NGUYỄN LƯƠNG VỴ

THƯ CUỐI NĂM
Đất trời đáp lại một hơi
Tuyết băng vô tận chịu chơi hết mình
Ngữ ngôn ngồn ngộn thâm tình
Buốt trong xương tủy mần thinh mần hoài…


 TRẦN HỮU HOÀNG

XUÂN CA VÔ TẬN

Đất khách, chào Xuân lữ khách
Ấm lòng một đóa tình không
Hát khẽ một trời mênh mông
Tuyết bay trắng lời quê cũ


Một Chủ Nhật Khác

18

Vào lúc không chờ đợi, Oanh gặp lại Kiệt.

Đó là buổi sáng thứ Năm, đầu tháng Tám. Oanh xuống phố có hẹn với người bạn trai đi xem chiếu bóng. Người bạn quen đã lâu, từ năm nàng còn học trung học, nài nỉ nàng dành cho buổi sáng ấy trước ngày nàng lên đường. Chủ nhật, Oanh đi. Anh ta học quân y, vừa thi ra trường xong và đang chờ ngày chọn đơn vị. Anh ta bảo: Anh có thể ra Quảng Trị, hoặc Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá vậy, để Oanh đi cho yên mà. Nói vậy, nhưng rồi Oanh cũng nhận lời một cách bình tĩnh. Những ngày còn lại quá trống trải, nhàn rỗi.

Tình cờ xui khiến Oanh không xuống taxi ở nơi hẹn trước rạp chiếu bóng mà lại xuống cách hai ba phố xa. Tự dưng nàng nẩy ý muốn đi bộ thong thả một đoạn đường dưới hàng me xanh mướt rào rạt những gió của một ngày ẩm. Nàng hài lòng vì đã nhận lời mời của bạn. Buổi sáng tình tứ, dễ thương. Nếu không có hẹn chắc nàng cũng chẳng thể ở trong nhà, nàng sẽ phải xuống phố một mình hoặc mất công rủ bạn.

Vừa đi vài bước Oanh giật mình vì bàn tay ai thình lình chụp giữ cánh tay đang buông xuôi của nàng. Nàng há hốc, trông Kiệt đứng kế bên.

Nàng như bị trám miệng. Trời đất chông chênh trước mắt. Bao nhiêu phản ứng Oanh thường tưởng tượng nếu chẳng may đụng mặt Kiệt, đều không diễn ra. Nàng lạnh toát như một hình nộm tuyết đắp đang tan rã nhưng đôi mắt lại hoen ấm. Nàng không nghe không thấy gì nữa, bước đi bên Kiệt mặc dù chàng không còn nắm giữ cánh tay.

Sự thay đổi của ánh sáng, mầu sắc, tiếng động bao quanh giúp Oanh hồi tỉnh dần. Oanh rùng mình, rợn ốc. Nàng bắt đầu nghe lọt nửa câu hát nỉ non:… gió lộng gọi mùa sang. Nàng nhìn thấy Kiệt ngồi trước mặt trong một quán nước sâu hoắm.
Bên ngoài trời xỉn, xa lắc.


Đà Lạt
Kiệt có, ở Đà Lạt, hai, trong số ba nàng của chàng: Oanh và Ly.

Hai Lúa, có, hai, một cô bạn và một cô bé.
Cô Bé tức Bông Hồng Đen.
Cô bạn, là cái cô, y hệt Oanh, đã "miễn cưỡng" nhận lời mời đi coi ciné, với một anh chàng mê mình, ngày mai đi xa, ngày mai ra trận!

Anh ta bảo: Anh có thể ra Quảng Trị, hoặc Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá vậy.

"Lần đầu tiên anh cầm tay em, là bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình, anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói: thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?"
Cầm Dương Xanh

Cô bạn là tác giả câu thơ mà bạn có thể để vào bài ai điếu, cho một nửa của bạn, khi nửa này chẳng may đi trước:
Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương.
Ai cho phép mi là thi sĩ?
*
Linda Lê, giữ mục "Trở Về Với Cổ Điển", của tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Giêng 2005, trong bài viết "Tâm Hồn Lãng Mạn", L'Âme Romantique, nhân dịp tái xb tuyển tập "Những Nhà Lãng Mạn Đức", Les Romantiques Allemands, đã nhắc tới một định nghĩa, thế nào là dịch thuật, của Novalis.
Một bản dịch, thì, hoặc, có tính văn phạm [dịch theo nghĩa đen, bám chữ], hay có tính dẫn giải [mô phỏng, phóng tác], hoặc, có tính huyền hoặc, mythique. "Những bản dịch huyền hoặc là thứ bảnh, văn phong thuộc loại thượng thừa, de haute style. Chúng tái tạo nghệ phẩm, đưa nó trở về dạng trinh nguyên, toàn bích, ấy là nói về tính cách của nghệ phẩm, ở trong cái gọi là cá biệt, nhất khoảnh của nó. Nói một cách riết róng, không phải một nghệ phẩm mà nó dâng hiến cho chúng ta, mà chính cái gọi là lý tuởng".... Nó làm bật ra, còn quá một bản văn, mà là một linh hồn, một tâm hồn của tác phẩm.

Dịch mà làm sao cống hiến cho người đọc, không chỉ bản văn, mà là linh hồn của nó, ấy mới là dịch vậy!

Theo nghĩa đó, câu thơ "Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương" là một câu thơ dịch. Một bản sao.
Nó chuyển một Hồn Đông Phương, khi ra hải ngoại, thất lạc, không còn tìm thấy mình, và biến thành nỗi buồn lưu vong, xa xứ.
Hay ngắn gọn: Buồn Tây Phương.

Cá Rô Cây và Nước Mắm Lá Chuối
Có một thứ văn chương nào đó, đếch còn hợp với những kẻ sống sót Trại Tù
Thật khó kéo dài vinh quang, nhất là thứ đến muộn.
*
Có mấy NQT?

Ở Lời Bạt, cuối cuốn Tam Thập Lục Kế Tẩu Vi Thượng Sách, Ways of Escape,  tay nhà văn kiêm thêm nghề điệp viên người Hồng Mao, Graham Greene  cũng thắc mắc, tự hỏi, đúng ra, "trầm tư" về một thai đố "Có mấy Graham Grene", mà ông gọi chung bằng cái tên "The Other", Kẻ Khác.


Cuốn sách này không phải là một thứ chân dung tự họa. Tôi dành cái việc đó, cho bạn bè và kẻ thù của mình. Thì cũng mắm xốt như nhau: All the same.

Trong nhiều năm, chính tôi, cũng đi tìm thằng chả đó, kẻ tự gọi mình là Graham Greene.
Cách đây năm chục năm, tôi có mua một tuyển tập thơ của Edward Thomas, trong có bài ám ảnh tôi, không hiểu tại sao. Không phải một bài thơ hay của ông ta.
Bài thơ "Kẻ Khác"  kể câu chuyện, một tay lãng du, đi đến đâu, ghé quán nước đầu làng, cây đa ven rừng, quán nửa khuya... đều nhận ra dấu vết của một thằng chả y hệt mình, đi cùng một con đường với mình. Thằng chả vừa order một món ăn y hệt mình, vừa thưởng thức những tia sáng ban mai y như mình, và vừa mới bỏ đi!
...
I travelled fast, in hopes I should
Out run that other, what to do
When caught, I planned not, I pursued
To prove the the likeness, and if true
To watch until myself I knew

Tôi đi thật nhanh, cố bắt kịp thằng chả
Chẳng để làm chi
Chỉ để coi hắn có y hệt mình
Và để hiểu tại ra làm sao lại có một thằng y hệt mình.

Và bài thơ kết thúc bằng những câu như sau:

Hắn đi, tớ theo, liền tù tì.
Cho đến khi hắn ngừng. Và khi đó, tớ cũng sẽ ngừng.

Hai Lúa đã có lần kể, Graham Greene là một trong những ông thầy dậy tiếng Tây của Hai Luá. Hai Lúa đọc ông, qua các bản dịch tiếng Tây, những cuốn như Kẻ Giết Mướn, Người Thứ Ba...
Ngoài Greene, còn có Simenon, những tác giả loại sách đen, série noire, như James Hadley Chase. Nhờ những chi tiết ly kỳ, câu chuyện hồi hộp, Hai Lúa mải mê theo dõi, đọc hết cuốn sách. Đây có lẽ là cách học ngoại ngữ tốt nhất, ít ra là đối với riêng tại hạ !

Thế rồi, Hai Lúa quá chán me-xừ Greene này, khi khám phá ra, ông làm gián điệp! Hai Lúa than... Trời: Tại làm sao làm một cái nghề cao quí như thế, viết văn, đồng thời làm một cái nghề khốn kiếp như thế, chó săn ?
Về già, Hai Luá mê lại Greene, và khám phá ra rằng, cái tâm thì phải là tâm bồ tát, cái nghề, thì là nghề khốn nạn, chui xuống gầm giường nhà người ta, làm "con mắt của nhân dân"...  thì mới có thể là nhà văn của thế kỷ khốn nạn, là thế kỷ 20 được!

Milosz có thể cũng nghĩ như thế, khi viết "ẩn dụ" nhà thơ dơ nhất thế kỷ.

Ông kể chuyện một nhà thơ của thế kỷ 20, cuối đời nhìn lại, thấy mình bẩn quá, bèn chui vô bồn tắm, dùng xà bông thơm kỳ cọ, cho văng tất cả những cái bẩn đi.
Kỳ mãi, kỳ mãi, vẫn không hết, và ông ngộ ra, số phận của ông là như vậy.
Bởi vì, nếu ông ta sạch,Thượng Đế đã không giao cho ông ta "nghĩa cả" đó, và nhân loại cũng đếch cần đến ông ta. (1)
Là nhà thơ bẩn của thế kỷ. Sướng thật!

Tôi sợ rằng, vào lúc này, vào những giờ phút nóng bỏng của Lò Luyện Ngục, mấy ông thi sĩ như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Huy Cận... và có thể, có cả thi sĩ, tác giả tập Thơ Trong Tù đang rộn rã bước vào Ngày Hội Thơ, hay Show Bình Bầu Nhà Thơ Bẩn Nhất Thế Kỷ 20 Của Nền Thơ Ca Của Chúng Ta, cũng nên!

1): Bản tiếng Anh, trong Chó Bên Đường [Road-side Dog]:
To Wash
At the end of his life, a poet thinks: I have plunged  into so many of the obsessions and stupid ideas of my epoch! It would be necessary to put me in a bathtub and scrub me still all that dirt was washed away. And yet only because of that dirt could I be a poet of the twentieth century, and perhaps the Good Lord wanted it, so that I was of use to Him.