*

Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
tại Kinh Môn, Hải Dương.
Quê Sơn Tây (Bắc Việt).
Vào Nam 1954.
Học Nguyễn Trãi (Hà-nội),
Chu Văn An, Văn Khoa
(Sài-gòn).
Trước 1975 công chức
Bưu Điện (Sài-gòn).
Tái định cư năm 1994 tại Canada.


Tác phẩm đã xuất bản:
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Đêm Trắng,
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]

Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Bản quyền thuộc
Tin Văn và tác giả.
Trích đăng, vô vụ lợi,
liên lạc
email
Cần ghi rõ xuất xứ
[nguồn] khi sử dụng.


Links
Văn
Art2all
Ý Kiến
Quán Gió
Việt Báo
Talawas
VN Express
Guardian

Hồ Biểu Chánh

Chess

Trang & Bài đặc biệt

  Hiện tượng Trâm Thạc
&
Bài vở liên hệ

Thư Tín

*
Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây

*
Golden Bridge
August, 2004

Alexa Ranking
81,253









 





*
Merry Christmas and Happy New Year
Chúc Mừng Giáng Sinh và Năm Mới
Jennifer Tran

Dịch
Me-xừ Đặng Trần Huân, sinh thời, chuyên sưu tầm ba chuyện cấm đàn bà. Còn sưu tầm chuyện khoa học giả tưởng.
Một, đại khái như sau.
Nhân loại lần đó đưa quân viễn chinh, tới một hành tinh, rất ư là hòa bình. Đánh tới đâu, thắng tới đó, cứ như chẻ tre, chém giết sạch bộ lạc "nam bộ", tức thổ dân của hành tinh này.
Chiến thắng xong xuôi. Bèn lăn ra ngủ, hy vọng sớm mai, sẽ có một cái nhà nhân loại to lớn hơn, đàng hoàng hơn.
Sáng mai, chẳng có ma nào dậy cả. Đều bị giết, được chết, hết!
Hoá ra là, ở hành tinh này, giết, hay bị giết, là đại dịch. Chỉ cần một người bị giết, là tất cả đều bị giết!

Tuồng Ảo Hóa Đã Bầy Ra Đấy
Sau nhật ký của Anne Frank, đây là cái nhìn của một đứa trẻ về Lò Thiêu làm xúc động độc giả. Cuốn "Những Đoạn Rời" mỏng, chỉ 150 trang, nhưng đúng là một chứng liệu khủng khiếp của một người căn cước tả tơi, ngay cả trước khi có cơ hội là một đứa trẻ.
Yet any projection of Anne Frank as a contemporary figure is an unholy speculation: it tampers with history, with reality, with deadly truth.
Cynthia Ozick: Who Owns Anne Frank? [Ai sở hữu Anne Frank?]
Mọi phóng chiếu Anne Frank, như một hình tượng đương thời đều là trò đầu cơ khốn nạn của đám tà ma ác quỉ. Bởi làm thế là đụng chạm tới lịch sử, tới thực tại, tới chân lý chết người].

Giả như cuốn nhật ký của bà Trâm "đuợc" ông Mẽo đốt bỏ?
Như được biết, đúng ra cuốn nhật ký đã bị đốt bỏ. Nhưng một ông thông dịch viên Ngụy can, đừng, đừng, có lửa sẵn ở trong đó rồi!
Sự tình sẽ khác hẳn, nếu không có ông thông dịch viên Ngụy.

Đây chính là câu hỏi, mà Cynthia Ozick đã đặt ra, trong bài viết của bà: Giả sử như cái bà thần hộ mệnh của Anne Frank đó, vứt tập nhật ký của Anne Frank vào thùng rác, hay lò lửa?

Khi ông thông ngôn Ngụy kia nói, có sẵn lửa ở trong đó, ông muốn nói, hãy để cho cuốn sách tự nó đốt nó?

Man is not merely one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
"Con người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn là kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.

"Ở bẩn sống lâu" hay "không thành công thì thành nhân", bạn muốn thứ nào?

Trong kỳ trước, Hai Lúa có viết, PD làm nhớ tới Milosz - một người đi, một người về - và  bài viết ngắn của ông, về nhà thơ "bửn" của thế kỷ. (1)
Nay, nhân đọc Steiner, Những Bài Học của những Sư Phụ, Lessons of the Masters, trong đó ông vinh danh một trong những vị Thầy Suy Tưởng, Maitres à Penser, là Alain. Ông thầy này dậy học trò một câu, thật quái dị: đừng thành công [ne pas réussir]. Và đây là, theo Alain, luật tối thượng về đạo đức, the supreme moral rule.
Bởi vì "thành công", có nghĩa là, phải...  bẩn! Phải chiều theo luật "ông mất của kia bà chìa của nọ", nghĩa là phải biết điều, phải thỏa hiệp.
Cái khổ của PD, đúng như một độc giả trên talawas đã nhận ra, chính là sự thành công vượt bực của ông: trở thành một thiên tài, "một người nghệ sĩ lớn hiếm hoi mà thế kỉ XX dành tặng cho đất nước".

Thiên tài lớn lao của thế kỷ 20 của Việt Nam, sống thì có sống, thành công thì rất ư là thành công, nhưng không... sống sót!
 (1) Về cái vụ bẩn này, nhà thơ Nobel vừa mới mất, Milosz, có nói tới, trong một "ẩn dụ" rất ư là tuyệt vời, và chỉ những ai đã từng sống ở trong một chế độ toàn trị mới viết ra được. Một phần nào, ông được Nobel là nhờ vậy.
Ông kể chuyện một nhà thơ của thế kỷ 20, cuối đời nhìn lại, thấy mình bẩn quá, bèn chui vô bồn tắm, dùng xà bông thơm kỳ cọ, cho văng tất cả những cái bẩn đi.
Kỳ mãi, kỳ mãi, vẫn không hết, và ông ngộ ra, số phận của ông là như vậy.
Bởi vì, nếu ông ta sạch,Thượng Đế đã không giao cho ông ta "nghĩa cả" đó, và nhân loại cũng đếch cần đến ông ta.
Là nhà thơ bẩn của thế kỷ. Sướng thật!
Tôi sợ rằng, vào lúc này, vào những giờ phút nóng bỏng của Lò Luyện Ngục, mấy ông thi sĩ như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Huy Cận... và có thể, có cả thi sĩ, tác giả tập Thơ Trong Tù đang rộn rã bước vào Ngày Hội Thơ, hay Show Bình Bầu Nhà Thơ Bẩn Nhất Thế Kỷ 20 Của Nền Thơ Ca Của Chúng Ta, cũng nên!
Biển Nhớ 3

Chiến Dịch
Có thể nói, những bài dịch "đầu tay" của Hai Lúa, dịch Steiner, là duyên do đưa đến chuyện Tin Văn có mặt trên không gian ảo.
Nhưng phải nói, cái duyên của nó, khởi đi từ bài Nước Cờ của Hư Trúc.

Tức là cái duyên, được làm quen với trang VHNT, của PCL.

Trong một bài viết, HL có kể ra rằng thì là, ông anh nhà thơ có truyền cho Hai Lúa ba đường búa của Trình Giảo Kim, một nhân vật trong Thuyết Đường.
Ông này, đương đêm, ngủ, được tiên "báo mộng" cho một bài búa. Vừa tỉnh dậy, ông bèn chạy ngay ra ngoài sân, lập lại bài búa. Vừa đi đượcđúng ba đường, bà vợ chạy ra la lên: Này, khùng hả...
Thế là ông chồng bèn giật mình, quên béng hết, chỉ còn được đúng ba búa đầu.
Giai thoại "ba búa TGK" là như vậy. Chỉ được đúng ba búa. Hết ba búa, là... yếu xìu!

Búa đầu tiên, ông anh dậy, phải cố mà kiếm cho ra một ông thầy.
Búa thứ nhì, là: dịch, dịch, dịch. Đừng sợ sai, đừng sợ sai, đừng sợ sai!

Búa thứ ba, hay lời khuyên thứ ba, thuộc về đường nhân duyên, nghĩa là có tính riêng tư.
Tôi đã không nghe theo lời khuyên của ông anh, mà lại nghe theo lời của bà cụ ông anh.

Kiệt vừa đặt chân vào trong hành lang sâu hoắm bít bùng như một đường hầm đã nghe văng vẳng tiếng nhạc từ phòng Nghiêm. Anh chàng có thói quen mở nhạc lúc làm việc. Nghiêm thu thập trong hai năm học ở Mỹ được một bộ băng nhạc quý. Những khúc nhạc vẳng trong trại binh buổi tối đã dẫn dụ Kiệt tới phòng Nghiêm gõ cửa làm quen.
Vừa thoát cơn huyễn hoặc của bóng lửa trên núi, Kiệt lại bị xô ngụp vào cơn huyễn hoặc của những âm thanh thân thiết.
Như đứng lạc giữa tòa nhà bí ẩn, ma quái, Kiệt lóng tai nghe Hòa Tấu Khúc Số 5. Những hòa tấu khúc của Beethoven Kiệt đều đã nghe nhiều lần đến độ thuộc lòng có thể hát theo từng đoạn. Đẩy cánh cửa khép hờ vào phòng, nằm trên giường Nghiêm, trong khi bạn cắm cúi ở bàn viết, Kiệt buông mặc cho khúc nhạc chiếm ngự.
*
Tiếng Duy oang oang trong khoang thang. Duy lia ngọn đèn bấm soi đường.
-Tìm anh cả buổi để báo một tin vui. Có người hỏi thăm anh nghe.
-Ai vậy?
-Một người đàn bà. Người đẹp.
-Mệt. Kiệt ngắt lời.
-Thiệt không cha… Duy đứng lại kêu.
*
Đúng lúc ấy, còi hụ vang. Duy nhảy chổm: Báo động. Điện phụt tắt, chỉ còn một ngọn chụp sau quầy. Hai người chạy vội ra khỏi Câu Lạc Bộ.
Trong khoang thang tối mịt, Duy kêu toáng: Kỳ quá, kỳ quá. Kiệt cười hắc hắc: Kỳ cái gì, kỳ cái chi. Trên đầu thang, lính đã thức, nai nịt lách cách, chạy đi chạy lại.
Đèn đuốc khắp nơi đều tắt. Trời nhàn nhạt. Kiệt cắm cổ chạy trên quảng trường. Duy bén gót. Từ nhà văn hóa mới về phòng độ trăm thước, Kiệt thấy mình thở dội. Không mở đèn, Kiệt mò lấy chiếc nón sắt trên đầu tủ úp vào đầu. Kiệt đã đeo sẵn giây nịt súng. Ngoài hành lang không còn ai. Chui qua một lỗ vuông dưới chân tường của gian phòng bỏ trống cuối hành lang, Kiệt thoát ra mặt hậu tòa nhà, bước vài bước vòng tới đầu cánh nơi có những hố phòng thủ đào gần chân lưới sắt.
*
Kiệt không ngờ tên thật của Ly là Hiền. Chàng quen gọi nàng là Ly hoặc Ly Ly [Hello], hoặc những lúc đùa nghịch gọi là Ly Ty, Vy Ty, Ty Ty, và đôi khi đùa nhả, gọi là Ky Ky.
*
Trong ký ức Kiệt chỉ có một thiếu nữ tên Ly, không có người đàn bà tên Hiền.
Một Chủ Nhật Khác 1 2 3 4

Cá Rô Cây và Nước Mắm Lá Chuối
Chuyến đi thăm Paris, vào cuối thiên niên kỷ, và cùng với nó, là chuyến đi thăm nước Đức, đất nước đẻ ra Lò Thiêu, đã quyết định chuyện trở lại đất Bắc sau hơn nửa thế kỷ xa cách, hành lý mang theo là một số kỷ niệm vẫn còn sót lại ở Hai Lúa, những kỷ niệm tưởng thằng em trai đã mất đã mang theo đi giùm, nhưng không thể, và đành phải mang về, trong đó, có mùi nước mắm lá chuối, mùi sống sít của một con ốc nhồi, nổi lửa ngay bờ ao, sau khi tóm được nó, ẩn dưới một cánh bèo, của một củ khoai lang đào trộm ngoài đồng, rửa nước rãnh kế bên, ăn vội ăn vàng, ăn ngấu ăn nghiến để đừng ai nhìn thấy, đừng ai bắt gặp.