nazi, hơi bị được mời tham dự vào Cái Đại Ác của thế kỷ.

[Chúng ta tự hỏi, mấy anh chị quản giáo VC, có bao nhiêu người đọc được chữ Mít?]

The Reader [lần đầu Gấu đọc qua bản tiếng Tây, cũng “tình cờ”, vì thường đọc tiểu thuyết trinh thám của tay Bernhard Schlink này], đã được giới thiệu trên Tin Văn, câu chuyện một anh chàng học sinh, một bữa đi xe buýt, bị trúng gió độc, và được cô gái già tài xế đưa về nhà săn sóc. Sau đó, cậu học sinh này mang một bó hoa tới nhà cô gái già để tạ ơn. Thế rồi chàng và nàng yêu nhau, và chàng vừa làm tình vừa đọc truyện cho nàng nghe, vì nàng mù chữ. Sau này, chàng thành luật sư, và gặp lại nàng, tại tòa án. Nàng từ chối không chịu biện hộ cho chính mình, về tội ác đã phạm, và trong khi nhìn nàng, chàng bắt đầu nhận ra, có thể nàng giấu diếm một bí ẩn, còn tủi hổ hơn cả tội sát nhân, that Hanna may be guarding a secret she considers more shameful than murder.
*
Gấu gặp lại Tiến Dế, hình như vào khoảng 1996 ở Montreal, khi TD từ Úc qua thăm ông via bà via, định cư tại đây, còn Gấu thì từ Toronto lên. Có chụp cái hình, cả hai đứng dưới tuyết, khi hẹn gặp nhau tại một hàng quán, hình như vậy. Gấu cũng không ghé nhà. Không hiểu sao. Sau đó, trong một chuyến tới, TD hình như còn đưa cả gia đình đi Mẽo, gặp đám Chiêu, Quyết. Có mấy đứa nữa, xưa cũng thân lắm, nhưng sau này, hết thân, cũng chẳng hiểu tại sao.



Cuộc Tình Bỏ Đi

Phỏng vấn PHT


Đỉnh cao chói lọi

*

“The politics of a country can only be an extension of its idea about human relationships”
Naipaul. Pankaj Mishra trích dẫn trong The Writer and the World. Introduction.
Nền chính trị của một xứ sở chỉ có thể là sự mở rộng ra, ý nghĩ của xứ sở đó, về những liên hệ, giao tiếp giữa con người với con người.
Muốn hay không, thì Hồ Chí Minh cũng là người lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng 8 và đã xoá bỏ chuỗi ngày dài nô lệ.
Còn những người bảo vệ Hồ Chí Minh thì cũng không phải vì Hồ Chí Minh mà vì họ bảo vệ quyền lợi của họ. Bởi vì dù sao ông Hồ trong lịch sử vẫn còn để lại một hình ảnh tốt đẹp trong dân chúng.
Dương Thu Hương BBC
*
“The politics of a country can only be an extension of its idea about human relationships”.
Câu này, của Naipaul, thật tuyệt, và sử dụng nó, vào xứ Mít, thì lại càng tuyệt.
Xứ Mít - ở vào cái thời chỉ có giống dân Yankee mũi tẹt – cái gọi là chính trị của nó, chỉ là cách đối xử, ý nghĩ của nó, đối với cõi bên ngoài luỹ tre làng, tức cõi mà Tô Hoài gọi là Quê Người.
Quê Người? Gần gụi nhất, là Làng Kế Bên, và xa hơn, Nam Kỳ, tức Đàng Trong, về phía Nam, và Trung Quốc, ở phía Bắc.
Đối xử với làng kế bên thì sao? Thì đánh cho nó bỏ mẹ, nếu chàng màng đến gái làng ta.
Đàng Trong? Phải cướp cho bằng được.
Trung Quốc ? Xứ này đúng là cái họa muôn đời của Yankee mũi tẹt. Chính vì đánh không được nó, nên phải lấn về phía Nam.
Cái politics của xứ Mít thật rõ như ban ngày, ngay cả cái vụ đánh Tây, thì cũng phải được nhìn qua tổng thể trên. Thành thử khó mà nói như DTH nói được: Muốn hay không, thì Hồ Chí Minh cũng là người lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng 8 và đã xoá bỏ chuỗi ngày dài nô lệ.
Bởi vì bạn không thể nào tách nó ra khỏi tổng thể được. Cuộc đánh Tây, phải được nhìn như là một “tổng diễn tập” cho cuộc đánh Mỹ cướp Miền Nam sau này. Cuộc đánh Tây xẩy ra, khi ông Hồ đã được Đảng Mác Xít Liên Xô rửa tội, bởi thế mà khi điệp viên OSS nhẩy dù xuống Miền Bắc gặp ông Hồ, nhìn rõ "chân lý" [chữ của DTH] về Người, đã rút dù bỏ chạy. Điều này được kể ra trong Tạp Chí CS của Đảng, như là một bằng chứng cho thấy, VC không hề muốn theo Liên Xô, mà thực tâm muốn theo Mẽo, nhằm xóa tội gây cuộc chiến lần thứ nhì, và nhằm xoa dịu Mẽo, mời Mẽo trở lại VN.
Có lần Gấu phán ẩu, nếu không có thằng Tây, thì Đàng Trong bị Đàng Ngoài nuốt chửng từ lâu rồi, là cũng theo "tầm nhìn" này. Thằng Tây, không phải tự nhiên mà cho Nam Kỳ tự trị. Không phải đây là chính sách chia để trị của tụi Tây mũi lõ. Thằng Tây cố bảo vệ Miền Nam, đối với Miền Bắc, bởi vì theo thằng Tây, cái gọi là liên hệ người với người của miền đất này, dù sao cũng gần gụi với của Tây mũi lõ hơn, hẳn thế?
Nhìn theo "tổng thể" như thế, thì còn giải thích được cái gọi là politics của VC trong vụ Bô Xịt [Bullshit] hiện đang xẩy ra tại Tây Nguyên.
Nhưng khi Tô Hoài sử dụng cái tít Quê Người, viết về một cái làng quê Bắc Kít, làng Nghĩa Đô, trong thâm tâm ông, là để chỉ điều Conrad gọi là Trái Tim Của Bóng Đen, tức chính cái xứ Đàng Ngoài khốn nạn.
Chính Làng Ta là Quê Người!
Thảm thế!
*

Trong số những nhà văn thế giới “đau đáu nỗi đau” Quê Nhà vs Quê Người, có lẽ Naipaul số 1, khó có ai hơn được ông, nếu coi văn chương “thứ thiệt”, là, ở trong cái dạng “đụng chạm” nhất của nó, [sự va chạm của các nền văn minh], và, ở trong những “ký”, ra đi không màng đâu là quê nhà quê mình. Chúng ta chỉ là những 'displaced persons".

Pankaj Mishra
Introduction [to The Writer and the World]

BETWEEN 1929 and 1935, the English novelist Evelyn Waugh published no less than four books about his journeys to Africa, South America and the Mediterranean. "I was simply a young man, typical of my age," Waugh later explained. The travel to such far-off exotic places as British Guyana and Belgian Congo was an "initiation to manhood," as much for Waugh as for his friends, Graham Greene, who went to Liberia, and Robert Byron, who travelled to Persia and Afghanistan.
When in 1945, Waugh made a selection from his four travel books, his mood was elegiac. The Second World War had just ended; the long day of the Empire, when the going was, in Waugh's own words, good, seemed about to wane. As Waugh saw it, "All that seeming-solid, patiently built, gorgeously ornamented structure of Western life" had melted, leaving "only a puddle of mud." The world that he had once felt to be "wide open before us" was now full of "displaced persons"; there was little room in it for travel books, or tourists...
Hay là qua những lời giới thiệu, ở bìa sau cuốn sách.
Essays
"It is altogether tonic to have a writer such as V. S. Naipaul in our midst .... This volume is as good a place as any to discover why he is a
figure of such consequence."
-DAPHNE MERKIN, THE NEW YORK TIMES BOOK REVIEW
Spanning four decades and four continents, this magisterial volume, thoughtfully edited and with an introduction by Pankaj Mishra, brings together the essential shorter works of reflection and reportage by our most sensitive, literate, and un-deceivable observer of the postcolonial world. In its pages V. S. Naipaul trains his relentless moral intelligence on societies from India to the United States and sees how each deals with the challenges of modernity and the seductions of both the real and mythical past.
Whether he is writing about a string of racial murders in Trinidad; the mad, corrupt reign of Mobutu in Zaire; Argentina under the generals; or Dallas during the 1984 Republican Convention, Naipaul combines intellectual playfulness with sorrow, indignation, and analysis so far-reaching that it approaches prophecy. The Writer and the World reminds us that he is in a class by himself.
"Five hundred pages of strong and original writing .... Naipaul brings to the [nonfiction] genre an extraordinary capacity for making art out of lucid thought .... [His is] a way of thinking about the world that will compel our attention throughout his working life and well beyond .... I can no longer imagine the world without Naipaul's writing."
-VIVIAN GORNICK, LOS ANGELES TIMES BOOK REVIEW

Cái vụ DHT bỏ chạy qua Tây “bỗng” làm Gấu nhớ đến thân phận ‘displaced persons’, và, “bỗng” nhớ đến bài diễn văn của Naipaul, Văn minh phổ cập của chúng ta, Our Universal Civilisation, đọc trước Học Viện Manhattan, Nữu Ước, được in trong Nhà văn và Thế giới, như là lời Bạt. Tin Văn sẽ giới thiệu, lời dẫn, và lời bạt của cuốn sách này.
*

"The most splendid writer of English alive today ....
He looks into the mad eye of history and does not blink."
-THE BOSTON GLOBE

"Nhà văn rạng ngời nhất của dòng văn chương tiếng Anh hiện đang còn sống vào lúc này...
Ông ta nhìn vào con mắt khùng của lịch sử, mà đếch thèm nhấp nháy con mắt".
Đúng rồi, chúng ta cũng cần một ông nhà văn nhìn vào con mắt khùng của lịch sử hậu 30 Tháng Tư 1975  của chúng ta, mà đếch có nhấp nháy con mắt.
Chúng ta đếch cần Hậu Hiện Đại, mà cần mở thật to hai con mắt, nhìn vào con mắt khùng Hậu Chiến Thắng!


Dọn

Nói chung, cái tít là khó nhá nhất, chứng cớ nhãn tiền Đại gia Thăng Long [TL].
Vũ Bằng, tuy nằm vùng, nhưng cũng đã từng chọc quê nhà nước ta, về cái tít cuốn sách của ông, được Đảng o bế, kể câu chuyện đám cai thầu bóc lột công nhân, và đã từng được đưa vô finalist giải thưởng Hội Nhà Văn, khiến ông hoảng quá, bỏ chạy vô Nam, vì cuốn Cai của ông, chỉ có nghĩa là cai thuốc phiện!
*
Tiên sư bọn phản động Ba Chấm, Trang hỉ?
Nguồn
Đọc bài này, Gấu lại nhớ câu chuyện tiếu lâm, kể chuyện tại lớp học mẫu giáo. Một cháu kể là, buổi sáng, bố đi làm, hôn mẹ ở má phải, buổi chiều về nhà, hôn má trái, buổi tối đi ngủ, hôn ở môi… rồi cho thu vô dĩa 33 tours. Cô giáo mẫu giáo nghe ‘hôn ở môi’, nhạy cảm quá, bèn xóa bỏ, đến khi phát ra, thì nó như thế này… buổi tối bố cháu “cạch cạch, cạch cạch….  má cháu…”!
Hoan hô bọn phản động “cạch cạch, cạch cạch..”, Trang hỉ?


Văn chương và siêu hình: Về cuốn Linh Sơn

Tôi nhận thấy, thứ ngôn ngữ Trung Quốc Âu Châu hóa, không thể chịu nổi.