*




Chúc Mừng Năm Mới 2011

*

Đón Tuyết & Tết & Bão


Câu đối Tết
VN là đồng minh 'đáng xấu hổ' của Mỹ
Mỹ là đồng minh ‘đáng xấu hổ’ của VNCH!

Tạp chí có tiếng Foreign Policy - Chính sách Ngoại giao - đã đưa Việt Nam vào danh sách "các đồng minh đáng xấu hổ nhất" của Hoa Kỳ nhân các diễn biến ở Ai Cập nơi Tổng thống Hosni Mubarak là người được Hoa Kỳ hậu thuẫn.


Thơ mỗi ngày

*

Poetry
Liu Xiabo

Wait for Me with Dust

for my wife, who waits every day

Nothing remains in your name, nothing
but to wait for me, together with the dust of our home
those layers
amassed, overflowing, in every corner
you're unwilling to pull apart the curtains
and let the light disturb their stillness

over the bookshelf, the handwritten label is covered in dust
on the carpet the pattern inhales the dust
when you are writing a letter to me
and love that the nib's tipped with dust
my eyes are stabbed with pain
you sit there all day long not daring to move
for fear that your footsteps will trample the dust you try to control your breathing
using silence to write a story.
At times like this
the suffocating dust
offers the only loyalty

your vision, breath and time
permeate the dust
in the depth of your soul
the tomb inch by inch is
piled up from the feet
reaching the chest reaching the throat

you know that the tomb
is your best resting place waiting for me there
with no source of fear or alarm
this is why you prefer dust
in the dark, in calm suffocation
waiting, waiting for me
you wait for me with dust
refusing the sunlight and movement of air
just let the dust bury you altogether
just let yourself fall asleep in the dust
until I return
and you come awake
wiping the dust from your skin and your soul. 

What a miracle - back from the dead.

ASIA LITERARY REVIEW WINTER 2011


Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

*

@ Chùa Tây Lai, Cali

*

Viên Linh & NTN

*

Nguyễn Tôn Nhan & Du Tử Lê, Cali 3/2008


 Lan man với Vương Trí Nhàn

Note: Bài này, tuyệt. Nhận định về Sơn Nam, đúng, nhưng không đúng, khi áp dụng vào trường hợp NNT. GNV sẽ tản mạn sau, về chuyện này, nhưng đại khái là như vầy: Sơn Nam là 1 anh VC nằm vùng. Vốn sống của ông là 1 Nam Bộ có Tây, còn Tây. NNT, trưởng thành sau cái cú ăn cướp 30 Tháng Tư, và cùng với nó là Lò Cải Tạo.
Làm gì còn chuyện bản địa hoá ở đây, vì Miền Nam, 1 cách nào đó, biến mất rồi. Cái Miền Nam Sâu Thẳm, của Faulkner... mất rồi, cùng với sự xâm lăng của Bắc Kít.
Bạn VTN này phải đọc lại Bút Ký Tô Hoài, nhe!

Chúc Tết bạn và gia đình! NQT
GNV không quen VTN. Trên TV có trang VTN, là do LMH giới thiệu.

Vơi GNV, Sơn Nam chỉ có mỗi 1 cái truyện ngắn, một thứ tân truyện, nouvelle, kiểu Kẻ Xa Lạ, Bếp Lửa, tới chỉ, là Hình Bóng Cũ. Và bi giờ nghĩ lại, mới ngộ ra thì là, ông đúng là cái anh chàng ký giả ở trong truyện, được đến hai người tới gặp, đề nghị làm ghost-writer cho họ.
Một, là cái bà me Tây, đề nghị viết hồi ký, kể cuộc đời của bả, tức cái linh hồn của Miền Nam, kể từ khi Tây Mũi Lõ tới xứ Nam Kỳ, và đành phải để cho nó dầy vò. Một, là cái anh Bắc Kít, sau 1975, mi là thằng VC nằm vùng, hãy kể lại cái Miền Nam trước 1975, bị Mỹ Ngụy kìm kẹp, và sau 1975, được giải phóng, hai cuộc đời đó nó khác nhau ra làm sao!
Nghe thật đểu giả, nhưng đó là sự thực về ông nhà văn Nam Bộ, bị Bắc Bộ Phủ sau 1975 bỏ rơi, đến chết cũng đếch có đất mà chôn, sau phải nhờ sự hảo tâm của 1 tay địa chủ Miền Nam.

Nghe nói, tụi chúng còn đếch cho ông được cái hòm dán nhãn Hội Nhà Văn?

Cứ nghe cái giọng ông VTN phán về SN, là đủ hiểu sự kính trọng của đám Bắc Kít đối với SN ra làm sao: cũng chỉ thứ bản địa!

Tay VTN này, chuyên đi tìm Cái Ác Bắc Kít, không ngờ 1 điều, nó nằm ở trong tim trong hồn của…  chính ông ta!
Của bất cứ 1 anh Bắc Kít:

Đi mãi xa mà vẫn nằm…đâu đây!
Đi mãi xa là để ở lại… mãi đó! (1) 

(1)

Bien qu'il n'ait jamais disparu, le courant brun qui coulait rapidement du cœur des ténèbres vers la mer en nous emportant sur le fleuve Congo est de retour. Et avec lui revient le personnage de Kurtz qui, lui non plus, n'a jamais disparu, ou s'il l'a fait, il était « parti très loin, comme dirait Kafka, pour rester ici ».

Thì, tất nhiên, nó chẳng bao giờ biến mất, cái dòng nước đục ngầu, đỏ như máu, của sông Hồng, chảy từ trái tim của bóng đen, là thành phố Hà Nội, ra biển, đưa chúng ta dạt dào lưu vong, sau khi thoát hải tặc Thái Lan, mãi tít tới miệt Công Gô, và, ăn Tết Công Gô xong, lại trở về.

Và cùng về với nó, là nhân vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng hề biến mất, hay là, nếu anh ta làm như thế, “anh ta đi rất xa, nói như Kafka, để ở lại đây”. 

Kurtz des ténèbres [Kurtz của bóng đen]

GNV này ngộ ra điều này, khi đọc Steiner!
Đúng hơn, khi đọc Faulkner!

Cái tay NTV, phán về Gấu, không phải tự nhiên mà mi chọn Faulkner là thầy, trong mi có 1 tên Bắc Kít khốn nạn, chỉ hăm he huỷ diệt Miền Nam, 1 Thầy Thành của NNT, thí dụ, và mi quá sợ điều này…than ôi, chính NTV cũng là 1 tên Bắc Kít!

Và cũng là 1 người nhận ra sự thực, cuộc chiến vừa rồi, không phải nội chiến Nam Bắc, mà là hận thù chém giết giữa đủ thứ những tên Bắc Kít với nhau!

Hình Bóng Cũ 

Trong những tác phẩm của Sơn Nam, có một, ít được nhắc tới, nhưng đối với cá nhân người viết, có lẽ đây là cuốn hay nhất của ông: Hình Bóng Cũ. Những tác phẩm như Hương Rừng Cà Mâu, Chim Quyên Xuống Đất... là một Miền Nam sau này, hoặc vẫn tiếp tục còn đó, tuy đã tang thương dâu bể. Hình Bóng Cũ là một Miền Nam đã mất hẳn, như một Viễn Tây của lịch sử Hoa Kỳ. Ở đó, huyền thoại lấn át thực tại, và khi huyền thoại biến mất, nó kéo theo cùng với nó, những con người nửa hư nửa thực. Tất cả biến thành thần. Những vị phúc thần (anges gardiens).

Tôi đọc cuốn sách đã lâu. Sau cố tìm gặp lại nhưng không thể. Như thể cái duyên giữa cuốn sách và tôi đã trọn vẹn: Một đứa bé di cư, một mình xuống tầu há mồm vào Nam tìm gặp Hòn Ngọc Viễn Đông, vô tình khám phá viên quặng làm nên hòn ngọc đó.

Câu chuyện một xóm nhỏ, có một "thầy ký nhựt trình", như dân trong xóm vẫn thường trầm trồ về một anh chàng ngụ cư. Bản thân anh ta lâu lâu có một bài thơ được nhà báo thương tình đăng lên, thay vì để trống một khoảng nhỏ.

Một bữa có một bà tới kiếm, tính mướn anh viết hồi ký cho "bả". Người đàn bà ôm trong mình cả một kho tàng. Đã từng là đào hát, chủ gánh, sau bỏ hết, gá nghĩa cùng một ông tây thuộc địa, một trong những người khai phá ra những cánh đồng thẳng cánh cò bay, tiền thân của những ông Hương, ông Cả trong những cuốn tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, tiền thân của những cô Ba, cô Tư trong những câu chuyện ngồi lê đôi mách, cà kê, dê ngỗng của một số tác giả Miền Nam hiện nay. Một nhân vật kiểu Faulkner, sự tàn bạo, dã man không thua, số người bị giết do ông, bởi chính ông chắc cũng không kém. Người đọc chỉ đoán lờ mờ những chi tiết "thực" đó. Chỉ lờ mờ biết được quá khứ của một Lọ Lem một bữa biến thành Công chúa Thuộc địa. "Bả" có cay đắng khi phải "bó thân về với triều đình", khi phải đồng hóa Miền Nam với chủ nghĩa thực dân khai hóa... nào ai biết được. Tất cả chỉ là những "tầng kiến giải" về một huyền thoại. Về một Hình Bóng Cũ.

Người xưa thường nói, nếu vẽ rồng chớ có "điểm nhãn". Vẽ mắt rồng, bữa nào hứng lên, rồng vàng, hạc vàng... bay mất, để trơ lại một thành Thăng Long mất cả Gươm Thiêng lẫn Rùa Thần, một Hoàng Hạc Lâu biến thành tiệm chả cá Lã Vọng...

Tôi nghĩ, Sơn Nam đã quên lời dặn đó của cổ nhân, khi viết Hình Bóng Cũ.

Mối tình đầu của tôi với Miền Nam ngày xửa ngày xưa chỉ có vậy. Số mệnh khiến tôi suốt đời lẽo đẽo chạy theo mối tình đầu đó, khăng khăng cứng đầu, cố biến nó thành hiện thực. Sau này, đọc những nhà văn Miền Nam, cũng là để cố tìm lại chút văn minh, "tư tưởng man rợ" (pensée sauvage, chữ của C. Lévi- Strauss), của một thuở miệt vườn.

Nhưng có lẽ không giản dị như vậy, Miền Nam, mối tình đầu, và tôi.

Ngay từ khi học trung học ở Hà-nội, đọc Tô Hoài, tôi đã cố mường tượng ra một "nước Nam Kỳ" xa xôi, chốn đầy ải, nơi trốn chạy của những anh đàn ông, con trai "Bắc Kỳ" của một Xóm Giếng, một Trăng Thề, một Quê Người - một làng Nghĩa Đô đã không còn là quê mình - nên đành hy sinh đi làm phu đồn điền cho Tây, nếu không may thì làm phân bón cây cao su, còn may ra thì lại có phen áo gấm về làng. Có thể khi xuống tầu há mồm vào Nam, giấc mơ của chú bé di cư vẫn chỉ là giấc mơ cũ kỹ đó. Giấc mơ của một Nguyễn Hoàng về một Hoành Sơn nhất khoảnh, hay khiêm tốn hơn, một tương lai bên ngoài lũy tre làng.

Khi còn ở Trại Cấm, nhân có một cán bộ Cộng Sản thất sủng, bị anh em đồng chí tính cho đi mò tôm, nên đành phải vượt biển, và được đậu thanh lọc, rồi sau đó xẩy ra một cuộc tranh luận gay gắt giữa một số người. Người cán bộ đã nói thẳng ra một điều: tại sao các anh không giải phóng chúng tôi, tại sao các anh tạo ra tình cảnh cả nước phải đi ăn mày tình thương của toàn thể nhân loại... Khi lấy được Miền Nam, có thể giấc mơ muôn đời của Miền Bắc đã được thực hiện: Giải phóng cho chính mình, rồi sau đó, cho cả nước. Đối với lịch sử, Miền Nam chỉ có công: Thất trận.

Qua đây, đọc những nhà văn hải ngoại, tôi nhận thấy chỉ có dòng văn chương chứa đựng tư tưởng "miệt vườn" là không bị cuộc chiến làm xấu đi, huỷ hoại, hoặc tiêu diệt. Như là một đối trọng với gánh nặng hội nhập.

Ở trong nước, dòng văn chương hiện thực tiền chiến, ở những tác giả như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Tô Hoài... đã đầu tư hết mọi ước mơ, hoài vọng và năng lực cho những ngày đầu cách mạng, đã hy sinh hết cho Đảng, dù có phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn, đã bị kiểm thảo, học tập nghị quyết, học tập cách ngồi, cách suy tư, cách đi thực tế, cách viết dưới ánh sáng của Đảng... cuối cùng nhường chỗ cho dòng văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa, chết bất đắc kỳ tử ngay những ngày đầu chiến thắng Miền Nam.

Độc giả trong nước bây giờ đổ xô tìm đọc những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh... là cũng nằm trong ý nghĩa đó: Tha hóa không phải chỉ ở đây, vào lúc này. Chất nghĩa khí, cõi công bằng, tình bà con lối xóm... vốn đầy rẫy trong những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh là những hình bóng cũ mà người dân hai miền đang trân trọng. 

Nguyễn Quốc Trụ
*

Có một dạo, “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư gây xôn xao dư luận. Nhà văn nhận xét thế nào về quyển sách này và về tác giả?
- Cô Tư viết hay nhưng hỗn. Văn phong của cổ hơi cà rỡn. Cái nhìn trong “Cánh đồng bất tận” không rộng, nông dân ở đó không nhìn hẹp như thế mà mỗi cái họ đều có lý của họ. Ngọc Tư thông minh, sẽ còn phát triển nữa nhưng cần người chỉ dẫn sau vụ lùm xùm về “Cánh đồng bất tận”.
Sơn
Nam

Hỗn

Anh già khôn tổ cha, thời nào cũng sống được, làm sao dám lặn sâu xuống dưới để mà đau nỗi đau của Miền Nam? NQT

“Thời nào cũng sống được”, là báo trong nước xưng tụng SN, ‘nhà văn của nhiều thời,’ không phải của GNV.
Cũng báo trong nước cho biết SN đã có ở trại tù Phú L
i, đúng lúc xẩy ra cú đầu độc tù, do Diệm chủ mưu, nhưng không cho biết, làm sao SN sống sót cú đó?


Diễn Văn Nobel 2010


Đêm giữa ban ngày

Sự thực, chẳng có một ông Mai Thảo / Nguyễn Đăng Quý nào được CIA tuyển dụng. chọn trước. “Cài, cấy.” Sự thực, cũng chẳng có một ông Duy Thanh nào vì tế nhị phải “chối từ” thân thế.

Sự thực, đôi khi đơn giản tới mức độ gây “buồn lòng” cho những người thích thêu dệt, với óc trinh thám, tiểu thuyết.

Sự thực chỉ là: Nếu không có người mẫu Trúc Liên, không có “Thiếu nữ từ tranh bước ra” thì, chưa chắc đã có Graham Tuckers. Mà, không Graham Tuckers, phải hiểu, đồng nghĩa với việc không có Sáng Tạo!

DTL.com

GNV cũng không tin là, Mai Thảo, khi nhận tiền của me -xừ Tuckers, biết, tiền của Xịa!

Bởi vì ngay Koestler, khi nhận tiền của Mẽo dựng lên cái gọi là Hội nghị vì Tự do văn hóa, cũng không biết, đó là tiền của Xịa, như trong cuốn tiểu sử K, của Michael Scammell, cho biết.
K nghĩ tiền của Bộ Ngoại Giao hay [Chương Trình] Marshall Fund. Và theo ông, không đủ chi xài, vì vậy, ông kêu gọi những nhà văn góp vốn thêm!

Làm gì có chuyện MT là nhân viên của Xịa, chuyện "cài cấy", và, sự thực cũng đâu có đơn giản như DTL ngây thơ viết.
Sự thực, là, tiền của Mẽo, và Mẽo ở đây, là Xịa!

Tuy nhiên, đọc những 'phát giác' của DTL, thì chúng ta lại nhớ tới Graham Greene: Ông nhà văn này cũng gặp một tay “Tuckers” tương tự, trên chuyến đi từ Bến Tre về Sài Gòn, trên chiếc du thuyền của Hùm Xám Bến Tre, Le Roy, và tay này kể cho ông nghe, về mission của hắn ta, tìm 1 tay Mít, thuộc lực lượng thứ ba, để đưa… tiền, làm…  chiến tranh, không phải làm báo như MT!

DTL vs GNV

Hội Nghị Tự Do Văn Hoá, The Congress for Cultural Freedom, do Koestler thành lập, được tờ L’Observateur của Tây gọi là KKK: Koestler’s Kultur Kongress. Và ông cũng được CIA tuyển mộ, và ăn lương hàng tháng, on the payroll of the CIA, như… MT, đối với đám VC quốc tế!

Thanh Xuân

*

Gấu có lần ngồi ăn phở với đấng bạn quí NXH tại Tiểu Sài Gòn.
Khi đó bạn quí dọn lên San Jose rồi, nghe tin Gấu qua, bèn xuống thăm, hoặc, nhân xuống thăm Tiểu Sài Gòn, nghe Gấu qua, bèn gặp.
Cùng lèm bèm về thơ DTL.
Gấu có phán: Bạn DTL có rất nhiều đòn.
Nếu ra đòn, ‘anh yêu em’ không ăn, thì đánh vào "người chị, người mẹ, cô em gái, hay bậc nữ thánh, nữ bồ tát chuyên cứu vớt kể lầm lạc", ở nơi người phụ nữ, là thế nào cũng gục!
Bạn quí phì cười, gật gù: Đúng, đúng quá!
*
Hồi mới ra trường Bưu Điện, 1960 hay 61, Gấu làm việc tại Ty Trung Ương Cơ Xưởng Vô Tuyến Điện, số 11 Phan Đình Phùng. Từ phía cổng cơ xuởng trông ra là con đường Phạm Đăng Hưng. Bên phải, building số 5, của đám Tây ở. Bưu Điện mướn tầng trên cùng, đặt mấy đài VTĐ. Quá nữa, là số 3, Đài phát thanh Sài Gòn. Ra trường Bưu Điện, Gấu làm việc tại Cơ Xuởng số 11. Hai năm sau, qua số 5 làm việc tại Đài Liên Lạc VTĐ thoại quốc tế. Đó là nơi viết Những ngày ở Sài Gòn, sau khi ăn hai trái claymore của VC tại nhà hàng Mỹ Cảnh. [Biết rồi khổ lắm nói mãi].

Khi đó, chưa có trường Bưu Điện. Bọn Gấu phải học nhờ nơi trường Quốc Gia Thương Mại, ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng. Nhà thờ Phan Xi Cô cũng ngay đầu đường.

Phiá bên trái cổng cơ xuởng, là khu nhà của các ông lớn Bưu Điện, đa số là sếp, và thầy của Gấu. Phía bên kia đường, là con đường Phan Kế Bính, chạy song song với Phạm Đăng Hưng, cả hai đều đụng với đường Phan Đình Phùng, làm thành hai ngã ba. Cả hai đều là hai con dốc ngắn đổ xuống đường Phan Thanh Giản. Thư viện Văn Hoá Bình Dân nằm trên đường Phan Kế Bính, quán Làng Văn nằm trong khuôn viên thư viện.

Đó là nơi cô bạn tổ chức tiệc cuới, vào một đêm Gấu trực tại Đài, cũng gần đó, đang trực, kêu đệ tử coi Đài, xách xe Honda, đi dự, nửa chừng bỏ ra về, rồi xách xe Honda cứ thế chạy miết xuống tới tận cầu Sài Gòn, tính lao luôn xuống!

Từ số 11, đi tới 1 chút, tới ngã tư Phan Đình Phùng/Đinh Tiên Hoàng, quẹo phải tới quán Con Ve Sầu, La Cigale, chủ Tây, vừa là nhà hàng ăn, vừa có sàn nhẩy, lâu lâu, Gấu có ghé, đôi khi, những lần trực đêm.
Khu này là giang sơn của Gấu, Gấu Đa Kao, thì cứ gọi vậy cho tiện.

Ui chao, chỉ đến khi ra được hải ngoại, một bữa tình cờ đọc hai câu thơ của DTL:

Em đi áo lụa mềm lưng phố,
Có động lòng thương kẻ cuối đường

Toàn cảnh trên đột nhiên sống lại, rõ mồn một.
Khủng khiếp đến nỗi, Gấu có cảm tưởng, hai câu thơ, là từ con dốc ngắn bò ra!

Bà hoàng hậu trong Alice lạc xứ thần tiên, có tài nhớ hai chiều, nhớ quá khứ, và nhớ cả tương lai.
Đúng là trường hợp hai câu thơ của DTL, đối với Gấu, theo nghĩa, thời gian có thể đảo ngược, reversible.
Cái bữa Gấu ‘sống cuộc biệt ly, đau nỗi đau' cô bạn đi lấy chồng đó, chỉ hoàn tất, ‘viên mãn’, chung cuộc…  khi hai câu thơ của DTL xuất hiện.

DTL chơi với bạn là số 1, chưa từng thù ghét, nói xấu bất cứ 1 tên bạn nào.

Và là 1 trong  2 người bạn, thực sự mừng, khi GNV sống lại. Anh nói, mày đúng là tái sinh, lần gặp lại ở Tiểu Sài Gòn, 1998, khi vợ chồng Gấu qua lần đầu, nhân dịp xb Lần Cuối Sài Gòn.
Người kia là thi sĩ Viên Linh.


Ghi chú trong ngày


Mémoirs
Đóa hoa hồng vùi quên trong tay

Tản Mạn về
Phê Bình Của Tôi của Nguyễn Thanh Sơn


"Why is there something instead of nothing,"
[Tại sao có cái gì đó, thay vì chẳng có gì?]
Martin Heidegger 

"Why couldn't there be nothing instead of Heidegger?"
Ralph Brave: Being Martin Heidegger 

Khốn nạn thay, làm sao tin cậy được cái thứ viết trắng?
Roland Barthes: Không độ của cách viết [Le degré zéro de l'écriture]. 

... Proposant enfin l'accomplissement de ce rêve orphéen: un écrivain sans littérature. L'écriturre blanche, celle de Camus, celle de Blanchot ou de Cayrol par exemple, ou l'écriture parlée de Queneau, c'est le dernier épisode d'une Passion de l' écriture, qui suit pas à pas le déchirement de la conscience bourgeoise.

... Sau cùng đề nghị hoàn tất giấc mộng Orphée: nhà văn không văn chương. Cách viết trắng Camus, cách viết Blanchot hay Cayrol thí dụ vậy, hay cách viết nói của Queneau, đây là hồi chót của một Đam Mê viết theo từng bước với sự rách toang của ý thức trưởng giả.

R. Barthes: Dẫn vào Không độ của cách viết.

Note: Lướt net, tình cờ vớ được, bài của chính Gấu!

Phận lưu vong


Ở hay Về?

“Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ lệ chứa chan…”
Câu thơ Quang Dũng đã nói lên một điều: Đá cũng biết đau, biết khóc trước những đoạn trường của con người. Thành ra lời Bà Huyện Thanh Quan viết khi đứng trước nỗi hoang phế tịch liêu của Thăng Long Thành, theo Nguyễn tôi nghĩ, chưa được mãn ý lắm: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt / Nước còn cau mặt với tang thương”….
NXT

Theo GNV, hai câu thơ của QD không so sánh được với của Bà Huyện Thanh Quan, ấy là vì, QD chỉ hỏi 1 em nào đó, của thi sĩ, ở xứ Đoài. Ở Bà Huyện Thanh Quan, là cảm khái của nữ thi sĩ ‘trước nỗi hoang phế…’ như NXT diễn tả.

Xứ Đoài, Sơn Tây, sở dĩ nhiều lô cốt nhất trên toàn cõi Bắc Kít, là do đất ở đây, đa phần là có đá ong, khó phá huỷ lắm. Đá ong mà trộn mật ong, rồi xây lô cốt ở ngay mặt đê, là chịu thua, đành để cho nó biến thành.. cột đồng Mã Viện!
Hà, hà!

Gấu có nhớ xứ Đoài không?

Thư tín,

Đừng lèm bèm chuyện về Hà Nội không còn nhà.
Tôi đâu có nhớ Hà Nội, mà Sài Gòn.

Tôi thì Sài Gòn không, mà Huế cũng không.
Không hiểu sao chẳng thấy nhớ gì về Việt Nam hết.

Brodsky cũng nói thế:
Cám ơn Trời cho tôi sống không quê nhà.
Thank God I was left on this earth without a homeland.

Kỷ Niệm Lô Cốt

Có câu phán, An Nam ta cái gì cũng cười.
Sau cú 30 Tháng Tư, thì GNV hiểu ra, ngầm chứa trong câu đó, là câu, An Nam ta cái đéo gì cũng... khóc, đến nỗi đá An Nam cũng bắt chước, và cũng khóc!
Khác đá xứ người, nó đếch thèm khóc, và nếu có khóc, thì cũng nuốt sạch vào trong đá, đủ thứ lệ của nhân gian, để đến lúc nào đó, nổ tung ra, thành lỗ đen, thế là cả người lẫn đá đều thoát.
Xứ Afghanistan có thứ đá này, họ gọi là "Hòn đá kiên nhẫn".
Do Thái cũng có thứ đá đó, và mỗi tên Do Thái là 1 hòn ‘lệ đá xanh, tim rũ rượi’, đến khi về Trời, tim Do Thái lạnh quá, Thượng Đế phải ủ trong lòng bàn tay của Người, cho ấm lại, và vì vậy, Người bèn vặn nhanh cái đồng hồ báo giờ tận thế, lên 1 tí!

*

Hai câu thơ của Quang Dũng, như thế, chỉ để diễn tả nỗi lòng của ông gửi về những người em gái hậu phương xứ Đoài mây trắng lắm, và phải là những người dân Sơn Tây mới cảm nhận hết cái đau, cái hay, cái đẹp của nó, đúng như PLP đã từng cảm khái.

*

Bài viết "Người Sơn Tây", trong Tuyển Tập Tạp Ghi của Lô Răng mở ra bằng một cú phôn, của một ông bạn, rằng cái "câu hát ‘Con gái Sơn Tây yếm thủng tầy giần, rốn lồi quả quýt...’, là do kẻ viết bài [ký giả LR] bịa ra. Không, tôi đâu dám thế. Khả năng hạn hẹp của tôi không đủ sức sáng tác ra một bài hát ly kỳ như vậy..."
LR

Bài hát ly kỳ đó quả có thiệt, như cá nhân người viết bài này, NQT, đã từng nghe, hồi còn nhỏ, và trong lần về lại xứ Đoài mây trắng, mới đây, sau nửa thế kỷ xa cách, tôi đã được một người bà con đọc cho nghe toàn bài, khá dài, với khá nhiều chi tiết ly kỳ, tiếc không nhớ trọn để chép lại hầu độc giả. Trong có chi tiết về đôi mắt người Sơn Tây, không "xoáy vào" vẻ đẹp dìu dịu buồn, nhưng mà là "toét nhèm, đo đỏ, mọng nước" của nó.

Lô Răng tự hỏi, "Lý do nào mà người Sơn Tây lại tự trào, tự biếm mình như thế thì cho đến bây giờ tôi vẫn chưa hiểu nổi." Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng những chi tiết về cửa sổ [đôi mắt] mở ra linh hồn của những cô gái Sơn Tây, có thể đã có một thời đúng như trên miêu tả, và là do hậu quả của "thổ ngơi" (đất đỏ) tại vùng này.

"Còn nhớ dạo ‘nín thở qua sông’ ở miền nam, tôi sống như cỏ cây trong một khu vườn ngoại thành. Thỉnh thoảng một vài người bạn đi xe đò lên thăm. Một hôm có hai ông bạn làm thơ, ông Thanh Tâm Tuyền và ông Cung Trầm Tưởng lên chơi. Chúng tôi ngồi dưới gốc chôm chôm, chuyện phiếm. Ông Cung Trầm Tưởng lai rai đọc thơ Quang Dũng, bài ‘Đôi Mắt Người Sơn Tây’: ‘Vừng trán em vương trời quê hương, Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương’. Nhà thơ tác giả ‘Tiễn Em’ vốn ngày xưa học ở bên Pháp, chợt nghiêng đầu mà hỏi; ‘Sao lại buồn Tây Phương, sao lại có beauté grecque [vẻ đẹp Hy Lạp] ở đây kìa’....
LR

Tản Mạn xung quanh Tạp Ghi của ký giả Lô Răng

Cái Dở của Tạp Ghi của ký giả Lô Răng

Khi điểm cuốn Hermit in Paris (nhà xb Jonathan Cape £16.99, pp276) của nhà văn Ý, Italo Calvino, người điểm sách của tờ Người Quan Sát (số đề ngày 9 tháng Hai, 2003, trên lưới toàn cầu), Philip Hensher đã cho rằng, cuốn sách giầu có những hồi ức này chỉ có một cái dở là tác giả của nó ít quan tâm tới chính mình.

Liệu chúng ta có thể áp dụng nhận xét này, với Tạp Ghi của Lô Răng. Tôi nghĩ là được.

Lô Răng viết bằng giọng mộc mạc pha chút lãng mạn về bạn bè, về thiên nhiên.... Người ta nói, chọn bạn mà chơi. Thành thử nói về bạn cũng là một cách nói về mình, nhưng giả dụ như có một người nào đó, đưa ra một vài chi tiết về con người của ông, ắt là cũng thú vị lắm chứ!

Nhà tôi ở dưới cầu Thị Nghè, gần Sở Thú, gần Đài Truyền Hình, Đài Mẹ Việt Nam, Đài Phát Thanh Sài Gòn, những ngày Mậu Thân trở thành "mục tiêu" của hoả tiễn vi xi. Cũng là thời gian bà xã mang bầu cháu gái lớn. Tuy những ngày quá gay cấn phải "sơ tán" tới nhà một người bà con ở Trương Minh Giảng, nhưng cái thai đã bị ảnh hưởng, cháu sinh ra tưởng bị liệt, cứ nằm hoài trong nôi, chỉ tới khi ông bố đi làm về mới mỉm cười và chịu cho bế. Đi bác sĩ Trần Xuân Ninh ở Tân Định, ông khám thật kỹ lưỡng xuơng, gân, thần kinh... Sau khi kê thuốc, ông mắng vốn: gia đình phải biết yêu thương nó! Ông đâu biết, khi nằm trong bụng mẹ, cái thai đã "nghe ra" những tiếng hoả tiễn réo xèo xèo khi bay ngang nhà. Nhờ thuốc insulin do ông Ninh kê đơn, cháu đỡ dần, nhưng phải tới 5 tuổi mới biết đi. Và cho tới khi lấy chồng, có con, vẫn còn mắc tật đái dầm!

Gần ngay chân cầu, là khu vực thuộc Tâm Lý Chiến, trong có toà soạn báo Tiền Tuyến, nằm chung một lô đất với Cục An Ninh Quân Đội, số 8 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phía sau nó là một trại gia binh. Khu này ngày trước có tên là Kho Đạn. Từ nhà tôi ghé Tiền Tuyến quá gần. Thời gian phụ trách trang Văn Học Nghệ Thuật cho Tiền Tuyến, tôi thường xuyên ghé chơi, ngoài chuyện đưa bài. Có lần vô, thấy một ông nằm ngay tòa soạn "ngơi" trên một cái ghế bố. Hỏi, có người trả lời, Lý Phật Sơn đó.

Chắc còn nhiều người nhớ tên Lý Phật Sơn, người bình Kim Dung trên tờ Tiền Tuyến ngày nào. Những lời bình nhuốm mùi "thiền", cộng thêm kiến thức sâu rộng của anh, làm say mê người đọc. Tuy là báo quân đội, nhưng thật khác hẳn tờ Quân Đội Nhân Dân của miền bắc, Tiền Tuyến là một tờ báo bán chạy, thuộc loại "top ten" trong số rất nhiều nhật báo của Sài Gòn lúc đó. Không chỉ có lời bình của Lý Phật Sơn, còn tạp ghi của Lô Răng, còn truyện fơi ơ tông của Thanh Tâm Tuyền, truyện trinh thám phóng tác của Hoàng Hải Thủy, và nhứt là, còn truyện dài Bà Phi gây sôi nổi trong giới văn nhân, cả dân sự lẫn "quân quyền", của Thảo Trường... Trong Tạp Ghi, Lô Răng cũng đã thổ lộ, sức ép ở trên xuống tờ Tiền Tuyến, và cá nhân ông, vì truyện Bà Phi, nhưng không vì thế mà ông yêu cầu tác giả tự kiểm duyệt, hay chính mình ra lệnh đục bỏ những đoạn gây rắc rối. Thảo Trường chắc chắn phải cảm được cái sự tri âm tri kỷ đó.

Nhưng Lý Phật Sơn là một tay trốn lính. Đó mới là cái sự lạ, phân biệt hai cách đối xử thật cách biệt giữa "tình người", giữa "thổ ngơi" của hai miền đất, giữa cái gọi là lý tưởng = đời sống, và lý tưởng = ý thức hệ, hay nói gọn lỏn là như thế này: lòng yêu những người có tài, của những người đã chọn nghề binh như Lô Răng, hay như Lưu Kim Cương, chẳng hạn.

Chúng ta tự hỏi, cái kho tàng, hay di sản âm nhạc của Việt Nam, sẽ mất đi, hoặc thiếu đi bao nhiêu bản nhạc của Trịnh Công Sơn, nếu anh chàng cận thị này phải cầm cây súng, thay vì cây đàn?
Với những người lính nhà nghề như Lưu Kim Cương, hay như Lô Răng, một tên lính lóng cóng như Trịnh Công Sơn, hay Lý Phật Sơn, chỉ làm bận tay, và có khi còn làm cho họ chết oan!

Nhìn rộng ra, chúng ta tự hỏi, bao nhiêu "nhân tài" đã thoát khỏi cuộc chiến, qua những chính sách như hoãn dịch vì lý do học vấn, cho đi du học những người đậu cao, cho về ngành chuyên môn những người có tay nghề. Do thổ ngơi của một miền đất, từ đó đẻ ra lòng yêu, trọng nhân tài, không phải chỉ như một chính sách, mà còn như tình người. Đó là điều mà Lô Răng không nói ra, ở trong những bài tạp ghi của ông, khi chọn ngay toà soạn Tiền Tuyến làm nơi trú ngụ cho một Lý Phật Sơn.

Bản thân tôi cũng đã được hưởng một chút "ân tình" đó. Là dân sự, nhưng lúc nào trong người cũng có một cái thẻ nhà báo, của một tờ báo nhà binh, tức tờ Tiền Tuyến, do chính chủ bút Lô Răng ký. Nhờ nó, tôi tha hồ đi quá giờ giới nghiêm.

Nhưng đi quá giờ giới nghiêm làm cái khỉ gì cơ chứ?

Số là "cô bạn" của tôi thì ở mãi bên Chợ Lớn. Tôi thường là chọn ca trực đêm, để dễ bề nói dối bà xã. Khi bớt việc, trao Đài cho một nhân viên phụ, thế là "chàng", trong túi thủ thẻ nhà báo quân đội, giấy chứng nhận hợp lệ tình trạng quân dịch, người và xe cứ thế phóng thẳng một mạch qua Chợ Lớn, ngồi cho tới khuya, ỷ y nếu có quá giờ giới nghiêm, đã có lá bùa hộ mạng, chứng nhận đây là phóng viên tiền tuyến của báo quân đội, đang đi công tác!

Ôi, làm sao quên được cảm giác, khi về, vắng tanh, phóng xe như điên trên đường phố Sài Gòn, mà hồn của mình thì vẫn luẩn quẩn ở một con hẻm ở đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn, nơi có căn nhà, có "giàn thiên lý, có người tôi thương"!...


Trang Kundera

La mémoire de Prague: Hồi ức Prague

Pour Kundera, «Kafka est le prophète d'un monde sans mémoire» et Gustáv Husák, septième président de son pays, est le «président de l'oubli». Pour lutter contre l'oubli, les Tchèques ont trouvé la meilleure solution: écrire. Ils furent aussi les premiers à élire un écrivain, Václav Havel, comme président.


Khi Đỏ là Đen