*

Tác Giả Nước Ngoài















*
*

KAFKA IN PRAGUE, Summer 1996
by Peter Haigh

Zlata ulicka, Golden Lane, in the Hradcany Castle high above Prague. As good a place as any to start a search for Kafka, who lived here in the winter of 1916, lodging with his sister and writing short stories. It's an apparent blind alley, hidden among the castle complex, and jammed with tourists. Amid a babel of comprehended languages, each person videos, photographs and records the others; the international leisure-time action of mutual surveillance. Surely Kafka is here. A few people stop at the doorway of number 22, its windows full of books and trinkets, no longer a dwelling, now merely a premises like all the houses in the row. They stand their ground, a little tribute, against the flowing, jostling crowd around them. But Kafka rubs shoulders with strange company in this row of miniature dwellings. There are alchemists and charlatans, Imperial bodyguards and those goldsmiths who gave their name to these dolly-houses in dolly mixture colors. Such a little man, Kafka is elbowed into the corner of doorway 22 by this loud, flamboyant crowd. He has left one trace here, a little photo pressed against the window, but like Klamm, Kafka was here and now he's gone.
Out through the castle courtyards and into the narrow labyrinth of the Mala Strana, glad to be pulled down towards the river and not climbing up. Even in mid summer, it's easy to picture these lanes and alleys, clinging to the castle rock, deep under falling snow. They were always too steep for exhausted land surveyors and can still mock many a tourist. Here, K is everywhere; K, but not Kafka.
Over Charles Bridge to the busy tourist shops and stalls in and around Karlova, Kafka's face is everywhere. He looks out from mugs and posters, key rings and ash trays. From 1968 to 1990, Kafka's work was unpublished in Czechoslovakia. Now his image is a commodity to be marketed to tourists from across the world. It's a symbol proclaiming kinship. Its an identity card. Every other tee-shirt on the rack has the same face across it; the same large dark eyes, the narrow jaw, a high stiff collar, neck tie, the formal business suit. Here, you'll find Kafka on a tee-shirt but never in one.
Staromestska namesti, the old town square, the traditional heart of the city. It was in and around this area that Kafka spent his formative years and today the square strenuously tries to claim him. On one the corner is the Goltz-Kinsky Palace, where, on the third floor Kafka attended the strict German Gymnasium. His father owned shops in and around this square, putting up the sign of a crow, a pun on the family name. By the old town hall is the Renaissance Dum U minuty where Kafka lived with his mother and father for seven years after they moved out of Josephov in 1889. These beautiful buildings capture little of Kafka except perhaps that sense of withholding, their baroque facades concealing much, much older buildings. The squalid, oppressive architecture of the novels comes directly from Josephov, that legendary nightmarish ghetto just to the north of the square. A foul coagulation of choked alleys and airless hovels, this is where Kafka was born and he carried the place in his head for the rest of his life. A place of violence, corruption, suspicion and pogrom, but we find more of Josephov in Kafka's head than of Kafka in Josephov. Before Kafka was in his teens, the old Josephov was gone, swept away in a burst of urban renewal leaving behind only the synagogues and the cemetery among the quiet five story apartment buildings. A place to rest and reflect before one last attempt to find Kafka, back to where he began.
If the old town square fails to hold onto Kafka, Josephov at least has his head. On the corner of Maislova and Kaprova was the Battalion schnapps bar, more famous in its time in Prague than Kafka was in his. It was above this bar, on the 3rd July 1883, that Kafka was born. The original building long since demolished, a head now sits in the wall of its replacement. Long-headed, sightless and bronze-faced, this is not the anxious, questioning feverish Kafka. This is our Kafka, Kafka the idol, accepting homage and offering nothing. Kafka of the empty, hollow head.
His body lies in the New Jewish Cemetery in Zizkov along with his mother and father. The cemetery is over half empty, the generation that was expected to fill it were transported to the death camps in the 1940's, among them Kafka's three sisters. A bleak place, I didn’t go. 

So is Kafka to be found in Prague? Yes, in this beautiful, haunting, elusive city you will catch glimpses of him everywhere but you will only meet him full-face in the texts. You won't find the key to Kafka by visiting Prague any more than you need to explore Dublin to unlock Joyce's Ulysses. But should you walk the streets and squares and alleys of the city you will find, after you leave, that you understand a little more of what Kafka meant when he wrote, "Prague never lets you go... this dear little mother has sharp claws."

Note: Một bài thần sầu về Kafka, và Prague của ông:
Thân xác của ông thì nằm ở nghĩa địa Tân Do Thái ở Zirkov cùng với ông via bà via. Quá nửa nghĩa địa trống không, cái thế hệ đúng ra sẽ làm đầy nó, thì đều vô trại tử thần, vào thập niên 1940, trong có mấy bà chị/cô em của ông.
U ám quá, tớ đếch dám tới
Vậy là không thể kiếm thấy K, ở P? Làm sao không?....




Vậy là tôi mong một trong hai điều.
Hoặc tiếp tục im lặng, và điều này có nghĩa: “Don't worry, I'm fine".
Hai là, 1 vài hàng.
Kafka

Luc nao ranh, thi tra loi:
I am OK, don't worry abt me
Or something like that
Plse
GNV

Ai điếu Franz Kafka.
 Milena Jesenka

Dr Franz Kafka, một nhà văn viết bằng tiếng Đức, sống ở Prague, và chết ngày hôm kia, ở Viện điều dưỡng Kierling, gần Klosterneuburg bei Wien. Ở đây ít người biết ông, bởi vì ông là một người sống ẩn dật, một hiền nhân luôn mang nỗi sợ cuộc đời. Trong nhiều năm, ông đau khổ với căn bệnh phổi, và tuy loay hoay tìm cách chữa trị, ông lại như muốn nuôi căn bệnh đó, cưu mang nó trong tư tưởng của ông. Có lần ông viết trong một lá thư: khi trái tim và linh hồn không thể chịu đựng nó được nữa, buồng phổi sẽ chịu giùm nửa gánh nặng, như vậy là nó được chia khá đồng đều - căn bệnh của ông là vậy. Nó cho ông một sự dịu dàng kỳ diệu, và một sự tinh khiết trí thức không đắn đo, câu thúc. Tuy nhiên, chỉ riêng về mặt hình hài thể chất, Franz Kafka dồn lên hai vai của căn bệnh, toàn thể nỗi kinh hãi cuộc đời. Ông là một người cả thẹn, luôn khắc khoải, nhẫn nại, dịu dàng, tuy những cuốn sách ông viết ra thì thật ghê sợ, và đau đớn. Ông đã nhìn thế giới như đầy những quỷ dữ vô hình, vò xé, và tiêu huỷ những con người vô phương chống đỡ. Ông quá tiên tri, quá thông minh để có thể sống, và quá yếu ớt, để chiến đấu. Ông yếu ớt như những con người cao đẹp yếu ớt, những con người không thể chiến đấu chống lại nỗi sợ bị ngộ nhận, chống lại trò ma muội, hay tính toán chi ly, bởi vì họ thừa nhận ngay từ đầu, cái điều của riêng họ, đó là đừng mong chi một sự trợ giúp; sự nhẫn nhục cam chịu này chỉ làm cho kẻ thắng thế hổ thẹn. Ông hiểu thế nhân, một sự hiểu biết mà chỉ một ai cao cả, có một sự mẫn cảm hoài hoài mới có thể có được. Chỉ một ai cô đơn. Chỉ một ai, trong một thoáng nhận ra kẻ khác, hầu như một nhà tiên tri. Sự hiểu biết thế giới của ông thật phi thường, và sâu thẳm; chính ông là một thế giới phi thường và sâu thẳm. Ông đã viết những cuốn sách có ý nghĩa nhất của nền văn chương Đức hiện đại, những cuốn sách cưu mang trong nó sự chiến đấu của thế hệ hôm nay xuyên suốt thế giới - trong khi kìm giữ mọi thiên vi. Chúng thực, trần trụi, và đau thương nên hết đỗi tự nhiên ngay cả khi có tính biểu tượng. Chúng đầy sự khinh miệt khô cằn và là cảm quan của một người nhìn thế giới một cách rõ ràng đến không thể chịu đựng được nó, một người mà nỗi chết không rời, kể từ khi người đó chối từ mọi bon chen hay tìm nơi ẩn trú, như những người khác thường làm, trong những ảo tưởng này nọ, của lý trí, hay của vô thức - kể luôn cả những con người cao cả. Dr Franz Kafka đã viết "The Stoker", chương thứ nhất của một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời, vẫn chưa được xuất bản (đã xuất hiện bằng tiếng Czech trên Neumann's Cerven (1); "the Judgment", sự xung đột của hai thế hệ; "The Metamorphisis", cuốn sách mãnh liệt nhất của văn chương Đức hiện đại; "In the Penal Colony"; và những tuyển tập Meditation và A Country Doctor. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng (2), Before the Law, còn trong dạng bản thảo, sẵn sàng để in ấn, từ nhiều năm. Nó là một trong những cuốn sách, một khi đọc, cho (ta) cảm nghĩ về một thế giới được miêu tả hoàn hảo đến nỗi mọi phê phán sau đó đều chỉ là phù phiếm. Tất cả những cuốn sách của ông vẽ nên sự ghê rợn của những ngộ nhận thầm kín, của niềm ngây thơ tội lỗi giữa những con người. Ông là một nghệ sĩ và là một người với một lương tâm khắc khoải, đến nỗi ông có thể nghe, trong khi những người khác, điếc, cảm thấy, chính họ đang yên ổn.

 (Národni Listy, June 6, 1924)

 (1)  Milena muốn nói tới tuần báo Kmen, cũng của S. K. Neuman.

(2)  Đây là muốn nói tới cuốn Vụ Án, Milena chỉ biết có truyện ngắn "Before the Law". Bà cũng không biết cuốn tiểu thuyết chót của Kafka, Lâu Đài. (Ghi chú của nhà xb Kafka Library).


Một giấc mơ
Milena Jesenska

"Bất cứ nơi nào - ra khỏi thế giới."

Tôi hoàn toàn xa cách quê hương của tôi - ở Mỹ? ở Trung Hoa? - một nơi nào bờ bên kia của thế giới, khi cuộc chiến, hay một trận dịch bùng ra suốt địa cầu, hay có lẽ đó là một cơn hồng thuỷ. Tôi đã không nghe bất kỳ một chi tiết nào về thảm họa. Nhưng tôi bị xô giạt bởi một cơn hối hả khùng điên - nôn nóng, và kích động. Tôi không biết nơi mà chúng tôi trôi giạt tới. Tôi cũng không hỏi tại sao. Những đoàn tầu, chuyến nọ tới chuyến kia, không biết đến khi nào là tận cùng, cứ thế ra khỏi ga, lao vào thế giới. Chuyến nào cũng đầy ứ người. Sự hoảng loạn túm chặt đám nhân viên hỏa xa; không người nào muốn là kẻ cuối cùng bị bỏ lại. Mọi người giành giựt chỗ ngồi như giành giựt mạng sống của họ. Những người là người chen chúc giữa tôi và nhà ga, không một khe hở để mà lọt tới. Tôi thật tuyệt vọng.
"Tôi còn trẻ, tôi không thể chết," Tôi gào lớn.
Nhưng cũng có những người còn trẻ đứng phía trước. Và vé tầu đều đã bán sạch. Chuyến tầu sắp rời là chuyến chót. Ánh đèn ga, xanh xanh, đỏ đỏ, lập lòe trong ánh sáng ban ngày, như dấu báo của tai ương. Không còn sự cứu rỗi.
Một người nào đó chạm vai tôi. Khi tôi quay lại, một người đàn ông mà tôi không quen giúi vào tay tôi một miếng giấy nhỏ và nói: "Cái này sẽ cho bạn đi bất cứ nơi nào trên thế giới. Bạn có thể qua biên giới, và bạn sẽ nhận được một vé tầu. Đừng sợ, và hãy can đảm lên. Thôi đi đi, tới giờ cao điểm rồi."
Mặc dù không thể nhớ đã từng gặp khuôn mặt ở đâu, nhưng tôi biết đây là một mối quen xưa, và là một người bạn tốt. Có thể anh ta là bạn tôi và tôi đã không biết anh ta. Tôi cảm thấy không tin cậy, không biết ơn, và cũng chẳng hề hy vọng. Nhưng tôi vâng theo, như một người chẳng còn một chọn lựa nào khác. Tôi không lo sợ. Sự tình như thể tôi vẫn hằng mong một điều khủng khiếp xẩy ra, và tôi nhẹ nhàng thở hắt bởi vì sau cùng chuyện đó đã tới.
Tôi chen lấn kiếm đường qua đám đông, và điều xẩy ra đối với tôi, đó là, tự cứu bản thân trước muôn ngàn người đang đứng ngó, đúng là một việc làm tởm lợm. Một giọng nói ma mãnh cất lên đâu đó trong tôi:
"Vậy là anh thực sự hy vọng anh có thể cứu lấy anh?"
"A, thì vậy đó, biết đâu, có thể," Tôi nghĩ.
Và giọng nói:"Nếu một người nào đó có thể được cứu thoát, người đó có đáng tởm không?"
"Không, không, không, không," Tôi tự chống đỡ.
Thảm họa bắt đầu khi con tầu chuyển bánh. Đất lún thành vực, và thế giới tự biến thành một mạng đường hỏa xa, người người cứ thế chạy dọc theo, những con người đã mất quê hương, xứ sở của họ. Đường ray nằm trên biển, và những con tầu điên khùng lao tới. Cuối cùng chúng ngừng tại biên giới.
"Tất cả ra ngoài để kiểm tra," người lái tầu rú lên.
Đám đông đổ tới trạm hải quan; tôi một mình đứng trơ ra một bên, không thông hành, không hành lý. Tay tôi nắm chặt miếng giấy. Những cơn run rẩy chạy dọc xuống sống lưng. Một viên chức tới gần tôi và hỏi giấy tờ. Những giây phút trở thành thiên thu. Tôi mở miếng giấy. Viên chức, như hết còn kiên nhẫn, đứng sang bên, tay đưa ra, mong đợi. Ông có vẻ quyết định không để tôi qua. Tôi đưa mắt nhìn mẩu giấy. Đó, bằng hai chục ngôn ngữ, là những chữ: "Bị kết án tử hình."
Trán tôi vã ra mồ hôi lạnh. Tim tôi ngừng đập. Nỗi ghê sợ, đau thương, hoảng loạn ôm tròn lấy ngực tôi. Cơn kinh hoàng chết chóc bóp nghẹt cổ họng. Và với một chút hy vọng le lói, trong lúc nằm chết, bằng tàn hơi, tôi nói với người viên chức:
"Có lẽ đó đúng là một mật ngữ, để cho tôi được dễ dàng hơn, tới bờ bên kia thế giới?"
[A.X. Nessey, Tribuna, June 14, 1921]


Sắp phát hành 300 bức thư tình của Trịnh Công Sơn

Note: ‘Bỗng dưng muốn khóc’, và bỗng nhớ đến những bức thư của Kafka gửi cho Milena!

*

Con Tim Mù Lòa

Sự khác biệt giữa hai từ oanh kích và pháo kích còn là đề tài trọng tâm, của nhà văn Đức W.G. Sebald, trong cuốn “Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt”, xb sau khi ông mất vì tai nạn xe hơi, khi ông tự hỏi, tại sao văn chương Đức lại vờ đi một đề tài quan trọng như thế: Những cuộc "oanh kích” của quân đội Đồng Minh huỷ diệt những thành phố Đức?

Và ông tự trả lời, người Đức vốn có thói quen không phô ra những vết thương, những tủi nhục có tính cách riêng tư, trong gia đình.
Nếu như thế, người Việt chúng ta, nhất là người dân Miền Nam, cũng có thói quen không phô ra những tủi nhục, khi họ bị người anh em Miền Bắc cho ăn “pháo kích”, như một cách nhắc nhở, chào mừng những ngày lễ lớn của dân tộc: Ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, Sinh Nhật Bác…
Nếu có chăng, thì là chút lòng ưu tư của "Tướng Givral", khi ông mủi lòng trước những cái chết của thường dân, và có thể, run sợ về một cái chết của chính ông ta, bởi vì những trái rốc kết vốn vô tình, và mù loà, cho nên ông bèn ra lệnh cho ngưng pháo kích.
Đêm nay ngưng pháo kích!
Ôi chao Gấu lại nhớ đến Bác, và nỗi lòng của nhân dân Mít, khi biết Bác không ngủ, lo lắng cho Bác, và dặn dò Bác, ngày mai nhớ ngủ bù nghe Bác, nếu không, không ngủ mãi, là trở thành điên, thành khùng!
Đêm nay Bác không ngủ
Ngài mai Bác ngủ bù!
Hậu quả của những vụ pháo kích, nếu có chăng, chỉ là chứng đái dầm của một cô gái, [cô gái lớn của Gấu], ngay khi còn là một thai nhi nằm trong bụng mẹ đã phân biệt ra được tiếng réo của những trái pháo khi bay qua, và sau này, ngay cả khi đã thành lập gia đình, vẫn còn mắc chứng đái dầm.

*
Nhân nhắc tới PXA.

Cái tít Tên Điệp Viên Tuyệt Hảo, của một cuốn sách mới ra lò, ở Mẽo, về PXA, thực sự ra, là từ The Perfect Spy của John Le Carré.
Độc giả nào đã đọc qua cuốn trên, thì chắc là hiểu ra cái ý nghĩa xỏ lá của nó. Tay điệp viên tuyệt hảo của Le Carré, suốt đời thù ông bố của mình, [là Anh Quốc, chúng ta có thể hiểu ngầm], vì ông này đã đẩy con vô cái nghề khốn nạn đó [ngoài đời, ông bố Le Carré còn là một tên lừa đảo, có lần mượn cả tên con để lường gạt người quen. Trên tờ Người Nữu Ước, Le Carré có viết về chuyện này, nếu Gấu nhớ không lầm].
Gấu sợ rằng, tay tác giả cuốn sách mới ra lò về PXA, cũng muốn nói thay cho nhân vật của mình, cái ý nghĩ thầm kín đó chăng?
Nên nhớ PXA cũng là một thứ Bắc Kỳ di cư như Gấu, và biết đâu, ông cũng đau nỗi đau Yankee mũi tẹt thèm thuồng thiên đàng Miền Nam, như Gấu?
*
Gần gụi nhất, thì có từ "cứt" của NHT. Từ này, chỉ mấy ông nhà văn trong nước mới hiểu trọn vẹn "ý nghĩa" của nó. [Gấu tính dùng từ "mùi vị", nhưng thấy đểu quá, giống NHT quá, sợ bị gán tội "đạo từ"].
Thảm nhất là, khi NHT văng nó vào trong văn chương, ông quên không chỉ cách giăng lưới bẫy cứt, thế là nó cứ ở mãi trong văn chương trong nước, chờ cho đến khi nào có một nhà văn khác, tìm được một 'thế thân" cho nó, thì nó mới hết nghiệp và tơ lơ mơ ngủ trở lại.
*
Graham Greene còn viết về Bloy, trong cuốn The Lost Childhood  [tập tiểu luận]. Chê cũng dữ, mà khen cũng thú.
Bài viết Man Made Angry [Tại sao Gấu cay đắng như thế]  mở ra thật dữ dằn:
Thật mất thì giờ chỉ trích thằng cha Gấu, nhà văn, mày có biết tiếng Tây không đấy? Thằng chả chỉ lo có mỗi một chuyện là tự vẽ vời ra mình, từ nỗi cay đắng, là một thằng Yankee mũi tẹt, bỏ chạy cái ao làng xứ Đoài mây trắng lắm, từ thù hận và tủi nhục...

Nhưng Bloy, đích thị xừ luỷ, viết về mình, mới phách lối làm sao:
I am forty-three years old, and I have published some literary works of considerable importance. Even my enemies can see that I am a great artist. Also, I have suffered much for the truth, whereas I could have prostituted my pen, like so many others, and lived on the fat of the land. I have had plenty of opportunities, but I have not chosen to betray justice and I have preferred misery, obscurity and indescribable agony. It is obvious that these things ought to merit respect.

Tớ [Gấu] cũng sắp xuống  lỗ rồi. Cũng có tí tác phẩm, khá bảnh, phải nói, thật bảnh. [Thí dụ, Những Ngày Ở Sài Gòn, Lần Cuối Sài Gòn ?]. Ngay cả mấy cái thằng thù tớ [Gấu] đến phát điên lên, cũng phải úp mặt vô tường [chữ của ông con NĐT], lẩm bẩm, đúng, đúng, Gấu là một nghệ sĩ nhớn!

Thật mất thì giờ chỉ trích thằng cha Gấu, nhà văn, mày có biết tiếng Tây không đấy? Thằng chả chỉ lo có mỗi một chuyện là tự vẽ vời ra mình, từ nỗi cay đắng, là một thằng Yankee mũi tẹt, bỏ chạy cái ao làng xứ Đoài mây trắng lắm, từ thù hận và tủi nhục...

NKTV

Cuộc tình giữa Kafka và Milena là cũng chỉ qua thư từ, như TCS, chắc hẳn, mặc dù cả hai cũng đã trải qua những giờ phút thân mật, nhưng xem ra chẳng đi đến đâu, như 1 tay mũi lõ viết, đại khái như GNV còn nhớ, kẻ nào yêu bằng đầu, thì ít khi sử dụng tới súng, cho dù còn hay không còn! [Ai mơ mộng nhiều, lỏng tay ôm!]

Bạn thân của TCS, hình như là HPNT chẳng đã từng kể chuyện TCS lấy vợ, một cô xẩm, tên như tên của 1 trong những người mà ông yêu, mà kết quả của cuộc tình, là bài hát thần sầu Ướt Mi, lạ một điều, cái air bài này khác hẳn tất cả những bài hát của TCS, và có vẻ như chưa từng có ai ngạc nhiên về phát giác của GNV! Và vẫn theo HPNT đúng đêm tân hôn, khi bạn bè từ giã TCS để anh "động phòng", thì, vừa đi được vài bước, đã thấy TCS hốt hoảng chạy theo, tao quên mang theo khẩu súng!

GNV thực sự không hiểu tại sao gia đình của ông, hay bất cứ ai, lại cho in những bức thư tình da diết này!

Nên nhớ, đã có lần VC tổ chức 1 cuộc thi có giải thưởng, và thai đố là: Theo bạn, súng của TCS hẳn vô dụng, chính vì thế mà bao nhiêu u uất, ông phổ vô nhạc, nên nhạc mới thê lương như thế?

Nơi em về ngày vui không em?

Nhân đọc bài trên, cùng lúc đọc cái tin thư tình TCS được công bố cho nhân loại cùng đọc [đám con cái của Milena đã từng phản đối cái việc in thư tình của mẹ chúng, nếu GNV nhớ không lầm], GNV bỗng tưởng tượng ra 1 cái đề tài, 1 anh ký giả, nhà văn làm 1 cú phỏng vấn 1 trong những người yêu của TCS, và câu chuyện chỉ xoay vào chủ đề, ‘chỉ còn cây súng nhỏ, giữa rừng sâu giết thù’!
Hà, hà!

Còn đây là hồi ký của bạn gái ngày xưa của tác giả “Bắt Trẻ Đồng Xanh”
Cuộc tình này cũng không xuông xẻ, không phải súng của Salinger không nhả đạn, nhưng cái bia vô dụng: em bị chứng co thắt âm đạo!

*

Người Quan Sát Mới, Janvier 2011

Các bức thư tình này do Trịnh Công Sơn gửi cho Dao Ánh, người trong mộng của ông từ năm 1964 đến năm 1967. Dao Ánh đã giữ gìn các trang viết dành riêng cho bà. Cả những chiếc phong bì, nhành hoa, cọng cỏ mà Trịnh Công Sơn ép vào thư, bà cũng nâng niu cẩn thận đến ngày hôm nay.

Nâng niu gìn giữ đến như thế, mà nỡ lòng nào mang ra bán ‘xôn’ [sale]

Thư Gửi Milena

Nhờ 'Người đẹp thành Prague', nhân loại có được "Thư gửi Milena". Kafka, người gửi, coi việc viết thư, là giao tiếp với quỉ thần, với những hồn ma: Khả năng dễ dãi - viết thư - đã đem huỷ diệt, điêu tàn  cho những linh hồn thế gian. Viết thư thực sự là giao tiếp (intercourse, còn có nghĩa là làm tình) với những hồn ma, không chỉ những hồn ma của người nhận, mà luôn cả của chính mình...

Bóng ma của riêng Kafka vẫn ám ảnh những lá thư gửi Milena. Trong đó, ông tự bộc lộ, lột trần, 'Không ai khác, ngoài tôi ra, có thể nói cho em biết sự thực... sự thực của cả hai, của riêng tôi, và của em; tôi khám phá sự thực của riêng tôi, qua em.'

Cô gái trưởng giả nổi tiếng ngay từ khi còn trẻ thơ, do phá phách, nổi loạn. Để chống lại ông bố quyền uy, cô sống một cuộc đời buông thả, làm bạn với những tư tưởng xã hội. Lấy chồng vào năm 1918, hai vợ chồng định cư tại Vienne, tới 1924. Ở đó, vẫn tiếp tục cuộc sống phóng túng. Trong số những tình nhân, có tiểu thuyết gia Hermann Broch. Đầu năm 1920, bị cú sốc sau khi đọc những câu chuyện kể (récits) của Kafka, bà dịch chúng, và viết thư cho tác giả. Rồi những lần hẹn hò ở Prague, trong một tiệm cà phê, chắc là tiệm Arco. Hai người thư từ cho nhau từ đó. Từ văn chương, qua chuyện tình cảm. Nàng 23, chàng 37. Nàng ở Vienne, chàng ở Prague. Tuởng tượng, rồi lại tưởng tượng, cả hai bên. Nhất là Kafka. Người nữ Tiệp phiêu lưu với cặp má hồng, đầy nhựa sống, và niềm vui, và chàng Do-thái xanh tái, khổ hạnh; đôi tình nhân kỳ lạ, Mary Hockaday, nữ ký giả người Anh, tác giả cuốn Milena de Prague (bản tiếng Pháp, nhà xb Calmann-Lévy, 1997), viết. Họ chỉ thực sự là của nhau, trong bốn ngày, tại thủ đô nước Áo, vào tháng Bẩy, 1920. Nàng khuyên chàng tới sống gần nàng. Chàng nghe theo, nhưng liên hệ giữa hai người chỉ qua thư từ. Bất hạnh thay, những lá thư của Milena không còn. Trong căn phòng tại khách sạn Vienne, họ nằm chung giường, nhưng không làm tình. Nói một cách khác: Chàng đã không thể chiếm đoạt thân thể nàng, một cách trọn vẹn. Ai mơ mộng nhiều, lỏng tay ôm! Tới tháng Chín, 1920, dứt liên lạc. Ngọn lửa sống động (le feu vivant)  của đời tôi, Kafka viết cho Max Brod, về Milena.
Sau khi Kafka mất ít lâu, Milena cùng với chồng rời Vienne. Họ trở lại Prague sau những chuyến đi thăm bạn bè. Tới tháng Năm, 1925, li dị. Lấy chồng lần thứ nhì vào giữa năm 1926, và có được một bé gái (1928).  Lại li dị.  Ma tuý, bệnh, chiến đấu viên của đảng CS. Đặc biệt lo tiếp đón những di dân Đức chạy trốn Đệ Tam Reich. Cho rằng Liên Bang Xô-viết không đủ đáp ứng những đòi hỏi chống phát-xít, bà phản bội đảng CS, cho chủ nghĩa quốc tế. Gia nhập du kích, khi Đức Quốc Xã xâm lăng Tiệp. Năm 1939, bị Gestapo bắt, do một bài viết trên báo chui. Sau đó bị đầy đi trại tập trung Ravensbruck. Milena mất tại đây, vào ngày 17 tháng Năm, 1944, khi bà 48 tuổi, do bệnh tật, tuy được sự giúp đỡ của những người CS Tiệp cùng bị giam giữ.

Thư cho Milena  được xuất bản lần đầu, vào năm 1952, bởi Willy Haas, một người bạn của cả hai, người gửi và người nhận. Milena đã giao cho ông, khi người Đức chiếm đóng Prague. Tôi có nhiều lý do để thực hiện việc làm này, và tin rằng Milena không phản đối. Nhiều năm sau, con gái của Milena đã không đồng ý với nhận định của Haas, và cho rằng, cả Kafka, lẫn mẹ bà, sẽ không cho phép xuất bản những bức thư.

Nhưng nhân loại, may mắn thay, đã được đọc chúng. Hơn nữa, ngay trong bài essay, Letters of Notable People, chính Milena đã đưa ra ý tưởng, một khi mà sự hiểu biết về nghệ thuật của chúng ta chưa hoàn hảo, chúng ta cần nhiều hơn là sự khẳng định của nghệ sĩ; một khi chúng ta còn phải đặt ngón tay vào vết thương, như Thomas, chúng ta có quyền thuyết phục chính chúng ta, rằng vết thương vẫn còn đó, rằng nó thì sâu hoắm.

Em nghĩ sao? Liệu tôi vẫn có thư, bữa Chủ nhật? Có thể, phải không? Nhưng đam mê thư thật vô nghĩa. Liệu một cái, là đủ, liệu một cái, là hiểu đủ? Lẽ dĩ nhiên là vậy, tuy nhiên, tôi đang ngả đầu ra phía sau, uống từng lá thư, từng con chữ, chỉ quan tâm một điều, rằng tôi không muốn ngừng uống. Hãy giải thích điều đó đi, cô giáo Milena!

Mong ước độc nhất của tôi, là đặt đầu mình trên lòng em, cảm thấy tay em trên đầu mình, và cứ ở như vậy, cho trọn thiên thu.

 

Tình Yêu như Trái Phá

Sắp phát hành 300 bức thư tình của Trịnh Công Sơn

Note: ‘Bỗng dưng muốn khóc’, và bỗng nhớ đến những bức thư của Kafka gửi cho Milena!

*

LTH:  Nói về Trịnh Công Sơn, một đỉnh điểm điển hình cho một công dân sáng tác đóng góp vào việc làm mất Miền Nam vào tay Miền Bắc. Tôi nghe một cuộc phỏng vấn trên một đài truyền hình trên net, bà Đặng Tuyết Mai vợ phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ kể lại bà cho mời ông Trịnh Công Sơn vào  hát nhạc tình ca và bắt tay với nhau khen nhau này nọ trong dinh thự ông Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ. Rồi chính ông Trịnh Công Sơn ra ngoài làm nhạc Phản Chiến nhiều hơn ai hết. Thời ấy mấy ai dám làm nhạc Phản Chiến đĩnh đạc và được sống sốt như ông Trịnh Cộng Sơn. Phản Chiến là phong trào Quốc Tế. Tôi nghe nói có lúc chính quyền Miền Nam đòi bắt ông Trịnh Công Sơn, nhưng Người Mỹ không cho. Rồi tôi lại nghe ông Trịnh Công Sơn theo VC với những người thân và bạn thân của Nhóm Huế của ổng theo fò VC  tối đa, đến độ VC về Sài Gòn năm 1975 là Trịnh Công Sơn nhào ra hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên Đài Phát Thanh Sài Gòn. Tôi cũng mê nhạc Trịnh Công Sơn, mê chết đi được. Nhưng thú thật, ở một cương vị cá nhân bị mất mát quá nhiều vì chiến tranh, tôi cũng phải nhìn lại cuộc chiến với suy tư để tự đi tìm cho mình một lời giải thích.  Tôi muốn hỏi ông một câu ông nghĩ sao về trường hợp của Trịnh Công Sơn?

HHT:  Tôi khinh anh ta.

Trích Gió –O phỏng vấn Hoàng Hải Thuỷ
 

Theo NQT tôi, nhận xét của LTH và thái độ của HHT, chỉ nói lên bề mặt của trường hợp TCS.

Với HHT, ông ở lứa tuổi không bị gọi lính, cũng đã từng sống 1 phần nào, thì cứ nói đại như vậy, cuộc đời của mình, khác hẳn với 1 người như TCS, 1 nghệ sĩ thù ghét chiến tranh, như mọi nghệ sĩ, và rất yêu cuộc đời, chưa từng biết mùi đời nó ra làm sao, vậy mà lúc nào cũng phải lo nơm nớp, mỗi khi ra đường, bị Quân Cảnh thộp cổ!
TCS chắc chắn nghiêng về phiá VC, nhưng ông không thể chọn đường lên rừng theo VC, vì ông đâu có mê cái chuyện cầm súng giết người, hay cổ võ người khác đi giết người, theo cái kiểu, đường ra trận mùa này đẹp lắm!
Còn bảo nhạc của ông phản chiến ư? Có thể nói, phản chiến là ‘yếu tính’ của cả 1 miền đất, là Miền Nam Cộng Hòa. Cả 1 miền đất nói không với cuộc chiến, chưa kể cái đám khốn kiếp nằm vùng tiếp tay cho cuộc chiến. Làm sao không mất nước?
Mất nước rồi thì đổ tội tứ lung tung, sao không thấy cái tội của chính mình ở trong đó?
Trong bài viết thật ngắn, ngay khi TCS đi xa, Gấu đã viết về cái điều cả 1 miền đất nói “Không” đó.  (1)

Phản chiến quốc tế là của quốc tế, còn phản chiến của Miền Nam, là của lòng người Miền Nam, khác hẳn thứ tâm lý ăn cướp của Miền Bắc, và, ngay cả cái tâm lý ăn cướp này nó cũng có những lý do tiềm ẩn của nó! Cái tâm lý ăn cướp của Miền Bắc còn đánh lừa được cả một đế quốc CS quốc tế, làm sao mà chúng ta không bị lừa cho được?

Cả 1 đế quốc Đỏ đứng đằng sau Miền Bắc, phục vụ ý đồ ăn cướp của Miền Bắc, ngụy trang bằng chân lý nước Việt Nam là một, bằng chiến thắng thằng Mỹ là chiến thắng của CS chống lại Tư Bản bóc lột vv và vv…

Quốc tế Đỏ chẳng đã từng khuyên, thôi tha cho thằng Mẽo, sức mạnh quân sự của nó ghê gớm lắm đấy, đừng chọc giận nó, anh VC Miền Bắc phán, việc đó để tụi em lo, đàn anh chỉ cần chi viện, đủ súng, đủ đạn, đủ hoả tiễn, là OK!

[còn lèm bèm tiếp]

(1)

…  Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc là quá nhớ bồ, cứ thế huýt sáo bài Tình Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra… Lúc này, tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của cả miền nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ, và chẳng bao giờ miền nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với miền bắc, vì họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Như cả nhân loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên đoán đến đó. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó. Tính phản chiến của nhạc của anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất.

TCS, sau 1975, bị VC đầy đọa như thế nào, thì chúng ta biết, ông "phản tỉnh" như thế nào, thì chúng ta hay, “đéo” phải là cuộc chiến giải phóng, mà là nội chiến, rồi ông “sám hối” bằng rượu, đến nỗi bị Hồ Tôn Hiến làm nhục, chúng ta cũng biết, vào gái, toàn chiêm ngưỡng gái đẹp, chiêm ngưỡng và kính trọng, contemplation et respect, tình yêu lý tưởng, amour platonique....
Chúng ta có thể “thương” ông, nhưng làm sao...  khinh ông ?

Khinh, là khinh thế nào? Ông đâu làm gì mà khinh ông? Lên Đài Phát Thanh Sài Gòn hát Nối Vòng Tay Lớn? Đó không phải là giấc mộng lớn của cả dân Mít? Nó không trở thành giấc mộng lớn, thì phải khinh, phải thù cái lũ VC khốn nạn, đánh lừa dân Mít, bằng lời hứa lèo giấc mộng
 lớn, chứ sao lại khinh người hát nó?