*





 Lan man với Vương Trí Nhàn

Nguyễn Thị Ngọc Hải thực hiện
Thứ Năm,  20/1/2011, 09:25 (GMT+7)

(TBKTSG) - Là một cây bút nghiên cứu phê bình văn học sắc sảo hay “đụng độ”, Vương Trí Nhàn gần đây quan tâm nhiều đến văn hóa, đô thị, lối sống, với cách nói thẳng băng.
TBKTSG:
Dạo này thấy ông ít viết bài cho các báo?
- Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn:
Bây giờ không theo được “nó”. Cổ rồi. Cảm thấy không làm được nữa.
TBKTSG: Vì đâu nên nỗi?
- Nếu làm báo, dẫu sao anh phải nể người ta. Bà còn lạ gì nữa. Phải tuân thủ lề luật, ông sếp cũng phải theo lề luật. Tôi phải chọn cái gì thoải mái. Viết blog. Tản mạn, tự phát, già hợp.
TBKTSG: Ông nói ngược. Trẻ nó mới mê mạng?
- Già, làm cái gì lớn khó khăn. Còn tôi suy nghĩ nó cứ tứa ra như cây dại. Tản mạn mà.
TBKTSG: Vậy ông tản mạn “tứa ra” trên những chuyện gì?
- Hai mảng, thứ nhất là nhật ký xã hội. Đọc được cái gì hay thì nghĩ. Thí dụ chuyện người ta cho nước ngoài thuê rừng với giá chỉ bằng 10 bát phở. Đọc báo Nga thấy có tự do mà không có dân chủ. Rồi những quan sát hàng ngày. Tôi rất hay chú ý các vấn đề giao thông. Tôi đi đường cũng nghĩ: sao Hà Nội lộn xộn, hoang dã (lời của một ngôi sao nước ngoài nhận xét, không phải tôi). Xe thô sơ chèn xe cơ giới. Tôi nhớ lúc nhỏ đi học người ta dạy: xe thô sơ nhường đường cho xe cơ giới. Sao bây giờ lại “khốn nạn” vậy? Ngày xưa, người đi ô tô là người quan trọng, tử tế. Nay người tử tế vẫn còn, nhưng người ăn cắp ăn cướp, trốn thuế nhiều.
TBKTSG: Thảo nào có người bảo cái tên ông Trí Nhàn nhưng không nhàn trí?
- Tôi muốn nói là bao giờ cũng có người tử tế, cũng kính trọng người tử tế. Nhưng dường như người tử tế đang ít dần đi. Tôi buồn, phản ứng tiêu cực. Có quan hệ đảo ngược với lương tri thông thường. Thầy không được trò kính. Rối quá.
TBKTSG: Đó là mảng nhật ký xã hội trong cuốn sách rất hay của ông mới ra “Những chấn thương tâm lý hiện đại”.
- Mảng hai là văn hóa-xã hội. Theo thời sự thôi. Thí dụ họa sĩ Nguyễn Quân ra sách, triển lãm hay, hai phe “Cánh đồng bất tận”… Tôi ghi lại, để dùng về sau. Không hy vọng phát hiện vấn đề lớn lao. Già rồi. Ngoài ra làm lại một số sách cũ.
TBKTSG: Người ta bảo phải đủ giàu mới ngồi nghiên cứu. Ông không phải “đi cày” nữa?
- Vẫn cày. Nhưng uể oải chậm chạp. Không phải lo kiếm sống nữa.
TBKTSG: Vậy ai nuôi để ông ngồi nghiên cứu?
- Bà xã. Có cửa hàng. Bây giờ nghĩ lại thấy Nguyễn Khải xui đúng. Lúc trẻ ông Khải bảo tôi dân viết là chọn một nghề khổ không sống bằng lương. Phải lấy đứa nào đó nuôi mày, mới theo nghề được (!)
TBKTSG: Ông định nghiên cứu gì?
- Lắm việc. Hoàn chỉnh số đề tài cũ như: “Nhà văn tiền chiến”, “Hiện đại hóa văn học”. Có cuốn do NXB Đại học Quốc gia Hà Nội in, được 1,4 triệu nhuận bút, in 600 cuốn không báo nào nhắc, xếp xó. Tôi gửi Giáo sư Trần Hữu Dũng, ông trân trọng đưa lên trang mạng Viet-studies.info.
TBKTSG: Những đề tài cũ, được làm lại hôm nay có gì mới không ông?
- Trước đây làm vụn vặt. Nay thu gọn tổng quát, dẫn luận quan trọng văn học Việt Nam thế kỉ 20 dưới thước đo của văn học thế giới. Phải đo văn học Việt Nam bằng chuẩn mực thế giới. Một số nước, thí dụ Ấn Độ dù có nhà văn nổi tiếng, vẫn chỉ là cho mình thôi. Phải đóng góp cho văn minh thế giới. Trung Quốc họ khát khao chinh phục thế giới, không đòi nhà nước cho tiền để quảng bá ra ngoài như ở Việt Nam.
TBKTSG: Vậy ông đã làm được nhiều chưa?
- Mới thu dọn thôi. Tôi chuyển hướng nghiên cứu của mình 20 năm cuối, sang nghiên cứu văn hóa.
TBKTSG: Ông có một lần bỏ ra về khi đang được phỏng vấn về chuyện ông làm hàng loạt bài về thói xấu của người Việt. Có người còn bảo: Phải nghiêm cẩn khi bàn về tính cách dân tộc? Nhưng rồi trên mạng người ta treo hai câu của ông như “danh ngôn”: “Dân tộc Việt là khối tự phát khổng lồ”. “Thói xấu lớn nhất của người Việt là sợ nói về thói xấu của mình”. Ông không ngại hay bị phản ứng?
- Nếu tôi không tin vào tôi thì còn làm làm gì? Cái bài về Tô Hoài, có cô Vàng Anh cho là tôi ác, thấy người ta già… Tôi ghi từ lâu chứ có phải đợi người ta già đâu. Tôi cũng đưa cho chính nhà văn Tô Hoài đọc rồi, ông bảo được mà. Tôi biết thân phận tôi chứ. Nhưng rất cần nói cái ác cái dở để nói rất nhiều vấn đề đáng báo động. Tôi cảm ơn nhà văn Tô Hoài đã hiểu.
TBKTSG: Nhưng ông thường hay đụng độ với nhiều người nữa?
- Sao không đụng độ được? Vì sao Nguyễn Khải có lúc ghét tôi? Vì tôi biết cái phần ông muốn giấu mọi người. Cảm xúc như một nghệ sĩ, viết như một cán bộ. Tôi biết mạch ông ấy rồi. Với ông ấy tôi chỉ như một học trò, có thời ông quý có lúc ông mắng mỏ. Bạn văn cũng có người bênh vực ông, mắng tôi là chọc gậy bánh xe. Nhưng là nhà phê bình, tác phẩm các nhà văn in cho công chúng đọc, tôi phải viết.
TBKTSG: Nhưng có điều ông nói, thật sự “ác”?
- Nếu tôi ác thì không bao giờ người ta đọc tôi một cách lâu dài. Chỉ lừa được một lần thôi.
TBKTSG: Ông là nhà nghiên cứu phê bình văn học. Nay lại nhìn văn học từ góc độ tư tưởng sang nhìn dưới góc độ văn hóa… nên gọi ông là “nhà” gì cho đúng?
- Gọi là nhà gì tôi cũng sợ lắm. Sang quá. Có thể tôi còn kém vụng, nhưng đặt trên con đường 5 ki lô mét còn hơn người khác đi 10 ki lô mét. Sức khỏe, tầm vóc khái quát cao còn khó. Nhưng tôi tiếp tục học.
TBKTSG: Ông nổi tiếng tự học và đọc nhiều. Ông học cả khoa học tự nhiên?
- Tôi khốn nạn cực kỳ không biết tiếng Anh, Pháp, phải đọc qua tiếng Nga. Tôi có cái nhìn mềm là do học thêm vật lý. Học với tôi cứ như định mệnh (cười). Bà có nhớ hồi nhỏ học sinh vật có cái thí nghiệm phản xạ có điều kiện Paplop không. Con gà mổ hạt ngô, đến lúc người ta không bỏ ngô vào, nó vẫn mổ toét cả mỏ cho đến chết….
TBKTSG: Ông sống ở Hà Nội, thấy Hà Nội như thế nào?
- Tết rồi tôi nảy ra ý nghĩ và đã đi… bơi qua sông Hồng. 8 giờ sáng mưa lạnh lất phất, đi qua phố cổ không có người. Nó phong trần cổ lỗ. Sức sống lâu dài ở cái cổ đó. Sự ghê gớm của thời gian, lịch sử, trong đó bao phong trần từng trải đầy đau khổ. Sao giống Bùi Xuân Phái thế. Không cây. Nhà có linh hồn, không đặc tả mặt người. Người Hà Nội ẩn sau đó.
TBKTSG: Vậy theo ông chất Hà Nội là gì?
- Theo tôi, đó là trí tuệ chứ không phải thanh lịch như vẫn nói. Nó gạn lọc, hút cái hay của các nơi. Nay không lọc hoặc lọc nhầm. Hỏng nhanh quá không chữa được. Đô thị là cuộc sống được tổ chức lại, từ quê ra tỉnh làm lại cuộc đời chứ không phải vác cái nhà quê của mình ra “nông thôn hóa Hà Nội”. Không bằng Sài Gòn: yếu tố nông thôn lên Sài Gòn, bị Sài Gòn buộc theo cái văn minh của nó. Người tứ xứ về lái taxi, phục vụ hàng quán, phải học theo cung cách Sài Gòn. Lõi đô thị chắc chắn hơn, tiếp thu cái bên ngoài vào tốt hơn. Trẻ con ngoan không nói nhiều. Từ tốn. Hà Nội phải tỉnh ngộ, không được “vây vo con trưởng”.
TBKTSG: Xin ông có một vài lời nhận xét về văn chương?
- Một số nhà văn trẻ hỏng, viết chưa tới đâu, chỉ đứng trên tâm thế: Chúng tôi trẻ, chỉ có chúng tôi thôi. Đọc chúng tôi đi, chả có gì mà so với lớp già….
TBKTSG: Nhưng có những tài năng như Nguyễn Ngọc Tư đó thôi?
- Cũng đúng. Nhưng không cẩn thận, sẽ chỉ dừng lại ở mức bản địa hóa như Sơn Nam.
TBKTSG: Chắc nhiều người muốn tranh luận với ông đấy. Xin cảm ơn ông đã trò chuyện thật lòng.


Note: Bài này, tuyệt. Nhận định về Sơn Nam, đúng, nhưng không đúng, khi áp dụng vào trường hợp NNT. GNV sẽ tản mạn sau, về chuyện này, nhưng đại khái là như vầy: Sơn Nam là 1 anh VC nằm vùng. Vốn sống của ông là 1 Nam Bộ có Tây, còn Tây. NNT, trưởng thành sau cái cú ăn cướp 30 Tháng Tư, và cùng với nó là Lò Cải Tạo.
Làm gì còn chuyện bản địa hoá ở đây, vì Miền Nam, 1 cách nào đó, biến mất rồi. Cái Miền Nam Sâu Thẳm, của Faulkner... mất rồi, cùng với sự xâm lăng của Bắc Kít.
Bạn VTN này phải đọc lại Bút Ký Tô Hoài, nhe!

Chúc Tết bạn và gia đình! NQT
GNV không quen VTN. Trên TV có trang VTN, là do LMH giới thiệu.

 Lan man với Vương Trí Nhàn

Văn học Việt Nam đang phải trả giá cho một giai đoạn khủng hoảng từ những năm trước, những năm 1980, 1990. Thế hệ nhà văn lẽ ra phải viết sung sức nhất là thế hệ nhà văn khoảng 30 tuổi, thế hệ nhà văn sinh vào những năm 1980 nhưng đó lại là một thế hệ mất niềm tin, mất các giá trị.
NTS

Bà có nhớ hồi nhỏ học sinh vật có cái thí nghiệm phản xạ có điều kiện Paplop không. Con gà mổ hạt ngô, đến lúc người ta không bỏ ngô vào, nó vẫn mổ toét cả mỏ cho đến chết….
VTN

Đây chỉ là sự tình cờ, nhưng cái giá mà văn học VN phải trả không phải vì mất niềm tin.
Nó vẫn còn đó, như là hạt ngô ngày nào. Nhà văn Mít muốn viết văn, là phải viết dưới ánh sáng của 1 cái gì đó!
Bởi thế, NTS phán: Nói thì có vẻ hơi sáo, nhưng nói thật, văn chương phải phấn đấu vì một điều gì đó cao quý. Văn chương phải lớn hơn cuộc sống.
Cái chết của văn Mít ở trong nước, theo Gấu, là do nó không dám viết về những gì cần phải viết, [phấn đấu vì một điều gì đó cao quí], vì nếu viết ra, thì tác giả phải đi tù. Đơn giản chỉ có thế.

Không phải tự nhiên VTN nhắc tới phản xạ Paplop: Ông cũng bị nó hành, như bất cứ 1 nhà văn VC, về 1 giấc đại mộng Mít: giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, ‘hạt ngô tuyệt vời’ nhà nước hứa lèo với Miền Bắc.

Văn học Mít hải ngoại, có đấy, nhưng ở những nhà văn không còn viết bằng tiếng Việt nữa, và đây là 1 điều đáng mừng. Linda Lê là nhà văn Việt Nam dù bà viết bằng bất cứ thứ tiếng nào. Thí dụ.
Để 'mimh họa' cho vấn nạn trên, TV sẽ giới thiệu trường hợp Yiyun Li, nhà văn TQ, viết bằng tiếng Anh, qua bài phỏng vấn mới nhất trên tờ ALR Winter, 2010, đặc biệt về China

Note: Yiyun Li quả được Mẽo lì xì nửa triệu đô:

She is part-way through a book tour behind Gold Boy, Emerald Girl. But just when she thought her promotional duties could not be any more intense, she was awarded one of this year's MacArthur "Genius" awards. Bestowed annually, MacArthur fellowships recognize "talented individuals who have shown extraordinary originality and dedication in their creative pursuits", rewarding them with grants of US $500,OOO, paid quarterly for five years.

*

Interview: Yiyun Li

James Kidd


Trang VTN

Hai Trầu & NNT

Nguyễn Ngọc Tư viết nhiều và cũng được giới thiệu nhiều. Tôi thì chỉ đọc đây đó vài bài, không có cơ hội đọc nhiều. Nên xin có vài ba ý kiến về cách viết của Nguyễn Ngọc Tư với cái nhìn của một người từng có những năm tháng làm ruộng và nuôi vịt chạy đồng.
Hai Trầu

In every novel it is the form - the style in which it is written and the order in which it is told - which determines the richness or poverty, the depth or triviality, of the story. But in novelists like Faulkner, the form is something so visible, so present in the narration that it appears at times to be a protagonist, and acts like another flesh and blood character, or else it appears as a fact, like the passions, crimes or upheavals; of its story.
Trong bất cứ tiểu thuyết, chính hình dáng - qua đó, văn phong được viết ra, và trật tự được kể lại -  quyết định sự giầu có hay nghèo nàn, sự sâu thẳm, hay nông choèn choẹt, của câu chuyện. Nhưng với những tiểu thuyết gia như Faulkner, hình dạng cuốn tiểu thuyết, là một điều gì thực sự, hiển nhiên, "rành rành con mắt còn ngờ chiêm bao" [xâu con mắt luồn kim tìm chiêm bao, câu thơ thần sầu của NLV làm tặng NNT khủng khiếp như thế đó!], chảy theo cùng dòng kể, nhiều lúc, nó, từ mộng biến thành thực, thành một nhân vật, xử sự, hành động, như nhân vật bằng xương bằng thịt khác, nhiều lúc, nó xuất hiện như một sự kiện, như những đam mê, những tội ác, những lớp lang, những biến động, của câu chuyện của nó.
Vargas Llosa: The Sanctuary of Evil
*
Đâu phải chỉ chuyện nuôi vịt chạy đồng?
Nhưng quả đúng là chuyện nuôi vịt chạy đồng, nếu chúng ta đọc những dòng trên của Vargas Llosa viết về Giáo đường của Faulkner.
*
Nói rõ hơn, "hình dáng" của Cánh Đồng Bất Tận, chính là cánh đồng bất tận, và đàn vịt của nó.
Nói rộng ra, văn NNT, "hình dáng" của nó, là Miền Nam.
Không [chỉ] đặc sản, mà còn là, thiên tài của nơi chốn.
*
Gide, viết về Dostoevsky: Tác phẩm lớn có phần đóng góp của Quỉ.
Với NNT, ngoài sự đóng góp của ông thần đất, còn có sự đóng góp của con Quỉ Hậu Chiến.
Và đây cũng là điều Vargas Llosa nhận ra, khi đọc Giáo đường của Faulkner. [Một miền đất thiên đường biến thành] một miền đất của cái ác, miền của những điêu tàn và ghê rợn, vượt quá mọi hy vọng, hết thuốc chữa:
Nothing is described, but from that unexpressed savagery a poisonous atmosphere seeps out and spreads to contaminate Memphis and other places in the novel, turning them into a land of evil, regions of ruin and horror, beyond all hope.
Vargas Llosa: The Sanctuary of Evil
*
Có thể, có người ngạc nhiên, NNT thì "liên can" gì tới Faulkner? Bà nhà quê, miệt vườn này, làm sao đọc Phuốc Nơ?
Tuy nhiên, đây là sự thực: Không thể có văn chương, nếu không có so sánh. Trong khi so sánh đó, bạn làm sáng ra, cả hai, chứ không phải chỉ một.
Vả chăng, Faulkner thực sự mà nói, cũng là một tay ít học, theo nghĩa, không thuộc giới khoa bảng!
*

Văn Việt Nam, "dòng chính", chỉ là "văn nói", chưa bao giờ đạt tới cõi "văn viết", với những câu văn dài lê thê, như chẳng biết làm sao chấm dứt.... Walter Benjamin đã từng ca ngợi Karl Kraus, Susan Sontag trích dẫn, dưới đây, trong một bài tưởng niệm tuyệt vời nhà văn Đức gốc Do Thái này: Sinh dưới bảng hiệu Saturn [Under the Sign of Saturn]:

"If style is the power to move freely in the length and breath of linguistic thinking without falling into banality, it is attained chiefly by the cardiac strength of great thoughts, which drives the blood of language through the capillaries of syntax into the remotest limbs."

NNT chắc chắn chẳng bao giờ đọc Faulkner, lại càng chẳng biết, những Benjamin, Sontag, nhưng, một mình một xuồng, len lỏi giữa trời nước mênh mông, tới nhánh sông, nhánh lạch xa xôi tuyệt mù.... văn của bà, từ đó, bắt đầu, từ đó, chấm dứt.

Chúng ta cứ thử đọc câu này, coi có đúng như Benjamin diễn tả:

Mưa vô mùa, nghĩa là hết một đợt dài lưu diễn, tôi về quê, má tôi chặt lá, giúc nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu một nồi tám đầy vun bánh; tôi hỏi má gói chi nhiều vậy, má cười: "Cho cha con thằng Bầu, tội nghiệp tụi nó, nhà không có đàn bà nên cũng có bánh trái gì ăn đâu..."; tôi giành: "Chừng nào bánh chín, để con đem qua bển cho; Má, má mè, anh Hai có tính bước thêm bước nữa chưa, hả má."; Má tôi cười: "Chưa, má biểu nó hoài, mà, cái con này, lần nào về cũng hỏi có chuyện đó....". Mình à? Mình sao? Lần nào cũng hỏi chuyện đó à? Ụa, hỏi hồi nào sao mình không hay vậy ta?
Một Mối Tình

Đám Bắc Kít, thú thực, không đọc được NNT, 1 phần là do không hợp thổ ngơi, 1 phần là do chỉ muốn làm bố thiên hạ, chưa viết, là đã hăm he chính luận, hăm he dậy đời... thành ra câu văn cụt thun lủn, vả chăng, sông rạch ở đâu mà đẩy hơi văn, nếu có thì là dòng sông Hồng, đỏ như máu, đưa tới Trái Tim Của Bóng Đen!

Nam Kít, như ông Hai Trầu kia mà còn đọc không nổi nữa là!
Hà, hà!


Xâu con mắt luồn kim tìm chiêm bao


 Lan man với Vương Trí Nhàn

Note: Bài này, tuyệt. Nhận định về Sơn Nam, đúng, nhưng không đúng, khi áp dụng vào trường hợp NNT. GNV sẽ tản mạn sau, về chuyện này, nhưng đại khái là như vầy: Sơn Nam là 1 anh VC nằm vùng. Vốn sống của ông là 1 Nam Bộ có Tây, còn Tây. NNT, trưởng thành sau cái cú ăn cướp 30 Tháng Tư, và cùng với nó là Lò Cải Tạo.
Làm gì còn chuyện bản địa hoá ở đây, vì Miền Nam, 1 cách nào đó, biến mất rồi. Cái Miền Nam Sâu Thẳm, của Faulkner... mất rồi, cùng với sự xâm lăng của Bắc Kít.
Bạn VTN này phải đọc lại Bút Ký Tô Hoài, nhe!

Chúc Tết bạn và gia đình! NQT
GNV không quen VTN. Trên TV có trang VTN, là do LMH giới thiệu.

Vơi GNV, Sơn Nam chỉ có mỗi 1 cái truyện ngắn, một thứ tân truyện, nouvelle, kiểu Kẻ Xa Lạ, Bếp Lửa, tới chỉ, là Hình Bóng Cũ. Và bi giờ nghĩ lại, mới ngộ ra thì là, ông đúng là cái anh chàng ký giả ở trong truyện, được đến hai người tới gặp, đề nghị làm ghost-writer cho họ.
Một, là cái bà me Tây, đề nghị viết hồi ký, kể cuộc đời của bả, tức cái linh hồn của Miền Nam, kể từ khi Tây Mũi Lõ tới xứ Nam Kỳ, và đành phải để cho nó dầy vò. Một, là cái anh Bắc Kít, sau 1975, mi là thằng VC nằm vùng, hãy kể lại cái Miền Nam trước 1975, bị Mỹ Ngụy kìm kẹp, và sau 1975, được giải phóng, hai cuộc đời đó nó khác nhau ra làm sao!
Nghe thật đểu giả, nhưng đó là sự thực về ông nhà văn Nam Bộ, bị Bắc Bộ Phủ sau 1975 bỏ rơi, đến chết cũng đếch có đất mà chôn, sau phải nhờ sự hảo tâm của 1 tay địa chủ Miền Nam.

Nghe nói, tụi chúng còn đếch cho ông được cái hòm dán nhãn Hội Nhà Văn?

Cứ nghe cái giọng ông VTN phán về SN, là đủ hiểu sự kính trọng của đám Bắc Kít đối với SN ra làm sao: cũng chỉ thứ bản địa!

Tay VTN này, chuyên đi tìm Cái Ác Bắc Kít, không ngờ 1 điều, nó nằm ở trong tim trong hồn của…  chính ông ta!
Của bất cứ 1 anh Bắc Kít:

Đi mãi xa mà vẫn nằm…đâu đây!
Đi mãi xa là để ở lại… mãi đó! (1) 

(1)

Bien qu'il n'ait jamais disparu, le courant brun qui coulait rapidement du cœur des ténèbres vers la mer en nous emportant sur le fleuve Congo est de retour. Et avec lui revient le personnage de Kurtz qui, lui non plus, n'a jamais disparu, ou s'il l'a fait, il était « parti très loin, comme dirait Kafka, pour rester ici ».

Thì, tất nhiên, nó chẳng bao giờ biến mất, cái dòng nước đục ngầu, đỏ như máu, của sông Hồng, chảy từ trái tim của bóng đen, là thành phố Hà Nội, ra biển, đưa chúng ta dạt dào lưu vong, sau khi thoát hải tặc Thái Lan, mãi tít tới miệt Công Gô, và, ăn Tết Công Gô xong, lại trở về.

Và cùng về với nó, là nhân vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng hề biến mất, hay là, nếu anh ta làm như thế, “anh ta đi rất xa, nói như Kafka, để ở lại đây”. 

Kurtz des ténèbres [Kurtz của bóng đen]

GNV này ngộ ra điều này, khi đọc Steiner!
Đúng hơn, khi đọc Faulkner!

Cái tay NTV, phán về Gấu, không phải tự nhiên mà mi chọn Faulkner là thầy, trong mi có 1 tên Bắc Kít khốn nạn, chỉ hăm he huỷ diệt Miền Nam, 1 Thầy Thành của NNT, thí dụ, và mi quá sợ điều này…than ôi, chính NTV cũng là 1 tên Bắc Kít!

Và cũng là 1 người nhận ra sự thực, cuộc chiến vừa rồi, không phải nội chiến Nam Bắc, mà là hận thù chém giết giữa đủ thứ những tên Bắc Kít với nhau!

Hình Bóng Cũ 

Trong những tác phẩm của Sơn Nam, có một, ít được nhắc tới, nhưng đối với cá nhân người viết, có lẽ đây là cuốn hay nhất của ông: Hình Bóng Cũ. Những tác phẩm như Hương Rừng Cà Mâu, Chim Quyên Xuống Đất... là một Miền Nam sau này, hoặc vẫn tiếp tục còn đó, tuy đã tang thương dâu bể. Hình Bóng Cũ là một Miền Nam đã mất hẳn, như một Viễn Tây của lịch sử Hoa Kỳ. Ở đó, huyền thoại lấn át thực tại, và khi huyền thoại biến mất, nó kéo theo cùng với nó, những con người nửa hư nửa thực. Tất cả biến thành thần. Những vị phúc thần (anges gardiens).

Tôi đọc cuốn sách đã lâu. Sau cố tìm gặp lại nhưng không thể. Như thể cái duyên giữa cuốn sách và tôi đã trọn vẹn: Một đứa bé di cư, một mình xuống tầu há mồm vào Nam tìm gặp Hòn Ngọc Viễn Đông, vô tình khám phá viên quặng làm nên hòn ngọc đó.

Câu chuyện một xóm nhỏ, có một "thầy ký nhựt trình", như dân trong xóm vẫn thường trầm trồ về một anh chàng ngụ cư. Bản thân anh ta lâu lâu có một bài thơ được nhà báo thương tình đăng lên, thay vì để trống một khoảng nhỏ.

Một bữa có một bà tới kiếm, tính mướn anh viết hồi ký cho "bả". Người đàn bà ôm trong mình cả một kho tàng. Đã từng là đào hát, chủ gánh, sau bỏ hết, gá nghĩa cùng một ông tây thuộc địa, một trong những người khai phá ra những cánh đồng thẳng cánh cò bay, tiền thân của những ông Hương, ông Cả trong những cuốn tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, tiền thân của những cô Ba, cô Tư trong những câu chuyện ngồi lê đôi mách, cà kê, dê ngỗng của một số tác giả Miền Nam hiện nay. Một nhân vật kiểu Faulkner, sự tàn bạo, dã man không thua, số người bị giết do ông, bởi chính ông chắc cũng không kém. Người đọc chỉ đoán lờ mờ những chi tiết "thực" đó. Chỉ lờ mờ biết được quá khứ của một Lọ Lem một bữa biến thành Công chúa Thuộc địa. "Bả" có cay đắng khi phải "bó thân về với triều đình", khi phải đồng hóa Miền Nam với chủ nghĩa thực dân khai hóa... nào ai biết được. Tất cả chỉ là những "tầng kiến giải" về một huyền thoại. Về một Hình Bóng Cũ.

Người xưa thường nói, nếu vẽ rồng chớ có "điểm nhãn". Vẽ mắt rồng, bữa nào hứng lên, rồng vàng, hạc vàng... bay mất, để trơ lại một thành Thăng Long mất cả Gươm Thiêng lẫn Rùa Thần, một Hoàng Hạc Lâu biến thành tiệm chả cá Lã Vọng...

Tôi nghĩ, Sơn Nam đã quên lời dặn đó của cổ nhân, khi viết Hình Bóng Cũ.

Mối tình đầu của tôi với Miền Nam ngày xửa ngày xưa chỉ có vậy. Số mệnh khiến tôi suốt đời lẽo đẽo chạy theo mối tình đầu đó, khăng khăng cứng đầu, cố biến nó thành hiện thực. Sau này, đọc những nhà văn Miền Nam, cũng là để cố tìm lại chút văn minh, "tư tưởng man rợ" (pensée sauvage, chữ của C. Lévi- Strauss), của một thuở miệt vườn.

Nhưng có lẽ không giản dị như vậy, Miền Nam, mối tình đầu, và tôi.

Ngay từ khi học trung học ở Hà-nội, đọc Tô Hoài, tôi đã cố mường tượng ra một "nước Nam Kỳ" xa xôi, chốn đầy ải, nơi trốn chạy của những anh đàn ông, con trai "Bắc Kỳ" của một Xóm Giếng, một Trăng Thề, một Quê Người - một làng Nghĩa Đô đã không còn là quê mình - nên đành hy sinh đi làm phu đồn điền cho Tây, nếu không may thì làm phân bón cây cao su, còn may ra thì lại có phen áo gấm về làng. Có thể khi xuống tầu há mồm vào Nam, giấc mơ của chú bé di cư vẫn chỉ là giấc mơ cũ kỹ đó. Giấc mơ của một Nguyễn Hoàng về một Hoành Sơn nhất khoảnh, hay khiêm tốn hơn, một tương lai bên ngoài lũy tre làng.

Khi còn ở Trại Cấm, nhân có một cán bộ Cộng Sản thất sủng, bị anh em đồng chí tính cho đi mò tôm, nên đành phải vượt biển, và được đậu thanh lọc, rồi sau đó xẩy ra một cuộc tranh luận gay gắt giữa một số người. Người cán bộ đã nói thẳng ra một điều: tại sao các anh không giải phóng chúng tôi, tại sao các anh tạo ra tình cảnh cả nước phải đi ăn mày tình thương của toàn thể nhân loại... Khi lấy được Miền Nam, có thể giấc mơ muôn đời của Miền Bắc đã được thực hiện: Giải phóng cho chính mình, rồi sau đó, cho cả nước. Đối với lịch sử, Miền Nam chỉ có công: Thất trận.

Qua đây, đọc những nhà văn hải ngoại, tôi nhận thấy chỉ có dòng văn chương chứa đựng tư tưởng "miệt vườn" là không bị cuộc chiến làm xấu đi, huỷ hoại, hoặc tiêu diệt. Như là một đối trọng với gánh nặng hội nhập.

Ở trong nước, dòng văn chương hiện thực tiền chiến, ở những tác giả như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Tô Hoài... đã đầu tư hết mọi ước mơ, hoài vọng và năng lực cho những ngày đầu cách mạng, đã hy sinh hết cho Đảng, dù có phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn, đã bị kiểm thảo, học tập nghị quyết, học tập cách ngồi, cách suy tư, cách đi thực tế, cách viết dưới ánh sáng của Đảng... cuối cùng nhường chỗ cho dòng văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa, chết bất đắc kỳ tử ngay những ngày đầu chiến thắng Miền Nam.

Độc giả trong nước bây giờ đổ xô tìm đọc những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh... là cũng nằm trong ý nghĩa đó: Tha hóa không phải chỉ ở đây, vào lúc này. Chất nghĩa khí, cõi công bằng, tình bà con lối xóm... vốn đầy rẫy trong những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh là những hình bóng cũ mà người dân hai miền đang trân trọng. 

Nguyễn Quốc Trụ
*

Có một dạo, “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư gây xôn xao dư luận. Nhà văn nhận xét thế nào về quyển sách này và về tác giả?
- Cô Tư viết hay nhưng hỗn. Văn phong của cổ hơi cà rỡn. Cái nhìn trong “Cánh đồng bất tận” không rộng, nông dân ở đó không nhìn hẹp như thế mà mỗi cái họ đều có lý của họ. Ngọc Tư thông minh, sẽ còn phát triển nữa nhưng cần người chỉ dẫn sau vụ lùm xùm về “Cánh đồng bất tận”.
Sơn
Nam

Hỗn

Anh già khôn tổ cha, thời nào cũng sống được, làm sao dám lặn sâu xuống dưới để mà đau nỗi đau của Miền Nam? NQT

“Thời nào cũng sống được”, là báo trong nước xưng tụng SN, ‘nhà văn của nhiều thời,’ không phải của GNV.
Cũng báo trong nước cho biết SN đã có ở trại tù Phú L
i, đúng lúc xẩy ra cú đầu độc tù, do Diệm chủ mưu, nhưng không cho biết, làm sao SN sống sót cú đó?

TBKTSG: Ông nổi tiếng tự học và đọc nhiều. Ông học cả khoa học tự nhiên?
- Tôi khốn nạn cực kỳ không biết tiếng Anh, Pháp, phải đọc qua tiếng Nga. Tôi có cái nhìn mềm là do học thêm vật lý. Học với tôi cứ như định mệnh (cười). Bà có nhớ hồi nhỏ học sinh vật có cái thí nghiệm phản xạ có điều kiện Paplop không. Con gà mổ hạt ngô, đến lúc người ta không bỏ ngô vào, nó vẫn mổ toét cả mỏ cho đến chết….
VTN

Không biết Anh, Pháp không đáng trách, nhưng không đọc những nhà văn Nga bị nhà nước cấm đoán mới đáng trách. Gấu này biết về xứ Bắc Kít của mình, qua cái sự đọc những nhà văn Nga. Thí dụ đoạn sau đây, mới vớ được, của chính GNV, trong khi lướt net.

Hành quân đêm

... Để tôi kể cho ông nghe. Ông xem có thằng nào như thằng T.H. không. Đầu năm 1968 thời gian ông đang rất gay go, còn tôi ở Hội Văn nghệ Hà Nội cũng đang điêu đứng vì bị nghi vấn có dính líu đến một vụ gián điệp, bị gọi hỏi nhiều lần, không được viết, không được in. Chỉ làm thủ quỹ, hàng tuần xách bị đi căng-tin mua bánh kẹo cho anh em. Trong cơ quan có hai ông nằm điều dưỡng ở Quảng Bá là ông T.H. và ông Huỳnh Tâm. Ông Huỳnh Tâm là tổ trưởng sáng tác bị dãn phế quản, không bao giờ ra khỏi cổng trạm điều dưỡng vì quá lo cho sức khoẻ. Thế mà hôm ấy dù mắc thêm bệnh viêm kết mạc, đau mắt nặng vẫn lù lù từ Quảng Bá về đền Ngọc Sơn, nói với tôi: "Bố cậu T.H. bị ô-tô kẹp chết ở Hải Phòng. Ông là thủ quỹ. Ngày mai mang tiền thay mặt anh em xuống viếng." Sau đó chánh văn phòng Hội Văn nghệ cũng chính thức giao nhiệm vụ cho tôi về Hải Phòng. (Nhân vật này đã đưa một bài thơ của tôi sang công an, tôi sẽ nói với ông sau.) Cơ quan từ chính quyền tới Đảng, công đoàn đều rỗi việc. T.H. lại là người rất gần có thể nói là xoắn xuýt với lãnh đạo. Thế mà không ai đi. Lại cử tôi. Tôi hiểu ngay. Điệu hổ li sơn đây. Người ta cần tôi đi. Để khám buồng tôi ở. Làm gì có chuyện bố thằng T.H. chết. Nếu chết thật thì đã chẳng đến lượt tôi đi viếng. Sáu giờ chiều thằng T.H. lại dẫn xác đến đền Ngọc Sơn. Nó bảo nó đến ngủ với tôi để sáng mai cùng đi một thể. Chà chà! Không cho mình xoay xở cái gì mặc dù chẳng có gì cần đối phó xoay xở. Sáng hôm sau chúng tôi lên tầu về Hải Phòng. Rồi đi bộ về nhà thằng T.H. Đến cửa nhà nó thấy bố nó đang ngồi tiện gỗ ở sân. Tôi bảo nó: "Bố mày không chết đâu T.H. ạ. Thôi tao đi đây." Mặt nó tái đi. Ông đừng nghĩ nó tái mặt vì bố nó vẫn sống, nó ngượng với mình. Không đâu. Nó tái mặt vì mình về Hà Nội ngay trong khi chưa khám xong nhà mình thì thành ra nó chưa hoàn thành nhiệm vụ. Mình bảo: "Bình tĩnh. Mai tao mới về Hà Nội. Tao còn ở chơi Hải Phòng đã. Cứ yên tâm." Thế rồi tôi đến nhà ông.
Bùi Ngọc Tấn: Rừng Xưa Xanh Lá [Trích diễn đàn Talawas]
*
Hồi Ký của Nadezhda, viết về chồng là nhà thơ Osip Mandelstam, Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng, Hope Against Hope, cũng mở ra bằng một vụ công an xét nhà trong đêm, và sau đó bắt ông chồng. 

Cũng có một "ông bạn nhà văn", như "có thằng nào như thằng T.H", là me-sừ David Brodski, một dịch giả, ngay từ buổi chiều đã mò tới, và nhất định không chịu từ giã khổ chủ. Bữa đó chủ nhân lại có hẹn với nhà thơ Akhmatova, và trong nhà chẳng còn có gì ăn. Ông chồng đi qua nhà hàng xóm kiếm cách vay mượn tí đồ nhắm, cũng một cách đuổi khéo nhà dịch thuật, nhưng ông này nhẵng nhẵng đòi đi theo nhà thơ thăm dân cho biết sự tình. Ông chồng mang về được một quả trứng cô đơn [the solitary egg]. Nhà dịch thuật lại ngồi xuống, và cứ thế đọc thơ, những dòng thơ Sluchevski và Polonski, là hai thi sĩ mà chàng chịu nhất [không có gì mà nhà dịch thuật không biết, từ hai nền thi ca thế giới, là Nga và Pháp]. Chàng cứ thế đọc đi đọc lại, nào khúc này, nào đoạn nọ. Chỉ mãi tới nửa đêm thì gia chủ mới nhận ra tại sao có cái sự lỳ lợm như vậy.

Khi nào tới thăm chúng tôi, Akhmatova cũng ngồi nơi xó bếp. Để "vinh danh" nhà thơ, và, như người Việt mình nói, "cho nó đỡ tủi", chúng tôi dùng một miếng vải dầu phủ lên cái lò ga, làm thành một cái bàn nhỏ tiếp khách. Chúng tôi gọi cái xó bếp của mình là "giáo đường", gợi ý từ một nhận xét của một người bạn của nhà thơ, là Narbut, khi nhìn thấy nữ thi sĩ ngồi trong xó bếp, đã thốt lên: "Làm gì ở đây, sao giống như một nữ thần ngoại giáo trong một giáo đường?".

Akhmatova và tôi chui vào giáo đường, để ông chồng của tôi một mình chịu trận với nhà dịch thuật mê thi ca. Chừng một giờ đêm, bất thình lình có tiếng gõ cửa. "Họ tới là vì Osip", tôi nói, và đi ra mở cửa.

Tôi cứ nghĩ, họ sẽ nói một câu, thí dụ như: "Bà mạnh khoẻ không?", hoặc "Đây có phải là nhà của Mandelstam?", hoặc một câu đại loại. Hoá ra là họ không có cái thói quen phí thì giờ với những câu mang tính nghi lễ. Hay là những công an chìm trên thế giới đều như vậy, tôi tự hỏi.

Chẳng thốt một lời, chẳng một chút ngần ngại, như những tay lành nghề đã từng đánh quen trăm trận, "nhanh như chớp", họ tiến thẳng vào trong, vuợt qua tôi [không xô, không đẩy, may quá!). Và căn phòng trong thoáng chốc, đầy người, người lo kiểm tra giấy tờ cá nhân, người mò mẫn, rờ nắn thân thể kiểm tra vũ khí.

Chồng tôi từ căn phòng khách bước ra, và hỏi: "Mấy ngài tới là vì tôi?" Một tay công an chìm, người lùn lùn, nhìn M. [Mandelstam], với một nụ cười mà chẳng ra nụ cười, nói: "Giấy tờ?". M. lấy giấy tờ từ trong túi quần ra. Sau khi kiểm tra xong, anh ta đưa cho M một lệnh bắt. M. đọc, và gật đầu.

Theo thuật ngữ của giới công an chìm, thì đây là những cuộc hành quân đêm, "night operation". Như bà vợ nhà thơ đuợc biết sau đó, những đấng bạn dân "chìm", họ luôn luôn tin tưởng, trong những cuộc hành quân đêm như thế, họ dễ dàng đụng độ với những kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Và những con cái của họ, lại càng tin hơn nữa, rằng những ông bố đáng kính yêu của chúng đều là những đấng anh hùng. Và rất nhiều truyền thuyết về những cuộc hành quân đêm lãng mạn, hào hùng.. như vậy đã được chuyền tai nhau, chính bà vợ nhà thơ đã từng nghe kể, rằng con gái một đấng Chekist quan trọng [Nhân viên Cheka, mật vụ. Những thời kỳ sau đó, Cheka biến thành OGPU, GPU, NKVD, MVD, MGB, và sau chót KGB], kể, bằng một cái giọng hết sức hãnh diện, mà không kém phần thương yêu, lo lắng cho người cha của cô, trong cuộc hành quân đêm bắt tên nhà văn phản động Isaac Babel [tác giả Kỵ Binh Đỏ], tên này đã chống cự, "làm bị thương nặng một trong bốn người của chúng ta". Rằng cha của cô rất yêu con cái, rất yêu thú vật, mỗi khi về nhà, ông thường ôm con mèo đặt nó vào lòng mình, ông luôn luôn nói với cô con gái, đừng bao giờ thừa nhận mình đã làm một điều gì tầm bậy, luôn luôn nói, "không", trong những trường hợp như thế đó. Người cha của gia đình, yêu vợ con, yêu con mèo, con chó, người bạn dân sẽ "không bao giờ tha thứ cho những kẻ mà ông ta tra hỏi, về cái chuyện, họ thú nhận, họ đã làm những việc phản cách mạng, phản nhân dân, làm... Nguỵ"!

-"Tại sao họ lại làm như vậy", cô con gái hỏi, như lập lại lời ông bố.
-"Hãy nghĩ tới những khó khăn, những "gian khổ" mà họ đem lại cho nhân dân, cho chính họ, và cho chúng ta", cô gái nói thêm.
"Chúng ta" ở đây, là những người tham dự những cuộc hành quân đêm, có Bác hay không có Bác [Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân], với những lệnh bắt người, lệnh tra tấn, lệnh tống giam, lệnh cải tạo, và khi không hành quân đêm, khi rảnh rỗi, kể cho con cái nghe, về những nguy hiểm mà họ đã phải trực diện với kẻ thù của nhân dân, và con cái của họ chăm chú nghe, bồi hồi cảm động, càng thương bố bao nhiêu, càng yêu quí chế độ, càng thù Ngụy bấy nhiêu.

Bà vợ nhà thơ kể lại, cứ mỗi lần nghe một câu chuyện như vậy, là bà nghĩ đến cái lỗ hổng toác hoác ở nơi cái sọ của nhà văn Isaac Babel.

Như vậy đấy, họ trang bị tới tận răng, ùa vào căn hộ của chúng tôi trong đêm 13 tháng Năm 1934. Sau khi đọc lệnh, và chắc chắn chẳng có ma nào dám kháng cự, họ lục soát căn hộ. Nhà dịch thuật mê thơ ngồi một đống ở trong chiếc ghế bành, bất động như một khúc gỗ, bộ mặt cố làm ra vẻ giận dữ, bị thương tổn. Khi tôi [bà vợ nhà thơ] hỏi anh ta, liệu M. có thể mang theo vài cuốn sách, anh trả lời một cách thô lỗ: "Hãy để M. tự làm lấy." Tới gần sáng, khi chúng tôi đã đuợc phép đi lại một cách tự nhiên trong căn hộ, nhà dịch thuật đứng bật dậy, xin phép mấy bạn dân: "Tôi có thể đi tiêu tiểu", người chỉ huy cuộc hành quân đêm nói bằng một giọng khinh miệt, "Anh có thể về nhà". "Ông nói sao?" "Nhà", anh ta lập lại, và quay lưng, bỏ đi.

Đám mật vụ rất ghét những "con mắt của nhân dân", tức những chỉ điểm dân sự, như nhà dịch thuật. Chẳng có chi nghi ngờ: Brodski đã được lệnh luôn luôn bám sát chúng tôi, đề phòng trường hợp tụi này tẩu tán, xé, đốt bỏ bất cứ một bản thảo nào, khi nghe tiếng gõ cửa.
Jennifer Tran
Nguồn

Nhà phê bình VTN, rành tiếng Nga, đã từng đọc Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng?
GNV đọc rồi!
Tất nhiên, không phải bằng tiếng Nga!
*

Ai Điếu Nadezhda Mandelstam

Nadezhda tiếng Nga, nghĩa là "hy vọng".
Cái tít cuốn sách của Bà, Hope against Hope, như vậy là một trò chơi chữ:
Hope against Hope: Hy vọng chống lại Hy vọng, hay Hy vọng Dù Không Còn Hy Vọng.

Có một điều gì trong ý thức của văn giới, nó không thể chịu nổi quan niệm về quyền uy tinh thần của một kẻ nào đó. Họ tự nén mình trước sự hiện hữu của một Đệ Nhất Bí Thư Đảng, hoặc một Lãnh Tụ, như trước một cái ác cần thiết, nhưng họ hăng say chất vấn một nhà tiên tri. Điều này như thế, chắc hẳn là vì, bị gọi là một kẻ nô lệ, là một thông tin ít làm ngã lòng hơn, so với bị gọi là một con số không, về mặt tinh thần. Nói cho cùng, một con chó bị suy sụp thì cũng chẳng nên đá nó làm gì. Tuy nhiên, nhà tiên tri đá con chó suy sụp không phải để kết liễu nó, mà để cho nó đứng thẳng chân trở lại. Sự đề kháng trước những cú đá đó, sự chất vấn về những tuyên xưng và cáo buộc của nhà văn, không tới từ ước muốn tìm sự thực, mà tới từ sự đắc chí về mặt khôn lanh, láu cá của kiếp nô lệ. Vậy thì, càng tệ lậu hơn, đối với giới văn học, khi quyền uy không chỉ riêng về tinh thần, mà còn về văn hóa - như là trong trường hợp của Nadezhda Mandelstam.

Tôi muốn tản mạn thêm một chút, ở đây. Thực tại, chính nó, chẳng đáng một đồng xu teng. Chính cảm nhận của chúng ta đem ý nghĩa đến cho nó. Và, có đẳng cấp trong cảm nhận; cũng thế, có đẳng cấp trong ý nghĩa. Những cảm nhận được chiết qua những lăng kính tinh vi nhất, lọc lõi nhất, mẫn cảm nhất, chúng sẽ chót vót ở trên đỉnh. Lọc lõi, và cảm tính, ở đâu mà ra, nếu không là từ văn hoá, văn minh, vốn là nguồn cung cấp độc nhất cho một lăng kính như thế? Và dụng cụ chính của văn hoá, văn minh là ngôn ngữ. Đánh giá, thẩm định thực tại qua một lăng kính như thế  - có được lăng kính này, là một mục tiêu của sinh vật – nhờ vậy mà trở nên chân xác nhất, và có lẽ, chính đáng nhất [“Không công bằng!”, và Trọng tinh hoa”, sẽ có những tiếng la thét từ mọi nơi, sau một khẳng định như vậy, nhưng đâu cần, bởi vì, do định nghĩa, “trọng tinh hoa” là tính chất của văn hóa, và việc áp dụng những nguyên lý dân chủ vào môi trường tri thức sẽ dẫn tới sự kiện cào bằng, coi cá mè một lứa, giữa khôn ngoan và dốt nát, giữa minh triết và đần độn].
Chính vì sở hữu một lăng kính như thế – nó đã được trao cho bà, bởi nền thi ca số một của thế kỷ 20 của Nga, chứ không phải do tầm vóc nỗi đau duy nhất mà bà đã chịu đựng -  khiến cho khẳng định của bà về thực tại, là không thể nói ngược lại được.Thật là một giả tưởng quái đản, khi cho rằng có đau khổ mới có nghệ thuật lớn. Đau khổ làm cho người ta mù lòa, điếc lác, tàn hại, và thường khi, sát nhân. Osip Mandelstam là nhà thơ vĩ đại “trước” cách mạng. Cũng vậy, là Akhmatova. Cũng vậy, là Marina Tsvetaeva. Họ sẽ vẫn là họ, đếch cần đến cái cuộc cách mạng đó, đếch cần dù chỉ một biến cố lịch sử đó giáng lên đầu dân Nga: Bởi vì họ là thiên bẩm. Cơ bản mà nói, tài năng đếch cần lịch sử.
Brodsky

Nhũng đoạn Gấu gạch đít, là để tặng mấy đấng nhà văn nhà thơ hải ngoại, “chở sách về tù VC".
Hoặc len lén về!
*

Ai Điếu Nadezhda Mandelstam [1899-1980]
Joseph Brodsky

 Gửi DTH.
Jennifer Tran 

Trong 81 năm của cuộc đời của bà, Nadezhda Mandelstam trải qua 15 năm là vợ nhà thơ vĩ đại nhất của Nga, và của thế kỷ này. Và 42 năm là bà vợ goá của ông. Còn lại là tuổi thơ và những năm vừa mới lớn. Trong giới văn, là vợ góa của một nhà thơ lớn là lời giới thiệu bảnh nhất về mình. Điều này lại càng đúng, vào những năm 1930 và 1940, chế độ sản xuất ra quá nhiều những bà vợ góa của văn thi sĩ, đến nỗi vào giữa thập niên 1960, mấy bà đủ túc số để tổ chức một công đoàn.
"Nadya là một bà goá phụ may mắn nhất",  Akhmatova vẫn thường nói. Khi nói như vậy, là bà muốn nhắc tới sự công nhận rộng rãi, the universal recognition, đối với nhà thơ Osip Mandelstam. Và, mặc dù Akhmatova rất có lý khi nói như vậy, thì đây cũng chỉ là một cái nhìn từ phía bên ngoài, không tính tới đất nước thần thoại chiếm tới 1/6 diện tích quả địa cầu, tức Nga xô, chính nó. Vào lúc mà ông chồng có được danh tiếng như vậy, Nadezhda đã ở vào tuổi sáu mươi, sức khỏe thật là mỏng manh, phía sau bà, là hai thập niên góa bụa, đói khát, thiếu thốn đủ thứ, Cuộc Chiến Lớn, và nỗi sợ triền miên, có thể bị Mật Vụ tóm bắt bất cứ lúc nào, vì là vợ một kẻ thù của nhân dân.
Chết là cùng chứ gì! Thành thử tất cả quãng đời còn lại, chỉ là giải lao, chỉ là hưu nhàn.
Tôi gặp bà lần thứ nhất, đúng là vào mùa đông năm 1962, tại thành phố Pskov, nơi mà, cùng với vài người bạn, chúng tôi làm một chuyến tham quan những ngôi nhà thờ ở địa phương [những ngôi giáo đường đẹp nhất của cả đế quốc, theo tôi]. Nghe nói về chuyến đi, Anna Akhmatova bèn gợi ý, nếu có đi thì nên đến thăm Nadezhda Mandestam, lúc đó đang dậy tiếng Anh tại trường sư phạm địa phương, và gửi chúng tôi vài cuốn sách để đưa cho bà. Đó là lần thứ nhất tôi nghe tới tên bà, Tôi cũng chẳng hề biết, có một người đàn bà như thế hiện hữu ở trên cõi đời này.
Bà sống trong một căn hộ gồm hai phòng. Người ở phòng thứ nhất, là một bà có tên thật tiếu lâm là Nyetsvetaeva [Không phải - Tsvetaeva], phòng thứ nhì, là Bà Mandelstam. Một căn phòng tám mét vuông, rộng cũng bằng phòng tắm ở Mỹ. Chiếc giường sắt, loại giường đôi, chiếm gần hết căn phòng, hai chiếc ghế mây, một cái rương đựng quần áo có gương nhỏ, và một cái bàn ngủ, dùng cho đủ mọi thứ việc, trên đó là vài cái chén dĩa của bữa ăn chiếu chưa kịp dọn, bên cạnh mấy chén diã, là cuốn The Hedgedog and the Fox, Con Nhím và Con Chồn, của Isaiah Berlin: Sự kiện cuốn sách đang được mở ra đọc, nằm chình ình trên bàn không thèm giấu giếm dưới gối, hay xó xỉnh nào, cho dù một tiếng gõ cửa bất thình lình, cho thấy, đích thị đây là thời kỳ bắt đầu của giai đoạn hưu nhàn, the beginning of respite.
Cuốn sách, hóa ra là của Anna Akhmatova gửi cho. Trong gần nửa thế kỷ, nhà thơ là bạn thân nhất của, trước là của hai vợ chồng, sau của bà vợ goá. Bản thân nhà thơ, hai lần góa bụa. Người chồng đầu, thi sĩ Nikolai Gumilyov, bị đám Cheka - tên đầu tiên, "tên khi còn là con gái, the maiden name", của KGB - xử bắn, vào năm 1921 [theo lệnh trực tiếp từ Lenin, như nhà thơ Joseph Brodsky cho biết. LND.]; người chồng thứ nhì, sử gia về nghệ thuật, Nikolai Punin, chết trong trại tập trung. Akhmatova đã giúp bạn mình bằng mọi cách mà bà có thể, và trong những năm chiến tranh, đã cứu bà bằng cách đưa lén vào [thành phố] Tashkent, nơi một số nhà văn đã được di tản tới đó, và chia phần ăn hàng ngày với bà. Mặc dù cả hai người chồng đều bị chế độ sát hại, và người con trai ngắc ngoải 18 năm dài trong trại tù, Akhmatova một cách nào đó, lại dễ thở hơn là Nadezhda Mandelstam, không phải chỉ riêng vì, bà được nhà nước tuy chẳng thích thú chi, nhưng cũng đành phải coi bà là nhà văn, và bởi vì là nhà văn, nên được chế độ cho phép sống tại Leningrad hay Moscow. Đối với vợ một tên kẻ thù của nhân dân, làm sao được ưu đãi như thế?
Trong nhiều thập niên, người đàn bà này chỉ có mỗi một việc, là chạy trốn, chui nhũi mãi, trong những ao bùn phía sau lưng chế độ, những thị trấn nhỏ của cái đế quốc rộng lớn đó; ngồi chưa kịp nóng đít ở nơi này, thì đã vội vàng dọt đi nơi khác, ngay khi vừa ngửi ra dấu hiệu của sự nguy hiểm. Cái vị thế "chẳng là ai" [nonperson] này dần dần trở thành bản chất thứ nhì của bà. Bà là một người đàn bà ốm o, nhỏ nhắn, và với những năm tháng như thế, bà càng ngày càng thêm ốm o, nhỏ nhắn, như cố thu mình lại, thành nhẹ hẫng, bỏ gọn vào trong túi, cho mỗi lần vội vàng dọt. Và cũng như vậy, bà chẳng có cái chi thuộc về bà: không đồ đạc, không nghệ phẩm, không thư viện. Sách vở, ngay cả sách ngoại, không ở trong tay bà được lâu: vừa đọc xong, hoặc thoáng đọc, là đã chuyển cho người khác - sách thì phải như thế, đúng không? Vào những năm dư dả nhất của bà, tức là cuối thập niên sáu mươi và đầu bẩy mươi, vật đắt tiền nhất mà bà có được, trong căn hộ một phòng của bà ở ngoại ô Moscow, là một chiếc đồng hồ treo tường ở nơi nhà bếp. Một trên trộm, và lẽ dĩ nhiên, mấy ông mật vụ, với lệnh xét nhà, có vô đây, thì cũng đành chưng hửng.
Vào những năm "dư dả" tiếp theo sau việc xuất bản hai tập hồi ký của bà, ở Tây Phương, căn bếp đó trở thành một nơi chốn hành hương thực sự. Gần như đêm nào cũng vậy, cái đám tinh anh nhất, mà may mắn sống sót chế độ, mà may mắn lại ló mặt ra với cuộc đời, vào thời kỳ hậu-Stalin, họ tụ tập nhau ở đây, quanh chiếc bàn gỗ, mười lần rộng hơn cái khung giường ở Pskov. Có vẻ như bao năm tháng vừa qua đã tạo ra hình ảnh của bà, như là  một kẻ cùng đinh. Tôi hình dung như nhìn thấy bà thật rõ, trong căn phòng nhỏ ở Pskov, hay là ngồi ở một góc sô pha, trong căn phòng của Akhmatova, tại Leningrad, nơi thỉnh thoảng bà từ Pskov lén lút về, hay ló ra từ cuối hành lang căn phòng của Shklovosky tại Moscow, là nơi bà tá túc trước khi có một nơi chốn của riêng bà. Tôi nhớ rõ những hình ảnh như vậy, bởi vì có thể, ngay ở trong trong bản chất của bà, đã có bóng dáng một kẻ bên lề, một kẻ chạy trốn, "một người bạn của những người ăn xin, ăn mày" như Osip Mandelstam đã từng gọi bà, trong một bài thơ của ông. Và bóng dáng này ở với bà cho tới cuối cuộc đời.
Vào tuổi 65, bà viết hai cuốn hồi ký như thế quả là một sự ngạc nhiên cho nhiều người. Trong gia đình Mandelstam, ông chồng mới đóng vai, và là nhà văn. Không phải bà. Nếu bà có viết lách lăng nhăng chi đó, trước khi viết hai tập hồi ký trên, thì cũng chỉ là những thư từ cho bè bạn, và những đơn chống án tới Tối Cao Pháp Viện. Bà đâu phải loại người tính sống lại đời mình, bằng những trang hồi ký, vào lúc xế chiều. Bởi vì sống tới 65 tuổi như bà không phải là một chuyện bình thường. Chẳng phải vô cớ mà hệ thống giam cầm của Xô Viết có đoạn chỉ riêng ra rằng, trong một số trại tù một năm phục án được tính là ba năm. Do cái mốc này, nhiều người Nga trong thế kỷ này hóa ra có tuổi thọ xấp xỉ với những tổ phụ trong kinh thánh - bà còn có thêm một điều chung với họ nữa: tận tâm với công lý.
[Đọc tới đây, Jennifer Trần tôi mới hiểu ra, tại sao chính quyền Cách Mạng năm đó lại căn dặn mấy tên Ngụy, chỉ cần mang theo mười ngày lương thực: ở nơi chốn được gọi là Thiên Thai, một ngày tính bằng một năm].
Tuy nhiên, không phải riêng lòng tận tâm với công lý này đã khiến bà ngồi xuống ở cái tuổi 65 và dùng quãng thời gian hưu nhàn của bà để viết những cuốn sách đó. Điều mang chúng vào đời là sự ôn lại - bằng cái cân tỷ lệ của một người - cũng cái tiến trình trước đây đã có lần xẩy ra trong lịch sử văn học Nga. Tôi nghĩ đến sự hiện xuất của nền văn xuôi Nga vĩ đại vào nửa sau thế kỷ 19. Nền văn xuôi đó, xuất hiện như thể không biết từ đâu ra, mà không thể vạch ra được nguyên nhân, thực sự đơn giản chỉ là những sợi tơ vương từ guồng quay thơ thế kỷ 19 của Nga. Nó đã đặt định cho toàn bộ nền văn viết, bằng tiếng Nga sau đó, và tuyệt tác của truyện Nga có thể xem như là một âm hưởng xa xa, và như là sự trau giồi chi ly cái bén nhạy về tâm lý và từ vựng, mà thơ Nga đã phô bầy trong 25 năm đầu của thế kỷ ấy. "Hầu hết những nhân vật của Dostoevsky," Anna Akhmatova thường nói, "chỉ là những vai chính trong những tác phẩm của Pushkin, nhưng đã già đi - như Onegins, v... v...".
Có thơ rồi mới có văn, luôn luôn là như vậy, và nó là như thế, hơn một lần, trong đời Nadezhda Mandelstam. Là một nhà văn, và nhà thơ, bà là [nguồn] sáng tạo của cả hai nhà thơ mà đời bà không có cách chi mà có thể tách rời ra khỏi họ: Osip Mandelstam và Anna Akhmatova. Không phải chỉ vì người thứ nhất là chồng và người thứ nhì, bạn thân cả đời của bà. Nói gì thì nói, 40 năm đằng đẵng làm góa phụ có thể làm mờ những kỷ niệm hạnh phúc nhất (và trong cuộc đời vợ chồng của họ, hạnh phúc này thật là thất thường, không phải chỉ riêng là do những đói khát trên toàn xứ sở do cách mạng, nội chiến, và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất). Cũng thế, có nhiều năm, bà chẳng làm sao gặp được Anna Akhmatova, và một bức thư là điều chót, đối đế, đành phải trông vào nó. Thư từ, giấy má, nói chung chung, là chuyện chết người. Điều làm cho cuộc hôn nhân, và tình bạn, thêm bền bỉ, hóa ra lại là một vấn đề mang tính kỹ thuật: hãy cố mà nhớ, những gì không thể trông cậy vào tờ giấy, nghĩa là, hãy cố nhớ, những bài thơ, của cả hai, chồng và bạn.
Làm cái điều vào thời chưa phát minh ra máy in như thế, thời kỳ tiền-Gutenberg - chữ của Anna Akhmatov - chắc chắn không phải chỉ có Nadezhda Mandelstam. Tuy nhiên, ngày đêm nhẩm đi nhẩm lại hoài lời của người quá cố, không chỉ để hiểu biết thêm về chúng, nhưng còn làm sống lại giọng nói của chồng, rất ư là của ông, chẳng thể là của ai, và như thế, bóng dáng chồng vẫn như kề cận, như ngày nào đã từng thề thốt, "nào nem công chả phượng, nào gừng cay muối mặn", "for the better or for the worse - và cái phần gừng cay muối mặn đó, mới đớn đau, mới đáng nhớ làm sao.
Cũng vậy, là thơ của bạn mình, người lâu lắm chưa được gặp lại, và, một khi đã có chớn, cái "kỹ thuật nhớ" như thế đó, sẽ chẳng thể nào ngưng. Điều này cũng được làm, đối với một vài tác giả khác, về một hai tư tưởng, ý nghĩ của họ, cho tất cả mọi chuyện không thể có cách nào khác để mà sống sót, ngoài cách nhớ đó ra.
Dần dà, chúng nẩy nở ở trong bà. Nếu có cái gì thế cho tình yêu, thì đó là hồi ức. Và muốn nhớ nhung, hồi ức, là muốn không chia xa, muốn trở thành thân quen, gần gũi. Dần dà những dòng thơ của những nhà thơ đó trở thành nỗi niềm, con người của bà. Chúng cung cấp cho bà, không chỉ  tầm nhìn, góc viễn, nhưng, quan trọng hơn, chúng trở thành tiêu chuẩn ngôn ngữ của bà. Bởi vậy, khi khởi sự viết những cuốn sách trên, là bà muốn đặt - vào lúc này, nó trở thành, như linh tính, như trực giác ở trong bà - những câu kệ của mình, ở trong thế tương tranh, đối đầu với những câu thơ của họ. Tính trong sáng, sự không hề hối hận, ăn năn ở trong những trang sách của bà, ngoài việc chúng nói lên tâm hồn của bà, còn là những hiệu quả văn phong tất yếu, không thể nào tránh được, của thơ ca, nhờ thơ ca mà có; chính thơ ca đã tạo nên vóc dáng tâm hồn bà. Trong cả hai, nội dung và văn phong, những cuốn sách của bà đúng là một lời bạt cho một ấn bản, thứ tối cao, tối thượng của ngôn ngữ. Mà thơ ca, yếu tính của nó là ngôn ngữ. Với bà, ngôn ngữ, và qua đó, thơ ca, trở thành máu thịt, nhờ nhẩm đi nhẩm lại đến  thuộc nằm lòng những dòng thơ của chồng.
Mượn một câu của W.H. Auden, thơ ca lớn "xô đẩy" bà vào văn xuôi, [great poetry 'hurt' her into prose]. Đúng như vậy. Bởi vì gia tài của hai nhà thơ lớn này chỉ có thể phát triển và tỉ mỉ, chi li mãi ra, bằng con đường văn xuôi. Với thơ, họ chỉ có thể có đệ tử. Và điều này đã xẩy ra. Nói một cách khác, văn xuôi của Nadehda Mandelstam là môi trường độc nhất cho ngôn ngữ-chính nó, bởi vì chỉ có như vậy, ngôn ngữ mới thoát ra khỏi tình trạng ao tù, trì đọng. Tương tự như vậy, nó là môi trường độc nhất khả hữu, cho một cõi tâm linh được hai nhà thơ dựng lên, qua cách sử dụng ngôn ngữ của họ. Do đó, tuy hoàn tất thật là tuyệt vời hai chức năng - hồi ký và chỉ dẫn  về cuộc đời của hai nhà thơ - hai cuốn sách còn làm được điều lớn lao sau đây: Chúng thắp sáng ý thức dân tộc. Riêng phần này, ít ra, chúng thật đáng được lưu truyền, sao chép.
Tuy nhiên, vẫn còn chút ngạc nhiên nho nhỏ, rằng sự thắp sáng ý thức quốc gia dân tộc này, nó là hậu quả của việc tố cáo hệ thống, chế độ. Hai cuốn sách của Bà Mandelstam thực sự là đã nhắm tới Ngày Phán Xét trên thế gian, về thời của bà và văn chương của nó - một sự phán xét rất ư là chính đáng, bởi vì kể từ thời của bà, sự nghiệp vĩ đại có tên là xây dựng thiên đàng trên trái đất này được khởi công thực hiện. Chút ngạc nhiên nhỏ nhoi hơn, là, hai cuốn hồi ức này, đặc biệt là cuốn thứ nhì, đã không được ưa thích bởi phía bên kia Bức Tường Điện Cẩm Linh. Giới cầm quyền, tôi phải nói, họ tỏ ra thành thực [honest] hơn, so với đám trí thức, ấy là nói về mặt phản ứng do mấy cuốn sách gây ra. Họ chỉ nói, việc sở hữu những cuốn sách đó là phạm luật. Nhưng về phía đám trí thức, nhất là đám ở Moscow, họ nhao nhao lên, như là một cái chợ, trước những lời cáo buộc nhắm vào rất nhiều thành viên nổi tiếng, hoặc cũng nổi tiếng, nhưng in ít hơn, của nó, về chuyện thậm thụt với chế độ, và đám người vẫn xun xoe nơi xó bếp nhà bà nhờ vậy mà giảm đi rất nhiều.
Có những lá thư hở, hoặc nửa kín nửa hở, có những quyết định rất ư là tởm lợm, là sẽ không thèm bắt tay, có những tình bạn, những hôn nhân đổ vỡ, do chuyện, không hiểu bà đúng hay là sai, khi chỉ tay vào kẻ đó, và nói, đây là một tên chỉ điểm. Một tay ly khai nổi tiếng vừa tuyên bố vừa lắc lắc chòm râu: "Bà đã ỉa lên cả một thế hệ chúng ta". Những kẻ khác bèn chạy vội về nhà, đóng kín cửa lại, và ngồi viết phản-hồi ký! Đúng thế đấy, những năm đầu của thập niên 1970 đã bắt đầu như vậy, và chừng sáu năm sau đó, cũng đám người đó, đã xào xáo, chia năm sẻ bẩy, trước thái độ của Solzhenitsyn đối với những người Do Thái.
Có một điều gì trong ý thức của văn giới, nó không thể chịu nổi quan niệm về quyền uy tinh thần của một kẻ nào đó. Họ tự nén mình trước sự hiện hữu của một Đệ Nhất Bí Thư Đảng, hoặc một Lãnh Tụ, như trước một cái ác cần thiết, nhưng họ hăng say chất vấn một nhà tiên tri. Điều này như thế, chắc hẳn là vì, bị gọi là một kẻ nô lệ, là một thông tin ít làm ngã lòng hơn, so với bị gọi là một con số không, về mặt tinh thần. Nói cho cùng, một con chó bị suy sụp thì cũng chẳng nên đá nó làm gì. Tuy nhiên, nhà tiên tri đá con chó suy sụp không phải để kết liễu nó, mà để cho nó đứng thẳng chân trở lại. Sự đề kháng trước những cú đá đó, sự chất vấn về những tuyên xưng và cáo buộc của nhà văn, không tới từ ước muốn tìm sự thực, mà tới từ sự đắc chí về mặt khôn lanh, láu cá của kiếp nô lệ. Vậy thì, càng tệ lậu hơn, đối với giới văn học, khi quyền uy không chỉ riêng về tinh thần, mà còn về văn hóa - như là trong trường hợp của Nadezhda Mandelstam.
Tôi muốn tản mạn thêm một chút, ở đây. Thực tại, chính nó, chẳng đáng một đồng xu teng. Chính cảm nhận của chúng ta đem ý nghĩa đến cho nó. Và, có đẳng cấp trong cảm nhận; cũng thế, có đẳng cấp trong ý nghĩa. Những cảm nhận được chiết qua những lăng kính tinh vi nhất, lọc lõi nhất, mẫn cảm nhất, chúng sẽ chót vót ở trên đỉnh. Lọc lõi, và cảm tính, ở đâu mà ra, nếu không là từ văn hoá, văn minh, vốn là nguồn cung cấp độc nhất cho một lăng kính như thế? Và dụng cụ chính của văn hoá, văn minh là ngôn ngữ. Đánh giá, thẩm định thực tại qua một lăng kính như thế  - có được lăng kính này, là một mục tiêu của sinh vật – nhờ vậy mà trở nên chân xác nhất, và có lẽ, chính đáng nhất [“Không công bằng!”, và Trọng tinh hoa”, sẽ có những tiếng la thét từ mọi nơi, sau một khẳng định như vậy, nhưng đâu cần, bởi vì, do định nghĩa, “trọng tinh hoa” là tính chất của văn hóa, và việc áp dụng những nguyên lý dân chủ vào môi trường tri thức sẽ dẫn tới sự kiện cào bằng, coi cá mè một lứa, giữa khôn ngoan và dốt nát, giữa minh triết và đần độn).
Chính vì sở hữu một lăng kính như thế – nó đã được trao cho bà, bởi nền thi ca số một của thế kỷ 20 của Nga, chứ không phải do tầm vóc nỗi đau duy nhất mà bà đã chịu đựng -  khiến cho khẳng định của bà về thực tại, là không thể nói ngược lại được.Thật là một giả tưởng quái đản, khi cho rằng có đau khổ mới có nghệ thuật lớn. Đau khổ làm cho người ta mù lòa, điếc lác, tàn hại, và thường khi, sát nhân. Osip Mandelstam là nhà thơ vĩ đại “trước” cách mạng. Cũng vậy, là Akhmatova. Cũng vậy, là Marina Tsvetaeva. Họ sẽ vẫn là họ, đếch cần đến cái cuộc cách mạng đó, đếch cần dù chỉ một biến cố lịch sử đó giáng lên đầu dân Nga: Bởi vì họ là thiên bẩm. Cơ bản mà nói, tài năng đếch cần lịch sử.
Liệu Nadezhda Mandelstam trở thành như là bà bây giờ, là do Cách Mạng, và tất cả những gì tiếp theo sau nó? Có lẽ không phải như vậy, bởi vì bà gặp người chồng của mình vào năm 1910. Nhưng một câu hỏi như thế, tự thân nó, là không thích hợp; nó dẫn chúng ta tới những vùng đất mờ ảo, của trò xác xuất - rằng chuyện như thế có thể xẩy ra - và tới thuyết tất định về lịch sử. Nói cho cùng, bà trở thành như bà ngày nay, không phải bởi vì những gì đã xẩy ra ở Nga, trong thế kỷ này, mà đúng ra là, bất chấp những chuyện đó. Ngón tay trỏ của một tên ngụy biện chắc hẳn sẽ vạch ra rằng, theo quan điểm của thuyết tất định lịch sử, thì "bất chấp" đồng nghĩa với "bởi vì". Rút cục ra, tất định thuyết về lịch sử thì cũng chỉ có vậy, nhưng ví bằng, nó quan tâm một tí, tới “cái gọi là con người”, nằm ở trong ngữ nghĩa của từ 'bất chấp'... ".
Gì thì gì, thì đây cũng là một điều tốt lành. Bởi vì, một người đàn bà mảnh mai, yếu đuối đã làm chậm - nếu không muốn nói, về mặt đường dài - đã ngăn chặn, cơn băng hoại văn hóa của cả một dân tộc. Những hồi ức của bà là một cái gì còn hơn cả một chứng tích, về thời của bà. Chúng là một cái nhìn lịch sử dưới ánh sáng của lương tâm và văn hoá. Dưới ánh sáng đó, lịch sử nhăn nhó, và cá nhân thực hiện sự chọn lựa của mình: Hoặc là, bỏ công tìm kiếm coi ánh sáng tới từ đâu, hoặc là, phạm một tội liên quan tới gốc rễ con người, đối với chính anh ta/chị ta.
Bà đâu có muốn lớn lao, cao cả như vậy, ngay cả chuyện giản dị, là muốn ngang hàng với chế độ, cũng không. Với bà, đây là một chuyện riêng, nó liên quan tới tính tình, phong cách rất đỗi tư riêng của bà, và điều tạo nên phong cách đó. Và như chúng ta đã biết đấy, một vóc dáng cá nhân như thế, là đã được văn hóa và những sản phẩm tối hảo của nó, tạo nên: những bài thơ của chồng bà. Chính chúng, chứ  không phải hồi ức về chồng, là điều mà bà cố gắng giữ sao cho sống hoài, không thể bị mai một. Chính là vì những bài thơ, chứ không vì ông chồng, mà trong vòng 42 năm trời đằng đẵng, bà trở thành một góa phụ. Lẽ dĩ nhiên, bà yêu chồng, nhưng tình yêu, tự thân nó, là một trong những tinh hoa, tài tình, "phong hoa nhất mực", của những đam mê trọn kiếp. Và tình yêu, nó chỉ có thể có được bản chất phong hoa nhất mực, có được những giấc mơ bay bổng, những viễn ảnh tuyệt vời, là từ nội dung văn hoá, bởi vì nó cần nhiều không gian ở trong đầu, trong tâm hồn, chứ không phải thứ không gian ở trên, và ở xung quanh một cái giường. Ra ngoài không gian đó, nó rớt liền vào không gian giả tưởng một chiều. Bà là goá phụ, đối với văn hóa, và tôi nghĩ, bà yêu chồng nhiều ở những ngày hôm sau, hơn ngày đầu họ lấy nhau. Có lẽ chính vì vậy mà độc giả  nhận thấy những cuốn sách của bà thật gây ám ảnh. Bởi vì điều trên đây, và còn bởi, cái gọi là thân phận của thế giới hiện đại trực diện với văn minh cũng được coi như là một thân phận ở góa [widowhood].
Nếu bà thiếu điều chi, thì đó là sự khiêm nhường. Về điều này, bà không như hai nhà thơ lớn của bà. Nhưng, họ có nghệ thuật của họ. Và thành tựu thơ ca, thứ thượng hảo, khiến họ khiêm tốn, hoặc làm ra vẻ như vậy. Bà thì rất ư là cổ hủ, cố chấp, câu nệ, khó chịu, thích làm theo ý mình; tư tưởng hoặc chưa chín chắn, hoặc phát triển theo kiểu "nghe người ta nói như vậy". Nói ngắn gọn, có rất nhiều cái gọi là sự thủ đắc ở nơi bà, thành thử người ta không ngạc nhiên, về chuyện bà ứng phó với những gì xẩy ra trong thực tế cũng như trong tưởng tượng. Sau cùng sự khó chịu của bà khiến nhiều người phải tránh né, nhưng phải như vậy thôi, bởi vì bà quá chán sự tâng bốc, quá chán được yêu mến bởi Robert McNamara, hay Willy Fisher [tên thực của Đại tá Rudolf Abel]. Tất cả những gì bà muốn, là được chết ở trên chiếc giưòng của bà, và một cách nào đó, bà trông chờ điều này, bởi vì, "ở trên ấy, tôi lại gặp Osip của tôi". "Không đâu, tôi đi trước bạn, lên trên ấy, và sẽ gặp Osip trước bạn", Akhmatova trả lời.
Ước muốn của bà sau đã trở thành hiện thực, và bà chết ở trên chiếc giường của bà. Với một người Nga thuộc thế hệ của bà, đây không phải là chuyện nhỏ nhặt: được chết ở trên chiếc giường của mình. Sẽ có những người than thở, rằng bà hiểu lầm thời của bà, rằng bà tụt hậu, không bắt kịp con tầu lịch sử  chạy về tương lai. Ôi chao, có thể nói, như mọi người đàn bà Nga khác thuộc thế hệ của bà, bà biết quá rõ một điều là, con tầu chạy về tương lai đó ngưng ở trại tập trung hay tại phòng hơi ngạt. Bà may mắn đã hụt chuyến tầu, và chúng ta may mắn, vì bà bảo chúng ta biết lộ trình của nó. Tôi [Brodsky] gặp bà lần chót vào bữa 30 tháng Năm, 1972, tại nhà bếp của bà, tại Moscow. Lúc đó cũng xế chiều, và bà ngồi, hút thuốc, tại một góc bếp, trong bóng tối của cái tủ đựng chén dĩa in đậm lên tường. Đậm đến nỗi, người ta chỉ nhìn thấy đốm đỏ của điếu thuốc, và hai con mắt sáng rực của bà. Cái còn lại - một thân hình mỏng manh, run rẩy dưới chiếc khăn choàng, đôi cánh tay, khuôn mặt bầu dục nhợt nhạt, mái tóc xám mầu tro, tất cả đều bị bóng tối nuốt sạch. Bà giống như chút còn lại của một đám lửa lớn, đốm than hồng làm bạn bỏng tay, nếu đụng vô.
1981
Joseph Brodsky
Jennifer Tran chuyển ngữ.

Tôi [Brodsky] gặp bà lần chót vào bữa 30 tháng Năm, 1972, tại nhà bếp của bà, tại Moscow. Lúc đó cũng xế chiều, và bà ngồi, hút thuốc, tại một góc bếp, trong bóng tối của cái tủ đựng chén dĩa in đậm lên tường. Đậm đến nỗi, người ta chỉ nhìn thấy đốm đỏ của điếu thuốc, và hai con mắt sáng rực của bà. Cái còn lại - một thân hình mỏng manh, run rẩy dưới chiếc khăn choàng, đôi cánh tay, khuôn mặt bầu dục nhợt nhạt, mái tóc xám mầu tro, tất cả đều bị bóng tối nuốt sạch. Bà giống như chút còn lại của một đám lửa lớn, đốm than hồng làm bạn bỏng tay, nếu đụng vô.

Tuyệt cú!

Bất giác, lại nhớ đến nhà văn nhớn GNV, và câu viết thần sầu của hắn:

Trong mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi, để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.

Hà, hà!


Nhân nói chuyện văn học Nga. Tết, con cháu lì xì, Gấu xuống phố, bệ về vài số báo.
Số ML, tháng 11, 2010, có bài phỏng vấn tác giả Hợt Cơ Bửn, số này xưa rồi, Gấu không tính mua, nhưng lật sơ bài phỏng vấn, vớ được mấy câu phán của chàng [sao trông hình giống y chang NL!], cũng được!
Số Le Point, référence, về văn học Nga, [cái này chỉ là tình cờ, đúng dịp đọc bài VTN, và ngộ ra 1 điều; Đám Bắc Kít rất mê văn học Nga, tên nào cũng khoe giỏi tiếng Nga, đã từng du học Nga, nhưng chưa tay nào viết nổi 1 bài về văn học Nga, trong cũng như ngoài luồng].
Mấy số báo thường lệ TLS, Điểm Sách London...
Số Asia Literary Review, đặc biệt về TQ, không có bài nào về Cao Hành Kiện, có thể vì tờ này đã có 1 số dặc biệt về ông, trước đó.
Ngoài bài thơ của Lưu Hiển Ba, còn bài phỏng vấn Yiyun Li, cũng được lắm.
Bữa trước, đọc loáng thoáng, hình như em được Mẽo [Xịa?] phát cho đâu nửa triệu đô, cho 1 dự án văn học, chắc cũng giống VHTQ của VP?
Li chắc bảnh hơn VP, vì viết bằng tiếng Mẽo, nhờ vậy ẵm cả nửa triệu đô, trong khi VP, vài chục ngàn!

Tờ Lire đưa giả thuyết: NL được… Goncourt là do lệnh của…  BBP?
Hà, hà!


**

**

Vẫn chuyện NL. Cái vụ ì xèo, liên quan tới dịch thuật, và từ tiếng Pháp, L’Igonrance. Mới đọc trên blog DDT:

Mới đây, có người bàn về từ “vô tri” khi dịch từ Pháp ngữ ignorance. Cơn bão tố trong tách nước này loanh quanh với vấn nạn giữa chữ không biết của việt ngữ và vô tri hán việt. Mặc dù vô là không mà tri là biết nhưng vô tri theo cách dùng của chúng ta không hàm nghĩa không biết (tri thức) mà hàm nghĩa vô cảm (cảm tính) ; khi nói vô tri, người ta nghĩ ngay đến gỗ đá, thú vật ; vậy vô tri là không biết cảm xúc chứ không phải dốt nát !
Blog DDT

Lời bàn của… GNV:
Nếu bạn DDT coi đây là trận bão trong chén trà thì đừng thèm để ý đến.

Nếu đã dính vô, thì đừng viết cái giọng thật hách, chắc như đinh đóng cột, như trên, bởi vì "chúng ta, người ta" ở đây, là ai?
Vả chăng, cứ giả dụ, đúng như bạn phán, bây giờ, có 1 Mít sử dụng từ 'vô tri', không như ‘chúng ta, người ta’ từng hiểu, được không?

Đã xẩy ra 1 trường hợp như vậy, khi DT dịch từ étranger, thành.. ‘người dưng’, chẳng giống ai, trước đó.

Dân Mít như GNV hiểu, sử dụng từ ‘vô tri’, theo nhiều nghĩa, và tùy trường hợp, tùy nội dung, tùy... tâm trạng của.. riêng chúng ta, mà ra cái nghĩa của nó.

Nói chung chung, nó bao gồm, vô tri như con heo, và vô tri, như nhà hiền giả.
Đó là hai giai đoạn của 1 đời người, hai dạng "non savoir", như Gấu đã từng lèm bèm, nhân bàn về một công án Thiền.

Bạn DDT này hình như cũng mới xuất hiện trên văn đàn [?], có lần mail cho GNV, nhân bàn về thơ TTT.
Gấu này rất kính trọng, chỉ đưa ra 1 lời chúc, có tính bạn bè, nhân dịp Tết: Viết gì thì viết, nhưng đừng coi thường người viết khác, đừng bắt chước... GNV, thằng cha già này sắp đi xa rồi, cho nó tha hồ hung hăng con bọ xít!

Hà, hà!

Riêng Gấu, dịch từ “ignorance”, là sự “ngu dốt”, như khi dịch bài phỏng vấn của Kundera, và từ đó bão tố trong chén trà nổ ra!

Cái tay 'con nợ của nhân gian' này, khi được 1 ông nhà văn Mít hải ngoại bò về, năn nỉ viết cho 1 bài, [con nợ mà], cho cuốn sách của ông mang về từ hải ngoại, bèn bệ ngay bài của Jennifer Tran, để trả nợ [ăn nhậu?], và cũng chẳng thèm cho biết JT này là ai, cứ tự nhiên như ruồi!
Hải ngoại phán, khác: Tự nhiên như người Hà Nội!