Chúc Mừng Năm Mới, Kỷ Sửu, 2009
http://www.ethanngophotography.com/blog/?p=589
Tết @ Bolsa

*

Giai Thoại của Thi Sĩ
Làm Thơ Ở Sài Gòn
Back to Sorento
Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn

Ngày xưa, có ông triết gia Tầu, thầy Tử Sản gì đó, bị anh người làm lừa, sự thể cũng hơi giông giống đám Ngụy bị VC lừa.
Anh người làm được thầy đưa tiền đi mua một con cá, hay đem một con cá biếu một người bạn, Gấu không nhớ rõ. Anh người làm ghé quán, kêu xị đế, và nhờ nhà hàng nhóm lửa nướng giùm cá.
Về, anh nói với Thầy, đang đi đường, thấy cá ngáp ngáp, sợ cá chết, thả xuống nước, nó quãy đuôi đi một mách.
Thầy mừng quá, may cho đời cá, thoát cũi xổ lồng!
Anh người làm cười, nói với bạn, ai nói Thầy Tử Sản minh triết, ông bị ta lừa như đứa con nít.
Miền Nam thua cuộc chiến, sau đó đi cải tạo, là y chang thầy Tử Sản, bị thằng đầy tớ đánh lừa. Nó lừa hữu lý quá, nhân đạo quá, "tình quá", thế là cứ thế chui vào Lò Cải Tạo!
Serge trích dẫn một ông Tây [ông không nói, tay nào]:
Khi anh tìm kiếm sự thực, khủng khiếp nhất, là, khi anh kiếm thấy nó.
[What is terrible when you seek the truth, is that you find it].
Đúng là tình trạng Miền Nam, khi tìm thấy sự thực "Mỹ cút, Ngụy nhào, giải phóng, thống nhất đất nước, xây dựng cái nhà Việt Nam lớn hơn cả nhà của Mẽo!"

NHT vs Đỗ KH.

Ente apparatchiks et capitalisme sauvage
Giữa đám con ông cháu cha và chủ nghĩa tư bản dã man

Người ta chửi ông nhổ vào nồi cháo ái quốc, nhét cái gì đó vào miệng sĩ phu Bắc Hà, và....

Sous le couvert d'histoires anodines perce une critique sociale féroce. Nguyên HuyThiêp dérange.
Dưới cái vỏ những câu chuyện làm xàm, là một mũi dùi phê phán xã hội.
Hung bạo, tàn khốc. NHT quậy.

Au Vietnam, la littérature fut longtemps condamnée à bredouiller, pour cause de communisme. Elle vit toujours sous haute surveillance, même si la censure a lâché du lest. Pas assez, en tout cas, pour que les écrivains, là-bas, confondent libéralisme économique et liberté d'expression. C'est évidemment le cas de leur chef de file, Nguyên Huy Thiêp, né à Hanoi en 1950. A l'époque de la dictature, il écrivait sous le manteau et cachait ses manuscrits dans la cave de sa maison tout en dévorant Pouchkine ou Flaubert pour ne pas mourir de lassitude.

Ở Việt Nam, văn chương lâu nay bị kết án phải lèm bèm ca ngợi chủ nghĩa cộng sản và nghĩa cả của nó. Văn chương luôn sống dưới sự canh chừng tối đa của con mắt của con nhân dân, ngay cả khi chế độ kiểm duyệt ra lệnh, hãy cởi trói cho đám chúng nó. Nhưng đếch ăn thua gì, đối với nhà văn thứ thiệt. Đừng hòng họ lầm thị trường tự do và tự do ăn nói. Đúng là trường hợp tay trùm của đám này, là NHT, sinh tại Hà Nội năm 1950 [vậy mà tưởng bằng tuổi Gấu, 1937]. Vào thời độc tài, ông viết dưới chiếc áo khoác của Gogol, và giấu bản thảo ở dưới hầm nhà, trong lúc ngấu nghiến Pouchkine hay Flaubert, để khỏi chết vì buồn chán.

Et il eut le courage de ne pas baisser la garde, de tourner le dos à la propaganda et aux dogmes du réalisme socialiste. A la fin des années 1980, il profita d'une timide embellie pour publier le très incorrect Général à la retraite, où il stigmatisait un Vietnam corrompu, affamé et démuni. On lui reprocha alors de cracher dans la soupe patriotique, et il se retrouva de nouveau dans les oubliettes de la censure.

Ông có cái can đảm của một người luôn cảnh giác, và quay lưng lại với ba cái trò tuyên truyền và những giáo điều của chủ nghĩa hiện thực xã hội. Cuối thập niên 1980, lợi dụng một chút trời quang mây tạnh, ông cho ra lò một ông Tướng Về Hưu không giống ai, qua đó, ông phạng một nước Việt Nam hư ruỗng vì tham nhũng, đói khổ, bị vét sạch đến cạn láng. Người ta trách ông đã nhổ vô nồi cháo ái quốc, và ông lại thấy mình, một thứ cùi hủi của chế độ kiểm duyệt.

Il continue aujourd'hui à déranger, dans un pays où certains de ses romans sont encore interdits. Aussi est-il constraint de contourner les obstacles en écrivant des textes qui sont autant de paraboles. Les quatre nouvelles réunies dans “Mon oncle Hoat” doivent donc être lues au second degré : derrière la métaphore, sous le vernis d'histoires apparemment anodines, on découvre une critique sociale souvent féroce. Celle d'un Vietnam où les vieilles valeurs de la spiritualité bouddhique sont bafouées par les apparatchiks qui confisquent le pouvoir, d'une part, et, d'autre part, par les dragons du capitalisme sauvage qui transforment les villes en jungles impitoyables. Qu'il mette en scène un ramasseur d'excréments, un vieillard chassé par sa famille parce qu'il ose aimer la poésie, ou une éleveuse d'oiseaux qui déplore que les rossignols soient désormais dressés pour les combats de cirque, Nguyên Huy Thiêp dépeint une société aux abois - violence larvée, régime en putréfaction, misère crasseuse. Sur cette réalité, l'écrivain jette les pétales d'une écriture lumineuse, délicate et ironique, qu'il pratique comme une thérapie. Avec ces mots en guise de mode d'emploi : « Ne riez pas, la vraie littérature est peut-être à n'y rien comprendre. La réponse gît sur les genoux des dieux, comme dit Homère. »   A.C.

Ông tiếp tục quậy, tới ngày hôm nay, tại một xứ sở mà một vài cuốn tiểu thuyết của ông vẫn bị cấm. Ông cũng bó buộc phải đi vòng qua những chướng ngại và viết một số tác phẩm có tính ẩn dụ. Bốn truyện ngắn tập hợp trong Ông chú Hoạt của tôi phải đọc ở bậc thứ nhì: sau ẩn dụ, dưới mặt véc ni của những câu chuyện không quan trọng, người ta khám phá ra một sự chỉ trích, phê phán xã hội, một cách khốc liệt, hung dữ, và thường xuyên. Nó nhắm vào một nước Việt Nam, nơi mà những giá trị cổ xưa của tinh thần Phật giáo bị nhạo báng bởi tầng lớp cán bộ con ông cháu cha, chúng cuỗm quyền lực, một phía, còn phía kia, là những con rồng của chủ nghĩa tư bản dã man, nó biến những thành phố thành những rừng rú tàn nhẫn, không xót thương. Ông trình ra một người thu nhặt cứt, một ông già bị gia đình xua đuổi vì yêu thơ, một cô gái chuyên nuôi chim chóc, đau đớn vì những con sơn ca bị nuôi dậy để đấu đá lẫn nhau trong rạp xiếc.
NHT vẽ ra một xã hội đang trong tuyệt vọng - bạo lực tiềm ẩn, chế độ thối ruỗng, khốn cùng cùng cực. Trên thực tại đó, nhà văn tung ra những cánh hoa của một lối viết lung linh, tế nhị, và hóm hỉnh, mà ông ta tập luyện nó, như một một phương thức chữa bệnh. Với những từ sau đây, chỉ cách dùng: "Đừng cười, văn chương thứ thực có thể là chẳng hiểu, chẳng lĩnh hội, chẳng thấu đáo. Câu trả lời thì ở đầu gối những vị thần, nói như Homère."
[Câu này, do NHT trích dẫn, qua bài viết dưới đây, cũng của Clavel, cho biết]
André Clavel
“Mon oncle Hoat” [Ông chú Hoạt của tôi] par Nguyên Huy Thiêp, traduit du vietnamien par Sean James Rosé, Tuong Vi Rigal et Philippe Dumont, 110 p., L'Aube, 11,80 €
&
Một bài nữa về NHT, cũng của tay André Clavel

*
« Au goulag, il se trouvait que les gens ne mouraient pas comme des mouches. C'étaient plutôt les mouches qui mouraient comme des gens. »
"Ở Lò Cải Tạo, không phải những con người chết như ruồi, nhưng mà là những con ruồi chết như người."
Với bất cứ một con người có lương tri, Mít hay không Mít, điều làm người đó bận tâm, về cuộc chiến Việt Nam, là, những gì xẩy ra sau đó, chứ không phải trước và trong cuộc chiến.
Tại làm sao một cuộc chiến thần thánh như vậy, mà lại gây nên kết quả thảm khốc như vậy.
Các anh vĩ đại quá! Chiến tranh độc ác quá!
Cuộc chiến ác độc đâu bằng cuộc hậu chiến độc ác?
*
Note: 2 giờ sáng, ngủ không được, lướt Tin Văn, Gấu tình cờ vớ được bài viết này!



The Writer as Migrant
Phát ngôn viên và Bộ lạc: The Spokesman and The Tribe
Ở vào lúc khởi nghiệp, nhà văn thường phải vật lộn với những câu hỏi, anh là ai, viết cho ai, mắc mớ thế nào, mà viết? [to whom, as whom, and in whose interest does he writes?]
Những câu trả lời sẽ hé ra tầm nhìn, đề tài, và có khi còn quyết định luôn văn phong của anh ta.
Hắc búa nhất là câu hỏi, viết cho ai? Bởi vì câu này liên quan tới ý nghĩa, cảm quan, về căn cước và truyền thống của nhà văn, và cả hai món này, thì đều không luôn luôn vũ như cẩn, và có thể thay đổi.
Những câu trả lời lúc thoạt đầu của tôi, xem ra thật giản dị. Trong lời nói đầu của cuốn Giữa những im lặng, Between Silences, cuốn thơ đầu của tôi, tôi viết, “Như là một kẻ may mắn tôi nói cho những người không may mắn, đã đau khổ, đã chịu đựng, và đã tàn tạ cuối cuộc đời, và những người đã sáng tạo ra lịch sử, và cùng lúc, bị nó biến thành điên khùng, và bị huỷ diệt bởi nó”. Tôi nhìn tôi như là một nhà văn Trung Quốc viết bằng tiếng Anh nhân danh những con người bị tiêu trầm, không có cả một dịp may để mà cất tiếng nói. Vào lúc đó, tôi chưa hề mảy may quan tâm đến sự đa đoan rắc rối, và có những điều không thể nào làm được, của một người chọn một vị thế như thế, đặc biệt là một con người như tôi.
Quá nhiều thành thực, chân thành, tâm địa tốt… là một điều nguy hiểm. Nó có thể làm nổ tung cái đầu [của thằng cha Gấu] ra!
Ha Jin


The counter-revolutionary's tale
Christopher Tayler applauds a first novel by a skilled storyteller
Yiyun Li's 2005 story collection A Thousand Years of Good Prayers - which won four prizes, including the Guardian First Book award - was admired for taking a calm, Chekhovian look at a changing China and the lives of Chinese emigrants.
Chúng tôi hô khẩu hiệu khi đạn vô sọ anh ta.
Yiyun Li:  A thousand years of good prayers



Đỉnh cao chói lọi
Sinh nhạt Bác
Viên gạch Bác


Quê hương tưởng tượng

Cách đây vài năm, tôi trở lại Bombay, thành phố mất tích, trong thiếu vắng một nửa đời mình. Chỉ ít lâu, sau khi mò về, tôi tò mò mở cuốn sách niên giám điện thoại tìm thử tên ông via. Ui chao ơi, vưỡn còn đó!
Vưỡn còn địa chỉ, số nhà, số điện thoại… như thể chúng tôi chưa hề rời khỏi nơi chốn này. Đúng là một khám phá lạ. Cứ như thể nhà nước đảm bảo, thông báo cho chúng tôi, xứ sở xa vời kia chỉ là huyễn mộng, và sự liên tục, nhà còn đây, con đường, cây me... ngày nào vưỡn còn đây, em ra đi nơi này vẫn thế! Thế rồi tôi lò mò đi thăm lại căn nhà ngày nào, căn nhà trong tấm hình, tôi đứng bên ngoài, chẳng dám gõ cửa thăm hỏi những người chủ mới, chẳng dám đụng đầu với những sự thay đổi, xáo trộn ở bên trong. Bức hình đen trắng, và hồi ức của tôi, đầy những hình ảnh tương tự, bắt đầu không thể nhìn tuổi thơ bằng cái mầu đen trắng như thế nữa; những mầu sắc của cuộc đời trôi nổi của tôi vượt lên những mầu sắc của lý trí, và vào lúc này, căn nhà biến dạng, ngói bỗng trở thành mầu đỏ, [giống y chang căn nhà ngói đỏ của nhà văn nhớn bạn quí của Gấu], mầu lá xanh vượt lên mầu ố vàng…. Chẳng cần phải vãi lệ thì cũng hiểu ra được rằng, đúng vào lúc này, Những Đứa Con Của Nửa Đêm ra đời. Tôi hiểu ra rằng, tôi mới ước mong làm sao, làm sao tái dựng quá khứ, không phải trong cái mầu xám xịt xỉn xìn xin của những bức hình gia đình, mà hoàn toàn bằng kỹ thuật Xì nê ma xì cộp, bằng mầu Téc Ních Cô Lò!
Bombay là một thành phố được những kẻ lạ xây cất, trên mảnh đất họ chiến thắng; còn tôi, nếu coi sự vắng mặt quá lâu cho phép là một kẻ lạ, và nếu như thế, thì tôi cũng tự ban cho mình một cái quyền, đúng ra, một niềm tin, rằng, tôi có một thành phố và một câu chuyện, để chiến thắng.
Hình như là, những nhà văn lâm vào tình trạng như tôi, những kẻ lưu vong, những di dân, những kẻ bị tống xuất ra khỏi đất mẹ, đều bị ám ảnh bởi sự mất mát, và do đó, lúc nào cũng nghĩ rằng, mình cần phải tái chinh phục quá khứ, phải cố mà hồi đầu, như giống ngựa Hồ, nghe gió Bắc, là hí lên một cách thảm thiết, bằng mọi cách phải quay nhìn lại, dù có bị biến thành tượng muối. Nhưng, nếu chúng ta quay trở về, thì chúng ta cũng phải hiểu rằng thì là – cái sự xa cách lâu quá như thế khiến chúng ta chẳng thể nào chinh phục được cái đã mất, nói ngắn gọn, cái mà chúng ta có được, sẽ chỉ là những giả tưởng, không phải những thành phố, những làng xóm thực, mà là những quê hương tưởng tượng, vô hình, những Ấn độ của trí tưởng.
Khi viết cuốn sách của tôi, tại Bắc Luân Đôn, bên ngoài cửa sổ là một thành phố khác hoàn toàn những thành phố mà tôi tưởng tượng ra trên mặt giấy, tôi luôn bị dằn vặt bởi chuyện này, và thấy mình bắt buộc phải đối mặt với nó trong bản văn: hiểu rất rõ (mặc dù lúc thoạt đầu tham vọng đầy mình, sẽ làm như Proust, nghĩa là, mở những cánh cửa của một thời đã mất để cho quá khứ tái hiện trong tình trạng nguyên thuỷ của nó, không bị hồi ức làm lệch lạc), điều mà mình viết ra, sự thực chỉ là một cuốn tiểu thuyết của, và về hồi ức, và cái nước Ấn độ của tôi, chỉ là "của tôi", một ấn bản, và chỉ là một ấn bản, une version, trong hàng trăm ngàn, triệu ngàn những ấn bản khả hữu. Tôi cố gắng tưởng tượng ra nó, thật chừng nào tốt chừng đó, nhưng sự thực của trí tưởng tượng thì vừa đáng quí vừa đáng ngờ. Bởi vậy tôi để cho nhân vật kể chuyện của tôi, Saleem, tỏ ra hồ nghi trong câu chuyện kể của anh ta: những lầm lạc của anh ta là những lầm lạc của một hồi ức lầm lạc, yếu xìu, được cấu tạo bằng những sự kỳ cục của nhân vật, và của những hoàn cảnh, tình huống, và tầm nhìn của anh ta thì manh mún, tủn mủn. Có thể, khi một nhà văn Ấn độ, viết, ở bên ngoài Ấn độ, anh ta bắt buộc phải tìm cái nước Ấn độ đó, ở trong một cái gương bể nát, mà một số những mảnh bể vỡ đó, đã tuyệt tích giang hồ, chìm vào quên lãng, đáy bể mò kim, nếu muốn mò.


Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn

*

Nhật Ký Tang. Nỗi Đau Mẹ
*

droit d’auteur  samedi7 février 2009

Dilemnes posthumes

Eléonore Sulser

La publication d’écrits intimes de Roland Barthes témoigne de l’ambiguïté des publications posthumes: entre vénération et trahison de l’auteur mort. Par Eléonore Sulser


*

Giấc Mơ BHD
Và tôi nhớ ra rằng thì là Giorgio Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng cu Gấu ở trong chúng ta, sẽ xẩy ra một cái ngày, vào ngày đó, Bông Hồng Đen từ bỏ nó.



Dọn

Văn chương và Siêu hình: Về cuốn Linh Sơn