*

Tribute

























 

Chứng từ  Thanh Tâm Tuyền 

Thanh Tâm Tuyền là một trong những nhà thơ tiên phong đổi mới tư duy thơ, một nhà thơ lớn có bóng bao trùm một miền thơ rộng của thế kỉ XX. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho đến nay, cả văn bản thơ và những suy tư về lối viết… của Thanh Tâm Tuyền chưa được giới thiệu rộng rãi. Đọc Thanh Tâm Tuyền có thể nhận thấy một bằng chứng khá thuyết phục rằng: kẻ làm thơ muốn đổi mới thơ cần có một quan niệm mới, một suy tư thật mới, một cách nghĩ khác, một tiếng nói khác.Nhận thấy việc cung cấp ít nhiều những “chứng từ tinh thần” của Thanh Tâm Tuyền cho độc giả lúc này thích hợp và có nhiều ý nghĩa. Dưới đây, Phongdiep.net xin trân trọng giới thiệu những suy tư giàu tính lí luận, độc đáo, sâu sắc của Thanh Tâm Tuyền về việc làm thơ, và viết văn… 

1.     Đã lâu lắm tôi không làm thơ. Có đến mười năm. Tập thơ cuối cùng đã làm hồi 59 - 60. Không làm thơ mà cũng không đọc thơ. Nói cho đúng, xem rất nhiều nhưng đọc rất ít. Mà thơ làm ra không để xem mà để đọc. Đọc thầm một mình, đọc cho một người, hay đọc cho nhiều người nghe. Đọc là có tiếng, nghe tiếng dội của những tiếng. 

Có lẽ nên phân định xem sách, xem tiểu thuyết và đọc thơ, đọc kịch. {Kịch trong cái nghĩa độ căng thẳng chông chênh của những phút sống lìa tách mù tít là thơ – người ta gọi les poètes dramatiques những Sophocle, Eschyle, Shakere, Racine tán rộng ra Vương Thực Phủ, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du cũng có thể gọi như thế (Nguyễn Gia Thiều, nhà thơ bị hắt hủi, sẽ phải nói đến – như một đỉnh tót vời của thơ Việt Nam ngang Nguyễn Du) xem kịch là chuyện khác} như trong ngôn ngữ thường ngày người ta đã phân biệt được một cách tinh tế: làm thơ và viết văn. 

2.     Anh có thấy không? Không ai nói viết thơ cả, viết thư thì có. Khi người ta nói làm văn, đó là có ý dè bỉu. Một nhà văn làm văn, thật không có gì miệt thị hơn lời ấy. Nhưng một người làm thơ lại là lẽ tự nhiên. Chỉ ngô nghê khi anh nói người làm thơ viết thơ.

Như thế anh thấy gì?

Giản dị hết sức, làm không phải viết. Làm thơ không cần viết. Không cần viết nghĩa là không cần tờ giấy, không cần cây bút, hơn thế không cần cả chữ. Phụ tùng hết thẩy. Một anh chàng làm thơ đã hùng hồn tuyên xướng: nếu ai cướp mất bút tôi, tôi sẽ dùng dao khắc thơ lên đá[1]… Nghe cũng rung đấy, nhưng cần gì phải thế. Anh chỉ cần đọc lên cho người khác nghe. Thế là xong. Trăm năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ. Thơ gốc như thế. Nó chỉ cần có tiếng nói, không cần chữ. Có chữ ghi chép lại càng hay.

3.     Anh nhớ lại xem.

Một bài thơ được hoàn thành như thế nào? Khi không  (tạm coi là khi không đi), anh đang đi, anh đang chơi, anh đang làm việc, anh bỗng nghe vang đâu đó (tuốt sâu trong, xa lắc ngoài) một hình tượng, một ngâm nga, một rung chuyển, một lượn lờ, một gì gì vô ngôn quái quỷ hay thánh thần (nói theo điệu Bùi Giáng), gì gì cũng được và anh bị đẩy bật, chới với, đuổi theo chụp bắt, nhốt vào trong lời, trong điệu, trong cách. Ở những nơi không bàn, không ghế, không đèn, không giấy bút – có khi có đủ thức anh cũng chẳng buồn chạm tới – anh vẫn có thể có một bài thơ như thường. Miễn là anh biết nói, biết đọc và biết nghe.
 

Nhưng anh không thể “làm” một quyển tiểu thuyết theo kiểu đó. Khởi sự một quyển tiểu thuyết có thể giống, nhưng bắt buộc anh phải ngồi vào bàn, để xấp giấy trắng trước mặt, cầm bút và viết. Anh bắt buộc phải viết, lầm lì, kiên nhẫn hết dòng này qua dòng khác, hết trang nọ qua trang kia, viết như tên tội khổ sai ngày lại ngày phải làm công việc ghi chép, chán mứa không được thôi.
 

Làm thơ, khi anh chán là rồi. Xong hay không xong cũng hết. Viết tiểu thuyết không thế được. Tôi nghe Mai Thảo hay nhắc một câu của Vũ Hoàng Chương nói trong lúc trò chuyện: không biết những người làm thơ trẻ bây giờ có thấy sướng không, chứ riêng tôi lúc tôi làm thơ tôi sướng lắm. 

Đúng làm thơ là một hạnh phúc. Đọc thơ cũng là một hạnh phúc. Mười năm nay coi như tôi miệt mài viết, viết không biết bao nhiêu chữ nữa, hỏng được, được hỏng và bỏ quên những hạnh phúc gần gũi kia. Tại sao vậy? 

4.     Tại sao anh viết? Anh viết cho ai? Văn chương “làm” được gì? 

Mấy câu hỏi ghê gớm kia là mấy câu hỏi đặc biệt dành riêng cho người viết, các nhà “làm” văn tự đặt với mình. Không bao giờ người làm thơ mất thì giờ hỏi mình những câu lẩm cẩm kiểu ấy. Chỉ có những người viết mới hay tra vấn hạch hỏi mình. Cớ sao thế? 

Cũng chỉ vì lẽ viết không phải là làm. 

Trong khi người khác làm ruộng, làm thơ, làm nhà, làm cửa, làm bếp, làm cơm, làm chính trị, làm cách mạng, làm lịch sử… làm tình (hãy tạm chưa ghép làm thơ vào chỗ này) thì mình viết. Viết nghĩa là phải ngồi xuống (có người nằm) trước tờ giấy, tạm ngưng đời đang sống, hơn thế nữa tuổi đời sống bao quanh ra càng xa càng tốt (đóng chặt cửa buồng lại quên vợ cơn, quên tình nhân, quên bạn bè, càng quên càng hay). Đời sống của người viết đầy những quãng thời gian chết lịm thật dài. Để làm gì? Để có tác phẩm, những quyển sách. Ôi, những quyển sách “làm” được gì? Sua mà biết được, có phải không anh?
 

5.     Ngày nay vì có chữ viết, có máy in làm thành những quyển sách, những người làm thơ cũng mang sao chép thơ lên giấy khiến người ta cứ xem thơ như xem sách, chẳng đọc thơ, chẳng nghe thơ và lần lần mang nhập thơ với văn chương. Và khi nhập thơ với văn chương thì thơ là thứ văn chương “cục kỳ”.
 

Ấy là phía người đọc. 

Phía người làm thơ, cũng vì quen sao chép, tưởng thơ cũng là viết, quên khuấy mất nguồn thơ ban đầu. Người ta quên rằng thơ là làm. Làm, ở đây còn giữ nguyên vẹn cái ý nghĩa khởi thủy mà các triết gia mơ tưởng, là một hành vi của con người biến cải thiên nhiên đồng thời biến cải mình, tự nhiên thảnh thơi vui thú. Làm thơ là vừa làm vừa chơi, là sống đầy tràn. Những thời gian không phải lịm chết mà rung nhịp mạnh hơn, phơi phới rộng mở hơn. Anh hãy nhớ lại ca dao. Đã có một thời người ta làm đồng, làm ruộng, làm thơ. 

Thơ khi nào cũng làm giữa trời; giữa mọi người, trong hoan lạc của đời sống đang đẩy tới miên man. Khi anh cắt lìa đời sống, anh bị giam nhốt hay tự giam nhốt, anh không làm gì được nữa, anh viết.
 

6.     Không có câu nào đáng ghét bằng câu này: Mọi công trình đều được sáng tạo trong cô độc.
 

7.     Một lần cách đây vài năm, khi nói thơ ngày nay đau yếu là tôi nghĩ những người làm thơ đã phải cố gắng để làm thơ. Làm giống như dân lao động bị đày ải. Không có sức xô của đời sống quanh mình, không có ngọn trào ập qua mình, mọi thiên tài đều hụt hơi trơ trẽn, tiếng nói ngắn ngủn như tiếng nấc cục.
 

8.     Nietzsche đã từng báo động: La prose est une guerre contre la poésie. Quả tình càng ngày văn chương càng lấn lướt thơ. Từ trong mỗi người. Những người làm thơ phần lớn đều bị văn chương cám dỗ. Không ít thì nhiều. 

Tôi vẫn thèm sự sung sướng của những người thuần nhất, khỏe mạnh, say sưa (giả hay thật?). Không làm gì khác hơn làm thơ, thèm và phục. Bởi viết là mỗi cám dỗ khốc liệt khó tránh (và tại sao lại tránh?)

9.     Tôi muốn nhắc lại: viết đầu tiên phải ngồi xuống, phải cố định. Ngồi trước bàn, ngồi trong quán, trong vườn, trong nhà tù… Nhưng bắt buộc phải ngồi một chỗ. Phải ở lại một chỗ trong một thời gian. Những nhà văn “sống” nhất, phiêu lưu nhất, cũng thế thôi. Họ không thể viết khi đang đi. Người làm thơ có thể. 

Khi anh cầm bút là anh đã có một chỗ để ngồi. Anh không lang thang nữa. Cái gì đã đẩy anh tới chốn đó? Sức mạnh nào cầm giữ anh ngồi hý hoáy trong một cơn mê tình thức anh cố kéo dài?Mỗi người đều có những câu trả lời riêng tư. 

Tôi thì tôi nghĩ chúng ta đều bị cám dỗ. Văn chương là mối cám dỗ. 

10.  Như buổi sáng nay, đột nhiên anh thức sớm trước cả mặt trời. Anh đón xem mặt trời mọc. Anh yêu đời, anh đang bắt đầu một ngày tốt đẹp. Anh hát một mình, anh đọc một vài câu thơ. Anh hát bịa những lời bồng bột, anh ngâm nga những câu lăng nhăng. Chắc chắn anh chẳng điên gì lúc ấy mang sách ra mà xem. Những quyển sách không thể có mặt trong buổi sáng nay nếu anh không muốn phá hoại những giờ khắc tươi tốt của anh. 

Nhưng những trưa, những chiều, những đêm trống rỗng lờ loãng thì những quyển sách có thể hút trôi đi cho anh. Những giòng chữ viết lổm ngỏm đen đặc có thể trút đầy, lấp liếm những nỗi thầm thì quạnh quẽ của anh.
 

11. Mọi nghệ thuật đều mời gọi tụ tập, đều mở một chốn họp mặt gặp gỡ. Văn chương không. Mỗi người mua lấy một quyển sách, tìm một xó khuất mà xem một mình. Hệt như người viết.
 

Dường như yếu tính của văn chương là ly cách. Biết bao nhiêu lý cách khốn khổ. Nhìn bằng con mắt xã hội văn chương là biểu thức của cá nhân chủ nghĩa, tiến hóa theo sự phát triển và suy tàn của khuynh hướng này. 

12.  Trong mọi nghệ thuật đều có hiện tượng thần đồng. Trong văn chương thì không. Không thể nào tìm thấy một tiểu thuyết gia mới mười lăm tuổi chẳng hạn. 

Anh có thấy gì ở đây không? Văn chương không phải là trò đùa hồn nhiên, giản dị, ngây thơ. Văn chương là một trò dành cho “người lớn”, giữa một thế giới “người lớn”. Đó là niềm hạnh phúc và mối bất hạnh của “người lớn” viết. Văn chương không phải là chuyện “trẻ con”, không phải chuyện “rỡn”. Đó là một trò hết sức nghiêm trọng. Mối cám dỗ đã bắt đầu. 

13. Kinh nghiệm thông thường: mới lớn anh làm thơ và sau đó trưởng thành anh mới viết văn. Có triết gia đã nêu thành như luật định mối quan hệ giữa sự sinh thành của các loại văn thơ và xã hội con người: tuổi thiếu niên là tuổi của thơ  – xã hội đầu mùa tiến hóa - tuổi trưởng thành là tuổi của văn chương, tiểu thuyết – xã hội phải xây dựng một traath tự mới sau khi đã phá trật tự cũ – tuổi suy đồi là tuổi của kịch – mâu thuẫn nội tại đang thúc đẩy tiến tới một cuộc biến cải khác – tuổi tàn tạ là tuổi cười – cái cười cay đắng ngậm ngùi, cái cười tàn khốc dữ dội và cái cười xòa tận chung. 

Thật thế chăng?Tôi đang viết văn, tôi đã trưởng thành, tôi đang xây dựng một cái gì đấy ư?Nghiêm trọng quá sức phải không anh? Còn nhiều điều khác nghiêm trọng hơn thế nữa kia… 

14. Mỗi cám dỗ của văn chương, của sự viết là vẻ nghiêm trọng. “Dấn thân” hay “tháp ngà”, người viết đều từ chỗ ngồi chết cứng của mình gửi đi những “thông điệp”. Những “thông điệp” tư tưởng có chung một tham vọng “đổi thay đời sống”. 

“Dấn thân” hay “tháp ngà”, người viết đều chỉ là một loại salaud – tiếng này do Sartre đặt để chỉ hoạt động sống cứng nhắc trong các vai trò và hãnh diện ngu ngốc, và Sartre chính là thứ salaud khủng khiếp nhất. 

15. Trong xã hội này, nhà văn là kẻ có một chỗ ngồi hẳn hoi. Anh có thể ghi trong căn cước lí lịch của anh là nhà văn. Nhà văn cũng như nhà báo; ký giả, nhạc sĩ, ca sĩ, họa sĩ, kịch sĩ…v.v…là những thứ có chân trong xã hội, cần thiết được chứng nhận. Nhưng nhà thơ thì không. Nếu trong khoản nghề nghiệp anh ghi nhà thơ, chắc chắn người ta cười. 

Người làm thơ là kẻ lêu bêu. Nhà văn là kẻ có chỗ ngồi được dành sẵn. 

Nếu anh chưa dám ghi trong căn cước anh là nhà văn, ấy là vì có lẽ anh mắc cỡ. Anh còn mắc cỡ - mắc cỡ thật chứ không phải làm bộ - anh chưa thể trở thành nhà văn. 

16. Thi sĩ. Đó là một loài mắc cỡ dễ thương nhất trên đời. Hắn lẫn trong đời, giữa mọi người, cùng sống với mọi người như một tên dại (anh nhớ là hắn dại, chứ không điên. Tôi bảo đảm với anh. Anh hãy đọc thơ của những người mà người ta bảo là điên xem. Tất nhiên, đừng đọc văn chương của họ). 

Văn sĩ. Đó là tên khả ố dễ giận nhưng nên tội nghiệp. 

17. Làm bộ mắc cỡ, bởi sáng suốt, anh sẽ đóng trò bằng cách khước từ vai trò. Anh là nhà văn không chịu làm nhà văn. Để “làm” gì? Anh vẫn là nhà văn như thường. Anh không thoát đâu. Thà là anh thôi mắc cỡ, còn hơn. 

Sartre là tên salaud khủng khiếp nhất là ở đó.
 

18. Sự nghiêm trọng thành khẩn của những người viết sáng suốt thật đáng bái phục. Đó là thứ văn chương “thật văn chương”. Ở đây mối cám dỗ của sự viết không còn phải là vẻ nghiêm trọng được khoác lên, không còn phải cái kẻ lố lăng của tên – không dám làm hề,- một tên hề ôm bầu tâm sự bi đát rỗng tuếch. 

Mối cám dỗ của sự viết là sự lý tán. Viết là buông mình vào sự ly tán thảm hại. 

19. Văn xuôi. Tản văn. 

Anh thấy gì ở đó chứ? Xuôi nghĩa là thuận chiều, không nghịch lại. Văn xuôi là văn thuận chiều. Tự trong hành vi của anh khi viết đã là tự thỏa thuận. Không thể khác. Anh phá phách trong sự thỏa thuận. 

Tản văn. Nhưng chữ tản này mới thật đúng. Tản là ly tan. Tản văn là ly tan. Đó là ảnh tượng của thế giới ngày nay. Cái thế giới của ly tan. Anh ngồi xuống viết, anh bắt đầu khởi cuộc sự ly tan. Và anh cầm bút viết…Anh hãy dòm lại xem? 

20. Viết là đắm mình trong cuộc ly tan. Trong cuộc ấy anh hoàn toàn tự do quay múa, làm đủ mọi trò đều được. Anh thụ động, anh chủ động, anh mê mẩn, anh sáng suốt, anh làm bộ làm tịch phô phang, anh giấu mặt thẹn thuồng. Cũng thế thôi, như nhau. 

Văn chương, chốn ấy nơi chia lìa phân tán, là tấm gương soi mặt, soi đủ thứ mặt anh muốn (thời đại, xã hội, lịch sử, cá nhân… và cả cái mặt đang được nâng niu: Hư vô). Nhưng đó là tấm gương vỡ. Anh đừng quên đó là tấm gương vỡ. 

21.  Thụ động hay chủ động, mê mẩn hay sáng suốt, trước tiên viết chỉ là sự ghi chép. Anh ngồi lại một chỗ, tạm gác đời sống, ghi chép lại những gì đã sống qua. Không bao giờ anh viết được những gì đang ngọ nguậy sinh thành nơi anh. Không bao giờ. Thơ có thể. 

22. Giả thiết như anh viết được: tôi đang sống như thế này đây. Anh thấy gì ở đó? Mộ thuật, chỉ là một thuật của văn chương: 

Hãy coi như anh tin cậy thật sự vào những điều anh viết. Hãy coi như không có sự ly cách nào giữa anh và những chữ tuôi chảy dưới ngòi bút. Nhưng vẫn còn sự ly tán giữa những chữ, những câu, còn dấu phết, dấu chấm, dấu hỏi vân vân:

Quan trọng hơn cả đôi mắt mở trừng của người xem những giòng chữ ấy.
 

23. Thơ là những cách sống, những lúc sống. Văn chương không thể là một cách sống. 

24. Sự thất bại của những người làm thơ trong văn chương là lầm tưởng văn chương cùng gốc với thơ. Trong thơ người ta sống, thở, phơi trải, bay nhảy, đùa rỡn, ca hát, ngông nghênh, cười cợt, nhập một và hòa tan mình. Người ta muốn văn chương cũng là chốn như vậy. 

Văn chương khai chiến với thơ, lấn lướt thơ và muốn tiêu diệt thơ từ đấy. 

25. Thơ nẩy ra, làm ra những nhịp thở, những phút sống ngay chính trong lúc đó. Văn chương không “làm” ra cái gì hết. Văn chương chỉ là sự ghi chép. Có chăng chỉ là những tín hiệu của một đời sống ở đâu ngoài những câu kệ tan nát. 

26. Viết là nhận, chịu mối bất hạnh của người lớn (thường mà nói thi sĩ là đứa con nít, là đứa dại, văn sĩ là người lớn, người khôn. Con nít – người lớn, dại – khôn ở đây không hề có ý đánh giá – người viết ưa đánh giá lắm, chữ nghĩa chặt chẽ như mắt xích). Mọi người viết không ít thì nhiều đều than thở hoặc tự hào về mối này.

Mối bất hạnh có thể  thâu tóm trong câu của một nhà văn: mới đầu tôi viết những điều tôi tin, sau tôi tin những điều tôi viết. 

Trong bất hạnh, tìm hạnh phúc. Trong ly tan, tìm kết hợp. Trong riêng lẻ, tìm đám đông. Trọng lạc lõng, tìm chốn về. Trong xa cách, tìm gần gũi. Tìm và tìm, đó là nỗ lực của văn chương. Sự mệnh, chức năng, cứu cánh,… hay ảo tưởng nảy sinh từ đấy. 

Thơ không tìm. Thơ thấy, thơ mở ra, thơ làm ra. 

27.  Anh ngồi trước trang giấy trắng. Anh đã lớn. Anh không mắc cỡ, không con nít, không dại nữa. Anh muốn làm nhà văn. Anh chấp nhận mối bất hạnh. Như mọi người đều phải sống, mỗi người một cảnh ngộ. Vì anh đã “trải qua mọt cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Anh muốn viết, anh muốn ghi chép (anh muốn làm nhân chứng đấy). Hơn thế, anh còn muồn tìm, muốn phát hiện nhiều điều khác nữa. Muốn thế anh phải ngồi yên vững trong nhiều ngày anh phải lì lợm, bướng bỉnh, cao ngạo. 

Văn chương bao giờ cũng thực hiện như một tham vọng. Văn chương là tham vọng. Tham vọng đòi sự tin tưởng và bền bỉ. Để viết nổi, anh phải tin vào những điều nào đó. Một chỗ, anh phải có một chỗ anh mới viết nổi. 

Ngay cả khi anh khăng khăng, không chịu chọn chỗ, anh ngồi trong Hư vô, Hư vô cũng hóa thành một mặt ghế nâng đỡ anh.

Văn chương, là một niềm tin bắt buộc. Sống trong cuộc ly tan anh bắt buộc phải tin. Tin điều này hay tin điều nọ, không quan trọng. 

28. Văn chương là biểu thức của cảnh phân tán trong kỷ nguyên này. Văn chương không là công trình gì, đó là những mảnh đời tan nát vương vãi, và có tham vọng trở thành một công trình. Bởi lẽ, nếu văn chương lấn lướt thơ thì chính nó lại bị triết lí lấn lướt. 

29. Anh ngồi trước trang giấy. Anh có một điều tin và nhiều điều cần ghi chép. Anh sẽ phải hỏi: Bắt đầu từ chỗ nào?thế nào?Ghi chép những gì đây? Anh sexthaasy anh bắt đầu chỗ nào cũng được. Bắt đầu chỗ nào cũng chưa thấy thực sự là khởi điểm, anh sẽ luôn luôn phải trở lại, vẫn phải ngoái về và hơn nữa. Xa mãi. 

Rồi anh cứ bắt đầu đại vì anh phải tiến tới. Tiến tới, anh viết tới và anh sẽ không thấy chỗ ngừng. Và anh ngừng chỗ nào cũng được. Chỗ ngừng thực sự không phải là kết thúc. 

Anh phải bắt đầu, anh phải tạm dứt, không có gì là cần thiết, không có gì gọi là không thể khác. Anh có thể viết đi viết lại bao nhiêu lần tùy thích một chuyện đều được, trù phi anh chán

30. Một bài thơ không thể làm lại, không thể sửa đổi. Mọi công trình nghệ thuật đều không thể sửa đổi. Hỏng hoặc được. Bởi đó là những lúc cụ thể và nhất định. Văn chương không là nghệ thuật, không có tính thiết yếu của nghệ thuật. Tự trong nó là sự bời rời, nát bấy, di động, co rãn, dàn trải.

Anh có thể dùng văn chương vào bất cứ việc gì. 

31.  Một bài thơ tự đầy đủ, không khi nào cần kêu gọi đến những gì ở ngoài nó. Mỗi câu thơ cũng vậy. Rất thường là anh chỉ thuộc và đọc vài ba câu thơ trong một bài, chăng cần nhớ đến câu trên câu dưới. Như anh ngắm một góc của bức họa hay nghe một hồi hay một đoạn nhạc. 

Anh không thể tách rời những câu văn với nhau. Một đoạn văn trích không bao giờ ổn. Nó đòi có phía trước, có phía sau. Một quyển sách cũng vậy. Nếu nó không trỏ vào những quyển sách khác đã có, thì nó trỏ ra ngoài nó. Tự nó không đứng vững một mình, nó cần được biện minh. 

32. Văn chương lúc nào cũng đòi biện minh. Cố gắng trở thành một công trình, một toàn thể và biết rằng thất bại. Cái giấc mơ Quyển Sách (Le Livre) là hão huyền. Anh viết hoặc anh bị đầy viết mãi, viết dài dài theo đời quẩn quanh vài ba câu, có khi một câu. Viết mãi chẳng xong. Sự tan nát thật kinh khủng hay đầy hoan lạc, tùy anh. 

Người viết nào cúng ống với một quyển sách sẽ viết, quyển sách không bao giờ viết được. Và đến cùng, thành thật đến cùng, là đối mặt với nỗi bất lực yếu nhược. 

33. Tôi vừa đọc được một câu khá thú vị: Mỗi người suốt đời chỉ nói mỗi một câu và chỉ dứt khi chết. 

34. Văn chương cần biện minh, chính nó là biện minh cho cái gì khác ở ngoài. Nhiễm văn chương là hiễm chứng biện minh. Anh có biết chứng bệnh văn chương không?Vì văn chương không phải là một công trình, nó thường cầu cứu đến những thứ bên ngoài hỗ trợ, những thứ thật to tát ghê gớm để nuos bóng. Trong các lối biện minh, lối mang chính đời mình biện minh cho điều mình viết nguy kịch nhất. Người viết hóa tượng, đời hắn là chữ nghĩa là chữ nghĩa là gương soi bóng. 

Không gì thê thảm bằng sống và hành động và chết trước tấm gương, phải không anh? 

35. Có lẽ văn chương là sự quy chiếu. Trong văn chương có thể có một chút hơi thơ nào đó nhưng không bao giờ văn chương trở thành thơ như người ta thường mơ ước. Văn chương phát sinh để sống cuộc đời của riêng nó, nó có nghĩa của nó. Cái nghĩa của tấm gương vỡ, cái nghĩa của một tham vọng, cái nghĩa của niềm bất hạnh, cái nghĩa của một chứng bệnh….

Nói chung mắc văn chương là mắc chứng bệnh lèm bèm.

36. Chắc anh thấy, anh hiểu vì đâu mấy chục năm nay, chúng ta làm thơ nhiều hơn là viết văn hay ngược lại. Người làm thơ là kẻ ngậm miệng. Ngậm chặt để giữ hơi. Để không tan nát. Không bị lôi cuốn vào cuộc phân ly hủy hoại. 

37. Văn chương không chỉ là căn bệnh của người viết. Đối với người đọc, người mê văn chương, mê sách, đọc văn chương ngày nay cũng đang trở thành một bệnh. Thật tình anh tìm kiếm gì khi mở quyển sách? Anh – người đọc sáng suốt thấu đáo mà mọi người viết đều ao ước có.

Anh biết rõ anh không tìm kiếm gì cả. Anh chẳng còn một ảo tưởng nào về quyển sách là một phòng gương lót tứ bề. Anh và ảnh tượng của sự vật trùng diệt quay mù. Anh cũng mê hoảng và sáng tỏ. Như một nhân vật của Cocteau anh có thể đi xuyên qua gương, đứng ở đằng sau tấm gương.

Người ta gọi anh đang ở cõi khác (anh cũng có thể gọi như người ta)nhưng anh thừa rõ đó là một phòng xếp đặt trong nhà chứa giữa một thành phố đang dấy loạn mà những kẻ bệnh hoạn lui tới (Le Balcon – J.Genet) 

38. Văn chương như phương tiện trị liệu của người viết và của người đọc? Cũng được đi. Anh hãy tưởng tượng hai con bệnh đối đầu nhau trong phòng gương. Không đàn bà. (Hay người đàn bà là con điếm). (Hai tiếng đàn bà đây được dùng như một thuật cái của văn chương. Đàn bà, thiên nhiên, mây nước, hoa cỏ, đêm, sông, nụ cười, cánh đồng… Đàn bà như nữ tinh thiết yếu. Đàn bà chưa phải là một hóa phẩm, chưa phải là một thành phố rắc rối hư ngụy mà các tay kiến trúc đã đắp mô hình trước khi dựng…) 

39.   Hành trình của văn chương là sự tán vụn ý tưởng, mỗi ngày mỗi nhiễn như bụi và sự xum xuê của ngôn ngữ, mỗi ngày mỗi đâm tủa như cây nhiệt đới. 

40. Bất cứ lúc nào anh cũng có thể gấp quyển sách lại, ném quyển sách vào sọt rác, đốt quyển sách đi. Nhưng anh không thể, có phải không? Người đọc đích thực của văn chương ngày nay là kẻ mắc chứng nghiền chữ. Hắn cần nuốt một lượng chữ nghĩa nào đó như cần hút cần sa. Để thấy mình được “sống”. Chữ nghĩa thay thế cho sáng cho chiều, cho nắng, cho mưa, cho người tình, cho kẻ thù… 

Anh có thể suốt đời không thèm đọc một câu thơ, chẳng sao. Anh không nghe thiếu thốn chút nào. Một bài thơ, một khúc nhạc, một bức họa rõ ràng là không cần thiết (không phải là một nhu yếu phẩm), chỉ là sự thêm thắt. Nhưng văn chương đối với anh – con người ngày nay đích thực – không thể thiếu.

41.  Tôi có ý kiến: để chứng tỏ sự cần thiết của văn chương, vai tuồng quan trọng của người viết văn, những người làm sách trong xã hội này, người ta nên đình công xem sao. Anh hãy tưởng tượng thế giới không văn chương.
 

Nhưng cuộc đình công không thể xảy ra, không bao giờ có thể xảy ra. Chỉ giản dị là người ta không thể ngừng nói, dù người ra biết nói để chẳng làm gì. Chỗ chết của văn chương là nói, luôn luôn nói, nói nhiều quá. Tôi muốn nói với ai thật nhiều về sự nói này. 

42.  Nói.

Ngày trước văn chương phải “nói lên được một cái gì”. Ngày nay văn chương chán “nói lên cái gì”, bèn nói cái – không – là-cái-gì, nói-cái không-thể - nói, cái-không-thể-nghĩ. Nhưng trước hay nay, văn chương vẫn phải nói.

Viết để mà nói. Anh có thấy đáng buồn cười không? Tại sao muốn nói không nói, lại viết? Tôi nghĩ rằng người ta cho đến bây giờ vẫn nuôi ảo tưởng viết là hành động. Nói chỉ là tác động. Viết là tạo một tiếng nói, không chỉ khua động chốc lát ở một nơi chốn nhất định, một tiếng nói xóa nhòa cả người nói lẫn người nghe. Một tiếng nói muốn thoát lên khỏi mớ tiếng động thường nhật, một tiếng nói không chịu biết thân phận tự cho mình nhiều quyền uy phi thường. 

43. Dù cho có nói: tôi viết để biết, tại sao tôi viết, cũng vẫn là ngầm bảo viết là một cái gì ghê gớm lắm đối với tôi, trong khi mọi cái gì khác đều đã hết ghê gớm. Có quả thật viết là một hành vi ghê gớm lắm không? 

44. Anh hãy thử thí nghiệm như Svevo xem. Anh hãy tìm những người chịu ngồi nghe anh nói những điều anh định viết và anh nói, nói đi, nói hết, sửa chữa trong khi nói anh sẽ thấy anh say sưa, sung sướng hơn viết nhiều. Ham nói như Svevo, anh sẽ hết ham viết. Nói, nói mới thật là trút hết. Anh thử xem. Tác phẩm mang nói hay hơn viết nhiều. Lúc ấy thật là văn chương, lời xuôi chảy, tan nát, nối kết, níu kéo, đẩy cao, chìm thấp rồi thoảng bay. Chẳng còn gì. Còn lại những âm ba của những lúc.

Các nhà văn lớn đều là những kẻ lắm mồm lắm miệng, nói hoài không biết chán. Không có ai để nói với thì nói một mình. Nói và thấm thía sự phân cách, ly tán từ mỗi lời. 

Nhà văn: một sản phẩm đặc Tây. Hội họp, ngồi lê đôi mách, thảo luận, tranh luận, bút chiến, bút ký, nhật ký, thư từ… này nọ đủ điều. Anh thử đọc lại nhật ký của các nhà văn. Đó là những quyển sách tệ mạt nhất, những quyển sách được sinh ra để bảo vệ cho những quyển sách. 

45.  Chẳng bao giờ người ta thành thật nghĩ: nói láo mà chơi nghe láo chơi… Chỉ bởi người ta viết chứ không nói.
 

46.  Có một thời người ta thích viết câu: tác phẩm nói lên… Người ta không chịu hiểu chỉ văn chương là thế. Người ta muốn mọi sự đều là thế. Văn chương xâm lăng thơ, ngấp ghé xâm lăng các nghệ thuật khác. (Tôi nhớ có đọc một quyển sách nói về nhạc dấn thân do ông Jean Paul Sartre đề tựa. Hết sức khôi hài. Henri Lefèbvre đã chê: khiếm khuyết lớn nhất của Marx là không biết nghe nhạc. Sartre thì thú nhận mình mù tịt). Người ta bịa ra đủ thứ ngôn ngữ: ngôn ngữ hội họa, ngôn ngữ âm nhạc, rồi đến cả ngôn ngữ của thời trang… Anh không nên lạ khi bây giờ khoa ngữ học đang nổi như cồn.

Cái gì cũng nói cả. Văn chương trùm lấp mọi thứ. Cái gì cũng nói hóa nên chẳng nói gì cả hay chỉ nói có mỗi một điều cũng thế. Chỗ này anh triết lí chơi khăm anh nhà văn. Vô ngôn ẩn ngữ, bất khả tư nghị vân vân và vân vân.

Anh cứ nói, nói chán chê đi. Rốt cuộc anh chỉ khua rộn như mọi tiếng động xung quanh. Những tiếng động buổi hoàng hôn kinh hãi. Hay buổi sáng tuyện không bóng người. 

47.                         Mỗi năm hoa về đây

Hoa nói gì với người

Lòng đời chắc nặng lắm 

Hoa nói hoài không thôi (H.C) 

Hoa nói gì? Hoa nói hoài? Hoa nói thật ư? Anh văn chương, anh sẽ diễn thành tiếng nói miên man, luôn luôn hao hụt. Thơ không “nói”, chẳng nói gì như hoa vậy. 

Thơ ca hát. 

Anh hãy nhớ: thi gắn với ca, văn gắn với vẻ 

48.  Nói nghĩa là có người nói, kẻ nghe (người nói kẻ nghe là một). Anh nói, anh dư biết anh đang nói với anh, cho ai nghe. Anh không sao chối được điều ấy. Dù sự kiêu ngạo nơi anh muốn loại trừ hết thảy mọi “tai tiếng” xung quanh (tai hứng đón, tiếng là nền). 

Độ không của ngôn ngữ văn chương là ảo tưởng.

49. Anh đọc thơ, chẳng cần biết đến người làm. Không thiệt hại gì đến thơ. Người làm thơ không có tiểu sử (hay tiểu sử của mọi người – sinh ra, lớn lên, yêu đương, thù hận, chết…) người làm thơ chẳng cần tiểu sử, không viết nhật ký lẩm cảm, không tạc tượng, không ồn động (thơ – dại, thơ- ngây) 

50. Văn chương không thế. 

Lời nói buộc chặt người nói, lúc nói, chỗ nói. Khốn nạn cho văn chương, phải không anh?

Nhưng anh, anh đã nhiễm văn chương, anh đã nhận như mối bất hạnh phải sống, anh không thể giả tảng (Sự giả tảng như một trò của văn chương, như nhà ảo thuật vờ để hé cho thấy mánh khóe của trò biểu diễn, thì được) Văn chương không khi nào thơ ngây, chẳng bao giờ thơ ngây. Bởi văn chương đã xuất hiện như một tiếng nói đầy tham vọng quyền lực, người ta sẽ truy tầm đến bằng được tông tích của nó. 

51. Thoạt đầu chỉ có sự tích, chưa có văn chương. Sự tích không của riêng ai. Sự tích như nơi chốn tụ họp của nhiều người, nhiều tuổi: cuộc chuyện trò trong những quãng nghỉ, quãng chờ (thường vào cuối ngày giữa người già và trẻ nít).

Khác với thơ ngay ở trong đời sống, sự tích ở bên lề (trên co, đằng sau) đời sống. 

52. Mỗi đời người chẳng cần bao nhiêu sự tích. 

Những sự tích lặp đi lặp lại như thời tiết, khí hậu, cây cỏ, đất đai. 

Điều quan trọng là trò chuyện. Nghe nói, kể và nghe nói. Những quãng thừa trống được chinh phục. Đêm tối bí ẩn tan nhòa vào trong giọng nói, tiếng nói, trong quây quần thân ái.

53. Nếu anh sống chỉ nói những thật cần thiết thôi, anh là con người cô độc đáng thương. Lời nói cho đi và nhận được, thừa thãi, còn là những vuốt ve trao đổi. 

Sự tích là chốn dung túng cho thứ lời ấy. Anh lớn lên, anh có thể bất kể đến các bài học luân lí xử thế (anh khước từ) nhưng anh vẫn nhớ, vẫn mang theo những bóng vang chập chờn của giọng kể một đêm nào.

 54. Văn chương cũng chỉ là cuộc trò chuyện, mỗi ngày mỗi hư hỏng vì sự nảy nở của cá nhân (Mỗi ý thức đều muốn sát hại ý thức khác – Hegel).

 Mới đầu người ta lể về các sự tích. Vô số các sự tích khác nhau. Rồi tìm cách cách kể khác nhau. Dần dần người ta cũng nhận thấy sự tích chỉ là cái cớ để được nói, được nghe, người ta đi tìm những giọng nói khác nhau. Trong cuộc rượt tìm giọng nói, người ta đã quên lạc giữa thinh không một mình.

 Văn chương ngày nay là giọng nói vọng về từ thing không. Giọng nghi hoặc tự chính trong mình…

 55. Nói. Muốn nói, muốn được nghe. Trong tan tác thất thanh của mình, có phải không anh?

 Nhà văn, xét cho cùng, là kẻ muốn được yêu nhưng lại chẳng yêu ai. Hắn muốn yêu hết thảy nên hắn chẳng thể yêu riêng ai. Trừ hắn. Nhưng rồi hắn cũng khinh bỏ, thù hận chính mình. 

Giữa những mảnh gương vỡ, hắn chỉ nhìn thấy hình dung hắn quái quỷ. 

56. Nhà văn: đó là chứng nhân của một kỉ nguyên cá nhân triệt để. Nhà văn, đó là một cá nhân tiêu biểu. Dù đó là một nhà văn xã hội. 

57. Có một điều tôi đang cố hiểu: còn chút gì, ấy chỉ là văn chương. Lúc này tôi đang muốn hiểu điều ấy. Hơn lúc nào hết. Bởi lẽ tôi đang viết, tôi sẽ còn phải viết, tôi cũng không thể giả bộ. Phải không anh?

 20-7-1970

 Mai Vũ sưu tầm và giới thiệu

 
--------------------------------------------------------------------------------

[1] Chỉ ý thơ Phùng Quán trong Lời mẹ dặn: “Tôi muốn làm nhà văn chân thật /Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi /Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã /Bút giấy tôi ai cướp giật đi /Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá »- Mai Vũ

Nguồn


Note: Mai Vũ, tác giả bài viết này, ghi là "sưu tầm, và giới thiệu", nhưng không cho biết sưu tầm như thế nào, từ nguồn nào.
Theo GNV có lẽ từ Thời Tập, của Viên Linh, khi đó, có 1 mục do TTT phụ trách, đặt tên là Âm Bản, viết giống kiểu viết của bài này. VL hình như còn giữ đủ bộ.

19. Văn xuôi. Tản văn.
Anh thấy gì ở đó chứ? Xuôi nghĩa là thuận chiều, không nghịch lại. Văn xuôi là văn thuận chiều. Tự trong hành vi của anh khi viết đã là tự thỏa thuận. Không thể khác. Anh phá phách trong sự thỏa thuận.
Tản văn. Nhưng chữ tản này mới thật đúng.
Tản là ly tan. Tản văn là ly tan. Đó là ảnh tượng của thế giới ngày nay. Cái thế giới của ly tan. Anh ngồi xuống viết, anh bắt đầu khởi cuộc sự ly tan. Và anh cầm bút viết… Anh hãy dòm lại xem?
TTT
 

Đọc bài này, nếu bạn có tí thân quen với nhà thơ, với cõi văn trước 1975, thì lại càng thấm. GNV chẳng đã từng ‘lèm bèm’ [từ này GNV tưởng là mình phịa ra, hóa ra ông anh đã từng sử dụng], về cái nỗi hạnh phúc, đau khổ, khi nghe nhạc TCS, thí dụ. Nghe 1 cái là thể nào cũng 1 kỷ niệm thê lương hiện về, không chỉ liên quan chỉ tới bạn !

Thí dụ, cái lần GNV nghe Tình Nhớ ở Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, nó liên quan không chỉ riêng Gấu mà còn cả Miền Nam :

Bản nhạc của TCS vừa mới ra lò.
Lệnh Tổng Động Viên vừa mới khai trương.
Thời gian : Gần Tết. Lạnh.

Chung thì đại khái như vậy.
Còn riêng với Gấu :

Thằng em mới tử trận.
Lần đầu tiên xa… Gấu Cái ! Xa Sài Gòn. Xa "cô bạn". Và nhờ cái viễn ảnh thê lương, sẽ đi lính, có thể, sẽ.... ngỏm, mà "cô bạn" gật đầu đi xem ciné cùng với Gấu, tất nhiên lần đầu, và vô rạp mới đủ can đảm cầm tay…
Hà, hà !

Và khi ra được hải ngoại, mới viết được khúc tản văn thần sầu :

Cầm Dương Xanh

Mới đây thôi, Gấu mới biết, mẩu trên đây, gây hậu quả thê lương khủng đến như thế nào…

Anh hãy dòm lại xem?
TTT

Đúng rồi, cái lũ bỏ chạy, do bỏ chạy, nên không thể nào dòm lại.

Đám VC nằm vùng, đám VC chính hiệu, giả như chúng mê nhạc TCS, làm sao không, thì cũng khác hẳn lũ Ngụy: Chúng làm sao dòm lại, làm sao có những nỗi ly tan như thế, "đó là ảnh tượng của thế giới ngày nay"... như thế?

Cái bài sưu tầm này, và nhiều sự kiện liên quan tới việc sục sạo quá khứ văn học Miền Nam, “thực sự, tự nguyện”, như đang xẩy ra, cho thấy, có vẻ như đang có một sự dòm lại!

Bài sưu tầm này, GNV sẽ lèm bèm nhiều về nó, vì có thể nói, trong chứa những điều, mà chỉ GNV mới lọc ra được, theo nghĩa, mới xác định được vị trí biên niên của sự kiện, mà bài Tình Nhớ của TCS là 1 thí dụ.

Trên tất cả, nó còn chỉ ra một TTT, như là 1 biểu tượng của 1 thời kỳ văn học rất ư là đặc trưng của xứ Mít, chúng ta, theo nghĩa sau đây, của D.M. Thomas, trong cuốn viết về tiểu sử Solz của ông:

Nếu nói về hậu quả của Solz giáng lên lịch sử Nga, “Solz quả là một nhà văn trấn ngự thế kỷ 20, the dominant writer of this century”. Ông còn là nhà văn sau cùng của một giai đoạn lạ thường của văn chương Nga, trong đó, ông hiểu, nhà văn là kẻ có bổn phận phải ôm lấy sự thực, the writer knew it was his duty to embody truth. Đó là lý do tại làm sao mà Lydia Chukoskaya thật trung thành thật tận tụy với Solz mặc dù chính kiến của bà thật khác biệt với Solz; cả hai đều dục bỏ quan điểm của Tây Phương, “văn chương thuộc về một trái cầu tách ra khỏi, và có thể tách ra khỏi, thế gian, tức trái đất của kinh nghiệm nhân sinh”; cả hai đều cho rằng, ngược hẳn lại, văn chương thứ thiệt, thì liên hệ thật tư riêng, thật mật thiết tới sự thực, theo những đường hướng qua đó, chúng chuyển hóa, siêu hoá, transcend, những phạm trù về mỹ học.

Đó cũng là quan điểm của Brodsky, trong bài diễn văn Nobel của ông, như Coetzee viết:

Trong diễn từ Nobel, Brodsky vạch ra một mỹ tín [aesthetic credo] mà cuộc sống đạo đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt. [Good art is thus on the side of the good]. Cái ác, cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn phong tồi tệ” [Evil, on the other hand, ‘especillay political evil, is always a bad stylist”. On Grief… trang 49].
*

Điều làm cho Solz thực sự trở thành số một, độc nhất, là sự kiện đơn giản tác phẩm của ông được xuất bản, ở Liên Xô, khi Khrushchev đang toàn quyền lực.
Applebaum 

Nhận xét về Một ngày, như trên, không đúng, bởi vì Applebaum không phải là một nhà văn. Bà không hiểu gì về thể loại văn học có tên là truyện ngắn, nhất là những truyện ngắn ở vào những thời điểm nóng bỏng nhất của lịch sử. Một khi nó xuất hiện, là có biến chuyển, một thứ chim báo bão.

Khi viết về NHT, Gấu đã nhận ra sự liên hệ giữa Tướng về hưuMột Ngày, cũng như Lukacs nhận ra sự liên hệ giữa Một ngàyTyphoon của Conrad, hay Ngư ông và Biển cả của Hemingway. 

Tuy nhiên, có lẽ phải đọc Tướng về hưu song song với Bếp Lửa, một ở đầu, một ở cuối cuộc chiến, một Not-Yet và một No-Longer, theo cách nhìn của Lukacs.
Ở giữa hai truyện ngắn đó, là truyện Dọc Đường. Truyện ngắn này, lại là một Not-Yet, mở ra cuộc Exodus, Vượt Biển của người Việt tị nạn:

Hình ảnh người đàn ông lỡ độ đường đứng trơ vơ giữa cuộc chiến, với bọc quần áo tiên đoán số phận người vượt biển đi những ngày sau dead line, chẳng nước nào nhận!
*

Nhận xét về truyện ngắn, và vai trò “Not Yet  & No Longer” của nó trong lịch sử văn học, của Lukacs, ghê thật, nhưng chưa ghê bằng nhận xét của Brodsky về thơ, khi ông đọc Akkhmatova:

At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova - which explain her popularity and which, more importantly enable her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of humanities: cherished, strained, severed. She showed these solutions first through the prism of the individual heart then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics any way: 

Ở một giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh tỏng, bởi vì chỉ có nó mới dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó lại, thành một cái gì được ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì đó mà cái đầu chịu thua không làm sao cất giữ được.

Điều Brodsky nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù Phạm Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái hồn của văn chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến!

Ngoài kia súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em!

Tuyệt, tuyệt! 

Khi Gấu viết được những dòng sau đây, nhờ những ngày Mậu Thân và những trái hoả tiễn của VC, đã nghĩ là "tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên, vì cách viết của Gấu rõ ra là, "dụng công" quá, "cực" quá [tour de force], trong khi lời nhạc mới đơn giản làm sao.

Tribute to Solz
*

“Chữ sao chậm quá so với cuộc đời của chúng ta.”
GNV phán, về tản văn “Cầm Dương Xanh”, của chính hắn ta!

Ui chao, đây cũng là cụm từ của Trùm Wikileaks, Julian Sasange, về những cú rò rỉ lịch sử đang thay đổi lịch sử: hơi trễ so với lịch trình, “a little behind the schedule”.

 Ui chao, giả như cú rò rỉ của TVLeaks, [TanvienLeaks, TinvanLeaks], về vụ VC ngụy tạo đầu độc tù Phú Lợi, xẩy ra đúng lúc, đúng lịch trình, thì liệu cuộc chiến Mít có khác đi không?

Giả như đúng như thế, nghĩa là, khác đi, thì GNV sẽ trở thành người hùng chưa từng có trong lịch sử, an ‘unparralled hero”, từ mà Sasange dùng, để vinh danh 1 trong những nguồn của ông Trùm “xì tin” [leaking news, không phải style]
.
Đúng là bố lếu bố láo !

"For the past four years one of our goals has been to lionize the source who take the real risks in nearly every journalistic disclosure and without whose efforts, journalists would be nothing," said Assange. "If indeed it is the case, as alleged by the Pentagon, that the young soldier – Bradley Manning – is behind some of our recent disclosures, then he is without doubt an unparalleled hero."

Source

Người Kinh Tế phán, về Wikileaks:

Toàn là bá láp, một số cù  lét.Tuy nhiên, có tí ngạc nhiên:
Plenty of gossip, some titillation—and also a few surprises

Vargas Llosa phán, về Wikileaks :

 « Un peu de lumière rassure les citoyens, mais trop de lumière empêche un Etat de fonctionner »

Tí chiếu sáng, tí rò rỉ, thì OK, nhưng nhiều quá, là bỏ mẹ !

Margaret Wente, tác giả 1 bài viết trên Globe and Mail, 1 nhật báo tại Toronto, Sunday 4, 2010, phán, có lẽ đúng nhất, nên, đáng ngại nhất:
WikiLeaks kể câu chuyện về sự suy tàn của 1 đế quốc Mẽo, y chang đế quốc La Mã xa xưa. [A tale of American decline].
Rò rỉ mới nhất rõ ràng là đi ngược lại ý định của Trùm WikiLeaks: Thay vì mô tả 1 siêu cường tìm đủ mọi cách bắt thế giới quy phục nó, và phần lớn là bằng tiền, thì ngược lại, một anh khổng lồ, chẳng ai sợ, chẳng ai kính trọng, và bất lực không biết xoay sở như thế nào thuận lợi cho nó.
Rò rỉ cho thấy, thay vì giúp đỡ những kẻ yếu đuối, bất lực, nghèo đói, thì "thế giới" lại vỗ béo đám sứ quân, lãnh chúa.