*

Diary

















Phố cũ, thu xưa, [2006]

*
*
Hallowen 2008

'Other countries have the Mafia. In Bulgaria, the Mafia has the country. '
ATANAS ATANASOV, a member of parliament, on the nation's history of political corruption and violence
Time, 3. 11. 2008
Ở xứ sở khác có Mafia. Ở Bulgaria, Mafia có xứ sở.
Ui chao, sao giống xứ Mít thế!


Có một "tội ác" giữa lòng Hà Nội?
Kurtz des ténèbres [Kurtz của bóng đen]

Bien qu'il n'ait jamais disparu, le courant brun qui coulait rapidement du cœur des ténèbres vers la mer en nous emportant sur le fleuve Congo est de retour. Et avec lui revient le personnage de Kurtz qui, lui non plus, n'a jamais disparu, ou s'il l'a fait, il était « parti très loin, comme dirait Kafka, pour rester ici ».
Thì, tất nhiên, nó chẳng bao giờ biến mất, cái dòng nước đục ngầu, đỏ như máu, của sông Hồng, chảy từ trái tim của bóng đen, là thành phố Hà Nội, ra biển, đưa chúng ta dạt dào lưu vong, sau khi thoát hải tặc Thái lan, mãi tít tới miệt Công Gô, và, ăn Tết Công Gô xong, lại trở về.
Và cùng về với nó, là nhân vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng hề biến mất, hay là, nếu anh ta làm như thế, “anh ta đi rất xa, nói như Kafka, để ở lại đây”.
Ui chao, nghe cảm khái cứ như thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ, và những đấng Yankee mũi tẹt, giang hồ khắp thế giới, đi đến đâu là biến nhà người, đất người thành bãi đánh hàng:
Từ thuở mang gươm đi dựng nước
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long


*

Irène Némirovsky: The Dogs & the Wolves
Chó và Chó Sói
By J.M. Coetzee
Bản giao hưởng Pháp
Irène Némirovsky in the woods

One of the final works of a lacemaker among savages – an heir to Chekhov who died in Auschwitz
Một trong những tác phẩm sau cùng của cô thợ làm ren giữa đám người man rợ
Ruth Scurr

With its large cast of characters and wide social range, Suite Française is more ambitious than anything Némirovsky had previously attempted. In it she takes a hard look at France during the Blitzkrieg and the subsequent occupation. She saw herself as following in the line of Chekhov, who had addressed the "mediocrity" of his times "without anger and without disgust, but with the pity it deserved." In preparation for her task she also reread War and Peace, studying Tolstoy's method of rendering history indirectly, through the eyes of his characters

Suite Francaise là tác phẩm nhiều tham vọng nhất của tác giả so với những tác phẩm trước đó. Trong đó, tác giả đưa ra cái nhìn cứng rắn, nặng nề về một nước Pháp giai đoạn Blitzkrieg và thời kỳ chiếm đóng sau đó. Bà coi mình như là một đệ tử của Chekhov, ngó xuống cõi tầm phào của những chuyện thường ngày của thời của mình, không giận dữ, mà cũng không chán chường, nhưng với sự thương hại xứng đáng với nó.


Cái vụ “quái trạng” đang om xòm chợ cá, về chuyện, ai là người đầu tiên phịa ra từ hậu hiện đại, và vào năm nào… làm Gấu nhớ đến một ý của Auden, đại khái, một nhà thơ có thể tự hỏi, tại sao mình làm thơ vào lúc sáu mươi tư tuổi, thí dụ, nhưng không bao giờ, vào năm 1940, vẫn thí dụ.
Mượn ý của Auden, sự ra đời của một nhà thơ, hay một dòng thơ, hay bất cứ sự ra đời của một tư tưởng, một trào lưu triết học… hệ tại ở hai điều, “tại sao” và “như thế nào”, theo Gấu.
Hậu hiện đại là hiện đại được đẩy đến cực điểm của nó, khi nhân loại phải đối diện với Cái Ác của thế kỷ hung bạo, thế kỷ 20.
Postmodernism.
After 1945, there was radical questioning of the basic, savagery in human nature. William Golding, Iris Murdoch, Norman Mailer, and John Fowles brought this theme into fiction. The freedom to write explicitly of sex and violence was taken further. Drama and the novel now presented the human dilemma in terms influenced by French existentialist philosophy. The theatre of the absurd, with Samuel Beckett and Harold Pinter, took dramatic speech away from the communicative and naturalistic to the inconsequential. The term Postmodernism has been given to the extension of Modernism into a more radical questioning of the integrity of language and the uncertainty of all linguistic performance.
Đó là cái phần "tại sao".
Còn "như thế nào" liên quan đến những biểu hiện của chủ nghĩa này, trong các ngành nhân văn, nghệ thuật.
Roland Barthes hình như cũng đã viết về vấn đề này, nếu Gấu nhớ không lầm. Ông nhấn mạnh đến cái “pourquoi” và cái “comment” của văn chương.
Nhìn như thế, Mít chưa có hậu hiện đại. Và chỉ có, khi đối mặt với Các Ác Bắc Kít, mà nguyên nhân và hậu quả, là Cuộc Chiến và Lò Cải Tạo.
*
Ngay từ khi Solz còn sống, tác phẩm Tầng Đầu Địa Ngục của ông đã được đưa lên TV ở Nga, ‘không bỏ một chữ’, mượn chữ của nhà văn NMG khi đưa Sông Côn Mùa Lũ về trở lại Việt Nam. Lẽ dĩ nhiên, cũng có sự lợi dụng của Putin, nhưng thà rằng là như vậy! Nhà nước Nga cho bạch hóa hồ sơ mật. Nhưng ở một nước cựu chư hầu của Liên Xô, là Việt Nam, Solz vẫn là một cấm kỵ, và trong nước Mít vẫn than thở giùm cho ông, sinh không gặp thời. Cái sự không đọc, và giới thiệu Solz, Akhmatova, Mandelstam… mới là một quái trạng, bởi vì chỉ có bắt đầu đọc những nhà văn nhà thơ ngày nào còn bị cấm kỵ ở quê hương của chính họ, thì mới giải trừ được nọc độc toàn trị, trong khi chờ đợi những tác phẩm dám nhìn thẳng vào thực tại Việt Nam. Có thể bằng suy nghĩ đó, Nguyên Ngọc dịch Kundera. Sự xuất hiện của những tác phẩm tố cáo tội ác Đức quốc xã của Hitler theo tôi, là cũng nằm trong suy nghĩ như trên. Trong khi những nhà thơ Xô Viết như Yevtushenko, như Mayakosky… với những vần thơ ái quốc xúi tưổi trẻ hy sinh cho lũ già ở Bắc Bộ Phủ tha hồ hưởng thụ, vậy mà vẫn có người lôi ra mân mê, cái đó cũng là quái trạng.
Ngay cả cái sự giới thiệu hậu hiện đại, làm như đây là cơ hội ngàn vàng của văn học trong nước, để theo kịp trào lưu thế giới cũng là quái trạng!

*
Applebaum gives the final word of her splendid book to the writer Lev Razgon. A Communist believer, Razzgon was arrested in 1938 and spent the next eighteen year in labor camps and exile. In 1990 he was allowed to see his own archival file in the Lubyanka building of the KGB-"a thin collection of documents describing his arrest and the arrests of his first wife, Okksana, as well as several members of her family." Razgon read the file and later wrote a moving essay about it, the fate of his wife's mother, and the "strange absence of repentance on the part of those who had destroyed all of them."
But his final thoughts, it seems to Appplebaum, are more ambivalent:
I have long since stopped turning the pages of the file and they have lain next to me for more than an hour or two, growing cold with their own thoughts. My guardian [the KGB archivist] is already beginning to cough suggestively and look at his watch. It's time to go. I have nothing more to do here .... I go downstairs, along the empty corridors, past the sentries who do not even ask to see my papers, and step out into Lubyanka Square.
It's only 5 p.m., but it's already almost dark and a fine, quiet rain falls uninterruptedly. The building remains beside me and I stand on the pavement outside, wondering what to do next. How terrible that I do not believe in God and cannot go into one quiet little church stand in the warmth of the candles, gaze into the eyes of Christ on the Cross and say and do those things that make life easier to bear for the believer. ...
I take off my fur hat, and drops of rain or tears trickle down my face. I am eighty-two and here I stand, living through it all again ... I hear the voices of Oksana and her mother ... I can remember and recall them, each one. And if I [have] remained alive, then it is my duty to do so ....

*
Applebaum khép lại “Gulag một lịch sử” của bà bằng những dòng trân trọng dành cho nhà văn CS tin tưởng sắt đá vào chủ nghĩa, Lev Razgon. Ông bị bắt vào năm 1938 và trải qua 18 năm tiếp theo trong tù cải tạo và lưu vong. Vào năm 1990 ông được KGB cho phép coi hồ sơ mật về trường hợp của ông.
*
Coi cái sự mân mê những vần thơ vệ quốc của những nhà thơ như Yevtushensho là quái trạng có lẽ không đúng. Đây là do mặc cảm phạm tội, và do cái sự bất khả tưởng niệm [The Inability to Mourn, tác phẩm Alexander và Margarete Mitscherlich, viết về sự im lặng về tội ác Nazi của dân chúng Đức] nếu chúng ta để ý đến trường hợp của Grass, như Coetzee viết về ông, trong bài Những nạn nhân [điểm cuốn Cua Bò, Crabwalk, NYRB 12 June, 2003]: Những người cùng thế hệ của Grass giữ sự im lặng bí ấn về những năm chiến tranh, Grass thú nhận, bởi vì mặc cảm tội lỗi cá nhân của họ vượt lên trên hết, và sự “cần thiết chấp nhận trách nhiệm và ăn năn hối lỗi chỉ có thể có, khi có một người nào đó xâm mình mở đường”.
*
Trong Quần đảo Gulag, Solz dành một chương viết về những quốc gia lưu vong, Tin Văn sẽ scan ấn bản rút gọn. So sánh với Mít, quả là toàn thể một miền đất - Miền Nam – sau 1975, xứng đáng được gọi là "quốc gia lưu vong". Những cú như 10 ngày cải tạo, kinh tế mới.. như được lấy ra từ sách lược của Người [Stalin]
Với mọi quốc gia toàn thể tự nguyện đi đầy như thế, một sử thi sẽ được viết ra một ngày nào đó - về cái sự nó bị xé ra khỏi đất mẹ của nó, và cái sự nó bị huỷ diệt tại miền Siberia. Chỉ những quốc gia như thế, chính chúng, mới có quyền cất lên tiếng nói của chúng, để nói về tất cả những gì chúng trải qua: Chúng ta không có những từ ngữ để nói giùm cho chúng.
Solz
Solzhenitsyn comes back to this theme at several points. "The imagination of writers is poverty-stricken in regard to the native life and customs of the Archipelago," he writes. How could a Western writer, in particular, describe the perturbation of a human soul placed in a cell filled to twenty times its capacity and with no latrine bucket, where prisoners are taken out to the toilet only once a day! Of course, much of the texture of this life is bound to be unknown to Western writers; they wouldn't realize that in this situation one solution was to urinate in your canvas hood, nor would they at all understand one prisoner's advice to another to urinate in his boot!
It takes a writer such as Shalamov to convey something, a tiny human fragment, of the reality of Kolyma. It takes Primo Levi to describe Auschwitz.
Applebaum: Gulag a history
Phải có nhà văn như Shalamov để viết về tí người còn sót trong trại tù Kolyma. Primo Levi để miêu tả Lò Thiêu.


- Gamzatov từng nói:“Văn học không có ranh giới, nhưng nhà văn phải có quê hương”.
Trời, lại một ông già vĩ đại nữa.
Con cá quẫy để khỏa bèo vì nó cần thở ở một khoảng rộng hơn. Tôi cũng vậy.
Nguyễn Ngọc Tư trả lời phỏng vấn nhân Gió Lẻ
Note: Bài này tuyệt. Cho điểm "sáu sao" [mô phỏng THD!: ******


Một Thoảng Sài Gòn



Nàng Lúi
Thời vô song
Bạch Hổ
Phúc phương phì

Tôi đọc Kẻ Xa Lạ, hình như là vào năm 1958 thì phải, và cơn chấn động do nó gây nên đánh bật tôi ra khỏi giảng đường Đại Học Khoa Học, Sài Gòn.
1974, Nguyễn Quốc Chánh đọc nó, cũng tại thành phố Sài Gòn của tôi, và như ông cho biết, nó đã tác động tới ông như một trận hỏa...

Hai người đọc cùng một cuốn sách, trước và sau một cuộc chiến, và gần như cùng bị chấn động như nhau. Có vẻ như cuốn sách chẳng cần một thời gian, một biến cố lịch sử nào để mà biện minh. Có vẻ như nó mãi mãi thuộc về một thời mới lớn, như tác giả của nó, khi viết nó: "Camus ư? Đây là một tấm hình của ông. Một khuôn mặt đẹp, trầm trọng, một cái nhìn buồn bã, và dịu dàng của người thức đêm, trông chừng những cơn mộng của thời mới lớn...".
Và đây là câu văn mở đầu của một cuốn tiểu thuyết sẽ mãi mãi làm ngỡ ngàng những người trẻ tuổi:
"Bữa nay mẹ tôi mất" (Aujourd’hui maman est morte).


Đóa hoa hồng vùi quên trong tay

Like the Coleridge hero who wakes to find himself holding the rose of his dreams, I knew these objects were not of the second world, which had brought me so much contentment as a child, but of a real world that matched my memories
Orhan Pamuk
Như nhân vật của Coleridge thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay bông hồng đen của giấc mộng, tôi biết, tất cả những gì ở trong
Tứ khúc thì không phải là từ thế giới tưởng tượng bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và chúng là một, với hồi ức của tôi, những ngày ở Sài Gòn.


Trước 1975, giả như Gấu không làm thêm cái job phụ là dịch sách, thì làm sao có được một độc giả cứu tinh, là cái tay chuyên lo việc khám xét đồ thăm nuôi của trại viên tại nông trường Đỗ Hòa? Anh này rất mê Cronin, nhà văn y sĩ Hồng Mao, và cuốn Khách Lạ Ở Thiên Đường, do Gấu dịch. Nhờ vậy, khi Gấu Cái lên thăm nuôi lần đầu, đúng lúc Gấu đang ở tù trong tù, tức ở Tổ Trừng Giới, do cái tội đào trại, và đang đi lao động, anh ta ra hiện trường dắt Gấu về Nhà Hội, và trên đường đi, anh ta dặn cặn kẽ, có mấy trăm ở trong bị gạo, anh dím liền, đồ ăn chin, cố ăn được nhiều chừng nào hay chừng đó, bởi vì đám cai tù tổ trừng giới sẽ làm sạch sau khi anh về tổ cất đồ, và trở ra hiện trường lao động tiếp.