*


The Cellist of Sarajevo

*
Cuộc chiến Chechnya của một người lính
In one scene, a young Russian soldier is stabbed in the throat and bleeds slowly to death while his comrades watch, pinned back by Chechen snipers:
Trong một xen, một người lính "Hồng Quân" bị đâm vào cổ, và máu cứ thế ộc ra, trong khi đồng đội ngắm nhìn, dưới sự canh chừng của du kích bắn sẻ Chechnya

Dịch như trên là không đúng ý . Cái cảnh trong nguyên tác cố tình nói đến cái dã man của bọn Chechnya. Bọn bắn sẻ đã thọc cổ một gã lính trẻ Nga , để cho máu chảy từ từ mà chết trong khi chúng ghìm những đồng chí của gã lại, bắt phải chứng kiến cái cảnh ấy .
K
Tks. Gấu không coi lại, đang mải tìm lỗi của em TH. NQT
TB: Sai nặng là từ "ồng ộc".
Mấy từ kia, watch, chứng kiến, pinned back, ghìm lại, đúng hơn. Nhưng dịch như của Gấu, cũng... được!
*
Hi hi. Nói cho vui vậy thôi chứ có đọc toàn bài đâu mà biết. Tuy nhiên, thấy dịch "bleeding slowly" thành "máu chảy ồng ộc", "watch" thành "ngắm nhìn", và "pinned back" thành "canh chừng" thì phản ứng tự nhiên là xăn tay áo, chứ chưa chắc mình đã đúng và người khác đã sai !!
K
*
Bây giờ thì Gấu nhớ ra, tại sao lại dịch như vậy.
Ấy là vì, Gấu đọc bài điểm sách trên TLS, cùng lúc đọc bài trả lời phỏng vấn của ông nhà văn Lê Lựu, trên VieTimes, thái độ của ông ta, về cuộc chiến, về lũ Ngụy…
Với ông Lê Lựu, thì Nguỵ cũng tàn ác như du kích Chechnya, nhưng với Ngụy và Chechnya thì những người lính như trong Thời Xa Vắng, Cuộc chiến của một người lính, là lũ ăn cướp.
Tuy nhiên, thê thảm nhất, là thái độ của tác giả, sau khi trải qua cuộc chiến:
"I wasn't meant to become the Babchenko I am today, but I like him all the same”.
Chúng ta, Ngụy, [hãy nhớ lại, đã tàn nhẫn dã man như thế nào, qua các cách mô tả của những nhà văn Cách Mạng như Bảo Ninh, như Lê Lựu... và qua báo chí, phương tiện truyền thông Tây Phương...]  cũng đành phải bắt chước tác giả, và thương Ngài Lê Lựu, cũng như anh chàng Sài của ông ta!
*
Khi scan bài viết, Gấu tính dịch, nhưng lu bu quá, quên luôn, cho đến khi bạn K lôi ra chỉnh.
Cám ơn, nhờ vậy mới nhớ ra, nguyên uỷ của chỉ một bài điểm sách!
NQT
*

Bài điểm sách mở ra mà chẳng thê lương, đáng sợ sao:
One Soldier's War in Chechnya is an alarming and deeply affecting book. For its author, Arkady Babchenko, who will relive these stories for the rest of his days, this is a considerable literary and psychological feat. Its translator, Nick Allen, has skillfully preserved in English a voice that is fiercely intelligent without being intellectual, masculine but not macho
... Đối với tác giả của nó, người sẽ phải sống đi sống lại mãi những câu chuyện này trong suốt quãng đời còn lại của ông ta....

Với những ông như ông Lê Lựu chẳng hạn, có bao giờ ông ta nghĩ ông ta là thằng ăn cướp đâu? NQT
*
Nói về những dã man tàn ác trong thời chiến.
Gấu làm radiophoto operator cho hãng UPI, và đã từng gửi những bức hình dã man tàn bạo, của phe ta, trong thời gian chiến tranh. Những cảnh lính gốc Miên trong quân đội VNCH khi đi hành quân về, hai người lính gánh kẽo kẹt những chiếc đầu lâu, những chòm tai người, là chuyện thực sự xẩy ra. Những vụ như Mỹ Lai, đều có chứng tích. Tuy nhiên, đây mới chính là phần 'nhân bản' của phe ta.
Còn lính Cụ Hồ, chưa từng phạm một tội ác! Đấy là phần "phi nhân" của họ, theo nghĩa họ là những vị thần! Những Phù Đồng Thiên Vương, như Trần Bạch Đẳng đã từng hót.
Thành thử thật khó mà so sánh, giữa thần và người.
Ngụy chúng ta đã thất bại, vì là con người. Chúng ta đã phạm tội ác, như con người.
Cái phần Ác Cực Ác, của VC, chỉ đến sau 30 Tháng Tư, chúng ta mới được biết.
*
Trên tờ Người Quan sát Mới, Le Nouvel Observateur, số 8-14 Tháng Năm, 2008, có bài phỏng vấn Y Hua, nhà văn Trung Quốc, tác giả cuốn Anh Em, "Brothers", khi được hỏi, có phải ông phịa những cảnh ghê rợn, dã man tàn bạo như được miêu tả trong truyện, ông trả lời:
Tôi có phịa ra một số, thí dụ như cái xen, một tay khốn khổ, bị tra tấn dã man vì tội phản cách mạng, đã tự sát bằng cách lấy một cái đinh to tổ bố, đóng vào sọ mình. Nhưng ở Trung Quốc, bạn biết đấy, thực tại vượt quá tưởng tượng. Một độc giả, buộc tôi tội "đạo", vì cái cảnh ghê rợn đó, đã do chính ông bố của người đó thực hiện, bởi vì ông ta không làm sao kiếm ra một phương tiện nào khác, để chấm dứt chuỗi ngày đau khổ.

Đúng là một thời kỳ khùng điên. Trong một tờ báo thuộc thời kỳ đó, tôi đọc được cái tin, Peng Zhen, thị trưởng Bắc Kinh, đã rất ư là nghiêm túc trình lên Mao, xin ý kiến về chuyện phá huỷ Tử Cấm Thành, và xây dựng lên tại đúng nơi đó, những chuồng xí, chuồng tiểu thật lớn lao, để toàn thể thế giới đến đó ỉa đái lên đầu đám vua chúa ngày nào, tại đúng nơi chốn họ đã từng ăn ngủ, sinh sống.

Than ôi, điều trên đây, vua Gia Long đã từng thực hiện đối với những cái sọ của vua chúa triều đại Tây Sơn!
Và cái nơi chôn cất họ, được nhân dân thân thương gọi là Mả Ngụy.



10 Questions.

Song of Solomon should be required reading for all African American boys. How did you know what is in our heads?
Ira Levi, TULSA, OKLA.
That was a leap for me. I really wanted to do that book, about the education of a middleclass black man, about his ancestry, and I couldn't. And then my father died, and it was earthshaking for me. I remember saying to myself, I wonder what my father knew about these men? And I have to tell you, I felt access. I knew I could get there if I thought about him.

[ - "Song of Solomon" là cuốn sách thể hiện dường như mọi điều về những chàng trai người Mỹ gốc Phi. Làm sao bà biết hết những gì diễn ra trong đầu họ?
- Đó là một nỗ lực vượt bậc của tôi. Tôi đã muốn viết cuốn sách đó - một tác phẩm về sự trưởng thành của những thanh niên da đen trung lưu, về tổ tiên của họ. Nhưng tôi không viết được. Thế rồi bố tôi qua đời. Đó là một chấn động lớn đối với tôi. Tôi tự nhủ, tôi có thể kể cho độc giả những điều bố tôi biết về những con người này. Từ đó, tôi tìm thấy đường đi. Tôi viết được mỗi khi tôi nghĩ đến bố.
Thanh Huyền, eVăn.]

Bài ca Solomon  [tên một tác phẩm của Morrison] nên được đề nghị đọc, đối với toàn thể những đứa con trai Mỹ gốc Phi châu. Làm sao bà biết cái gì ở trong đầu chúng tôi?
-Đây là bước nhẩy vọt đối với tôi. Tôi thực sự muốn viết cuốn sách đó, một cuốn sách về giáo dục, học vấn của một người đàn ông da đen, tầng lớp trung lưu, và về tổ tiên của anh ta, và tôi không thể viết ra được. Thế rồi cha tôi mất, và đây là một cú địa chấn đối với tôi. Tôi nhớ, đã nói với tôi như vầy, không biết cha tôi biết gì về những người đó? Và tôi phải nói với bạn, tôi cảm thấy lối vô cuốn sách. Tôi biết tôi có thể viết được cuốn sách, nếu tôi nghĩ về cha tôi.

Cây bút "đầy uy lực" trong dòng văn học viết về người da đen: Câu này không biết ở đâu lòi ra!
*

If you had not chosen to share your gift of writing, what else would you have done?
Michelle Patrick NEW YORK CITY
When I started teaching, I was absolutely thrilled. There's nothing more exciting to me than to read books, to talk about books with students-generation after generation-who bring different things to them. I loved that. I would stay there.

[Nếu không được trời phú cho tài văn chương, bà sẽ làm nghề gì?
Khi mới dạy học, tôi vô cùng hồi hộp và xúc động. Không gì thú vị bằng đọc sách, rồi chuyện trò với sinh viên về những gì mình đã đọc được - từ thế hệ này đến thế hệ khác. Tôi yêu công việc đó. Thanh Huyền, eVăn]

Thay vì nói về thiên phú viết văn, bà tính chia sẻ với chúng tôi chuyện gì đây?
Khi bắt đầu dậy học, tôi sợ lắm. Nhưng rồi tôi nhận ra, không có gì thích thú hơn đối với tôi, ngoài chuyện đọc sách, nói về những cuốn sách với sinh viên, thế hệ này tiếp nối thế hệ kia. Họ là những con người mang đến cho những cuốn sách những điều khác nhau. Tôi yêu chuyện đó, và tiếp tục ở vậy với những chuyện đó.
*
Are there any dreams or goals that you have yet to fulfill?
Janie Crawford, SYRACUSE, N.Y.
I have two. Well, three, really. Two involve novels that I'm going to write and haven't written. The third is immortality. [Laughs.] I don't mean my work. I mean me.
[- Bà còn có ước mơ nào chưa thực hiện được?
- Tôi có hai ước mơ, thực ra là ba. Hai ước mơ đầu tiên liên quan đến cuốn tiểu thuyết tôi phải viết nhưng vẫn chưa viết được. Còn ước mơ thứ ba là được bất tử. Tôi không nói về tác phẩm, mà nói về chính bản thân tôi. Thanh Huyền, eVăn]
*
Bà còn giấc mơ nào, mục đích nào chưa thực hiện được?
Tôi có hai. Thực ra, ba. Hai liên quan tới những cuốn tiểu thuyết sẽ viết, nhưng chưa viết ra được. Cái thứ ba, sự bất tử. [Cười]. Tôi không muốn nói, tác phẩm, mà là, tôi.

Câu chót, được em Thanh Huyền đưa lên làm tít bài viết  "Nhà văn Toni Morrison muốn được bất tử".
Nhưng, câu trả lời của Morrison làm Gấu nhớ đến Borges, và một nhân vật của ông, sắp sửa đi, và anh ta mừng rỡ nói:

Chẳng bao lâu nữa, ta sẽ là cả thế giới. Ta sẽ chết.
... Bientôt, je serai tout le monde. Je serai mort.
*
Gấu sợ rằng, đó mới là ý của Morrison:
Ta sắp sửa đi. Ta sẽ trở thành... bất tử, bởi vì ta sẽ là cả thế giới!

Mai Thảo cũng đã từng nghĩ như vậy những ngày tháng sắp đi.
"Đời ta... những miếu đền.. sử chép cả ngàn chương... ", là cũng bất tử theo nghĩa đó.
Bởi thế, trước khi ông đi, Gấu vội gửi theo ông câu của Borges. NMG đem vô tận giường nằm, trong nhà thương, chờ đi, nghe đọc xong, Người gật gù phán, được, được, thằng Gấu này, trước 1975, nó viết tao không đọc được, giờ viết còn đỡ...
*
Không phải tác phẩm bất tử, mà là tôi bất tử.
Tác phẩm của bà, bất tử, hẳn nhiên rồi, đâu cần phải cầu mong!
Câu trả lời của Morrison làm nhớ đến câu của Steiner:

Flaubert đã từng phát điên lên, tại sao ‘con điếm’ Bovary cứ sống hoài, trong khi ta nằm đây, chết như một con chó ghẻ? (Flaubert cried out against the paradox whereby he lay dying like a dog whereas that ‘whore’ Emma Bovary, his creature… continued alive. G. Steiner, The Uncommon Reader).
*

Được thể , làm tới nhé . K
If you had not chosen to share your gift of writing, what else would you have done?
Michelle Patrick NEW YORK CITY
When I started teaching, I was absolutely thrilled. There's nothing more exciting to me than to read books, to talk about books with students-generation after generation-who bring different things to them. I loved that. I would stay there.
Theo K , câu này phải được dịch như vầy :
Giả thử nếu bà không chọn (con đường ) chia sẻ tài năng văn chương của bà thì bà nghĩ bà đã làm gì ?
Hồi mà tôi mới đi dạy , tôi vô cùng thích thú . Với tôi, thật không có gì khoái cho bằng đọc sách , bàn luận sách với đám sinh viên, hết thế hệ này đến thế hệ khác , (vì) họ đã đưa ra những điều khác biệt cho những cuốn sách ấy . Tôi chịu cái đó lắm . Tôi đã có thể tiếp tục như thế .
&
Tks. Đúng. Câu  này Gấu  dịch sai.  NQT


 Gấu vs Hồ Nam

Rasim, nhà tạp ghi

Vậy là Ahmet Rasim trải qua năm chục năm cuộc đời của ông, chỉ để viết về những chuyện thường ngày ở Istanbul, từ đủ thứ hầm bà làng rượu đế, rượu rắn, rượu rùa, và cùng với chúng, là đủ thứ bợm nhậu, cho đến những người bán hàng rong trên đường phố, trong những khu phố nghèo khổ, từ những tiệm tạp hóa tới những nghệ sĩ tung hứng, những người hát rong, hát dạo, từ những vẻ đẹp của những thành phố dọc theo vịnh Bosphorus cho tới những hầm quán bát nháo và meyhanes, từ những tờ báo tin tức hàng ngày tới tin tức thương mại, từ những công viên vui nhộn cho tới những cánh đồng, những vườn tược, công viên công cộng, từ những ngày chợ cho tới những nét quyến rũ đặc biệt của mỗi mùa, chẳng bỏ qua, thí dụ, vào mùa đông, những cuộc đánh lộn bằng banh tuyết, trượt tuyết, cũng như sự phát triển trong ngành xuất bản, những câu chuyện rỉ tai, những tin đồn khu vực, địa phương, những thực đơn nhà hàng. Ông có tí thiên về hệ thống những bảng danh sách, liệt kê, phân loại và có một con mắt thật tốt, khi nhìn vào những thói quen, những phong cách riêng của dân chúng. Như một nhà thực vật học trước cây mùa hoa trái, Rasim cảm thấy cùng một nỗi háo hức như vậy, trước những cú đập rộn rã của thành phố, những biểu hiện Tây phương hóa, những làn sóng di dân, đột biến hay tiềm ẩn, những tình cờ của lịch sử, tất cả đem đến cho ông một điều gì thật mới mẻ và kỳ lạ, để mà viết về chúng, mỗi ngày. Ông khuyên những nhà văn trẻ, luôn luôn thủ trong người một cuốn sổ tay khi dạo phố.

Những bài tạp ghi hay nhất của Rasim, viết trong thời kỳ 1895-1903, sau được gom lại, in dưới nhan đề “Chuyện Thành Phố”. Ông không bao giờ ban cho mình, là ‘nhà bỉnh bút của thành phố’ [the city correspondent], ngoại trừ sử dụng nó, có chút tự trào, vào việc phàn nàn hội đồng thành phố, đưa ra những nhận xét về cuộc sống thường nhật, đo nhịp đập của thành phố, ông mượn thao tác này của người Pháp, được phát triển vào những năm 1960. Vào năm 1867, Namik Kemal, tên của ông sau này trở thành một thứ kinh điển, quan trọng nhất, của Thổ nhĩ kỳ thời hiện đại, là một người ngưỡng mộ Victor Hugo, không chỉ về kịch và thơ mà còn về những cuộc bút chiến lãng mạn, và thái độ dấn thân của nhà văn Pháp này, ông đã viết một chuỗi những bức thư, trên nhật báo Tasvir-i-Efkar, về cuộc sống thường nhật của Istanbul trong những ngày  Ramadan. Những thư của ông, hay “cột báo thành phố” [city columns], như được gọi, đã tạo ra một giọng điệu, một thứ nguyên mẫu, cho tất cả những ai muốn nối gót ông, trong việc tạo ra một giọng điệu tâm sự, rù rà rù gì chuyện riêng tư, cộng thêm tí đồng loã, “tớ biết tỏng chuyện đó rồi”, của một lá thư bình thường. Và như thế, bằng cách gửi cho những người nhận, là tất cả những cư dân của thành phố Istanbul, như là những bà con, những bạn bè, những người yêu, những lá thư như là những cột báo của thành phố đã thành công biến thành phố, từ một chuỗi những làng x