*

Diary

















*
&
Đêm Thánh Vô Cùng

Đêm Giáng Sinh, làm sao Chúa bỏ quên lũ chúng tôi! Người cũng không quên mấy đứa nhỏ: tụi nó đã sửa soạn lễ Giáng Sinh cùng với mẹ, ngay từ đầu tháng, bằng cách cặm cụi làm côngfetti, không phải để ném lên đầu nhau, mà là để bán cho người dân Sài Gòn, đông nghẹt quảng trường Kennedy, đêm Chúa ra đời. Nếu khát nước, bạn có thể vừa mua côngfetti, vừa uống ly nước trà của bà mẹ chúng, trên chiếc bàn dã chiến, di động chung quanh tượng Đức Mẹ, có khi tới tận Nhà Hát Lớn trên đường Tự Do.


*

Không ai nghi ngờ, lạ thế, về cái sự ngu dốt của Yankee mũi tẹt - thì cứ nói đại như vậy, bởi vì nó là như vậy, và điều này là do nền học vấn, dậy phép tính bằng xác Mỹ Nguỵ, bằng con số Thần Sấm, Con Ma hạ được, bằng cắm cờ lên đỉnh thành phố Miền Nam, dậy văn bằng những bài mẫu, dậy yêu bằng "Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn…" - và cái sự "đả biến thiên hạ vô địch thủ", kẻ thù nào cũng đánh thắng của nó: Đây đúng là chân dung nhà vô địch của Zweig, trong Người Chơi Cờ!
"Nhưng đây là con lừa Balaam", vị linh mục nhớ tới Thánh Kinh, về một câu chuyện trước đó hai ngàn năm, một phép lạ tương tự đã xẩy ra, một sinh vật câm đột nhiên thốt ra những điều đầy khôn ngoan.
Bởi vì nhà vô địch là một người không thể viết một câu cho đúng chính tả, dù là tiếng mẹ đẻ, "vô văn hoá về đủ mọi mặt", bộ não của anh không thể nào kết hợp những ý niệm đơn giản nhất. Năm 14 tuổi vẫn phải dùng tay để đếm.
Cuộc đụng độ giữa nhà vô địch với ông B. đúng là khí hậu của cả thế kỷ được dồn nén vào trong một ván cờ!
*
Đọc những dòng viết về anh chàng bộ đội Cụ Hồ, anh cu Sài, vô văn hóa về đủ mọi mặt, nhưng, đả biến thiên hạ vô địch thủ, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, kẻ thù nào cũng đánh thắng, một độc giả Tin Văn thốt lời cảm thán, “con lừa Balaam” này quả là cái họa khủng khiếp cho dân Mít.

Nói rõ hơn, chính cái sự ngu si dốt nát làm nên chiến thắng 30 Tháng Tư!
Nhưng, khủng khiếp nhất, là cái ông Zweig này, vị độc giả nói thêm. Tại làm sao mà ông ta tiên tri ra được cái điều trên?
*
Nhân vật của Võ Phiến rất giống nhân vật của Zweig. Tôi không hiểu ông đã từng đọc Zweig, trước khi khai sinh ra những Người Tù,  Kể Trong Đêm Khuya, Thác Đổ Sau Nhà... với những con người phàm tục, bị cái libido xô đẩy vào những cuộc phiêu lưu tuyệt vời, khi thoát ra khỏi, lại nhờm tởm chính mình, nhờm tởm cái thân thể mình đã dính bùn, sau khi bị con quỉ cám dỗ.... Nhân vật của Zweig cũng y hệt như vậy, trừ một điều: họ đều muốn lập lại cái kinh nghiệm chết người khủng khiếp đó. Và cú thử thứ nhì, lẽ dĩ nhiên là thất bại, nhưng nhờ vậy, họ vẫn còn là người, vẫn còn đam mê, vẫn còn đủ sân si...

  Cái đòn thứ nhì này, tôi gọi là đòn gia bảo, gia truyền, không thể truyền cho ai, bất cứ đệ tử nào, như trong Thuyết Đường cho thấy, Tần Thúc Bảo không dám dạy La Thành cú Sát Thủ Giản, mà La Thành cũng giấu đòn Hồi Mã Thương...
  Trong truyện Ngõ Hẻm Dưới Ánh Trăng, anh chồng biển lận khiến cô vợ quá thất vọng bỏ đi làm gái. Anh chồng tìm tới nơi, lạy lục, than khóc, cô vợ mủi lòng quá, bèn quyết định từ giã thiên thai, trở về đời. Trong bữa ăn  từ giã thiên thai, anh chồng không thể quên tính trời cho, tóm tay anh bồi đòi lại mấy đồng tiền tính dư, cô vợ chán quá, bỏ luôn giấc mộng tái ngộ chàng Kim.
  Hay trong Người Chơi Cờ, nhân vật chính, nhờ chôm được cuốn thiên thư dạy chơi cờ, mà qua được địa ngục. Về đời, thần tiên đã căn dặn, chớ có chơi cờ nữa, nhưng làm sao không? Chơi lần sau, là đi luôn!
  Nhân vật của Võ Phiến, sau cú đầu là té luôn, không gượng dậy được nữa. Thí dụ cái cô trong Thác Đổ Sau Nhà, gặp lại Người Tình Trong Một Đêm, bỗng tởm chính mình: Cớ sao lại ngã vào một tay cà chớn tới mức đó!
  Hay nhân vật Toàn (?) yêu cô gái, con một tay công chức (?), thất tình, anh bỏ đi theo kháng chiến, thay cái "libido" bằng "cách mạng", cuối cùng chết mất xác, không thể trở về đối diện với chính mình, với người yêu đầu đời...
  Ông bố cô gái, nếu tôi nhớ không lầm, thường viết thư sai con đưa tới mấy ông bạn cũ, để xin tiền. Lúc rảnh rỗi, hai cha con không biết làm gì, bèn đóng tuồng, con giả làm Điêu Thuyền, bố, Lã Bố...
  Võ Phiến còn một truyện ngắn, không hiểu sau khi ra hải ngoại, ông có cho in lại không, đó là truyện một anh CS về thành, được trao công việc đi giải độc. Giải độc mãi, tới một bữa, anh nhận ra là thiên hạ chỉ giả đò nghe anh lảm nhảm  tố cộng, nhưng thật sự là đang lo làm việc khác... Tôi không hiểu có phải đây là một thứ tự truyện hay không.
  Lần trở lại đất bắc, tôi gặp một ông rất có uy tín, cả trong giới văn lẫn giới Đảng, (đã về hưu). Ông cho biết, vụ VP bị CS bắt là hoàn toàn có thiệt. Nhưng chuyện ông được tha, không phải như Tô Hoài cho rằng mấy anh đưa người ra bắc trong chiến dịch tập kết năm 1954 đã bỏ sót, mà do một tay tỉnh ủy (?) có máu văn nghệ, đã ra lệnh tha, cho về thành....
  Sở dĩ tôi không thể nhớ đã từng viết về VP, một phần là do lớp chúng tôi chờ mong ở ông cái cú hồi mã thương, tức là cái kinh nghiệm ăn ở với người CS của ông, nó ghê gớm ra làm sao. Sau này, chúng tôi đọc, ở những tác giả khác, Koestler chẳng hạn...


Hình ảnh chiến tranh Việt Nam của Life

*
Không hiểu có giống bức hình của nhà nước ta hay không?

Người viết nghe nói bức hình lịch sử chụp cảnh xe tăng CS san bằng cổng dinh Độc Lập cũng đã phải chụp tới hai lần. Ủi sập rồi, lại phải ra lệnh dựng lên, chụp lại. Nguồn tin rất đáng tin, nhưng vì không tận mắt chứng kiến (lịch sử), cho nên đành ngưng tại đây (1)
(1) Người viết sau đó được biết, Bùi Tín đã xác nhận chuyện này. Ông cho biết thêm, cả tấm hình lịch sử cờ CS phấp phới trên đỉnh Điện Biên Phủ, cũng được "làm lại".

*
Mậu Thân, Huế


The document below, signed by more than two thousand Chinese citizens, was conceived and written in conscious admiration of the founding of Charter 77 in Czechoslovakia, where, in January 1977, more than two hundred Czech and Slovak intellectuals formed a loose, informal, and open association of people...united by the will to strive individually and collectively for respect for human and civil rights in our country and throughout the world.
The Chinese document calls not for ameliorative reform of the current political system but for an end to some of its essential features, including one-party rule, and their replacement with a system based on human rights and democracy.
The prominent citizens who have signed the document are from both outside and inside the government, and include not only well-known dissidents and intellectuals, but also middle-level officials and rural leaders. They chose December 10, the anniversary of the Universal Declaration of Human Rights, as the day on which to express their political ideas and to outline their vision of a constitutional, democratic China. They want Charter 08 to serve as a blueprint for fundamental political change in China in the years to come. The signers of the document will form an informal group, open-ended in size but united by a determination to promote democratization and protection of human rights in China and beyond.
Following the text is a postscript describing some of the regime's recent reactions to it.

Perry Link

Được gợi hứng từ Hiến chương 77 của Czechoslovakia, Hiến chương 08 của Trung Quốc không kêu gọi cải thiện cải thiếc, đổi mới đổi miếc, cởi trói cởi chiệc, cái hệ thống chính trị hiện thời, mà là dẹp mẹ nó một số quái trạng xung yếu của nó, thí dụ như luật độc đảng, và thay thế bằng một hệ thống dựa trên nhân quyền và dân chủ…
*
Liệu mấy bạn văn VC của Gấu chơi được cú xêm xêm, chăng?
*
“the history of modern
China is a history of negation, a denial of the value of humanity, a murder of individuality. It is a history without a soul.”
Ma Jian
Tiananmen's wake
Lịch sử Trung Quốc hiện đại là lịch sử của sự phủ định, chối từ giá trị nhân loại, và sát hại cá thể. Đó là một lịch sử không có một linh hồn.
*
Gấu này sợ rằng, Mít cũng rứa. Chứng cớ, báo net trong nước, một chiếc xe đò lỡ đi vô đường cấm, anh cớm giao thông VC bèn chạy ngang xe, gõ cửa, tài xế hạ kiếng xuống, anh cầm dùng dùi cui gõ đầu tài xế chảy máu ròng ròng, rồi bỏ đi.
Nhưng Mít làm gì có Thiên An Môn, Bắc Kinh Hôn Thụy, Hiến Chương 08?

*
Tài xế bị nện dùi cui
*

Chúng ta tự hỏi, tại sao Yankee mũi tẹt không thể làm nổi một cú Thiên An Môn, tại sao những nhà văn của họ không viết nổi một Hôn Thụy Hà Lội, tại sao không có nổi một hiến chương 007, thí dụ?
Theo Gấu, ấy là vì anh nào cũng được hưởng một tí chiến lợi phẩm sau cú chiến thắng Miền Nam!
Tệ lắm, thì cũng chút sái.  Một nhà văn ra đi từ Miền Bắc, dân Hà Nội, kể, chút sái đầu tiên mà bà được thưởng thức, là "Thi ơi Thi, Thi không chết đâu Thi", từ cái loa AKAI nhà hàng xóm, tặng phẩm của Miền Nam, thay cho cái loa ở đầu ngõ.


Mánh lới liên văn bản: Dickens với một cú vặn
December 17, 2008
Dickens with a twist
A box of intertextual tricks from Jean-Pierre Ohl
Bharat Tandon
G. K. Chesterton famously remarked of Dickens’s characters that they were “immortal souls who existed whether he wrote of them or not”, “creatures who were more actual than the man who made them”; Jean-Pierre Ohl’s intriguing novel – at once a mystery story, an anatomy of literary envy, and a box of intertextual tricks – takes Chesterton’s view and pursues some of its more unpredictable and surreal implications, while also managing to return the reader to the Dickensian source material with a fresh appreciation of the imaginative hold it can exert, for good or ill.*
Những nhân vật của Dickens là những linh hồn bất tử, chúng hiện hữu, cho dù ông ta viết về chúng, cũng thế, mà không, cũng vậy. Những nhân vật thực hơn cả kẻ sáng tạo ra chúng.
G.K. Chesterton


Giữa lòng đen

*

Trong những cuốn tiểu thuyết mà Tin Văn mong được dịch và giới thiệu là Trái Tim Của Bóng Đen, và Gấu hiện có.. vài ấn bản, mỗi bản mỗi khác, không phải nội dung cuốn tiểu thuyết, mà những ghi chú, những sự kiện những phát giác, kể cả những lời lên án, thí dụ của Achebe (1), theo dòng thời gian. Trong số đó, bản song ngữ, dành cho học sinh sinh viên của Catherine Pappo-Musard, tiến sĩ, Agrégée de l’Université, dịch ra tiếng Pháp và ghi chú, và nhất là bài giới thiệu mở ra cuốn tiểu thuyết mới thật tuyệt, mặc dù cái hình ảnh, “cả vũ trụ, cả nhân loại chao đi đảo lại, vẫn chỉ chờn vờn ở chung quanh thế ngồi của một ông Phật” đã từng được viện ra rất nhiều lần, ở nhiều nhà phê bình, và nghiên cứu.
Nguyễn Du cũng đã từng chiêm nghiệm cũng một nỗi chênh vênh, chao đảo đó, khi viết ra những câu thơ thần sầu, thí dụ:
Ầm ầm sóng vỗ chung quanh ghế ngồi
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Dân thiên văn, địa lý, khí tượng học gọi hiện tượng này là Mắt Bão.
Gấu đã từng sử dụng hình ảnh Mắt Bão, để toan tính viết một cuốn tiểu thuyết, và sau cùng, thua, và dùng nó, để viết về thơ Thanh Tâm Tuyền, về “bạo động của bạo động”, về những dòng thơ "thiền, ẩn mật, hiền hoà như ca dao" của ông trong cõi tù.
*
Và đây là câu mở ra bài viết của C. Pappo-Musard:
Ở cuối cuốn Trái tim của bóng đen, con nước đổi chiều nhưng những thính giả/độc giả của Marlow chẳng hề biết. Con nước lôi cuốn họ cùng với nó từ cửa sông Ta Mì tới cửa sông Congo, từ London tới Bruxelles, từ Âu châu tới trung tâm Phi Châu, nhưng không ra khỏi thế ngồi của ông Phật của Marlow.
Và, khép lại bài viết, tác giả cảnh giác chúng ta:
Nói cho cùng, Marlow chỉ giống được như ông Phật ở cái thế ngồi.. Cái kinh nghiệm Congo đã biến đổi anh ta thành một con người mà kể từ đó, nhìn thấy những điều âm u: L’expérience congolaise a fait de lui un home pour qui désormais les ténèbres sont toujours visibles.
Và tác giả dẫn thêm câu của Milton, làm đề từ cho bài viết của mình:
“yet from those flames
No light but rather darkness visible”
Milton: Paradis perdu (I, 62)
Tuy nhiên, từ khối lửa đó,
không ánh sáng,
mà là bóng đen,
hiển hiện.
(1) At University College, Ibadan, Achebe encountered the novel “Mister Johnson,” by the Anglo-Irish writer Joyce Cary, who had spent time as a colonial officer in Nigeria. The book was lauded by Time as “the best novel ever written about Africa.” But Achebe, as he grew older, no longer identified with the imperialists; he was appalled by Cary’s depiction of his homeland and its people. In Cary’s portrait, the “jealous savages . . . live like mice or rats in a palace floor”; dancers are “grinning, shrieking, scowling, or with faces which seemed entirely dislocated, senseless and unhuman, like twisted bags of lard.” It was the image of blacks as “unhuman,” a standard trope of colonial literature, that Achebe recognized as particularly dangerous. “It began to dawn on me that although fiction was undoubtedly fictitious it could also be true or false, not with the truth or falsehood of a news item but as to its disinterestedness, its intention, its integrity,” he wrote later. This belief in fiction’s moral power became integral to his vision for African literature.
After Empire
V/v Trái tim của Bóng đen, Achebe cho rằng: Marlow là một nhân vật giả tưởng, ý thức của anh ta khiến anh ta hành động và cư xử theo như những qui luật và thể loại [categories] đương thời, tức thời kỳ thực dân thuộc địa. Nếu cảm nhận của Marlow là phân biệt chủng tộc, ấy là vì thời của anh ta là thế. Những mẫu mã và những qui luật của thời kỳ đó là như thế.
It was the image of blacks as “unhuman,” a standard trope of colonial literature, that Achebe recognized as particularly dangerous. “It began to dawn on me that although fiction was undoubtedly fictitious it could also be true or false, not with the truth or falsehood of a news item but as to its disinterestedness, its intention, its integrity,” he wrote later. This belief in fiction’s moral power became integral to his vision for African literature
Chính là hình ảnh những người da đen như là "phi nhân", như được mô tả trong văn chương thời kỳ thực dân thuộc địa khiến ông thấy thực nguy hiểm.
Đây cũng là cách mô tả Ngụy của Yankee mũi tẹt.


Ta La Tai
Có một sự thất vọng nặng nề về sự vô dụng của một diễn đàn đa số gồm những cây viết ra đi từ Miền Bắc, và cùng với nó, là sự thất vọng về tài năng, về tri thức, về trí thức, về sự đóng góp của họ, so với những người ra đi từ những nước CS khác, thí dụ từ Đông Âu, thí dụ những nhà văn như Milosz, như Kundera, như Manea
Chúng đưa đến kết luận về một miền đất: Tại làm sao mà nó nghèo nàn, khô kiệt đến như thế?
Đã nghèo nàn, mà lại ưa cấu xé lẫn nhau. Kẻ ra được bên ngoài, ngoái cổ lại chửi những người ngày nào còn là bạn của họ.
Trong quá khứ quán cá chưa hề có một bài viết nào về DTH. NHT có, nhưng chê, thí dụ bài của DT, và Gấu phải nhẩy vô ‘phản biện’, như đã từng "phản biện", trong những trường hợp liên quan tới HNH, PTVA, PHT…
Sự thực, Gấu này chẳng hề có hiềm khích gì với bà chủ quán cá. Ngay cả việc gọi như vậy, cũng chẳng hề cảm thấy mình hạ tiện, mà cũng chỉ là theo kiểu của Đặng Tiến, dzui thôi mà. Nhưng, chính là nỗi thất vọng, sao bao hoài vọng, mà đành phải lên tiếng, đòi cho được một nửa linh hồn của mình.
Một khi còn thiếu một nửa linh hồn, thì vẫn không phải là.. linh hồn, nói theo kiểu, một nửa mẩu bánh mì thì OK lúc đói lòng, nhưng một nửa sự thực thì là một lời dối trá.
Cô con gái, con ông chủ nhà xuất bản trong truyện Eva của J.H. Chase, trước khi chết, đã nói với anh chồng của mình: Một người viết một tác phẩm như thế, không thể hành xử như thế. Tôi lầm rồi, anh không phải là người viết cuốn sách đó.
Gấu cũng nghĩ như thế về bà chủ quán cá.
Và xin chấm dứt bài viết về Ta La Tai. NQT


Nguyễn Chí Kham

V/v "buộc với quê hương phải là những người máu mủ ruột thịt... ".
The Paris Review: Vai trò của nhà phê bình?
Faulkner: Nghệ sĩ không có thì giờ nghe phê bình gia lải nhải. Chỉ những kẻ muốn trở thành nhà văn thì mới đọc điểm sách. Những người muốn viết chẳng có thì giờ đọc điểm sách. Phê bình gia cũng cố nói điều này, “Kilroy thì ở đây.” Phận sự của anh ta không nhắm vào chính người nghệ sĩ. Nghệ sĩ bảnh hơn phê bình gia, bởi vì nghệ sĩ viết ra một điều gì đó gây ấn tượng, làm cảm động nhà phê bình. Nhà phê bình viết ra một điều gì đó, gây ấn tượng, làm cảm động mọi người, trừ nghệ sĩ.
Những nhà phê bình cho rằng, có cái gọi là liên hệ máu huyết, và nó là trung tâm, trong những tác phẩm của ông.
Thì cũng là một quan điểm, nhưng tôi nói rồi, tôi đâu đọc họ.
*
Tin Văn sẽ chuyển ngữ bài phỏng vấn Faulkner, của The Paris Review. Một bài phỏng vấn hách xì xằng nhất, trong tất cả những bài phỏng vấn. Pamuk đã nhờ nó mà vượt qua cơn đại nạn, khi bị đồng bào của ông chửi là thằng mất gốc. Trong bài viết, được sử dụng làm bài giới thiệu tuyển tập những bài phỏng vấn của tờ The Paris Review, vol II, ông kể lại kinh nghiệm này.
Driven by Demons
*
Luôn mơ và bắn cao hơn là mình nghĩ rằng mình có thể. Đừng ngu si so bì với mấy gã cùng thời, hay mấy tên đi trước. Hãy cố mà so bì, kèn cựa, với chính mình. Nghệ sĩ là loài bị quỉ truy. Anh ta không hiểu tại sao quỉ lại chọn anh ta, và thường quá bận rộn nên cũng chẳng có thì giờ để mà tìm hiểu. Anh ta hoàn toàn vô hạnh đến nỗi trấn lột, mượn đỡ, xin xỏ, hay trộm cắp, bất cứ ai, bất cứ điều gì, miễn sao xong việc.
Nghệ sĩ chỉ có mỗi bổn phận, là nghệ thuật của mình. Anh ta sẽ khốn kiếp vô cùng [ruthless: nhẫn tâm, độc địa] nếu là một tay bảnh, có thớ. Anh ta có một giấc mộng. Nó hành anh ta, cho tới khi anh ta rứt ra khỏi nó. Chỉ tới lúc đó, anh ta mới có được cái gọi là hòa bường, bường an [peace]. Mọi chuyện coi như pha: danh dự, danh giá, hãnh diện, đoan trang, lịch sự, an toàn, bảo đảm, hạnh phúc... tất cả, bởi vì bằng mọi giá, miễn sao viết xong cuốn sách. Nếu nhà văn phải trấn lột bà cụ thân sinh ra mình, anh ta cũng sẽ chẳng có chút ngần ngại; chẳng bà già nào so được với "Ode on a Grecian Urn". [Tụng Thi về một Bình Cổ Hy Lạp. Tên một bài thơ của John Keats]
Nghệ thuật giả tưởng
*
It was consoling to read these words in a country where the demands of the community came before all else.
Pamuk
Thật ấm lòng khi đọc những dòng trên, trong một xứ sở mà đòi hỏi của cộng đồng là trước tiên, là số 1.
*
INTERVIEWER Can writing for the movies hurt your work?
FAULKNER
Nothing can injure a man's writing if he's a first-rate writer. If a man is not a first-rate writer, there's not anything can help it much. The problem does not apply if he is not first-rate because he has already sold his soul for a swimming pool.
INTERVIEWER
Does a writer have to compromise when writing for the movies?
FAULKNER
Always, because a moving picture is by its nature a collaboration, and any collaboration is compromise because that is what the word means-to give and to take.
INTERVIEWER Which actors do you like to work with most?
FAULKNER
Humphrey Bogart is the one I've worked with best. He and I worked together in To Have and Have Not and The Big Sleep.
INTERVIEWER Would you like to make another movie?
FAULKNER
Yes, I would like to make one of George Orwell's 1984. I have an idea for an ending that would prove the thesis I'm always hammering at: that man is indestructible because of his simple will to freedom.
*
Ông vẫn còn mê làm một cuốn phim khác?
Ừ. Cuốn phim về 1984 của Orwell. Tôi có một cái kết rất thú, chứng thực một đề tài mà tôi quần quật với nó: rằng, con người thì bất khả huỷ diệt, giản đơn là do ý chí kiên cường của nó, về tự do.


William Faulkner
The Art of Fiction
William Faulkner was born in 1897 in New Albany, Mississippi, where his father worked as a conductor on the railroad that was built by the novelist's great-grandfather, Colonel William Falkner (without the u), author of The White Rose of Memphis. The family soon moved to Oxford, thirty-five miles away, where young Faulkner, although a voracious reader, failed to earn enough credits to graduate from the local high school. In 1918 he enlisted as a student flyer in the Royal Canadian Air Force. He spent a little more than a year as a special student at the state university, Ole Miss, and later worked as postmaster at the university station until he was fired for reading on the job.
Encouraged by Sherwood Anderson, he wrote Soldier's Pay (1926). His first widely read book was Sanctuary (1931), a sensational novel that he claims he wrote for money after his previous books-including Mosquitoes (1927), Sartoris (1929), The Sound and the Fury (1929), and As I Lay Dying (1930)-failed to earn enough royalties to support his family.
A steady succession of novels followed, most of them related to what is now known as the Yoknapatawpha saga: Light in August (1932), Pylon (1935), Absalom, Absalom! (1936), The Unvanquished (1938), The Wild Palms [If I Forget Thee, Jerusalem) (1939), The Hamlet (1940), and Go Down, Moses, and Other Stories (1941). Since World War II his principal works have been Intruder in the Dust (1948), A Fable (1954), and The Town (1957). His Collected Stories received the National Book Award in 1951, as did A Fable in 1955. In 1949 Faulkner was awarded the Nobel Prize in Literature.
Although shy and retiring, Faulkner has recently begun to travel widely, giving talks under the auspices of the United States Information Service.
This conversation took place in New York City, early in 1956.
-Jean Stein, 1956
INTERVIEWER
Mr. Faulkner, you were saying a while ago that you don't like being interviewed.
WILLIAM FAULKNER
The reason I don't like interviews is that I seem to react violently to personal questions. If the questions are about the work, I try to answer them. When they are about me, I may answer or I may not, but even if I do, if the same question is asked tomorrow, the answer may be different.

INTERVIEWER How about yourself as a writer?
FAULKNER
If I had not existed, someone else would have written me, Hemmingway, Dostoyevsky, all of us. Proof of that is that there are about three candidates for the authorship of Shakespeare's plays. But what is important is Hamlet and A Midsummer Night's Dream-not who wrote them, but that somebody did. The artist is of no importance. Only what he creates is important, since there is nothing new to be said. Shakespeare, Balzac, Homer have all written about the same things, and if they had lived one thousand or two thousand years longer, the publishers wouldn't have needed anyone since.
[còn tiếp]
*
Ông nhận xét thế nào về ông, như là một nhà văn?
Faulkner: Nếu không có tôi, thì cũng sẽ có một người nào đó. Hemingway, Dos, tất cả chúng ta. Chứng cớ: Có chừng 300 ứng viên nhận mình là tác giả những vở kịch của Shakespeare. Nhưng điều quan trọng, là, Hamlet, là Giấc Mộng Đêm Hè - chứ không phải ai viết chúng. Có một người nào đó viết, vậy là OK. Nghệ sĩ không quan trọng. Chỉ cái mà người đó sáng tạo ra, quan trọng, kể từ khi mà chẳng có gì mới được nói ra
. Shakespeare, Balzac, Homer, tất cả viết về cùng một điều, và nếu họ sống dai như đỉa, một ngàn năm, hai ngàn năm, những nhà xb chẳng cần ai nữa, kể từ đó.


Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn

Date: Tue, 5 Apr 2005 13:44:01 -0700 (PDT)
From:
Subject: Hỏi thăm
To:
Site của anh là một trong những site mà người viết thư này hay vào. Tuy không quen, không biết anh, người viết cũng đánh bạo mà xin anh cho vài câu trả lời dùm : Làm cách nào mà anh đọc nhiều, viết thật nhiều, maintain cái site của anh, giữ mối liên lạc bằng hữu và người thân, mà không thức trắng đêm, ngày này sang ngày khác vậy???
Note: Do trục trặc kỹ thuật, cả một folder
"Độc giả sáng tác" bị mất. Nay tái lập lại.
Trân trọng cáo lỗi. NQT
*
K. rất thương,
Không ngờ bức thư đó là K. viết. Lần đầu khi đọc thư đó, nghĩ ai mà viết giống ta thế! Ai ngờ, là bạn ta!
Ta rất ngại khi viết thư cho các tác giả, và chính nhờ bức thư đó của K. mà ta có can đảm làm quen với tay Hai Lúa này. Cách viết, cách nói của Hai Lúa có một cái gì thân mật, chân tình nên cũng đáng nói chuyện!
Thấy mệt khi đọc bài trả lời của Hai Lúa, cho K. Mấy thằng cha nhiều chữ phải trả lời sao để tỏ ra nhiều chữ, đọc mệt lắm K. ơi!


Người có nỗi chuân chuyên của người, sách có sự thăng trầm của sách. Tại khu sách cũ Nơ Trang Long một chiều mưa, tôi gặp thi sĩ Bùi Giáng đang chăm chú với một cuốn sách cũ. Cứ ngỡ bậc tiền bối như Bùi tiên sinh thì không còn gì đáng cho ông đọc nữa, nhưng khi ông bỏ cuốn sách xuống đi ra thì tôi lại thấy đó chính là cuốn Tư tưởng hiện đại của... ông. Giở lam nham thấy nhiều trang còn nguyên vết mực tươi, chữ viết ngoằn ngoèo. Thì ra ông tìm đến quầy sách cũ để tiếp tục sửa lại những điều chưa vừa ý trong cuốn sách của mình!
*
Cá nhân người viết không tin, chuyện "tìm, để"  nhưng cảnh tượng ông trời bơ vơ thưởng thức một buổi chiều mưa như thế, bằng những nét chữ còn tươi nét mực như vậy, chắc chắn là có thực. Tôi bỗng liên tưởng tới đoạn Zhivago về già, đi làm công cho một gia đình, gặp ông chủ nhỏ đang cắm cúi ghi chú lia lịa trên những trang sách, giơ tay vẫy vẫy ra ý xua đuổi, đừng làm rộn... nhân lúc vắng người, Zhivago tò mò lén coi: hóa ra là tác phẩm của mình! Hai hình ảnh, về cùng nhà thơ, một mơ tưởng một cuốn sách đẹp thật đẹp, cùng với nó là trách nhiệm của một người viết, và một (hình như) hài lòng vì thấy tác phẩm sống dai hơn mình...
Tưởng niệm Bùi Giáng
*
Chứng kiến một độc giả đang say sưa đọc bài viết của chính mình: Liệu có thể coi đó là những giây phút đẹp nhất trong một đời viết văn?
Why not?
Gấu đã từng chứng kiến, chính ông anh nhà thơ, đọc bài viết Bếp Lửa trong Văn chương viết về ông, tại tiệm sách Khai Trí, khi bài viết đăng trên Tập san Văn chương, và có thể, vì vậy, sau đó, ông đề nghị Văn đăng lại, trong số đặc biệt về ông.
Nhưng, độc giả thứ nhì mà Gấu chứng kiến say sưa đọc Gấu hàng giờ đồng hồ, bảnh, và hách hơn ông anh nhà thơ rất nhiều!
Đó là Chú Muời, hay Chú Chín “gì gì” đó, Trùm nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè, và nhờ vậy Gấu đã trải qua một quãng đời tù tuyệt vời, viết hoài còn hoài, đúng vào thời gian Gấu thật sợ, nếu bị trả về đời! Về cũng chẳng biết làm gì, mà về cũng bằng thừa! Chẳng ai còn cần, còn nhớ tới mình, mấy đứa nhỏ, nhỏ quá, Gấu Cái thì lo sống sót, nuôi con, nuôi chồng trong tù, liên hệ độc nhất với thế giới bên ngoài, là bà mẹ già, tháng tháng lọ mọ xách giỏ đồ đi thăm nuôi thằng con trời đánh không chết.
*
Nhưng, biết đâu đấy, những kỷ niệm đẹp nhất, có khi lại là, những kỷ niệm thê lương nhất!
Hai vợ chồng nhà Gấu, kỷ niệm, “có để mà nhớ”, thì đều đau lòng. Quá đau lòng. Thê lương, tàn khốc, có thể nói như vậy. Ngay cả cái chuyện, lấy nhau ra sao, như thế nào, thì hầu như cả Sài Gòn ngày đó đều biết, và ông bạn văn DNM còn gửi tối hậu thư cho Gấu, qua NTaV, mày nói với nó, nếu nó không viết, thì tao viết.
Bỏ qua, uổng lắm, chắc thế.
Chẳng thế mà ngay cả Gấu Cái, đôi khi còn bị bả vinh hoa, danh vọng “trù quyến” [trù ẻo & quyến rũ], mi mà viết ra cuộc tình, cuộc đời, cuộc khổ… của ta với mi, thì làm sao mà tránh khỏi… Nobel!
*
Gấu Cái, đọc những cuộc tình ‘thánh thiện’ với những ‘thánh nữ’của Gấu, bực mình, tất nhiên, tủi thân, làm sao không, có lần hỏi thẳng, ta vừa đau lòng, vừa không tin, vừa ngạc nhiên, bởi vì ta nhớ là hồi đó, mi đối xử với ta khác hẳn!
*

Lần đó, tại nhà sách Khai Trí đông người, nhưng tờ Tập San Văn Chương ký gởi, nhờ bán giùm, thì được bầy ở một trong những quầy sách ngay ở phía bên ngoài, và Gấu vừa bước vô, là thấy ông anh đang mải miết đọc. Ông cầm nghiêng tờ báo, thành thử từ xa Gấu đã nhìn thấy tờ báo của "đám mình", bài viết của "chính mình". Người đọc xong, bèn để tờ báo xuống, và đi ra, không thèm nhìn ai, và, tất nhiên, chẳng thấy thằng em.
Ông cũng coi cọp, như đa số độc giả, vào một buổi chiều thứ bẩy đông khách đó.
Nhưng phải nhìn cái cảnh Chú Muời, trình độ học Chú Sáu Dân, chắc hẳn, đọc Gấu, thì mới rất ư là cảm động!
Quái làm sao, sau này, đọc
Call for the Dead, Le Carré tả cảnh “Smiley đứng ở cửa sổ phòng mình ngắm một đám lửa trại lớn nơi sân trường Đại học: Vây quanh ngọn lửa, hàng trăm sinh viên mặt hồ hởi bóng nhẫy dưới ánh lửa bập bùng. Và họ ném hàng trăm cuốn sách của họ vào ngọn lửa ngoại đạo. Hắn biết tác giả của những cuốn sách: Thomas Mann, Heine, Lessing, và hàng loạt những người khác, và Smiley bàn tay ẩm ướt khum khum quanh đầu điếu thuốc, ngắm nhìn và thù hận, hả hê trong nỗi chiến thắng vì đã nhận diện ra kẻ thù của mình.”, Gấu lại nhìn thấy Chú Muời, đang đọc Báo Tường “Đội Ba. Kiên Trì. Vũng Tiến”!
Hay cũng có tí hả hê trong nỗi chiến thắng, vì nhìn ra kẻ thù của mình?
*
Tất cả những cuộc tình thánh thiện với những thánh nữ của Gấu, về già, ngẫm lại, Gấu hiểu ra được rằng, sở dĩ, thánh thiện, thánh nữ, ấy là vì, chúng đều chỉ có phần hồn, không có phần thịt, chúng giống như một thứ thuốc giảm đau. Với Bông Hồng Đen là nỗi đau Bắc Kít, nỗi đau Hà Nội. Cô bạn, nỗi đau mất thằng em, nỗi sợ cuộc chiến.
Mỗi khi quá đau, quá sợ, Gấu chạy đến cầu cứu họ.
Theo nghĩa đó, Gấu Cái chính là mối dây liên lạc khiến Gấu nhập vào với cuộc đời thực.
Có thể như vậy chăng?
*
Bông Hồng Đen cực kỳ thông minh. Em nhận ra liền, bỏ đi, và cay đắng nói, mi đâu có thương ta, mi thương một đứa con nít, là ta từ đời thuở nào, và Hà Nội của mi, ở trong đứa bé đó.
Nhưng phải đến già, và sau khi em đã từ giã cõi đời này, thì Gấu mới hiểu sự thực, tại sao em bỏ Gấu.
*
Còn cái kỷ niệm, nhờ nó, gặp BHD mà chẳng xứng đáng ghi vô gia phả dòng họ Nguyễn sao?
Hồi đó, ở hẻm Đội Có, Phú Nhuận. Bữa đó, ông anh vợ hụt vô thăm bạn Uyển. Ông này, chắc là đã nghe giang hồ đồn đại, thằng cha Gấu giỏi Toán lắm, và ngay lần đầu gặp, bèn đưa ra một bài toán, nhờ giải giùm. Không biết ông ta lấy ở đâu ra, chắc bài toán đang làm ông đau đầu.
Bài toán thuộc chương trình Đệ Tam, mà Gấu lại không học Đệ Tam.
Đậu Trung học, khóa hai, theo đám bạn bè cùng học như NKL xúi bẩy, bỏ luôn năm Đệ Tam, lên Đệ Nhị, cuối năm thi Tú Tài I, đậu liền khoá đầu.
Đám bạn, do đậu trung học khoá đầu, ba tháng hè học Đệ Tam, theo kiểu học rút [gọn].
Gấu bèn tự biên tự diễn, mượn cours, mượn sách tự học.
Gặp bài toán hắc búa, Gấu mầy mò coi lại cours Đệ Tam, giải được, đến nhà đưa cho ông anh vợ hụt, không gặp, đưa cho bà mẹ vợ hụt.
Bà ngạc nhiên lắm, Gấu còn nhớ rõ, bà không thể tin, có thằng lại giỏi hơn con trai của bà!
Đúng lúc đó, một cô bé đen thui, ốm nhom ốm nhách, có chiếc răng khểnh, có đôi mắt cực kỳ thông minh, cực kỳ buồn, từ đâu chạy về, Gấu vừa nhìn thấy, là nghĩ ngay đến Hà Nội!
Ui chao Hà Nội đây rồi! Đúng là Hà Nội của Gấu!
Quái đản thật.
Quá nhớ Hà Nội, vừa thấy cô bé con, là "ơ ra kià" liền!
Vừa nhìn thấy cô bé một cái, là Gấu hiểu ra liền, mất mấy ngày cực nhọc giải cho ra bài toán, nhờ vậy mà được thưởng!


Panat Nikhom 93

After Empire

Đỉnh cao chói lọi.


Bất khả thứ năm


Đơn Dương ngây ngô quận

Một thời để yêu, đế hát, và để chết
Những bài hát nửa lạ nửa quen, tôi nghe suốt từ thời thơ ấu, giờ vẫn gặp lại trong quán cafe, quán nhậu, trên đường phố… Tôi không mang về nhà thì thằng Bạc đem về, như thể nó biết tôi đã để quên, đã đánh rơi bên đường, như thể tất cả chúng là của tôi. Chỉ có bài hát “mèo hoang” nào đó mà thằng nhỏ nhắc, tôi thấy hơi xa lạ. Bạc tỏ ra thất vọng ghê gớm, bài đó hay lắm. Hát cho mấy người làm nghề bán bia ôm, mà hay, “có phải em về trong đêm nay, bước thấp bước cao ngã nghiêng trên đời này…”
Dọn

Chết Vì Tình