*

1
2
3
4
5
6
7
8







Ghi chú trong ngày

**

Paul Ricoeur & Heidegger

Lire:

A Auschwitz, Dieu n'a-t-il pas abanndonné les hommes ?

P.R. Je me rappelle cette reflexion entendue de la bouche d'un éminent professeur, juif polonais. Il avait connu la déportation et les humiliations: « Mon père avant cela disait : "L'homme est bon." J'ai subi toutes ces souffrances. Eh bien, au soir de ma vie, je dis la même chose que mon père." Croire en la possibilité de libérer le fond de bonté en l'homme, c'est pour moi un acte de foi fondamental.

Le pardon est-il possible tout de même ?

P.R.

Je suis très réticent à l'égard de toutes les facilités avec lesquelles on manipule le pardon. Le pardon, c'est ce qu'on demande et nullement ce qu'on donne. Et si on le demande, on doit être prêt a recevoir une réponse négative. Je rejoins ici Jankélévitch. II faut pouvoir affronter l'impardonnable. Pourquoi ? Parce que si le pardon est difficile, il doit s'articuler sur un travail double: un travail de mémoire et un travail de deuil. II ne s'agit pas d'en faire un acquittement superficiel. Non, il faut admettre l'indicible de l’aveu, le caractère inextricable des situations, l'idée de l'irrépaarable. Et le deuil ne se limite pas au deuil de ceux que l'on a perdus, il faut penser aussi au deuil d'une explication.

Heidegger a marqué votre oeuvre, inutile d'insister. Mais comment un philosophe peut-il se dévoyer politiquement comme il l'a fait en apportant sa caution à Hitler? Quel aveu d'impuissance de la part de la philosophie !

P.R. La culture, que je sache, n 'a jamais prémuni contre la barbarie. Pays de très haute civilisation, l'Allemagne, qui a sombré au plus bas de l'infame, en a offert un exemple cuisant. Cela étant, je n'ai jamais accusé Heidegger en tant que philosophe. Seulement sa philosophie, ne produisant ni morale ni politique, s'est créée en lui à une époque de doute intellectuel qui s'est manifesté par son incapacité à poursuivre Être et temps, une sorte de vide spéculatif qu'il a cru pouvoir remplir avec la figure de celui qu'il prenait pour un grand homme de l'histoire. C'est dans cet entre-deux, dans cette période de grande fragilité qu'il s'est trouve happé par le national-socialisme. Mais soyons clair, Être et temps n'est en rien un livre nazi, il s'agit, et toute la différence est là, d'un ouvrage qui ne protège pas contre le nazisme. Alors que Karl Jaspers, lui, ne pouvait pas succomber comme Heidegger car sa philosophie produisait une éthique et une politique.

Paul Ricoeur trả lời tờ Lire, số đặc biệt về Duras, Tháng Sáu, 1998.

Note:
Tình cờ vớ số báo cũ, đọc mấy câu trả lời trên, thú quá, bèn chôm luôn, đi 1 đường Phén chơi!

Ở Auschwitz, Chúa đã bỏ loài người?

Tôi nhớ tới câu của một giáo sư nổi tiếng Ba Lan gốc Do Thái. Ông ta biết về cái chuyện tống xuất, đưa người vô Lò Thiêu, và những nhục nhã: Ông già tôi trước đó, nói: Con người thì tốt. Tôi chịu đựng tất cả hậu quả [của câu nói của bố tôi]. Thế nhưng, về già, tôi phán y chang bố tôi: Con người thì tốt. Tin vào khả năng giải phóng cái sâu thẳm của thiện tâm ở nơi con người, theo tôi, đây là hành động của niềm tin cơ bản.

Sự tha thứ, nếu như thế, thì cũng có thể?

Tôi rất tởm cái trò giật dây, nào là khúc ruột ngàn dặm, nào là đừng bao giờ có 1 ngày 30 Tháng Tư thứ hai, thứ ba… Tha thứ, đó là cái người ta đòi, mà chẳng cho cái chó gì cả. Và nếu như thế, nếu người ta đòi, thì người ta phải sẵn sàng đón nhận 1 câu trả lời "cà chớn" [négative: phủ định, từ chối]. Phải dự trù đối đầu với điều: Tao đếch có tha thứ cho mày. Tại sao? Bởi vì nếu tha thứ khó, hơi bị khó, rất ư là khó, thì nó phải ăn khớp với một công việc kép: một về hồi ức và một về tang tóc. Đừng giả đò tha thứ. Thôi nhé, huề nhé! Không, phải thừa nhận cái sự không thể nói ra được niềm ăn năn, thống khổ, lời thú nhận, cái tính chất cực khó khăn của hoàn cảnh, cái ý nghĩ về sự không thể sửa chữa lại được [Cái Ác Bắc Kít, vô phương sửa chữa, thí dụ, Cái Ngày 30 Tháng Tư, sẽ còn dài dài, thí dụ]. Và nỗi tang tóc thì không phải chỉ hạn chế ở những cái tang về người đã mất, mà còn cái tang về 1 lời giải thích. 

Heidegger đã đánh dấu [thổi] tác phẩm của ông, khỏi phải lèm bèm thêm. Nhưng ra thế nào, nàm sao mà 1 triết gia bảnh tỏng như ông ta mà lầm lạc như thế, và đem thân phò Hitler? Đúng là 1 lời thú nhận sự bất lực về mặt triết học!

Văn hoá như tôi biết được, chưa hề ngăn ngừa, phòng chống sự man rợ. Một xứ sở với 1 nền văn minh đỉnh cao chói lọi như Đức, vậy mà ngập chìm trong tủi nhục, và đó là 1 thí dụ nhức nhối, đau thương. Nhưng tôi chưa bao giờ buộc tội Heidegger, như là 1 triết gia. Chỉ điều này, triết học của ông không sản sinh ra cả đạo đức lẫn chính trị, và gây ra ở trong ông ta, vào một thời kỳ, sự hồ nghi trí thức, và điều này được biểu lộ ra bằng sự bất lực của ông khi không thể tiếp tục Hữu thể và Thời gian, một thứ khoảng trống tư biện, mà ông ta nghĩ rằng, có thể làm đầy bằng hình tượng một con người coi mình như là vĩ nhân của lịch sử, cha già của dân tộc. Chính vào lúc đó, ông bị trúng bả Quốc Xã. Nhưng hãy minh bạch 1 điều, Hữu thể và Thời gian không phải là 1 cuốn sách Nazi, nó là, và đây là sự khác biệt rất ư khác biệt, một tác phẩm không phòng vệ chống chủ nghĩa Nazi. Trong khi đó, Karl Jaspers, ông ta không ngã gục như Heidegger, là bởi vì triết học của ông sản sinh ra một nền đạo hạnh và chính trị học.

Note: Bài phỏng vấn thần sầu, được thực hiện khi Paul Ricoeur cho ra lò cuốn Suy nghĩ Thánh Kinh, Penser La Bible. TV sẽ đi hết cả bài, sau, nhân dịp Noel năm nay

Hà, hà!

Thời gian đầu mới qua Xứ Lạnh, gặp lại cô bạn cũ, nghe lời đề xuất của vợ chồng cô, học thi lấy cái lai xần bán bảo hiểm nhân thọ, cùng lúc, thấy Hội Người Việt cần thiện nguyện viên trông coi tờ báo của Hội, [đếch có lương nhe, chỉ được 100 đô tiền xe/một tháng, thêm vô tiền trợ cấp xã hội], GCC bèn xung phong, chỉ để thử sức, liệu một mình mi lo nổi cả 1 tờ báo, đếch cần thằng chó nào khác, hà, hà].
Chính là trong những ngày đó, GCC được cái bà lo việc xã hội, cho phép đi cùng vô nhà tù Canada, thăm tù Việt, ra ý chúng tôi không quên mấy người đâu. Không phải tù người lớn, mà thường là đám thanh thiếu niên, và đa số Bắc Kít!
Cái chuyện đa số Bắc Kít là cũng có nguyên do của nó. Phái đoàn Canada thuộc Cao Uỷ Tị Nạn thường nhận người Bắc, vì Mẽo không chịu nhận. Trong thời gian chiến tranh, đám phản chiến, Miền Nam, đi du học, mê Bác Hồ, chọn nơi này làm quê hương tạm, thì cũng giống như nhà văn ST, quê hương mỗi người chỉ có một, ở đây là ở tạm…

Nabokov có 1 từ để gọi thứ văn chương tạp ghi của Mít, là “poshlost”, theo nghĩa “ăn cắp của ăn cắp”, imitations of imitations. Tuy nhiên nghĩa của từ này rộng hơn nhiều, như ông giải thích, khi trả lời tờ The Paris Review. TV post lại ở đây, rồi nhẩn nha bàn tiếp.

Nabokov vốn, vừa bạo miệng, vừa phách lối. Với ông, những tác giả được chấp nhận [accepted authors] chẳng có nghĩa gì: Tên của họ được khắc trên những cái mả rỗng, sách của họ toàn đồ bá láp… Brecht, Faulkner, Camus và nhiều người khác tuyệt đối chẳng là gì đối với tôi.

Tuy nhiên, câu trả lời sau đây, thì thành thật. Khi được hỏi, ngoài chuyện viết ra, ông làm gì, hay thích làm gì, ông phán:

-Ô, săn bướm, lẽ dĩ nhiên, và nghiên cứu bướm. Những lạc thú và phần thưởng nhờ cảm xúc văn chương, chẳng là gì hết so với khám phá ra 1 loài bướm lạ, và ngắm nó dưới ống kính… Giả như không xẩy ra cách mạng ở Nga, thì tôi đã dâng hết đời mình cho “lepidopteroloy” [ngành nghiên cứu bướm và  bướm đêm, moth] và chẳng thèm viết một cuốn tiểu thuyết nào hết.

*
(1)

Đọc Phén, Tạp Ghi, Dựa Hơi, Thơ Tán Gái, Thơ Ngồi Bên Tách Trà thì quả là "chẳng có gì xẩy ra" thật.

Nhưng quá một chút, thì lại vớ phải ông Nabokov, khi Ngài chửi cái vẻ trịnh trọng, làm dáng:
“Chúng ta đều chia sẻ cái tội Lò Thiêu"!
[We all share in German’s guilt].
Khó thật.

(1)

Văn nhân và Nghệ sĩ nhất
Đẹp như thơ
Thanh Tâm Tuyền.
Thank you, GNV.

Đa tạ. NQT


“Death is very likely the single best invention of life.”
–Steve Jobs
Steve Jobs nói cái chết là phát minh riêng của đời sống

TMT

Cái chết thì rất ư là phát minh đơn, lẻ, [“single”, đâu có phải là “own”], đẹp nhất của cuộc đời.
Sự thực, phải coi ông này nói câu này trong trường hợp nào. Chứ GCC thấy khó hiểu quá!

Chết ít khi đẹp lắm, nhất là đi tù VC mà chết ở trong rừng vợ con chẳng biết, ngoài mấy ông bạn tù, thì đơn lẻ, đúng, nhưng đẹp nhất, lại không đúng!
Mà cũng chẳng phải phát minh cái con mẹ gì.
Đói quá thì đi thôi.

Lần trước, đọc được 1 câu, ông Steve Jobs này chôm của James Dean, nhưng bị thiến mất 1 khúc:

Khi 17 tuổi, tôi [Steve Jobs] đọc ở đâu đó rằng: "Nếu sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng, một ngày nào đó bạn sẽ đúng".
Câu trên, của James Dean.
Tay này cũng đúng là 1 trường hợp "Hãy Ðói, Hãy Ðiên", và chết vì Ðiên, vì "La Fureur De Vivre".
Chàng phán thật bảnh:
“Dream as if you'll live forever. Live as if you'll die today.”
Hãy mơ mộng như bạn sống hoài hoài. Hãy sống như bạn sẽ chết ngày hôm nay.

Source


*

Biển

 Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà. 

Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả 

Cát ở đây được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này

Số phận còn thua hạt cát. 

Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời 

Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...

22/01/2010

Tôi được đọc bài thơ "Biển" của ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng ông hình của "tôi" bên bờ biển, như một lời chào. 

Trong email trước tôi đã vô lễ gọi ông là "Gấu Nhà Văn", vì đọc Tin Văn liên tiếp suốt mấy ngày liền, khiến tôi nhập tâm.
Thực tình, tôi thích cái bút danh đó.

Khi tôi chụp hình con hải âu, tôi cứ nghĩ nó là hình ảnh của chính mình. Ai ngờ, tôi lại gặp một con hải âu khác khi đọc bài thơ Biển của ông. Khi nhớ quê hương, kẻ thì "thương nhớ đồng quê", người nhớ Sài Gòn, còn tôi, tôi nhớ biển...

Merry Christmas.
Please take care and forgive.
NQT

Christopher Hitchens, 1949-2011

Note: Bạn thân của Martin Amis.
Người đòi đưa Kissinger ra tòa vì tội ác chống lại nhân loại

4. Ngài Henry thân mến,
(Dear Henry,)

Henry ở đây, là Henry Kissinger, ông vua đi đêm, ảo thuật gia trong ngành ngoại giao. Nếu Stalin có một hồ sơ nho nhỏ, về những năm tháng còn mang bí danh là Koba, và đã tìm đủ mọi cách để cho nó ngủ yên, cùng với những người không may biết đến nó, sau đây người viết xin được cống hiến, khuôn mặt giấu kín của ông vua đi đêm, qua bài viết "Dear Henry", trên tờ "Người Quan Sát Mới" (Le Nouvel Observateur), số đề ngày 9 tháng Năm 2001. Theo tác giả bài báo, cần phải đưa Kissinger ra toà án quốc tế.
Bài báo là một trích đoạn, từ cuốn "Những Tội Ác của Ngài Kissinger" ("Le Crimes de Monsieur Kissinger", tác giả Christopher Hitchens, nhà xuất bản Saint-Simons, 206 trang, 99 F).
 Trong mười năm, từ 1969 tới 1977, Henry Kissinger là kiến trúc sư về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ. Trùm Cố Vấn Quốc Gia về An ninh, và, từ năm 1972, Bộ trưởng Ngoại Giao, ông cho áp dụng lý thuyết về những liên hệ quốc tế, đã từng được ông điều nghiên và đem ra giảng dậy khi còn làm giáo sư môn khoa học chính trị tại đại học Harvard.
 Xuất thân từ một gia đình tiểu-trưởng giả (petite-bourgeoisie) Do Thái, tị nạn Nazi tại Mỹ vào năm 1938, con người - được coi là bộ não chiến thuật của Richard Nixon, và sau đó của Gerald Ford – đã từng say mê Metternich và "trật tự Âu Châu" nửa đầu thế kỷ 19. Viễn ảnh thế giới của Kissinger - ông ta đã cố gắng đem ra áp dụng, từ Việt Nam tới Cận Đông, từ Moscow tới Bắc Kinh – là một viễn ảnh dựa trên sự khinh miệt đối với những ý thức hệ, và một tiếp cận mang tính thực dụng, những tương quan quyền lực. Đi đêm với Bắc Kinh, kết quả, Hoa Kỳ công nhận Trung Quốc. Đi đêm với Lê Đức Thọ, kết quả, chấm dứt chiến tranh Việt Nam, người Mỹ ra đi trong danh dự; kết quả, đồng nhận giải Nobel Hòa Bình với họ Lê vào năm 1973. Luôn luôn đóng vai trò con người bình dị, khiêm tốn, trên chính trường quốc tế, nhưng đằng sau "Ngài Henry thân mến", là khuôn mặt giấu kín, sặc mùi máu. Chính bộ mặt này đã được ký giả Christopher Hitchens quan tâm. Dựa trên những hồ sơ mật tại Bạch Cung, tại Bộ Ngoại Giao, tại CIA, bây giờ đã được để cho công chúng coi, ông đã cố gắng chứng minh, thật khác xa con người được những kẻ ái mộ coi là một ảo thuật gia trong ngành ngoại giao, Kissinger đã chơi một trò chính trị mù mờ (confuse), không đem đến kết quả (inefficace), và mang tính tội ác (criminelle), và phải đem ông ta ra tòa án quốc tế.
 Bài báo trích dẫn, là về vai trò của Kissinger, trong vụ làm thịt tổng thống Salvador Allende của nước Chile, và kết quả là sự lên ngôi của nhà độc tài Pinochet.
 Từ năm 1962, tại Chile - cũng như tại Ý và một số quốc gia khác - CIA đã tài trợ những đảng phái "ngoan ngoãn". Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng Chín 1970, ứng cử viên tả phái, Salvador Allende đã thắng thế. Chỉ nội tên Dr Salvador Allende không thôi, đã là một cái gai đối với những đảng phái cực hữu, những công ty đầy quyền lực như ITT, Pepsi-Cola, Ngân Hàng Chase Manhattan, và CIA.
 Cái gai chẳng mấy chốc làm "nhức nhối" tổng thống Nixon, gì thì gì cũng còn chút ân tình với Donald Kendall, chủ tịch hãng Pepsi-Cola, thời gian Nixon không thành công trong chính trị, "đành" gia nhập một văn phòng luật nơi Phố Tường. Mười một ngày sau khi Allende chiến thắng bầu cử, một chuỗi hội họp đã diễn ra tại Washington, số mệnh của ngài tân tổng thống tả phái, và tương lai chính trị xứ Chile đã được quyết định. Sau khi bàn bạc với Kendall, với David Rockefeller (Ngân Hàng Chase Manhattan), và với Richard Helms, trùm CIA, Kissinger cùng Helms tới Văn Phòng Bầu Dục tại Bạch Cung. Qua những ghi chú của Helms, Nixon chẳng úp mở gì, cho biết ngay "ao ước" của ông: Allende không được rớ tới cái ghế tổng thống (Allende ne devait pas occuper ses fonctions électives). "Bất kể những rủi ro có thể xẩy ra. Không được để dính dáng tới tòa đại sứ. Trước hết là 100 ngàn đô la tiền mặt, sau cần nhiêu chi nhiêu. Làm việc ngày đêm. Chọn toàn dân xịn, thứ cừ nhất mà chúng ta có. Chương trình hành động: 48 giờ đồng hồ."
 Những tài liệu bây giờ cho thấy, Kissinger, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, khi đó chẳng biết gì về Chile, một xứ sở mà ông ta mô tả, "mũi dao nhọn nhắm thẳng vào trái tim Nam Cực". Nhưng gì thì gì, Sếp muốn là Trời muốn. Một nhóm người được triệu tập tại đại bản doanh CIA ở Langley, và một kế hoạch "đòn kép" được đề ra: một đòn "dương", nghĩa là công khai, về mặt ngoại giao, và một đòn "âm": đòn đánh lén. Bộ Ngoại Giao và Đại Sứ Hoa Kỳ tại Chile coi như không biết tới đòn này. Mục tiêu: tạo bất ổn định, bắt cóc, ám sát…. nhằm đưa tới một cú đảo chánh bằng quân sự.
 Kế hoạch gặp một số trở ngại, ngắn và dài hạn, nhất là trước khi Allende làm lễ tuyên thệ nhậm chức tổng thống. Trở ngại dài hạn, là do truyền thống của đất nước Chile, quân đội vốn giữ vị trí trung lập, đối với quyền lực chính trị. Trở ngại ngắn hạn nhắm vào Tướng René Schneider. Với chức năng Tổng Tư Lệnh Quân Lực, ông công khai bầy tỏ sự chống đối, bất cứ một âm mưu dùng quân đội đảo ngược kết quả bầu cử. Chính vì vậy, sau một cuộc họp vào ngày 17 tháng Chín 1970, một quyết định được đề ra: phải cho ông Tướng đi chỗ khác chơi.
 Kế hoạch "đốt nhà" được giao cho những sĩ quan cực đoan, rồi đổ tội cho những phần tử tả phái, ủng hộ Allende, là "đích danh thủ phạm". Phải làm sao tạo được một sự hỗn loạn khiến quốc hội không chấp nhận Allende làm tổng thống. Tiền thưởng 50 ngàn đô sẽ chi cho một, hoặc một nhóm sĩ quan chịu chơi. Helms và viên phụ tá đặc trách chiến dịch đòn ngầm, Tomas Karamessines, giải thích cho Kissinger họ không được lạc quan về chiến dịch. Thành phần sĩ quan tỏ ra ngần ngại, hoặc chia rẽ, hoặc trung thành với Tướng Schneider và hiến pháp Chile. Như ghi chú của Helms cho thấy: "Chúng tôi cố gắng làm cho Kissinger hiểu chuyện thành công là rất mỏng manh". Kissinger ra lệnh thật là minh bạch cho Heilms và Karamessines, tiếp tục chơi, với bất cứ giá nào.
 Ngày 15 tháng Chín 1970, Kissinger được thông báo, đã kiếm ra viên sĩ quan chịu chơi, tướng (général) Roberto Viaux; tay này có những liên lạc mật thiết với nhóm cực hữu Patria y Libertad, bản thân ông ta cũng là một tay cực hữu. Ông chấp nhận lấy 50 ngàn đô để trừ khử tướng Schneider. Danh từ được sử dụng để chỉ viên sĩ quan chịu chơi là "kẻ bắt cóc", tuy nhiên lại có lệnh hãy cung cấp súng máy, và lựu đạn cay cho những cộng sự viên của Viaux, họ cũng chẳng hề hỏi lại đàn anh, sau khi bắt cóc tướng Schneider, thì phải cư xử ra sao với ông ta.
 Sau đây là trích đoạn, một "thông điệp mật" của CIA, đề ngày 16 tháng Mười, sau cuộc họp mật cấp cao của viên chức Hoa Kỳ, vào ngày 15 tháng Mười, nhằm kiểm tra đánh giá những hoạt động của bọn chủ mưu. Thông điệp này được coi là "hướng dẫn chiến dịch", gửi cho những nhân viên CIA ở Santiago:
 … Allende phải bị lật đổ bằng một cú đảo chánh… Tốt nhất là trước ngày 24 tháng Mười (ngày tổng thống chính thức nắm quyền). Nhưng những cố gắng nhằm đạt được mục đích vẫn tiếp tục sau thời hạn trên. Chúng ta phải tạo áp lực tới mức tối đa, sử dụng mọi phương tiện thích ứng.. Bắt buộc phải hành động trong bóng tối, phải làm sao cho chính quyền Hoa Kỳ không bị mang tiếng…
 [Viaux và đám đệ tử, theo như đánh giá sau đó, là không thể kiểm soát được, có thể gây phiền nhiễu cho CIA và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, cho nên bị loại bỏ, và kế hoạch Schneider được giao cho một bộ phận quân đội được kính trọng hơn, cầm đầu bởi tướng Camilo Valenzuela, sĩ quan trưởng đạo quân ở Santiago.]
 Chiều ngày 19 tháng Mười 1970, nhóm Valenzuela, được tăng cường bởi vài người thuộc nhóm Viaux, với lựu đạn cay do CIA cung cấp, đã toan bắt cóc tướng Schneider khi ông rời một bữa ăn tối. Thất bại, do Schneider không dùng công xa như thường lệ, mà lại dùng xe riêng. Sau cú bắt cóc hụt này, CIA Washington ra lệnh phải khẩn cấp hành động, bởi vì phải trả lời cấp trên vào sáng ngày 20 tháng Mười, và hai phong bì, mỗi cái 50 ngàn đô, được trao cho Valenzuela, và phụ tá chính của ông, với điều kiện phải thực hiện bằng được mục tiêu. Cú thứ nhì diễn ra vào chiều ngày 20 tháng Mười, nhưng cũng thất bại. Ngày 22 tháng Mười, những khẩu súng máy "đã được sát rrùng" (có nghĩa là không thể nào tìm ra xuất xứ), được trao cho nhóm Valenzuela nhằm thực hiện cho được âm mưu kể trên, nhưng trong cùng ngày, tướng René Schneider đã bị nhóm Roberto Viaux ám sát.
 Cuộc đảo chánh đẫm máu lật đổ tổng thống Salvador Allende xẩy ra vào ngày 11 tháng 9 năm 1973, trong lúc Ngài Henry thân mến đang điều trần trước Thượng Viện, trước khi được phong chức Bộ Trưởng Ngoại Giao. Ông ta đã nói dối, khi quả quyết chính quyền Hoa Kỳ không có mắc mớ gì tới chuyện làm thịt tổng thống Allende. Những hồ sơ bây giờ được cho công chúng coi, cho thấy ngược lại. Trong số đó, có một, của tùy viên quân sự (thuỷ quân lục chiến) Hoa Kỳ, Patrick J. Ryan. Viên sĩ quan này đã ghi lại từng chi tiết, những liên hệ chặt chẽ giữa ông ta với những viên sĩ quan phản loạn dính líu vào âm mưu lật đổ tổng thống Allende. Viên sĩ quan này đã coi ngày 11 tháng 9 năm 1973 là "Ngày J", tương tự như ngày đổ bộ Normandie của quân đội Đồng Minh chống lại Quốc Xã, và nhận xét một cách hoàn toàn thỏa mãn, là "cú đảo chánh tại Chile gần như hoàn hảo" ["le coup d’Etat (sic) au Chili était presque parfait).
Jennifer Tran

When Martin Amis, his closest friend on earth, published a book in which he took Christopher to task for what he viewed as inappropriate laughter at the expense of Stalin’s victims, Christopher responded with a seven-thousand-word rebuttal in The Atlantic that will probably have Martin thinking twice before attempting another work of historical nonfiction. But Christopher’s takedown of his chum must be viewed alongside thousands of warm and affectionate words he wrote about Martin, particularly in his memoir, “Hitch-22,” which appeared ironically—or perhaps with exquisite timing—simultaneously with the presentation of his mortal illness

“[Mother Teresa] was not a friend of the poor. She was a friend of poverty. She said that suffering was a gift from God. She spent her life opposing the only known cure for poverty, which is the empowerment of women and the emancipation of them from a livestock version of compulsory reproduction.”

Christopher Hitchens (1949-2011): A Career in Quotes

Trong ba phê bình gia phán về ST, thì cả ba đều có tí vấn đề ["lợn cợn" đúng hơn].
NVK, thực sự khó mà gọi là 1 nhà phê bình, biên khảo.
Nhận xét của phê bình gia NMG về ông, chỉ là 1 ông quản thủ thư viện, sẵn sách đó, ông copy tưới và viết thêm vài câu, thường là khen, bất cứ 1 tác giả, và dán cái tên của mình vô.
NVK là 1 người thật tốt bụng, và làm quản thủ thư viện, phán về ông như vậy là quá đúng, theo GCC.
Ông HNH thì cũng có vấn đề. Một ông ở trong nước, được Mẽo WJC cho tí tiền qua Mẽo chơi, và cũng…  viết, "miễn cho xong một sô", như PNH phán, thì hay làm sao nổi, và làm sao đúng: Ông biết gì về văn học hải ngoại?
Chê làm sao được, như người ta nói, khách đến nhà mà lại chê chủ nhà thì láo quá!
Thành thử những gì gì "hội nhập, hội nhiệc" ở nơi nhà văn ST, là nhảm cả, đừng có tin.
Còn NMG?
Ông này cũng có gì lợn cợn.

Bị cái "ghét tô", là đám Chống Cộng Điên Cuồng, xém tí nữa xin ông tí huyết, nếu không xin lỗi chúng, làm sao mà ông không cần đến 1 ông ST, nhà văn "hội nhập, thoát ra ngoài lằn ranh, thù hằn Quốc Cộng", như… ông?

Một nhà văn được "người ta" chứa chấp trong nhà của người ta hàng mấy chục năm trời, không chỉ một mình mà toàn thể gia đình, không phải 1 đời mà còn dài dài nhiều đời, phán về cái đất nước chứa chấp ông và gia đình ông, như ông nhà văn ST, liệu có thể coi là "hội nhập" không?

Hội nhập gì mà…  vô ơn đến mức như thế?

Hay là lý do là vì không nói được tiếng của người bản xứ, nên không có được cái nỗi hạnh phúc, bàng hoàng “không hội nhập”, như Loseff, ông bạn của Brodsky, qua Mẽo 30 năm mà vẫn như ngày đầu:

“Bây giờ, đã sống ở đó 30 năm, tôi đôi khi vẫn cảm thấy một sự phấn kích lạ kỳ, mình đó ư, nhìn đất lạ này, với cặp mắt của chính mình, ngửi cái mùi lạ như là mùi của mình, nói tiếng lạ như là tiếng của mình”.

ĐỌC VĂN HỌC HẢI NGOẠI

Hoàng Ngọc Hiến

Lời dẫn: Đoạn văn dưới đây đề cập tới một số truyện của tôi, được trích từ một bài viết về Văn Học Việt Nam tại Hải Ngoại của ông Hoàng Ngọc Hiến, nhà phê bình văn học, hiện cư ngụ tại Hà Nội. Tôi chưa được hân hạnh quen biết hay gặp gỡ ông Hoàng Ngọc Hiến nên chưa có cơ hội xin phép trích đăng đoạn văn này. Tôi xin mạn phép tác giả lấy từ trang nhà của Việt Báo Online. Việt Báo Online đã đăng bài phê bình này trong nhiều kỳ báo. Quý vị độc giả muốn có toàn văn bài viết xin vào www.vietbao.com số ngày 30 tháng 7 năm 2001 và các số kế tiếp. ( ST )
[Trích trang net của Song Thao].

Như GCC đã lèm bèm, bài viết của HNH đăng trên VHNT, của PCL, mục Tin Văn, do GCC phụ trách, cùng lúc Gấu gửi cho ông bạn văn PTH phụ trách Việt Báo online, đăng song song.
ST và GCC chẳng xa lạ gì nhau, cùng dân Canada, và GCC đã từng gặp ông đôi ba lần, đã từng cộng tác với báo của nhóm của ông, đã từng làm MC "ca" tác phẩm của các bạn của ông... đôi bên chẳng có chuyện gì cả, như vậy, tại làm sao mà ST không nhắc đến VHNT, là nguồn chính của bài viết, và, tiện thể xin phép PCL, là người chủ biên, và hỏi thăm, say Hi một tiếng, với GCC, là người mất công gõ bài đưa lên net?

Thường lệ, khi trích đăng, người ta nhắc tới nguồn, và xin phép nguồn. Ngay 1 tác giả, khi gom bài đã từng đăng báo, để in thành sách, thì cũng lịch sự ngỏ lời xin phép tờ báo đã từng đăng bài, vì đây còn liên quan đến vấn đề nhuận bút nữa. Bài của bất cứ tác giả, khi gửi đăng báo, là đã lấy tiền nhuận bút, và như thế tòa báo mới đích thực là người sở hữu bài viết.

Ông ST này chắc là không biết đến những chi li trong nghề như trên, dù đã từng viết báo từ những năm trước 1975, tại Miền Nam.

GCC suy ra là ông rét. Thành thử mới thanh minh thanh nga là tôi chưa từng quen HNH.

Cái chuyện vờ thằng gõ bài, thì cũng có lý do, nhưng rét mới là chính, bởi là vì, NMG lên tiếng khen um lên, truyện ngắn vượt ra ngoài "ghét tô" thù hận giữa người Việt, mà NMG thì đã từng khốn khổ với “ghét tô” đó, nay khen ST, là để kéo phe đảng.
ST đâu có ngu, nhận lời khen, nhận quen biết HNH là tụi nó lại hỏi thăm sức khoẻ của mình, như đã từng, với ông NMG.
Đếch có được.

GCC này đã từng phán, do kinh nghiệm mà biết, đếch có 1 tên Bắc Kít nào ngu cả, và đó là cái lý do nước Mít sa xuống đáy địa ngục!
Đâu phải những ông như HC, như Nobel Toán...  không nhận ra, cờ đến tay mình là phất, nghĩa là lịch sử đã chọn mình, như đã từng chọn Akhmatova, Brodsky, hay Milosz, hay Mandelstam… nhưng họ đều lắc đầu, đếch phất cờ, ngu sao mà… chết.
GGC lại nhớ đến anh cu Nils, và lần viếng thăm thành phố bị trời đày ở đáy biển cả, và chỉ cần có 1 người bỏ tiền ra mua 1 món đồ, do cư dân của thành phố này làm ra, bằng sức lao động của mình, thì lời nguyền mất linh, thành phố được cứu rỗi. Anh cu Nils mê 1 món đồ kỷ niệm quá, thò tay tính lấy bóp, thì hóa ra để quên ở nhà!

Chỉ cần 1 tên Bắc Kít ngu thôi, là cả xứ Mít được cứu rỗi.
Đếch có thằng BK nào ngu cả. Khổ thế!

Đã không ngu, mà còn vô ơn nữa.
Cái chuyện vô ơn, thì GCC suy ra, nhân lần đi thăm tù… VC ở 1 nhà tù ở Canada, khi làm thiện nguyện cho Hội Người Việt.

[Có thể có vị độc giả, đọc những lời chửi BK kinh quá, khủng quá, ở trên, bèn vặc Gấu, mi bảo BK sợ chết ư, thế thì tại làm sao lại thắng được cuộc chiến, đánh bại được cả hai thằng thực dân cũ, mới, đã từng nhỏ máu đầu ngón tay xin tình nguyện vô chiến trường Miền Nam…

Chuyện này thì lại có cái lý do của nó, GCC xin giải thích sau, trong kỳ tới, và nó liên quan tới lý do hiện hữu của giống Mít, có gì tương tự với lý do hiện hũu của giống dân Do Thái.]

Băng NM ở Montreal, trong có ST, Gấu quen, qua NTV, vào những ngày mới tới Xứ Lạnh. Đó là lần cả đám xuống Toronto, và NTV kéo Gấu tới, dù Gấu không được mời, vả lại, vào lúc đó, Gấu còn đang mơ giấc mơ “hợp tung”, kéo cả thế giới về bên mình, và phiá bên kia là..  Việt Cộng.
Gấu nhớ có thời Gấu viết cả cho báo Đông Âu, Đức, như Cánh Én, Gió Đông.
Và đó là lý do Gấu tự động viết bài cho báo NM, đếch làm cao làm kiếc gì cả, nhưng băng này thì lại làm như là Bố Chó Xồm, như cái lần Gấu làm MC không công cho họ, khi ra mắt sách của 1 đấng trong băng, Gấu đã lèm bèm vài lần rồi.
Bài viết về Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, và trong bài viết, là kỷ niệm về Cao Bồi liên quan tới ông anh nhà thơ.
Hay là bài thơ “thần sầu” [“hào khí nhất trời,” như 1 ông bạn đã mất, cùng đi tù Bangkok của Gấu là nhạc sĩ Nguyễn Phước ở Úc, khen tặng]:

Trong vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường tha thẩn đi về

Quả là những kỷ niệm thật đẹp.


*

Amos Oz's fiction

Universal stories from a unique place

Một bài viết quá tuyệt về Amos Oz.

“At the conclusion…everyone is disappointed—but still alive." It should come as no surprise that Chekhov is one of Mr Oz's main influences.
Sau cùng thì là mọi người thì đều không hài lòng, nhưng vưỡn còn sống. 

Chekhov là thầy của Oz mà!



Có vài điều bất thường chung quanh cuốn sách:

1/ Sách bán chạy một cách …lặng lẽ; ngay trước khi tác giả được chọn trao giải. Người ta loan tin số sách đã bán ra là 56,000 cuốn trước khi nó được quàng lên bìa chiếc băng đỏ ghi “Giải Goncourt 2011”. Con số dự trù tái bản sau này là 400,000, một con số thông thường dành cho tác phẩm trúng (hai năm trước, cuốn sách của Jonathan Littell được in đến 600,000, sách còn dày hơn cuốn này nữa).

2/ Mặc dù vinh quang như vậy, chẳng thấy nhà phê bình nào nói đến nó một cách tỉ mỉ. Các tuần san có phần dành cho văn học như L’Express, Le Point chỉ phổ biến những đoạn tin ngắn. Trên Magazine Littéraire của tháng 11/2011 chưa thấy nói đến. Lire cũng chỉ nói đại khái.

3/ Đọc xong cuốn sách, đã xếp lại mà người đọc còn ngẩn ngơ không hiểu nổi chủ định của người viết. Ông ta kể ra nhiều điều, đơn cử nhiều thực trạng, nhiều chứng cứ lịch sử nhưng nhằm mục đích gì, khó mà nắm được. Một mình Frédéric Beigbeder trên trang ký văn học hàng tuần của tờ Figaro đã thử nêu vấn nạn: liệu cách can thiệp của các cường quốc dân chủ hiện nay, dưới chiêu bài ủng hộ và tán thành của LHQ, vào chủ quyền của nhiều quốc gia, có phải là một hình thức thực dân mới?

DDT: DM

GCC chưa được đọc "Nghệ Thuật Làm Thịt Người Của Tẩy", nhưng dưới đây là 1 số nhận xét về nó, và nếu đúng, nghĩa là khác với cái nhìn của DDT, thì đây là cuốn sách Tẩy đang quá cần: Một anh Tây, viết 1 cuốn sách để nói, tôi xin lỗi, những đất nước đã từng bị chúng tôi biến thành nô lệ.

Nguyễn Mạnh Côn cũng đã từng viết 1 truyện như thế này, cái tít GCC nhớ đại khái, Chuyện một người đòi trả nợ cho cả 1 dân tộc.
GCC cũng đang viết v1 thng Bắc Kít khốn kiếp…  sám hối, đòi một mình vác cả gánh nặng Cái Ác Bắc Kít, thay cho cả lũ Bắc Kít!

Hà, hà!

Prix Goncourt won by 'Sunday writer'

"Nhà văn Chủ Nhật" thắng Goncourt

A biology teacher from Lyon has won France's top literary prize, the Prix Goncourt, for his first novel.

Alexis Jenni, who describes himself as just a part-time author – a "Sunday writer" – was named winner of the Goncourt yesterday lunchtime after the Académie Française jury voted by five to three to award his debut L'Art français de la guerre (The French Art of War) the prize ahead of the award-winning author Carole Martinez. The Goncourt is worth a token €10 but guarantees the winner sales of at least 400,000 copies.

A journey through France's military history in Indochina, Algeria and at home, Jenni's 600-page novel is told through the eyes of Victorien Salagnon, a war veteran who becomes a painter, and the young man he teaches to paint in exchange for writing his story. ""I saw the river of blood which flows through my peaceful town, I saw the French art of war, which never changes, and I saw the turmoil which always happens for the same reasons, for French reasons which never change," writes Jenni in the novel. "Victorien Salagnon gave me all of time, through war which haunts our language."

Moroccan poet and writer Tahar Ben Jelloun, on the jury for the Goncourt, described the winning novel as "a great literary work which touched on the history of France" in French paper Le Figaro. Thanks to Jenni, he said, "millions of young people will reflect on the war in Indochina, in Algeria, in France today". His fellow jury member Bernard Pivot said the novel was "innovative, interesting, exciting [and] sublime".

Nhà thơ, nhà văn Ma Rốc, Tahar Ben Jelloun, trong ban giám khảo, phán, nhờ Jenni, "hàng triệu người trẻ ngày nay sẽ có cái nhìn về cuộc chiến ở Ðông Dương, Algeria, và ở Pháp".
Bernard Pivot, cũng trong ban giám khảo, phán, cuốn tiểu thuyết “làm mới, thú vị, gay cấn” và “tuyệt cú mèo, thần sầu”!

Five years in the writing, L'Art français de la guerre is Jenni's third completed manuscript but the first which he has managed to get published, sent by post to just one publisher, Gallimard, which snapped it up and has already sold 56,000 copies. A 48-year-old school teacher who has vowed not to give up his job following his win, Jenni told French paper Le Monde in August that "a year ago, I thought I would never be anything other than a Sunday writer. Today, I am exactly where I wanted to be, but where I never thought I would arrive".

The author, who blogs about everyday life in Lyon on his site Voyages pas très loin, joins recent winners of the Goncourt Michel Houllebecq and Jonathan Littell, and past winners including Marcel Proust and Simone de Beauvoir. Yesterday also saw the Prix Renaudot awarded to Emmanuel Carrère for Limonov, the story of the Russian writer.

Bỏ ra năm năm để viết "Nghệ thuật giết người của Tẩy" bản thảo thứ ba hoàn tất, nhưng là bản thảo đầu tiên gửi theo Bưu Ðiện tới nhà xb độc nhất mà ông tính thử thời vận, nhà Gallimard. Cái việc được Gallimard in đã quái rồi, mà lại còn vừa kịp để đợp giải, mới cực khoái! Ông năm nay 48 tuổi, làm nghề dạy học, và, không bỏ nghề dù thắng giải, ông phán, "một năm trước đây, tôi nghĩ mình đếch có thể là cái gì hết, ngoài là Nhà Văn Nhủ Nhật. Bữa nay, tôi đúng là cái thứ mà tôi muốn là, nhưng trước đây, tôi chẳng hề nghĩ mình bò tới được cái chỗ đó!"

Buồn!

Không phải GCC buồn mà là David Remick, ký giả Mẽo, khi nghe Newt Gingrich, ứng cử viên Tông Tông Mẽo, phán, Palestine là 1 dân tộc “được phịa ra”: Một lời phán thật đáng sợ [đây là do ý đồ xấu kết hôn với sự ngu dốt, “That’s what happens when pandering is married to ignorance,"] nhằm ém nhẹm [làm nhỏ lại] dân tộc và lịch sử Palestine. (1)

Tình cờ GCC đọc DDT cùng lúc đọc cái tin thời sự, nhưng, nếu như thế, thì cách đọc của DDT ngược lại, nghĩa là, làm gì có chuyện Tẩy giết người mà nói chuyện... nghệ thuật?

Thật đáng sợ!

Sự thực, đề tài này được nhiều người viết rồi, và thường là những tay đã từng làm thịt dân bản xứ, thí dụ Le Mal Jaune, Nỗi Đau Vàng, của
Jean Lartéguy, nhưng đây là lần đầu tiên đề tài và người viết được giải văn học lớn của Pháp.  

Truyện của NMC, Gấu nhớ đại khái, là về 1 viên y sĩ Tây, hy sinh thân mình, [lấy máu mình, thuộc loại hiếm, để tiếp cho 1 ca đẻ khó, của 1 cô gái Mít]. Ông làm như thế, để xin lỗi cái đất nước mà Tây đã gây nên không biết là bao nhiêu tội ác, và tội ác này bây giờ vẫn còn ám ảnh tiếng Tẩy [through war which haunts our language].

(1)

Republican candidate Newt Gingrich’s characterization of the Palestinians as an “invented” people is an “alarming attempt to diminish the Palestinian people and to diminish Palestinian history,” according to David Remnick, the Pulitzer-prize winning editor of the prestigious New Yorker magazine.
In a conversation with Haaretz, Remnick also took a dim view of the support that various Republican candidates have given to positions that are to the right of the Israeli public and its government. “That’s what happens when pandering is married to ignorance," he said, “It’s out of synch and out groove with what the arguments are. And it’s sad.”

Obsession nationale

A l'origine, jure-t-il, la question coloniale ne le travaillait pas pour des raisons personnelles. Mais ce qu'il écrivait s'est mis à entrer en résonance avec l'actualité, et avec l'obsession nationale pour l'immi-gration, "comme si c'était notre seul problème". Nouvelle hésitation : écrire un roman "sur aujourd'hui ou sur hier" ? D'autres questions se sont ajoutées : "Prendre une écriture classique ou écrire de l'intérieur, avec une voix un peu éruc-tante et rythmée" ? "Première ou troisième personne" ? Finalement, il a décidé de ne pas trancher, et L'Art français de la guerre se compose de deux parties qui racontent en alternance le présent du narrateur et le passé de Salagnon, l'ancien parachutiste dessinateur : "C'est pour cela qu'il est si gros", plaisante son auteur.

Một ám ảnh quốc gia, [Jenni told French paper Le Monde] vậy mà DDT viết:
"Đọc xong cuốn sách, đã xếp lại mà người đọc còn ngẩn ngơ không hiểu nổi chủ định của người viết"?

Bỗng GCC lại nhớ tới viên đại tá già Trưởng Phái Đoàn Pháp tại trại tị nạn Thái Lan, và câu trả lời của ông, khi Gấu xin đi Tây: Ta đã đọc hồ sơ của mi. Mi đã từng làm bồi Mẽo, thì tốt nhất, xin đi Mẽo làm bồi Mẽo tiếp. Tây là để chỉ để dành cho những tên Mít đồng bào của mi, chẳng nơi nào nhận cả. Nếu ta OK cho mi đi Tây thì mất 1 suất của họ.
Ui chao bây giờ thì Gấu mới hiểu: Ông cũng bị cái nỗi đau da vàng, le mal jaune, hành.


Ghi chú trong ngày

LTT:
Cũng qua các bài phỏng vấn vừa nhắc, được biết anh đã viết Phiếm luận từ trước 1975 ở Sài Gòn, lúc bấy giờ anh thường viết về những đề tài nào?  Chẳng hạn như “Tuổi trẻ và chiến tranh”, “Chiến tranh và đời sống nơi thành thị”, “Chiến tranh và hòa bình” hoặc “Nông thôn và chiến tranh” vân…vân..Sau này, anh có còn lưu giữ lại được vài ba bài nào để làm kỷ niệm không? Ngoài ra, so với những bài phiếm luận trước năm 1975 và những bài phiếm hiện nay, thì thời nào anh viết hứng thú nhất? Vì sao? 

ST:
Trước 1975, tôi có viết những bài gọi là “phim” cho các báo hàng ngày, hàng tuần và mỗi nửa tháng như Dân Ý, Tìm Hiểu, Thời Nay, Thời Việt…Đó là những tờ mà tôi viết thường xuyên mỗi kỳ báo ra. Thực ra những bài viết của tôi thời đó không hẳn là phiếm như những bài tôi viết tại hải ngoại bây giờ. Bây giờ viết tương đối thoải mái hơn. Mình sống kiểu sống nhờ tại một quốc gia mà mình bắt buộc phải nhận mình là công dân của quốc gia đó. Nó không là máu mủ của mình nên mình cũng không nợ nhiều như mình nợ đất nước mình. Ngày xưa những bài viết của tôi nặng về phần chỉ trích, chế giễu, đòi hỏi và có ý hướng cải thiện xã hội hơn. Chúng có cái vẻ… trâu đánh hơn. Ngày nay viết là viết lấy vui, cười với nhau, ngẫm nghĩ với nhau một cách chung chung, ba lơn ba cợt. Như vậy anh thấy cái tinh thần và mục đích của bài viết ngày trước và bây giờ đã khác nhau, khác xa lắm. Ngày xưa tôi viết khi còn đang đi làm, bận tíu tít. Có nhiều lần ông tùy phái của tòa báo phải tới sở làm của tôi đợi bài để mang về cho thợ sắp chữ gấp kẻo báo ra trễ. Ngày nay, hưu rồi, tiền sinh sống đã có chính phủ lo, tâm trí mình thảnh thơi hơn nhiều. Viết như một cái thú, thích thì viết, hứng thì viết, chẳng ai bắt, chẳng vội vàng chi. Cứ như rong chơi vậy anh ạ.
[Ngưng trích]

Nguồn DM

Đọc, bỗng nhớ tới... Gấu, và những ngày ở trại tị nạn Thái Lan, chờ gặp phái đoàn, xin gặp, và xin được chấp nhận cho đi tái định cư đệ tam quốc gia.
Và cái ước mơ, giống như của 1 em bé câm, được 1 vị bác sĩ chữa cho khỏi, và trong đêm khuya, chờ sáng, cô bé lẩm bẩm lời cám ơn đầu tiên dành cho người đã đem lại tiếng nói cho mình.
Câu chuyện này ở trong Tâm Hồn Cao Thượng, De Amicis, Hà Mai Anh dịch ra tiếng Việt
Với Gấu, thì là những lời cuối cùng của 1 anh già, được nhà nước Canada chấp nhận.
Thời gian đó, Gấu cứ đinh ninh Ông Giời chỉ cho mình sống tới 70 tuổi, làm cái gì thì làm cũng trước con số đó, và nhiều lúc giật mình, tự nhủ, hay là nói mẹ những lời cám ơn ra, cho chắc ăn, và cứ coi như là những lời cuối cùng!

Chuyện này, GCC cũng đã lèm bèm mấy lần rồi, nhưng đọc câu trả lời của nhà văn ST, thì nó lại bật ra, và cùng lúc, còn làm nhớ lại, lần đi thăm tù, tặng quà cho tù, ở 1 nhà tù Toronto, thời gian làm thiện nguyện cho Hội Người Việt.

Dân Canada, khi đọc những dòng của ông ST, cũng dân Canada, sẽ nghĩ như thế nào:

Mình sống kiểu sống nhờ tại một quốc gia mà mình bắt buộc phải nhận mình là công dân của quốc gia đó. Nó không là máu mủ của mình nên mình cũng không nợ nhiều như mình nợ đất nước mình...

Và 1 ông Mít, khi đọc, thì sẽ như thế nào, về cái lòng yêu quê hương chỉ có một, thứ quê hương “máu mủ” của ST?

Đừng nghĩ là GCC lên giọng đạo đức. Có 1 cái gì cực kỳ thê thảm ở đây, liên quan tới cái gọi là quốc gia, dân tộc, màu da, và điều mà Steiner phán, tôi rất tởm cái gọi là quốc gia, và để phản biện, Oz nói, với giá đó, tôi đếch chịu.


Un étranger dans une ville étrangère
Tôi không như Steiner, cái giá để trả cho một cuộc sống không tổ quốc, tôi sẽ không chịu trả.

Oz trả lời phỏng vấn 2
Oz trả lời tờ Tin Nhanh

-Trong cuộc xung đột Israel-Palestine, vấn đề không phải là học yêu thương, hòa giải hòa hợp, mà là, tách rời. "Hãy giúp chúng tôi ly dị nhau!", ông lập lại câu này nhiều lần trong những cuốn sách của ông. Như thế nghĩa là thế nào?
Câu trả lời chỉ nằm trong một từ: Chia. Chia căn nhà ra làm hai phòng nhỏ. Chẳng có một hy vọng, một cơ may nào, ở cái chuyện, chúng tôi nhảy vào lòng nhau, ôm hôn thắm thiết, và la lớn lên:
"Ôi người anh em Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam của chúng mình ơi, hãy yêu nhau đi, chiều hôm tối rồi!"
*
Đây là Gấu cương đại: Il n'y a aucune chance pour que nous nous jetions dans les bras les uns des autres en criant: O mon frère, qu'importe la terre, aimons-nous!: Chẳng có cơ may nào về cái chuyện chúng tôi ôm lấy nhau, và la lên: Đất cát mà nhằm nhò gì, chúng ta hãy thương yêu nhau!
Sẽ có người chửi, Ả Rập, Do Thái làm sao so sánh với người Việt được. Bắc, Trung, Nam, là do hoàn cảnh địa lý, lỗi là tại cái chữ S, chứ vưỡn là người Việt, máu đỏ da vàng!
Nhưng, Gấu đã từng đọc, đâu đó, hình như từ ông Dickens thì phải, ông này phán, mấy người cùng máu, thịt lẫn nhau còn 'máu' hơn là thịt, mấy thằng cha khác máu.
Đâu cần gì đến ông Dickens!
Hãy nhớ lại cảnh Việt Gian bị Việt Minh làm thịt, cảnh, làm thịt cả một miền đất, ngay sau 30 Tháng Tư, cảnh Việt Kiều yêu nước, khi còn ở trại tị nạn, hình như là Hồng Kông thì phải, một đám thì hoan hô ngày 30 Tháng Tư thống nhất đất nước, đám kia thì không hoan hô, thế là 'máu' lẫn nhau!

Amos Oz

Gấu đọc Oz lần đầu tiên, trên tờ The Partisan Review, đúng bài viết về Y sĩ đồng quê của Kafka, nhờ vậy ngộ ra liền, sợi chỉ đỏ xuyên suốt, Cái Ác Bắc Kít, con quỉ nơi chuồng heo hoang vắng trong căn nhà của ông y sĩ đồng quê, tiếng gọi cấp cứu của con bệnh Miền Nam, và ông y sĩ vội vã lên đường, xẻ dọc Trường Sơn, và để đền ơn con quỉ ban cho cặp ngựa, đã hy sinh một cô Phương, cho đám bộ đội Cụ Hồ, trong một trận dội bom ga Thanh Hoá, và sau này nhà văn Bảo Ninh đã kể lại trong Nỗi Buồn Chiến Tranh....
Đọc bài của Oz, Gấu ngộ ra được nọc độc Kafka. Ngộ ra điều: Kafka viết dưới bóng tối Lò Thiêu, [khi đó chưa xẩy ra], Gấu đọc ông, dưới bóng tối Lò Cải Tạo.
Đừng nghĩ là Gấu này 'cường điệu'. Bạn thử đọc truyện Y Sĩ Đồng Quê, rồi tưởng tượng ra, anh nông dân Bắc Kít khù khờ của nhà văn Lê Lựu, anh cu Sài, thí dụ, trong ba lô có cái bát quí dành cho Miền Nam, hay nữ văn công kiêm nhà văn DTH, mà chẳng thấy y chang ông y sĩ đồng quê của Kafka, nghe báo động hoảng, có bệnh nhân thập tử nhất sinh, vượt mưa gió, đêm đen, bão tuyết, tới bên giường bệnh, thì mới biết là mình bị bịp.
Đâu có khác gì DTH ngồi bên vệ đường than khóc, mình bị Đảng lừa?
Anh Sài của Lê Lựu làm gì có cái bát dành cho Miền Nam!
Chỉ có vài cái ba lô mang sẵn từ Miền Bắc, để nhét chiến lợi phẩm!
Nhật Ký Tin Văn

Nghe bài hát đầu “Xuân”

Bài này, nếu lời chỉ giản dị như vậy, làm sao bị cấm hát, và Mùa Xuân đầu tiên chỉ tìm ra được tiếng hát của nó, lần đầu tiên trên đài Mút Cu Va?
Qua một ông bạn, cũng quen biết Lý Đợi, bài ca chết, vì tiên tri cái chết của Đỉnh Cao Chói Lọi, qua câu hát:
Từ đây người biết quên Người.

Như tinh thần bài viết cho thấy, quả có một thời kỳ huy hoàng thật ngắn ngủi, ngay sau 30 Tháng Tư 1975, trước khi đất nước bước vào cơn Đại Suy Thoái, Cơn Băng Hoại, Trận Đại Hồng Thuỷ, Cả Nước Đua Nhau Chạy Ra Biển, Trận Đại Dịch biến đổi gien, khiến VC biến thành ruồi, thành bọ.
Koestler đã từng gọi thời kỳ này, The Heroic Age, của lịch sử nhân loại, trước khi bước vào Dark Interlude, tức thời kỳ hơi bị được chúc dữ bởi cái vòng tròn, (1) y hệt sau này, nhân loại lại đắm chìm vào chủ nghĩa CS không tưởng.

(1) Huyền thoại về cái vòng tròn tuyệt hảo có cội nguồn thật xa xưa, và có quyền năng phù thuỷ. Vả chăng, nói cho cùng, vòng tròn là một trong những ký hiệu cổ xưa nhất. Cái nghi lễ vẽ một cái vòng tròn chung quanh một con người, là để ngăn chặn mọi quỷ ma muốn ám hại anh ta, và đánh dấu một thánh địa, mà con người là trung tâm của nó.

Người đầu tiên phát triển một vũ trụ hình e líp, là Apollonius of Perga. Hai ngàn năm sau, Johannes Kepler, vẫn bị ám ảnh bởi vòng tròn tuyệt hảo, đã ngần ngại chấp nhận quỹ đạo bầu dục của các hành tinh, như ông viết, "bởi vì nếu mọi chuyện giản dị như thế, thì vấn đề này đã được Archimedes và Apollinus giải quyết từ khuya rồi."
Arthur Koestler. The Sleepwalkers: A History of Man’s Changing Vision of the Universe. Những kẻ mộng du
*
Gấu đi tù sau 1975 cũng khá sớm, đúng vào lúc có chính sách Kinh Tế Mới, và lần đầu tiên nghe bản nhạc Con Kinh Ta Đào, như một tên tù, trên nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi, và sững sờ đến nghẹt thở, sao nó đẹp như thế, đúng với tình trạng của Gấu như thế, và đúng với cả Miền Nam như thế, trong khí thế bừng bừng Thanh Niên Xung Phong như thế, thế, thế, thế!
Con kinh ta đào chưa có nước chảy qua,
Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng…
Ui chao cái lũ Yankee mũi tẹt đã lấy đi của dân Mít chúng ta giấc mơ đẹp nhất, kể từ khi có giống dân Mít, khi đầu hàng Cái Ác Bắc Kít, Con Quỉ Chuồng Lợn (1), khi gục ngã trước Phồn Vinh Giả Tạo, tức cứt của Mẽo, khi lũ Yankee mũi lõ phải bỏ của chạy lấy người, và bây giờ tiếp tục ăn cứt của Mẽo, và của Tẫu, khi nhường biển, nhường núi cho chúng.

Source

Nhà văn ST này Bắc Kít, như Gấu, cựu học sinh Dũng Lạc. Gấu, cựu học sinh Nguyễn Trãi, Hà Nội. Đọc ông trả lời LTT, Gấu thấy tự hào vô cùng, về cái chất Bắc Kít, Hà Nội của ông và của Gấu Cà Chớn!

Canada chấp nhận gia đình ông, cho chỗ ăn ở, công việc làm, khi về già cho tiền hưu như bất cứ 1 công dân nào của họ. Câu trả lời dõng dạc vẫn là, “No, tao là Bắc Kít, tao là người Hà Nội”!

Thảo nào 1 ông nhà văn Mít khác, 1954, bố mẹ di cư, bắt ông đi theo, ông còn nhỏ xíu làm sao cưỡng lại, mà đã biết gì đâu mà cưỡng. Rồi 1975, bố mẹ, chắc thế, lại bỏ chạy qua Mẽo, ông lại phải đi theo. Chỉ đến khi lớn tuổi, ông trở về đất Bắc, nhìn hai lỗ đạn Tây mũi lõ để lại trên thân thể Hà Nội, khóc rống lên, và khi bạn hỏi, chọn đâu là quê hương, là nhà, là máu mủ:
“Hà Nội chứ còn đâu nữa”!

Trong ba phê bình gia phán về ST, thì cả ba đều có tí vấn đề ["lợn cợn" đúng hơn].

NVK, thực sự khó mà gọi là 1 nhà phê bình, biên khảo.
Nhận xét của phê bình gia NMG về ông, chỉ là 1 ông quản thủ thư viện, sẵn sách đó, ông copy tưới và viết thêm vài câu, thường là khen, bất cứ 1 tác giả, và dán cái tên của mình vô.
NVK là 1 người thật tốt bụng, và làm quản thủ thư viện, phán về ông như vậy là quá đúng, theo GCC.

Ông HNH thì cũng có vấn đề. Một ông ở trong nước, được Mẽo WJC cho tí tiền qua Mẽo chơi, và cũng…  viết, "miễn cho xong một sô", như PNH phán, thì hay làm sao nổi, và làm sao đúng: Ông biết gì về văn học hải ngoại?
Chê làm sao được, như người ta nói, khách đến nhà mà lại chê chủ nhà thì láo quá!
Thành thử những gì "hội nhập" ở nơi nhà văn ST, là nhảm cả, đừng có tin.

Còn NMG?

Ông này cũng lợn cợn.
Bị cái "ghét tô", là đám Chống Cộng Điên Cuồng, xém tí nữa xin ông tí huyết, làm sao mà ông không cần đến 1 ông ST, nhà văn hội nhập, thoát ra ngoài lằn ranh, thù hằn Quốc Cộng, như… ông?

Bài viết của HNH do GCC post, làm sao mà không nhận ra thông điệp của nó?
Đâu phải tự nhiên, vô tư ông tặng… GCC?
 Đâu có phải ông viết bài đó để khen ST… hội nhập?
Nói rõ hơn ST và những tác giả khác được ông nêu tên, là chỉ để cho xôm tụ bài viết.
Khi bài của PNH đăng trên talawas, vạn bất đắc dĩ Gấu phải lên tiếng, bạch hoá cái thông điệp của ông.

Hồ sơ một bài viết

*

Hoàng Ngọc Hiến
[NQT chụp tại nhà riêng của ông,
tại Hà Nội,  Tháng Sáu, 2001].

Miễn xong một “sô”

(Vài nhận xét về Văn Học Hải Ngoại của Hoàng Ngọc Hiến) [I]
Cảm giác của tôi sau khi đọc chuyên luận được tài trợ bởi trung tâm William Joiner của Hoàng Ngọc Hiến là rất hụt hẫng. Tôi tự hỏi: kết quả của một công trình nghiên cứu gây vô số tranh luận, kiện tụng hàng năm trời, rốt cuộc chỉ là một bài viết sơ sài vậy sao?
[Trích bài viết của Phan Nhiên Hạo, trên talawas].

Tuy nhiên, giữa lúc talawas đăng hàng loạt bài khảo luận như của Hoàng Ngọc Hiến dạy đời về cách làm văn chương hay dạy hải ngoại về văn học hải ngoại, mà khi đọc xong, thấy tức giùm cho talawas. Không hiểu talawas nể trọng cái bằng cấp giáo sư tiến sĩ hay tài năng mà hết đăng tin Hoàng Ngọc Hiến thăm đại học Mỹ, hết phỏng vấn tốn công tốn sức để rồi lại lại khổ công đính chánh, xin lỗi.

[Trích bài viết của Trần Hoài Thư, trên talawas].

ĐỌC VĂN HỌC HẢI NGOẠI

Hoàng Ngọc Hiến

Lời dẫn: Đoạn văn dưới đây đề cập tới một số truyện của tôi, được trích từ một bài viết về Văn Học Việt Nam tại Hải Ngoại của ông Hoàng Ngọc Hiến, nhà phê bình văn học, hiện cư ngụ tại Hà Nội. Tôi chưa được hân hạnh quen biết hay gặp gỡ ông Hoàng Ngọc Hiến nên chưa có cơ hội xin phép trích đăng đoạn văn này. Tôi xin mạn phép tác giả lấy từ trang nhà của Việt Báo Online. Việt Báo Online đã đăng bài phê bình này trong nhiều kỳ báo. Quý vị độc giả muốn có toàn văn bài viết xin vào www.vietbao.com số ngày 30 tháng 7 năm 2001 và các số kế tiếp. ( ST )
[Trích trang net của Song Thao].

Bài viết của HNH, đăng lần đầu, trên trang Tin Văn của NQT, khi đó còn nằm nhờ bên tờ VHNT trên lưới của Phạm Chi Lan.
Trong khi đăng từng kỳ trên Tin Văn, tôi [NQT] có cho đăng song song trên Việt Báo online.
Tôi tin là ‘me-xừ’ Song Thao biết rõ điều này. Lý do nào, ông chỉ nhắc tới Việt Báo Online, mà vờ đi Tin Văn?
Liệu có phải vì những dòng, ghi trên đầu bài viết của Hoàng Ngọc Hiến, sau đây:

Lời người giới thiệu: Nhân chuyến về Hà Nội, được gặp giáo sư Hoàng Ngọc Hiến và như để kỷ niệm buổi trưa hôm đó, ông tặng bài viết sau đây. Ông cho biết thêm, đây chỉ là bản sơ thảo.
Cám ơn tác giả, và xin trân trọng giới thiệu bạn đọc.
NQT

Tôi chưa được hân hạnh quen biết hay gặp gỡ ông Hoàng Ngọc Hiến
ST

Người hơi bị lạnh cẳng, nên phải xác định rõ như vậy.
Bởi vì c
n chó gì phải xin phép.
Bài do GCC đăng, đâu có phải HNH cho đăng?
Nếu xin phép thì phải xin phép GCC chứ?

NQT

LTT:
Cũng qua các bài phỏng vấn vừa nhắc, được biết anh đã viết Phiếm luận từ trước 1975 ở Sài Gòn, lúc bấy giờ anh thường viết về những đề tài nào?  Chẳng hạn như “Tuổi trẻ và chiến tranh”, “Chiến tranh và đời sống nơi thành thị”, “Chiến tranh và hòa bình” hoặc “Nông thôn và chiến tranh” vân…vân..Sau này, anh có còn lưu giữ lại được vài ba bài nào để làm kỷ niệm không? Ngoài ra, so với những bài phiếm luận trước năm 1975 và những bài phiếm hiện nay, thì thời nào anh viết hứng thú nhất? Vì sao? 

ST:
Trước 1975, tôi có viết những bài gọi là “phim” cho các báo hàng ngày, hàng tuần và mỗi nửa tháng như Dân Ý, Tìm Hiểu, Thời Nay, Thời Việt…Đó là những tờ mà tôi viết thường xuyên mỗi kỳ báo ra. Thực ra những bài viết của tôi thời đó không hẳn là phiếm như những bài tôi viết tại hải ngoại bây giờ. Bây giờ viết tương đối thoải mái hơn. Mình sống kiểu sống nhờ tại một quốc gia mà mình bắt buộc phải nhận mình là công dân của quốc gia đó. Nó không là máu mủ của mình nên mình cũng không nợ nhiều như mình nợ đất nước mình. Ngày xưa những bài viết của tôi nặng về phần chỉ trích, chế giễu, đòi hỏi và có ý hướng cải thiện xã hội hơn. Chúng có cái vẻ…trâu đánh hơn. Ngày nay viết là viết lấy vui, cười với nhau, ngẫm nghĩ với nhau một cách chung chung, ba lơn ba cợt. Như vậy anh thấy cái tinh thần và mục đích của bài viết ngày trước và bây giờ đã khác nhau, khác xa lắm. Ngày xưa tôi viết khi còn đang đi làm, bận tíu tít. Có nhiều lần ông tùy phái của tòa báo phải tới sở làm của tôi đợi bài để mang về cho thợ sắp chữ gấp kẻo báo ra trễ. Ngày nay, hưu rồi, tiền sinh sống đã có chính phủ lo, tâm trí mình thảnh thơi hơn nhiều. Viết như một cái thú, thích thì viết, hứng thì viết, chẳng ai bắt, chẳng vội vàng chi. Cứ như rong chơi vậy anh ạ.
[Ngưng trích]

Thú thực, trước 1975, Gấu Cà Chớn chưa từng đọc ST. Thành thử không có ý kiến về những gì ông viết cho những tờ báo được ông liệt kê. Sau 1975, ra hải ngoại, đọc ông trên tờ Nắng Mới, của nhóm của ông, mà Gấu cũng có bài đóng góp. Khi đó, ông viết ba cái tạp nhạp, theo kiểu tạp ghi, ghi nhận 1 số tin văn học, thời sự địa phương… Cũng chưa ngửi ra mùi văn của ông.
Chỉ đến khi báo NM chết, ông bắt đầu viết truyện ngắn, và được ông HNH từ trong nước lăng xê, trong 1 bài viết mà chính Gấu là người về trong nước, được ông trao tặng, và nể tình “tri ngộ” Gấu bèn mất công ngồi gõ, đưa lên net. Ông ST mừng quá, khoe um lên, nhưng chưa từng cám ơn cái thằng gõ bài [cũng là thổi ông, vậy]. Ông nhắc tới bài viết của HNH, khi Gấu cho đăng trên Việt Báo online, nhưng không hề nhắc đến NQT, là thằng gõ bài.
Có 1 cái gì đó, thật khó hiểu ở những ông nhà văn Mít như ST. Thí dụ.
Cũng 1 trường hợp như thế, đối với Sến Cô Nương. Em post bài của Gấu viết về nhà thơ Joseph Huỳnh Văn, từ trang Việt Báo online, chứ không thèm post, cũng bài đó, đăng trên Tin Văn.
Như thể TV, tức cái gốc của bài viết, không hề có, không hề hiện hữu.
Bởi vì thường ra, là người ta tìm đến cái gốc của bài viết.
GCC đâu có muốn họ nhắc tới Gấu, tuy cả hai ông bà ST/SCN, đều đã từng quen biết thằng cha Gấu, và Gấu cũng đã từng cộng tác với báo/diễn đàn của họ.

LTT:
Kinh chào anh Song Thao,
Gặp anh hồi tháng Tám ở Katy và Houston (Texas), được biết anh có PHIẾM 9, nay tháng 11, anh lại cho chào đời PHIẾM 10, như vậy anh còn độ bao nhiêu PHIẾM nữa, thưa anh?
ST:
Đường đi của Phiếm tôi cũng không lường được anh ơi. Chỉ biết trước mắt là cuốn Phiếm 11 sẽ phát hành vào mùa hè năm 2012.
Chuyện nhìn vào tương lai là chuyện của mấy ông bà thầy bói mà tôi lại không có chút khiếu nào về cách nhìn vào những thứ ở phía trước mình cả.
Nhân câu hỏi của anh tôi nghĩ tới câu hỏi cho các bà bầu. Bà sẽ sanh bao nhiêu con tất cả? Câu hỏi còn tùy vào nhiều cái nếu, các bà chẳng bao giờ có thể trả lời dứt khoát được. Anh cứ coi tôi như một bà bầu đi!

Nguồn DM

Theo Gấu Cà Chớn, câu trả lời của nhà văn ST không đúng ý LTT hỏi.

LTT muốn hỏi, ông ST năm nay chắc cũng già lắm rồi, viết cũng nhiều rồi, tới cả chục Phiếm rồi, liệu còn gân viết nữa không?

Nỗi băn khoăn của LTT thì cũng là của chung của độc giả, đối với bất cứ 1 nhà văn nào mà mình yêu mến, vào lúc xế chiều của cuộc đời, vừa sợ cho tác giả sắp đi, vừa sợ cho nguồn văn chắc chắn là phải cạn.

Thành ra nhà văn ST trả lời trật lất, tôi đâu có phải là thày bói?
Lại còn so sánh với bà bầu nữa chứ.

Gấu Cà Chớn thì có câu trả lời rất đúng cho câu hỏi của LTT. Nhưng câu đó, nói thực, không phải của Gấu mà của Roland Barthes, 1 câu mà Thầy Cuốc dím kỹ, không chịu xì ra, Gấu phải mày mò đọc hết cả bài viết Cái Chết của Tác Giả mới tóm được:

We know now that a text consists not of a line of words, releasing a single "theological" meaning (the "message" of the Author-God), but of a multi-dimensional space in which are married and contested several writings, none of which is original: the text is a fabric of quotations, resulting from a thousand sources of culture.
Chúng ta bây giờ biết một bản văn thì không phải là một đường chữ, đưa ra một nghĩa “thần học” đơn ( “thông điệp” của đấng Tác giả-Thượng đế), nhưng mà là một không gian đa chiều, ở trong đó một số bản viết phối với nhau, và kèn cựa lẫn nhau, chẳng bản viết nào còn zin: bản văn là một miếng, mảnh [giống như mảnh vải] những trích dẫn, kết quả của cả ngàn nguồn văn hoá.

Nói rõ hơn, bài phiếm nào của ST thì cũng chôm chĩa từ đủ thứ nguồn. Bạn cứ thử đọc bất cứ 1 bài nào thì biết.

Ngay cả cái mà ST đinh ninh mình viết ra, thì cũng chưa chắc, là vì có khi đọc được ở đâu đó, ăn vào tiềm thức lúc nào không biết, rồi viết ra, lại cứ nghĩ là cái còn zin, cái đầu tiên, cái mới, như cái còn trinh của 1 em nhí!

GCC đã từng lèm bèm về chuyện này nhiều lần rồi. Cái kiểu viết phiếm, tạp ghi của đám Mít ta toàn là chôm chĩa hết báo này tới báo khác, hết tin này tới tin khác, rồi gôm bi thành của mình, ký tên mình vô 1 phát, gửi đi là có tiền nhuận bút rồi!
Sở dĩ trang Tin Văn là... tin văn, là vì cũng biết thân biết phận mình, toàn đồ chôm không à, cái phần sáng tác chỉ chiếm 1 mục nhỏ xíu.
Đâu có dám đao to búa lớn, văn chương đếch cần biên giái, văn chương tiền phong phỏng giái.
Tin văn thôi, chôm cái gì thì để ngay nguồn cho độc giả thấy.
Trên TV đã từng kể 1 câu chuyện có thực về 1 tác giả giữ 1 mục “Phén” cho 1 tuần báo ở Mẽo. Mỗi bài viết 50 đô. Để có nguồn cung ứng cho Phén, tác giả đọc đủ thứ báo nội ngoại, đủ thứ tin tức, thấy cái nào dzui dzui, hợp thị hiếu đám đông Mít ta, là chôm.
Một lần mải nhậu, ham chơi, chắc thế, cận ngày đưa bài quá, ông bèn chơi luôn 1 bài của 1 tác giả khác, ít được đời biết đến.
Nhưng đám bạn bè của tác giả bị chôm phát giác, báo cho khổ chủ. Người này la toáng lên, vì, theo ông/bà, nếu không nói ra, thì mọi người lại nghĩ tôi chôm của ông nhà văn nổi tiếng đó!
Thú vị là cái ông cầm nhầm bèn lên tiếng nhận lỗi, và thú nhận, ông là chuyên gia xào nấu, lần vừa rồi, do vội quá, nên chơi nguyên con.

Thành thử Phén, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, đâu có cần gì đến thày bói, hay bà mụ.

Bài trên TV cũng bị chôm hoài.

Ly kỳ nhất, là cái vụ liên quan tới cái tên tác phẩm của Solz, Quần Đảo Gulag. (1)
Để kiểm chứng GCC phải đọc lại bài viết của MS mới xác định được, đúng là chôm từ TV, vì, có thể, ông ta đọc thẳng từ NYRB, như GCC. Nhưng không phải:
Khi Solz. nghe được nick này, từ một nhà khoa bảng ngữ văn nổi tiếng, Academician Dmitry Likhachev, một cựu tù Solovski, ông tóm liền vì là một ẩn dụ tuyệt hảo cho đề tài, và đi vào cái tít cuốn sách, thật ăn nhịp với từ Gulag.

Bài của Barthes, Cái Chết của Tác Giả sở dĩ nổi đình nổi đám, chính là vì thế.
Ông tố cáo ba thứ xái xảm mà cứ nghĩ đó là văn chương.
Nhưng quan trọng hơn, ông đề nghị trảm cái thằng có tên là tác giả đi, và để cho độc giả thay thế.

(1)

Hai lầm lỗi lớn nhất trong thế kỷ 20 là Holocaust và Gulag. Danh từ Gulag đồng âm với Archipelago (Arkhipelag Gulag) đến từ chủ trại tù Solovki, Gulag đầu tiên trên đảo Kolovetsky, tên Degtyarev, ông này chuyên bắn và giết tù nhân được tặng biệt danh “nhà giải phẫu trại tù”.
Nhà văn Solzhenitsyn nghe danh từ Gulag từ tù nhân khoa học gia Dimitry Likhachev ở nhà tù Silovki.

Việt Nguyên: [Chôm] Từ bàn viết Houston

Mấy chi tiết trên, là từ bài viết của Michael Scammell, trên tờ NYRB, số mới nhất 28 Tháng Tư, 2011. TV giới thiệu.
Gấu sợ rằng, cái tay Vịt Nguyên này, chôm từ TV, mà vờ luôn, không phải Gấu, mà là Michael Scammell, người điểm cuốn Voices from the Gulag, do Solz biên tập.

Chôm nhanh thật!
Tay này, qua tờ Người Vịt cho biết, là 1 bác sĩ, không hiểu có phải bác sĩ phẫu thuật không?

Holocaust và Gulag mà là hai “lỗi lầm” ư?
Chắc cũng giống như “chôm" thôi mà!

Tay chủ báo, biệt danh “Ông Số 2”, cũng nhanh chân lẹ tay lắm, không thua gì cộng tác viên!
NQT

Source

Văn học Mít hải ngoại chết hai cái chết, giống như người Mít chết hai lần trong cuộc chiến.
Cái chết thứ nhất, là cái chết do đọc toàn thứ xái xảm, xào đi xào lại, của cái gọi là Phén, Tạp Ghi, Hồi ký hồi kiếc đánh bóng quá khứ vàng son.
Cái chết thứ nhì thì được tiên đoán từ hồi Quốc Văn Giáo Khoa Thư, qua câu chuyện cứ đeo kính vô là đọc được chữ, của mấy đấng nhà văn nhà thơ nhà phê bình viết tiếng Mít đếch ai thèm đọc, vì dở quá, thế là bèn viết bằng tiếng mũi lõ, thế là thành tác phẩm văn học.
Hai cái chết này không mắc mớ gì đến cái chết của báo giấy.
*

Sách này gồm các tạp ghi văn học, những bài mà tác giả cho rằng "Gọi Tạp Ghi thực không đúng, nhưng cũng chẳng biết gọi là gì." Trong một mức độ nào đó, các tạp ghi này cũng có thể gọi là các bài nhận xét và phê bình văn học, với một cung cách tự do thoáng đãng không bám chặt vào một cái khung có sẵn của trường phái hay chủ thuyết.

Source

PXD đọc Nơi Người Chết mỉm cười, những tạp ghi của GCC và coi là những nhận xét phê bình văn học.

Trang TV, toàn là đi chôm tụi mũi lõ, nhưng không phải để viết phén, để có tí tiền nhuận bút còm, để in hết phén này phén khác, chỉ làm khổ độc giả, thứ thiệt, mong được đọc thứ zin, thứ còn trinh, thay vì vậy, cứ phải nhai xái xảm.

Những tác giả mũi lõ được GCC, tên biệt kích văn hóa gốc Ngụy bệ về, là cũng làm theo gương Bác H: Bác H đi chôm chủ nghĩa CS quốc tế, áp dụng vào xứ Mít, đẻ ra cuộc chiến thần kỳ, đánh bại hai thằng thực dân cũ và mới đầu sỏ, tạo đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử. GCC lập lại việc của Bác, nhưng lần này, viết lịch sử Mít từ đáy, cho cái lũ thất trận, nạn nhân của Bác và đồng bọn, đệ tử, của Cái Ác Bắc Kít!

[Tự thổi vừa vừa thôi cha nội! Vặn cái volume nhỏ đi 1 tí, cho người ta ngủ!]


**

Làm sao Ông đã làm sao...
Tố Hữu

Vào tháng 11 năm 1933, Osip Mandelstam sáng tác bài thơ trứ danh “Vịnh Stalin”, ‘người leo núi Cẩm Linh’, ‘kẻ sát nhân tên làm thịt dân quê’. Tháng Năm 1934, ông bị bắt vì tội 'phản cách mạng', bị tra hỏi trong 2 tuần, nhưng lạ lùng làm sao, do lệnh trên ban xuống, không bị làm thịt hay bỏ tù, mà chỉ bị ‘cách ly nhưng đừng để chết’. Hai vợ chồng trải qua 3 năm lưu vong ra khỏi những thành phố lớn; khi trở về, sống giữa đám bạn bè lòng vòng ở Moscow. Tháng Năm 1938, ông chồng bị bắt trở lại, kết án 5 năm tù, và lần này bị đầy đi Vladivostok, chỉ kịp gửi một cái note, cho ông em/anh, gửi ‘quần áo sạch’; ông không thoát được mùa đông tại đó. Bà vợ sống dai hơn ông chồng 42 năm, nhẩn nha nhớ lại thơ chồng. Chúng ta được biết những chi tiết hiếm quí đó là qua hồi ký tuyệt vời của bà vợ, “Hy vọng chống lại hy vọng”
Là một độc giả mê cuốn hồi ý trên, Robert Litell gặp bà vợ nhà thơ vào năm 1979, cuộc gặp gỡ ông kể lại ở cuối cuốn tiểu thuyết của ông, một giả tưởng tái tạo dựng những sự kiện trong 4 năm, từ khi nhà thơ trước tác bài thơ vịnh Xì Ta lin, cho tới cái chết của ông, cộng thêm vào đó là những giọng nói của Osip, của bạn bè của ông, của thời của họ, cộng giọng nói giả tưởng hóa của tay trùm cận vệ Xì….

Tribute to Hoàng Cầm

Có 2 cách đọc Nguyễn Tuân?
Không chỉ NT, mà còn Hoàng Cầm, thí dụ.
Nhưng với HC có tí khác.
Nói rõ hơn, VC, sĩ phu Bắc Hà đúng hơn, đọc HC, khen thơ HC, là cũng để thông cảm với cái hèn của tất cả.
Của chung chúng ta! (1)

1. Tình cờ ghé Blog của me- xừ Đông B, ông ta gọi cái món này là 'mặc cảm dòng chính'!
Hình như tụi Mẽo cũng có thứ mặc cảm này, 'chỉ sợ mình Mẽo hơn tên hàng xóm'.
Anh VC thì cũng rứa! Nào là phục hồi nhân phẩm cho Ngụy, nào là em về đâu hỡi em khi đời không chút nắng, đời gọi em biết bao lần!
Khổ một nỗi, khi chúng mất nhân phẩm thì không thể nào phục hồi được!

"Tớ phục vụ một cái nghĩa cả cà chớn, và tớ nhận tiền từ nhân dân Bắc Kít mà tớ lừa bịp họ với những bài thơ 'lá liếc' nhảm nhí của tớ. Tớ là một tên bất lương. Nhưng mà này, bản thân tớ thì là cái thống chế gì ở đây? Tớ chỉ là một hạt cát trong Cái Ác Bắc Kít… Đây là lỗi lầm của cái thời mà có tớ sống ở trong đó”!
Hà, hà!

Hút vậy hại sức khoẻ lắm.
Câu ấy ai cũng nói. Nhưng nó theo cả đời rồi. Mình phải cầm đóm lấy mới ngon. Để người châm hộ không ngon.
Thật ra sống đủ rồi, không muốn sống đau ốm, thế nên cho trách giời một tí.

Khốn nạn thực. Từ hải ngoại tốn công tốn của, chịu nhục, bò về, để châm đóm cho nhà thơ, mà vưỡn bị chửi, xê ra cho người ta hút thuốc lào.
Để mi châm hộ, hút, mất cả ngon!