*




*

Chúc Mừng Năm Mới 2011

Noel 2010

Thơ mỗi ngày

Thơ dịch
THANH TÂM TUYỀN 

MALLARMÉ

Le vierge, le vivace et le bel aujourd’hui
Va-t-il nous déchirer avec un coup d’aile ivre
Ce lac dur oublié que haute sous le givre
Le transparent glacier des vols qui n’ont pas fui
Un cygne d’autrefois se souvient que c’est lui
Magnifique mais qui sans espoir se délivre
Pour n’avoir pas chanté la region òu vivre
Quand du stérile hiver a resplendit l’ennui
Tout son col secouera cette blanche agonie
Par l’espace infligée à l’oiseau qui le nie
Mais non l’horreur du sol òu le plumage est pris
Fantôme qu’à ce lieu son pur éclat assigne
Il s’immolise au songe froid de mépris
Que vêt parmi l’exil inutile le Cygne . 

Ngày trinh nguyên, phơi phới thắm tươi
Chừng đập cánh say sảng lộng rách
Hồ đặc quên dưới giá ẩn hiện
Gương băng cánh chim xưa không bay
Con thiên nga thuở cũ nhớ mình
Kỳ vĩ nhưng tự do vô vọng
Bởi chốn dung thân không hót tụng
Khi mùa đông trơ ánh chán chường
Vùng thoát giấc trắng xóa tiêu hồn
Không gian chim rẽ rúng hãm cầm
Nào rớt bùn nhơ thân vấy tởm
Ma quỷ tinh anh tự đọa trầm
Ngây sững chiêm bao lạnh khinh mạn
Lốt Thiên Nga ngày hão phiêu vong .

Aux arbres

YVES BONNEFOY

Vous qui vous êtes effacés sur son passage,
Vous qui avez refermé sur elle vos chemins,
Impassibles garants que Douve même morte
Sera lumière encore n’étant rien.
Vous fileuse matière et densité,
Arbres, proches de moi quand elle s’est jetée
Dans la barque des morts et la bouche serrée
Sur l’obole de faim, de froid et de silence.
J’entends à travers vous quell dialogue elle tente
Avec les chiens, avec l’informe nautonier,
Et je vous appartiens par son cheminement
A travers tant de nuit et malgré tout ce fleuve.
Le tonnerre profound qui roule sur vos branches,
Les fêtes qu’il enflamme au sommet de l’été
Signifient qu’elle lie sa fortune à la mienne
Dans la mediation de votre austérité.

Với cây rừng.

Rừng cây nhòa xóa trên lối ruổi
Rừng túa khép nẻo kín bóng nàng
Lầm lì chứng quyết nàng dù khuất
Vẫn là ánh sáng hiển nhiên không
Rừng tơ chất niềm mật trọng
Cây thân cận ta lúc nàng gieo mình
Xuống con thuyền đón vong linh miệng cắn
Miệng bát chan đói, rét, lặng thinh
Ta nghe qua rừng giọng nàng gắng đối đáp
Với lũ chó ngao, với quỷ sứ đưa đò
Và ta lụy hồn rừng theo bước đường lận đận
Ngất trải bao dặm khuya dù sông nước mịt mù
Sấm âm u dội rền đầu ngọn cành
Những hội đám sét thắp rực đỉnh hạ
Điềm báo mệnh nàng với mệnh ta gắn bó
Môi giới nhờ khổ hạnh kiếp rừng.

Thơ dịch

5 năm TTT ra đi

Fyodor Dostoevsky, Những Con Quỉ 

Như ngộ ra tình yêu, khám phá ra biển, sự khám phá Dos đánh một cái dấu ngày tháng quan trọng lên đời một người, và cú này thường xẩy ra khi vừa mới lớn; đám lớn tuổi mò tới những tác giả thanh thản hơn. Vào năm 1915, tại Geneva, tôi ngốn ngấu Tội ác và Hình phạt, qua bản dịch tiếng Anh rất dễ đọc của Constance Garnett. Cuốn tiểu thuyết này, mà những nhân vật của nó là một tên sát nhân và một em điếm, đối với tôi, có vẻ khủng khiếp chẳng thua gì cuộc chiến đang bủa vây quanh…
Borges 

Nếu chúng ta coi cuốn Buồn Nôn của Sartre được viết trên cái nền là khúc nhạc Jazz, Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới, Some of these days, I will miss U, honey, thì cái bóng của cuốn Tội Ác và Hình Phạt, mà tay Đại khư khư cầm trên tay phủ lên toàn thể những ngày tháng ở Hà Nội, của Tâm, của Đại, "khủng khiếp chẳng thua gì cuộc chiến vây quanh" những ngày 1954,  và sau cùng là,“đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết.” 

Ngày 22 tháng 3 năm nay, 2010, là đúng 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta. Trong những nhận xét về thơ của ông, có của Quỳnh Giao, theo người viết, thật độc đáo:

“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”

Năm năm đã qua, liệu đã đến lúc chúng ta giải phóng nhà thơ ra khỏi thời của ông, như cách nhìn của Steiner về nhà văn và thời của người đó, rằng, tất cả văn chương lớn thì giầu có hơn, và vượt ra ngoài vòng ôm của một thời, that all literature is richer than any single subsequent time could possibly appreciate in full. (1)

Đây cũng là ý của Bakhtin, khi ông trả lời một tờ báo Nga về tương lai của môn nghiên cứu văn học Nga: “Tác giả và những người đồng thời với họ nhìn, công nhận, và đánh giá, chủ yếu về điều gần gụi với những ngày của chính họ. Tác giả bị cầm tù bởi thời của anh ta, bởi sự hiện diện của chính anh ta. Thời tiếp thời và những thời kế tiếp nhau như thế sẽ giải phóng anh ta ra khỏi sự cầm tù, và giới học giả được vời tới để tham sự vào sự giải phóng này” (1)

(1) Reading George Steiner, [Đọc Steine], Nathan A. Scott, Jr. and Ronald A. Sharp biên tập, The Johns Hopkins University Press. 

Sở dĩ Gấu này phải đợi 5 năm nhà thơ ra đi, là để được hân hạnh tham dự vào cái công cuộc giải phóng nhà thơ ra khỏi câu phán tuyệt vời trên, nó đóng chặt nhà thơ vào thời của ông, và sự hiện diện của chính ông!
*

Dưới đây, là nhận xét của Ngài Tiên Chỉ VP, về cuộc di cư 1954:

Thật vậy, hiệp định đình chiến vừa ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc chiến tranh bấy giờ được họ [CSMB] thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị cuộc chiến tranh sau. Đồng thời, không muộn hơn một ngày nào.
Lúc ấy chính quyền quốc gia lo đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức cuộc di cư cho đồng bào Miền Bắc. Di cư là đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ: công chức già thì vào theo nhà nước để lãnh hương hưu, các cụ cố thì theo con cháu vào để được nuôi nấng và chết giữa đám con cháu v.v...

Võ Phiến: Bắt Trẻ Đồng Xanh

Bài viết này GNV đọc ngay khi vừa ra lò, chỉ nhớ mài mại. Bây giờ, được đọc lại, mới hỡi ơi, vì cách nhìn của VP về cuộc chiến Mít, về chính quyền VNCH…, mới hạn hẹp làm sao.

Cả bài viết, nhằm mục đích tố cáo Miền Bắc, không hề bỏ qua 1 ngày nào, trong cái việc làm sao ăn cướp cho được Miền Nam, đồng thời tố cáo cái thái độ ‘nhảm nhí, tầm phào’, của VNCH, cả trong chiến địch di tản, di cư 1954, như những dòng trên cho thấy!

*

Cuốn số 1 trong 20 cuốn số 1 của năm 2010, theo tờ Lire, Dec 2010-Janvier 2011, viết về Tướng Về Hưu, Nazi

&

Dès que l'on quitte Sapa pour gagner la passe de la Porte des nuages,
on découvre les rizières en terrasses qui grignotent le flanc de la montagne.

Ngay sau khi rời Sapa qua lối Cổng Mây, là những dải ruộng nằm trên sườn đồi

Projections vietnamiennes
Phóng chiếu Việt Nam


Địa linh, L'Esprit  Des Lieux:
Những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất viết về xứ Mít, thì đều lấy Sài Gòn làm... trung tâm

*

NYRB số mới nhất,23 Dec, 2010, đọc The Colossus of Maroussi
của Henry Milerr: Điên lên vì Hy Lạp
Với Miller, Hy Lạp là nhà của những vị thần, và thần, thì tầm vóc cũng chẳng khác gì con người
 – nghĩa là, chính xừ luỷ - có thể, nhỉnh hơn tí ti !

*

It says much about Miller, though, that the Colossus of his title turns out, unexpectedly, to refer to no ancient ruin or god-filled temple but, in fact, to a larger-than-life monologist and overweening storyteller, George Katsimbalis. "He was a vital, powerful man," Miller writes, just after meeting the Greek writer, "capable of brutal gestures and rough words, yet somehow conveying a sense of warmth which was soft and feminine." He goes on:
    He was extremely sympathetic and at the same time ruthless as a boor. He seemed to be talking about himself all the time, but never egotistically. He talked about himself because he himself was the most interesting person he knew.
And then the flash of disarming self-knowledge that comes so close to self irony it can save the day: "I liked that quality very much-I have a little of it myself."

Colossus, ở trong cái tít, là tên của 1 ngôi đền đầy thần, một cõi điêu tàn như Tháp Chàm của xứ Mít, chắc thế, nhưng hoá ra lại là tên 1 đấng bạn quí của... GNV!

Bạn quí của tớ thì nói hoài về hắn, nhưng hắn không bao giờ là 1 tên vị kỷ.

Hắn nói hoài về hắn, bởi vì có thằng nào bảnh hơn chính hắn!
Nếu không thế, làm sao là bạn quí của GNV!



Nobel Peace

*

The empty chair

Vụ này, còn 1 tí tiếu lâm, nữa, là, cho đến nay, không thấy dịch giả DTT lên tiếng. Điều này làm chúng ta suy đoán, ông không hề biết đến trận ‘bão tố dịch thuật’ liên quan tới ông, nghĩa là, ông không trực tiếp gửi bài cho DM. Bởi vì nếu có, là DM đã chuyển cho ông những thắc mắc của độc giả, và luôn cả cái cú nhà phê bình BVP đưa lưng chịu đòn giùm cho ông!
Nếu đúng, đâu cần ‘cái mũ’ ở đầu bản dịch, mà chỉ cần ghi nguồn, khỏi cần trang trọng, khiến GNV này phát thèm, vì đã từng nhặt 1 hạt sạn trong bài thơ bà chủ nhiệm chủ bút chủ biên gì gì đó của DM, mà chẳng được 1 lời cám ơn!
Những điều tưởng nhỏ nhặt, nhưng nó làm lộ ra tính đạo đức của 1 diễn đàn văn học.

*

China: From Famine to Oslo

TQ: Từ Trận Đói đếnOslo
*

Bài diễn văn Nobel Hòa Bình TV tính dịch, nhưng thấy “diễn đàn bạn” là Da Màu đã làm rồi, nên thôi. Ghé mắt nhìn thì thấy cái nón này: 

LTS: Trong tinh thần ủng hộ tự do ngôn luận, cùng những nỗ lực nhân quyền của Lưu Hiểu Ba, Da Màu xin đăng toàn bộ bản dịch bài diễn văn trao giải Nobel Hòa Bình năm 2010 của Chủ tịch Ủy ban Nobel Na-Uy Thorbjorn Jagland, do dịch giả Anh Anh chuyển ngữ. Bản dịch đã được đối chiếu với bản Anh ngữ và nhuận sắc bởi BBT Da Màu. Da Màu hân hạnh chào đón mọi ý kiến của quý độc giả về dịch thuật.
DM

Đừng nghĩ là GNV này cố tình “bới bèo ra bọ”, nhưng ngay câu đầu, là đã thấy không OK rồi.
Người dịch không tôn trọng trật tự của từ, và điều này làm câu văn mất đi ý nghĩa của nó.
GNV này đã từng suýt soa, cái tay đích thực tác giả bài viết là 1 bậc thầy về ngoại giao, thành thử bạn vờ đi trật tự từ, là làm hỏng bản văn!
Làm què nó, đúng hơn!

 "The Norwegian Nobel Committee has decided to award the Nobel Peace Prize for 2010 to Liu Xiaobo for his long and non-violent struggle for fundamental human rights in China. The Norwegian Nobel Committee has long believed that there is a close connection between human rights and peace. Such rights are a prerequisite for the "fraternity between nations" of which Alfred Nobel wrote in his will."
 
Ủy ban Nobel Na-Uy quyết định trao giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 2010 cho Lưu Hiểu Ba vì sự đấu tranh bất bạo động và lâu dài cho những quyền cơ bản của con người tại Trung Quốc. Ủy ban Nobel Na-Uy tin tưởng mạnh mẽ có một mối liên hệ mật thiết giữa nhân quyền và hòa bình. Nhân quyền là điều kiện tiên quyết cho “tình huynh đệ giữa các quốc gia,” điều mà Alfred Nobel đã viết trong chúc thư của ông.
DM

Đúng ra, phải dịch là sự đấu tranh lâu dài và bất bạo động.
Lâu dài, trước, bạo động sau.

Ủy ban Nobel Na-Uy tin tưởng mạnh mẽ
Uỷ ban Nobel hằng tin tưởng.
Bỏ đi từ “mạnh mẽ”, vì không có trong nguyên tác.

Liên hệ mật thiết: close, dịch là mật thiết, thì cũng được, nhưng GNV đã nói rồi, tay này là Thầy về ngoại giao, thì nên dịch là… có 1 mối liên hệ “môi hở răng lạnh”.

Tầu đặc, Mít đặc!

Dịch như vậy là nhắc khéo đến tình bạn lâu đời giữa An Nam ta và Thiên Triều, những năm chiến tranh Thiên Trều trang bị anh bộ đội Cụ Hồ từ đầu đến đít, mấy cái lông chim, là cũng “made in China”, nhờ vậy mới ăn cướp được Miền Nam, hà, hà!

“Tình huynh đệ giữa các quốc gia”, không ngửi ra mùi mấy em xẩm, bằng “tứ hải giai huynh đệ”!
Những từ trên, người viết đều nhắc khéo đến những châm ngôn của Tầu, thành thử mới để trong ngoặc.

Để trong ngoặc, “tứ hải giai huynh đệ”, rồi lại thòng thêm, “câu này có trong di chúc của ông Nobel”, là cũng muốn nhắc khéo đến, nhân quyền đâu phải do Tây Phương phịa ra!

Ui chao, khó nhá quá, ba cái chuyện dịch doạc này!
*
Đính chính: Sáng nay đọc lại, thì Gấu nhận ra là, trật tự từ ‘bất bạo động và lâu dài’, đúng hơn là ngược lại, ‘lâu dài và bất bạo động’.
Ấy là vì trong tiếng Anh, ‘tính từ’ đặt trước ‘danh từ’, khi dịch qua tiếng Việt, phải đảo ngược lại vị trí của tính từ, bởi vì trong hai tính từ, ‘bất bạo động’, trong tiếng Anh, đứng kế ngay danh từ ‘đấu tranh’, mạnh hơn ‘lâu dài’, đứng xa hơn.
‘Tính từ’ nào càng gần ‘danh từ’ càng ảnh hưởng mạnh lên nó. Người viết coi trọng tính 'bất bạo động' hơn tính 'lâu dài', khi viết về cuộc đấu tranh cho nhân quyền, tại, ở đây là TQ.
Ai thì cũng biết, 'tính từ' là 1 thứ tiếng, từ dùng để bổ nghĩa, thay đổi nghĩa, modifier, của/cho 'danh từ'

Thái, biết bao Thái, nhưng Thái Dúi, thì biết ngay là anh nào!

Sorry abt that. NQT
*

He is in isolation in a prison in north-east China.
Ông đang bị cô lập trong một nhà tù ở đông bắc Trung Quốc. BBC
Ông đang bị biệt giam tại miền Đông Bắc Trung Quốc. DM
Ông đang ở trong một tình trạng cách biệt với thế giới bên ngoài, trong 1 nhà giam ở … GNV

Câu dịch của BBC đúng hơn của DM.

Chỉ những người đã từng biết, do sống, hay do đọc về tù ở 1 xứ sở CS, mới hiểu được những từ như biệt giam. Khi dịch là ông đang bị biệt giam, thì độc giả tưởng ông này ở tù nhưng được biệt giam, nghĩa là không được ở chung với những bạn tù. Biệt giam là tù trong tù!

This fact alone shows that the award was necessary and appropriate.
Riêng điều này chứng tỏ giải thưởng là cần thiết và phù hợp. BBC
Sự thật này tự nó chứng tỏ rằng giải thưởng là cần thiết và xứng đáng. DM
BBC, đúng hơn.

Bài viết này, còn quá 1 văn bản ngoại giao, vì nó nói lên tinh thần của thiên niên kỷ, của hiện tại so với quá khứ, sau những Lò Thiêu, Lò Cải tạo, Gulag, 11/9…

BBC có vẻ rất thận trọng, khi dịch, còn DM, hung hăng con bọ xít, dùng từ rất dễ mất lòng Thiên Triều!
TV post ở đây cả ba bản văn, nguyên tác, bản dịch của BBC, và của DM. Thủng thẳng sẽ đi vài đường bình loạn, sau.

Peace Nobel Speech


Triết gia của sự mất ngủ

Phận lưu vong

Ở hay Về?


Gặp Gỡ
Milan Kundera

OUBLI DE SCHONBERG

Un ou deux ans après la guerre, adolescent, j'ai rencontré un jeune couple juif de quelque cinq ans plus âgé que moi; ils avaient passé leur jeunesse à Terezin et, ensuite, dans un autre camp. Je me suis senti intimidé devant leur destin qui me dépassait. Ma gêne les a irrités: «Arrête, arrête !» et, avec insistance, ils m'ont fait comprendre que la vie là-bas gardait tout son éventail, avec des pleurs aussi bien que des plaisanteries, avec de l'horrible aussi bien que de la tendresse. C'est pour l'amour de leur vie qu'ils se défendaient d'être transformés en légendes, en statues du malheur, en document du livre noir du nazisme. Je les ai complètement perdus de vue depuis, mais je n'ai pas oublié ce qu'ils essayaient de me faire comprendre.
Terezin, en tchèque, Terezinstadt, en allemand. Une ville transformée en ghetto que les nazis ont utilisée comme une vitrine, où ils laissaient vivre les détenus d'une façon relativement civilisée pour pouvoir les exposer aux nigauds de la Croix-Rouge internationale. Là étaient regroupés des Juifs d'Europe centrale, notamment de sa partie austro-tchèque; parmi eux beaucoup d'intellectuels, des compositeurs, des écrivains, de la grande génération qui avait vécu sous la lumière de Freud, de Mahler, de Janacek, de l'école viennoise de Schonberg, du structuralisme praguois.
Ils ne se faisaient pas d'illusions: ils vivaient dans l'antichambre de la mort; leur vie culturelle était étalée par la propagande nazie comme un alibi; auraient-ils dû pour autant refuser cette liberté précaire et abusée? Leur réponse fut d'une totale clarté. Leurs créations, leurs expositions, leurs concerts, leurs amours, tout l'éventail de leur vie avait une importance incomparablement plus grande que la comédie macabre de leurs geôliers. Tel fut leur pari. Aujourd'hui, leur activité intellectuelle et artistique nous laisse interdits; je ne pense pas seulement aux œuvres qu'ils ont réussi à y créer (je pense aux compositeurs! à Pavel Haas, élève de Janacek, qui m'avait enseigné, enfant, la composition musicale! et à Hans Krasa! et à Gideon Klein! et à Ancerl, devenu après la guerre l'un des plus grands chefs d'orchestre d'Europe!) mais peut-être plus encore à cette soif de culture qui, dans ces conditions effroyables, s'est emparée de toute la communauté térézinienne.
Que représentait l'art pour eux? La façon de tenir pleinement déployé l'éventail des sentiments et des réflexions afin que la vie ne fût pas réduite à la seule dimension de l'horreur. Et pour les artistes détenus là-bas? Ils voyaient leur destin personnel se confondre avec celui de l'art moderne, l'art dit « dégénéré », l'art pourchassé, moqué, condamné à mort. Je regarde l'affiche d'un concert dans le Terezin d'alors: au programme:
Mahler, Zemlinsky, Schonberg, Haba. Sous la surveillance des bourreaux, les condamnés jouaient une musique condamnée.
Je pense aux dernières années du siècle passé. La mémoire, le devoir de mémoire, le travail de la mémoire, étaient les mots-drapeaux de ce temps. On considérait comme un acte d'honneur de pourchasser les crimes politiques passés, jusqu'à leurs ombres, jusqu'aux dernières taches salissantes. Et pourtant, cette mémoire toute particulière, incriminatrice, servante empressée du châtiment, n'avait rien de commun avec celle à laquelle tenaient si passionnément les Juifs de Terezin qui se fichaient bien de l'immortalité de leurs tortionnaires et faisaient tout pour garder dans la mémoire Mahler et Schonberg.
Un jour, débattant de ce sujet, j'ai demandé à un ami: «… et est-ce que tu connais Un survivant de Varsovie? - Un survivant? Lequel?» Il ne savait pas de quoi je parlais. Pourtant, Un survivant de Varsovie (Ein Überlebender aus Warschau), oratorio d'Arnold Schonberg, est le plus grand monument que la musique ait dédié à l'Holocauste. Toute l'essence existentielle du drame des Juifs du XXe siècle y est gardée vivante. Dans toute son affreuse grandeur. Dans toute sa beauté affreuse. On se bat pour qu'on n'oublie pas des assassins. Et Schonberg, on l'a oublié.
Kundera : Une Rencontre

Vờ Schonberg đi! 

Một hay hai năm sau khi chiến tranh chấm dứt, còn trẻ măng, tôi gặp một cặp vợ chồng người Do Thái chỉ nhỉnh hơn tôi chừng, năm sáu tuổi; họ đã trải qua tuổi trẻ ở Terezin, và sau đó, trong một trại khác. Tôi cảm thấy mình mới con nít làm sao so với cả hai, so với những gì số mệnh đã dành cho họ. Cái sự lúng túng, “thèm” được như thế đó, không thể nào qua mắt họ được, hẳn thế, và thế là họ bèn la lên, này, đừng như thế chứ, “bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít VC,  thiếu 1 ngày lính Nguỵ, bỏ chạy ngay sau 30 Tháng Tư, không được đi tù VC, tù Nazi… thì cũng đâu có đến nỗi phải… tự tử! "

Ui chao, đọc bài này, là GNV nhớ đến những ngày tháng ở nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi, và ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè !

Đọc, là GNV hiểu ra, tại làm sao mà Kundera không làm sao chịu nổi Solz: K. ‘hình như’ cũng chưa từng thực sự có những ngày tù ở bất cứ 1 Gulag?

Cả hai nhất quyết làm cho tôi hiểu rằng, cuộc sống ở trong đó cũng ‘tới bến’ lắm, đau thương không thiếu, hẳn nhiên rồi, nhưng có vui đùa, cười cợt, có điều ghê rợn, khủng khiếp, nhưng cũng có sự dịu dàng. Chính là vì yêu thương cuộc sống của riêng họ, mà họ từ chối biến thành giai thoại, thành những bức tượng của sự bất hạnh, thành 1 hồ sơ ở trong 1 cuốn sách đen về chủ nghĩa Nazi.

Tôi mất liên lạc với họ sau đó, nhưng kể từ đó, tôi không bao giờ quên điều mà họ cố làm cho tôi hiểu. Một thành phố biến thành ghetto, Nazi sử dụng như một thứ nhà kiếng, ở trong đó, họ ban cho những người bị bắt giữ một cuộc sống tương đối văn minh, để đánh lừa đám ngu đần nhân viên Hồng Thập Tự


Khi Đỏ là Đen




Kỷ niệm, kỷ niệm