*

TƯỞNG NIỆM


*

Tribute

'Nhà thơ' Karadzic

Nhà báo Anh Ed Vulliamy kể lại về chuyến thăm Bosnia 1992 cùng đoàn làm phim ITV rằng Karadzic, một bác sĩ tâm thần học, thạo tiếng Anh (từng học ở đại học Columbia, Hoa Kỳ), có "cặp mắt nhợt nhạt", "cái bắt tay hờ hững".
Ai dám nghĩ một trí thức nhỏ nhẹ có vầng tóc cao không khác gì một nghệ sĩ ở Paris lại cho quân lính bắn giết, hãm hiếp điên cuồng.
Đoàn làm phim bay qua các làng mạc bị đốt cháy, những bãi xác người tới Pale, để gặp Karadzic, kẻ tự hào nói về chính sách "thanh lọc sắc tộc".
Cùng lúc, tại "nước cộng hòa" tự xưng của vài trăm nghìn người Serb ở Bosnia, những nhóm dân chúng cuồng nộ vì tinh thần bài Hồi giáo còn tổ chức hội thơ của Karadzic, vừa là tổng thống, vừa là nhà thơ dân tộc.
"Nhà thơ lớn" còn sang London, Paris để dự các cuộc hội đàm "hòa bình", một vết nhơ của lịch sử ngoại giao châu Âu.
BBC

Như vậy, chỉ vì ông Trùm còn là nhà thơ, cho nên ông BBC Mít này mới để kế bên nhà văn Solz?
Bác Hồ chẳng phải vừa là Cha Già, vừa là Nhà Thơ Dân Tộc sao?
Viết về ông Trùm, bèn nhớ tới Bác?
*
Và đây là mấy dòng thơ của ông Trùm:

« Je suis né pour vivre sans tombeau, / ce corps humain ne mourra jamais, /
 il n'est pas né seulement pour sentir les fleurs / mais aussi pour incendier, tuer et tout réduire en poussière ... »
[Tôi sinh ra để sống không một nấm mồ
Xác thân này không hề chết
Nó sinh ra không phải chỉ để ngửi mùi hoa
Mà còn để đốt nhà, giết người và biến tất cả thành tro bụi]
*

Lukacs phán:
Độc giả đọc Một ngày là cảm thấy đây là biểu tượng cho mọi ngày của thời kỳ Stalin. Tuy nhiên, không có một tí dấu vết của chủ nghĩa biểu tượng trong cách miêu tả của Solz. Ông trình ra một ngày của tên tù Ivan như một lát hiện thực, a guenine, realistic slice of life, qua đó, không một chi tiết bị khái quát quá để có mùi biểu tượng. Nói rõ hơn, số phận của hàng triệu triệu con người được nén lại vào trong một lát mỏng này

*

Either way, the enormous tension between those who had been "there" and those who had stayed home could not remain confined in bedrooms and locked behind doors forever. Those responsible for what had happened were still alive. Finally, at the Twenty-second Party Congress in October 1961, Khrushchev, now fighting for influence within the Party, began naming them. He announced that Molotov, Kaganovich, Voroshilov, and Malenkov were all "guilty of illegal mass repressions against many Party, Soviet, military and Komsomol officials and bear direct responsibility for their physical destruction." More ominously, he also hinted darkly at the "documents in our possession" which would prove this guilt.

Yet Khrushchev did not, in the end, publish any such documents in the course of his struggle against the Stalinists who opposed his reforms. Perhaps he was not really powerful enough to do so--or perhaps such documents would have revealed his own role in Stalinist repressions as well. Instead, Khrushchev deployed a new tactic: he widened the public discussion of Stalinism even further, broadening it beyond internal Party debates-spreading it to the literary world. Although Khrushchev probably was not much interested in Soviet poets and novelists for their own sake, he had seen, by the early 1960s, that they could playa role in his bid for power. Slowly, vanished names began to reappear in official publications, without explanation of why they had gone and why they were being allowed back. Characters hitherto unacceptable in Soviet fiction-greedy bureaucrats, returning camp inmates-began to appear in published novels.
Khrushchev saw that such publications could conduct his propaganda for him: literary writers could discredit his enemies by tarring them with the cri!lles of the past. That, at any rate, appears to have been the reasoning behind his decision to allow the publication of Alexander Solzhenitsyn's One Day in the Life of Ivan Denisovich, the most famous of all Gulag novels.

For his literary significance, as well as for the role he played in publicizing the existence of the Gulag in the West, Alexander Solzhenitsyn would cerrtainly deserve special mention in any history of the Soviet camp system. But his brief career as a famous, widely published, "official" Soviet author is also worth telling because it marks an important moment of transition. When Ivan Denisovich first appeared in print, in 1962, the Thaw was at its height, political prisoners were few, and the Gulag seemed a thing of the past. By the summer of 1965, when a Party journal described Ivan Denisovich as "an undoubtedly controversial work, both ideologically and artistically," Khrushchev had been ousted, the backlash had begun, and the number of political prisoners was rising with ominous speed. By 1974, when The Gulag Archipelago - Solzhenitsyn's massive, three-volume history of the camp system - had appeared in English, Solzhenitsyn had been expelled from the country, and his books could only be published abroad. The institution of the Soviet prison camp had been firmly reestablished, and the dissident movement was in full swing.

Solzhenitsyn's prison career had begun in a manner typical for zeks of his generation. After entering officers' training school in 1941, he fought across the western front throughout the autumn and winter of 1943, penned some poorly disguised criticism of Stalin in a letter to a friend in 1945 - and was arrested soon after. Hitherto a more or less true communist believer, the young officer was stunned by the brutality and crudity with which he was treated. Later, he would be even more shocked by the harsh treatment meted out to Red Army soldiers who had fallen into Nazi captivity. These, he felt, were men who should have returned home as heroes.
His subsequent camp career was perhaps slightly less than typical, only because - thanks to some undergraduate math and physics - he served some of his time in a sharashka, an experience he later recorded in his novel The First Circle. Other than that, it is fair to say that he served in a series of unremarkable lagpunkts, including one in Moscow, and one in a special camp complex in Karaganda. He was also an unremarkable prisoner. He flirted with the authorities, served as an informer before seeing the light, and wound up working as a bricklayer. Bricklaying was the career he later gave to Ivan Denisovich, the zek "Everyman" who was the hero of his first novel. After his release, he went to teach at a school in Ryazan, and began to write about his experiences. That too was not unusual: the many hundreds of Gulag memoirs that have been published since the 1980s are ample testimony to the eloquence and talent of Soviet ex-prisoners, many of whom wrote in secret for years. What made Solzhenitsyn truly unique, in the end, was the simple fact that his work appeared in print, in the Soviet Union, while Khrushchev was still in power.
*
Đoạn trên, trích Gulag a history, được coi như ấn bản chung quyết về Gulag, được Pulitzer Prize, của Anne Applebaum, cho thấy, Solz đã từng ve vãn quản giáo, làm ăng ten trước khi nhìn ra con đường của mình. Cuộc đời của ông cho thấy, không thể coi ông là một nhà trí thức Cộng Sản của châu Âu được, để mà so sánh với Trùm
Karadzic.
*
Điều làm cho Solz thực sự trở thành số một, độc nhất, là sự kiện đơn giản tác phẩm của ông được xuất bản, ở Liên Xô, khi Khrushchev đang toàn quyền lực.
Applebaum

Nhận xét về Một ngày, như trên, không đúng, bởi vì Applebaum không phải là một nhà văn. Bà không hiểu gì về thể loại văn học có tên là truyện ngắn, nhất là những truyện ngắn ở vào những thời điểm nóng bỏng nhất của lịch sử. Một khi nó xuất hiện, là có biến chuyển, một thứ chim báo bão.

Khi viết về NHT, Gấu đã nhận ra sự liên hệ giữa Tướng về hưu và Một Ngày, cũng như Lukacs nhận ra sự liên hệ giữa Một ngày và Typhoon của Conrad, hay Ngư ông và Biển cả của Hemingway.

Tuy nhiên, có lẽ phải đọc Tướng về hưu song song với Bếp Lửa, một ở đầu, một ở cuối cuộc chiến, một Not-Yet và một No-Longer, theo cách nhìn của Lukacs. Ở giữa hai truyện ngắn đó, là truyện Dọc Đường. Truyện ngắn này, lại là một Not-Yet, mở ra cuộc Exodus Vượt Biển của người Việt tị nạn: Hình ảnh người đàn ông lỡ độ đường đứng trơ vơ giữa cuộc chiến, với bọc quần áo tiên đoán số phận người vượt biển đi những ngày sau dead line, chẳng nước nào nhận!
*
Nhận xét về truyện ngắn, và vai trò “Not Yet  & No Longer” của nó trong lịch sử văn học, của Lukacs, ghê thật, nhưng chưa ghê bằng nhận xét của Brodsky về thơ, khi ông đọc Akkhmatova:
At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova - which explain her popularity and which, more importantly enable her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of humanities: cherished, strained, severed. She showed these solutions first through the prism of the individual heart then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics any way:

Ở một giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh tỏng, bởi vì chỉ có nó mới dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó lại, thành một cái gì được ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì đó mà cái đầu chịu thua không làm sao cất giữ được.

Điều Brodsky nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù Phạm Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái hồn của văn chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến! 

Ngoài kia súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em!
Tuyệt, tuyệt! 

Khi Gấu viết được những dòng sau đây, nhờ những ngày Mậu Thân và những trái hoả tiễn của VC, đã nghĩ là "tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên, vì cách viết của Gấu rõ ra là, "dụng công" quá, "cực" quá [tour de force], trong khi lời nhạc mới đơn giản làm sao.

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách thánh thiện, nghĩa là, một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Cõi Khác
*
Tản mạn xung quanh Tuổi Hai Mươi Yếu Dấu
Có lần, tôi đọc một bài viết, tác giả của nó tỏ ra rất là thất vọng về thần tượng của mình, là ông, NHT.
Thành thực mà nói, tôi mừng cho cả hai, tác giả và độc giả.
Có vẻ như tôi đã chờ một bài viết như thế.
Liệu không có bài Giã Từ Thần Tượng đó, ông sẽ còn phải đeo gánh nặng “thần tượng” tới khi nào?
Phải chăng nhờ vậy mà có Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu?
Phản ứng về nó cho thấy, tác phẩm/tác giả có thay đổi, nhưng độc giả/cách đọc chưa thay đổi.
Nói chung, có vẻ như mọi người đều thất vọng về NHT, trừ… tôi ra!
Hình như tôi đoán trước được, một NHT như thế.

Tôi lấy thí dụ, nhận xét mới đây, của Dương Tường:
DT: Tôi cũng đồng ý với quan điểm của anh Nguyên Ngọc. Nhà văn chúng ta... dốt quá. Không chịu học, không chịu đọc, lại mang cái bệnh "ếch ngồi đáy giếng", mới "nho nhoe" lên một tý cứ tưởng mình nhất thế giới. Nguyễn Huy Thiệp khi mới bật lên cũng tưởng mình nhất thế giới, thực ra cỡ như Thiệp ở Ðức, Mỹ, Nhật, Pháp... cũng có thể... vơ hàng tá!
[Trích Talawas]. 

Nhà văn chúng ta... dốt quá thì đúng quá rồi. Nhưng cái chuyện viết hay hay không hay, nhất là ở những người viết truyện ngắn, theo tôi, không liên quan nhiều tới.. tri thức. Cần một con mắt quan sát, cần một tấm lòng - cần nhất là một tấm lòng - là đủ.
G. Lukacs, trong “Solzhenitsyn: Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich” (1969) [William David Graf, dịch từ tiếng Đức, nhà xb The MIT Press, Cambridge, Mass 1971] viết:
Liên hệ mỹ học giữa truyện ngắn [novella] và truyện dài [tiểu thuyết, novel] thường được phân tích, nghiên cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên hệ nội tại giữa hai thể loại, trong cuộc phát triển văn học [their historical connection and their interrelationship throughout the course of literary development]. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình hình văn học hiện thời [the present-day situation]. Tôi [Lukacs] đang nghĩ tới sự kiện, truyện ngắn [novella] thường xuất hiện hoặc, như là một con chim báo bão [nguyên văn: tiền thân, precursor] cho sự ra đời của hùng ca, sử thi, hay những hình thức bi kịch lớn, hoặc như là đội quân hậu vệ [rearguard], một cách viết ở tận cùng một giai đoạn. Nói cách khác, hoặc nó xuất hiện như là một Sẽ Có, [a Not-Yet, Nochnicht], hay một Không Còn Nữa [a No-Longer, Nichtmerhr].

Áp dụng nhận xét trên vào Một Ngày...  của Solz., Lukacs viết: Với một chút dè dặt, người ta có thể nói, thể loại giả tưởng cận và đương thời đã từ bỏ truyện dài để cố thủ ở trong truyện ngắn, trong toan tính cung cấp, cái gọi là bằng chứng, về một cách thế đạo đức của con người.
[With this reservation, one can say of contemporary and near-contemporary fiction that it often withdraws from the novel into the novella, in its attempt to provide proof of man’s moral stature.…..]

“Không phát hiện quá khứ thì sẽ không khám phá hiện tại. Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenitsyn là một khai mở ý nghĩa cho tiến trình lại khám phá ra cái tôi, cái ngã, the self, ở trong văn chương, trong hiện tại xã hội chủ nghĩa.” [Lukacs].

Truyện ngắn của NHT có gì tương tự với Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenisyn. Nó báo hiệu sự suy tàn của một chế độ, sự tận cùng của một thời kỳ [a termination at the end of a period, a No-Longer], và đồng thời nó đăng quang con người, như một cá nhân [lại khám phá ra một cái tôi, thí dụ như của NHT, của Bùi Ngọc Tấn, và nhất là, của Nguyễn Chí Thiện, một cái tôi như là tôi dám tự chọn cho tôi: nhà thơ ngục sĩ đời đời!

Hay như Nguyên Ngọc nhận xét về Nỗi Buồn Chiến Tranh, cùng trong bài viết trích Talawas nêu trên, của Bảo Ninh, có thể áp dụng cho NHT: 

"Theo tôi, nói một cách thật nghiêm khắc, từ Nỗi buồn chiến tranh, chúng ta mới thật sự có tiểu thuyết hiện đại. Trước đấy, về cơ bản là sử thi, tức chiến tranh được soi nhìn bằng cái nhìn của cộng đồng, từ góc độ của dân tộc mà nhìn cuộc chiến tranh (Ðất nước đứng lên của tôi cũng vậy thôi). Ðến Bảo Ninh thì khác hẳn, lần đầu tiên chiến tranh được soi nhìn qua số phận của một cá nhân. Như vậy không hề có nghĩa là cái nhìn sau chống lại cái nhìn trước, nhưng đã là một cái nhìn khác hẳn. Ðiều này làm thay đổi hẳn ngôn ngữ của tiểu thuyết, từ độc thoại chuyển sang đối thoại, tức một giai đoạn mới trong tư duy tiểu thuyết." 

Tuy nhiên, thật khó mà đồng ý với nhận định, "không hề có nghĩa cái nhìn sau chống lại cái nhìn trước". Cái nhìn sau quyết liệt loại trừ cái nhìn trước, hay nói rõ hơn: cái nhìn trước là... bố láo! Cái nhìn sau mới là cái nhìn đích thật về cuộc chiến tưởng như là... thần thánh, nhưng thật sự chỉ là nồi da sáo thịt! 

Sự xuất hiện của NHT, hay của Bảo Ninh, là rất đặc biệt, và cần thiết, và thật khó mà nói rằng, "thực ra cỡ như Thiệp ở Đức, Mỹ, Nhật, Pháp... cũng có thể... vơ hàng tá".
Ở Đức, có, vào thời kỳ hậu chiến, với những nhà văn thí dụ như một Boll, nhưng ngược lại với Thiệp, họ nhục cái nhục thua trận, cái nhục Nazi, chứ không như Thiệp, nhục cái nhục thắng trận!

Ở Nga, có, như một Solzhenitsyn, khi ông tố cáo, và cùng lúc tiên đoán sự cáo chung, của Gulag. 

Cái nhìn trước là..."bố láo"..., G. Lukacs lịch sự hơn, khi dùng từ "minh họa". Ông viết, trò ma nớp thô bạo quá khứ chỉ là một sắc thái của trò ma nớp mọi hình tượng, hoàn cảnh, số mệnh, viễn tượng..  etc, nói ngắn gọn, đây là những tác phẩm của "văn chương minh họa" ["illustrating literature" - "Đất nước đứng lên" của tôi thì cũng như vậy, lập lại lời Nguyên Ngọc].

Áp dụng vào NHT và Bảo Ninh, chúng ta có thể nói rằng, không có NHT, sẽ không có những tác phẩm sau đó, thí dụ Cơ Hội Của Chúa, của Nguyễn Việt Hà. Nhân vật chính trong Chuyện Kể Năm Hai Ngàn, sở dĩ dám nhận mình là nhà văn, là bởi vì có người tên là NHT dám viết những truyện ngắn, thí dụ như Tướng Về Hưu. Đây mới chính là hồi chuông báo tử cho một nền văn chương minh họa, mà Nguyễn Minh Châu đã  từng mơ tưởng, ông sẽ là người đọc lời ai điếu.

[Chúng ta tự hỏi tại sao Nguyên Ngọc không thể nói "không" với cái nhìn trước đó, của lớp  người như ông, những người đã từng đặt niềm tin vào "cái nhìn cộng đồng" - đây là từ mới, để chỉ "tứ" cũ, cái nhìn của Đảng? Câu trả lời, dễ nhất, là ông không thể nói khác, và nhờ người khác, thí dụ như tôi, nói giùm. Câu trả lời thứ nhì, là của Lukacs, trong  bài viết "Chủ nghĩa Bôn sê vích như là vấn đề đạo hạnh" [bản tiếng Anh in trong The Lukacs Reader, do Arpad Kadarkay biên tập, nhà xb Blackwell, Oxford UK & Cambridge USA, 1995], qua đó, ông cho rằng: Quyền lực mê hồn [fascinating power] của chủ nghĩa Bôn sê vích, là nó giải phóng chúng ta ra khỏi tình trạng nhập nhằng giữa thiện và ác, xấu và tốt... Bởi vì, với những người Bôn sê vích, là giả dụ mang tính siêu hình này: cái tốt có thể phát sinh, được hoàn thành, từ cái xấu, bằng những phương tiện ma quỉ, và tự do có thể phát sinh từ bạo tàn, bạo quyền, bạo chúa..., và không hề có sự sửa sai đối với họ. Nếu có, là vì nhu cầu nhất thời, phải...  bịa đặt ra. Chính vì thế mà Nguyên Ngọc khẳng định, "không hề có nghĩa, cái nhìn sau chống lại cái nhìn trước". Nhờ cái nhìn "cộng đồng" trước, mà có cái nhìn "cá nhân" sau.]
Tuổi Bụi

Now your hour has struck - Pray!
-BLOK, The Field of Kulikovo
[Giờ của mi đã điểm. Hãy cầu nguyện!]

SHE SPOKE IN A DEEP, MEASURED VOICE: "YOU KNOW THAT IN A month you will be the most famous person on earth?"
"I know. But this will not be for long."
Russia's greatest living poet, Anna Akhmatova, was conversing with Russia greatest living prose writer. Kopelev had introduced them; indeed, he seemed to know everybody. In her seventies now, she was stout, silver-haired, majestic. She had read Ivan Denisovich in samizdat, and found it overwhelming. She thought of her son, who had spent so many years in Siberia.
"Can you endure fame?" she pressed him.
"I have very strong nerves. I endured the Stalin camps."
"Pasternak could not endure fame. It's very difficult to endure fame, especially late fame."
He told her he knew her great and highly complex work “Poem without a Hero” by heart. "I found it incomprehensible at first, but then all became dear." She read to him her sequence of the 1930s, Requiem, which had been published only in the West, "without her knowledge or permission." While admiring these tragic lyrics, he criticized them to her for dealing only with herself and her son, not the Russian people as a whole.
[Đoạn mở ra chương 29, cuốn tiểu sử Solz: Thế kỷ ở trong ta, của D.M Thomas, kể lần nhà thơ Akhmatova gặp Solz]
*
-Liệu bạn chịu đựng nổi danh vọng?
Não tôi cứng lắm. Tôi chịu nổi trại tù Stalin.
-Pasternak không chịu nổi danh vọng. Thật khó mà ăn ngủ ngày này tháng nọ với danh vọng, nhất là thứ đến muộn

Tribute

Tuy nhiên, có lẽ phải đọc Tướng về hưu song song với Bếp Lửa, một ở đầu, một ở cuối cuộc chiến, một Not-Yet và một No-Longer, theo cách nhìn của Lukacs. Ở giữa hai truyện ngắn đó, là truyện Dọc Đường. Truyện ngắn này, lại là một Not-Yet, mở ra cuộc Exodus Vượt Biển của người Việt tị nạn: Hình ảnh người đàn ông lỡ độ đường đứng bơ vơ giữa cuộc chiến, với bọc quần áo, không nhà nào dám chứa như tiên đoán số phận người vượt biển đi những ngày sau dead-line, chẳng nước nào muốn nhận!
*
Nhận xét về truyện ngắn, và vai trò “Not Yet  & No Longer” của nó trong lịch sử văn học, của Lukacs, hách thật, hách hơn Nghị Hách, nhưng chưa hách bằng nhận xét của Brodsky về thơ, khi ông đọc Akkhmatova:
At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova - which explain her popularity and which, more importantly enable her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of humanities: cherished, strained, severed. She showed these solutions first through the prism of the individual heart then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics any way:

Ở một giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh tỏng, bởi vì chỉ có nó mới dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó lại, thành một cái gì được ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì đó mà cái đầu chịu thua không làm sao cất giữ được.

Điều Brodsky nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù Phạm Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái hồn của văn chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến! 

Ngoài kia súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em!
Tuyệt, tuyệt! 

Khi Gấu viết được những dòng sau đây, nhờ những ngày Mậu Thân và những trái hoả tiễn của VC, đã nghĩ là "tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên, vì cách viết của Gấu rõ ra là, "dụng công" quá, "cực" quá - thuật ngữ phê bình kêu là "tour de force", đánh vật với chữ nghĩa - trong khi lời nhạc mới đơn giản làm sao.

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách thánh thiện, nghĩa là, một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Cõi Khác

Hai cuốn Quần đảo Ngục TùGulag một lịch sử, tốt nhất, nên đọc cả hai, cuốn nọ trước cuốn kia, cuốn nọ bổ túc cho cuốn kia, cuốn sau có quá nhiều dữ kiện trước đó không có, nhưng trên hết, vẫn phải đọc Một ngày, và tốt hơn nữa, đọc thêm vài truyện ngắn khác của Solz. Nếu người ta còn tranh cãi về truyện dài của ông, và cùng với nó là tham vọng khổng lồ, như cái tiểu tít [sous-titre] cho thấy: The Gulag Archipelago: An Experiment in Literay Investigation, một Thử nghiệm trong Điều tra Văn học, thì tất cả đều đồng ý, những truyện ngắn của ông mới thật bảnh.

Quần đảo Ngục tù, khổng lồ, [bộ ba cuốn, khổ lớn, mỗi cuốn dầy chừng 700 trang], không phải ai cũng có thì giờ đọc, do đó, có ấn bản rút ngọn, với lời nói đầu của Solz, thêm bài viết của tay biên tập bản rút gọn. Tin Văn cho in lại ở đây, bỏi vì có thể coi đó là những lời bổ túc cho cái nhìn phần nào đã xưa cũ về Solz, thí dụ, quan niệm coi ông như là một thứ tiên tri, a Jeremiah figure, như trong thư ông gửi cho tay biên tập bản rút gọn, "chủ đích, ý nghĩa chính của Quần đảo [là] một sự nâng cao đức hạnh và tinh thần thanh tẩy."
Trong nguyên tác, có nhiều đoạn, nhiều chương tưởng như lập lại nhau, nhưng không phải, đó chính là Gulag tự lập lại chính nó, nhưng nếu kiên trì theo dõi, thì cái âm thanh cuối cùng của nó, the final note, là, hope: hy vọng. Solz tự coi mình, không phải nhà tiên tri, mà là một tay lạc quan không thể nào bị bẻ gẫy, an ‘unshakable optimist”.
*
Foreword to the Abridgment 

If it were possible for any nation to fathom another people's bitter experience through a book, how much easier its future fate would become and how many calamities and mistakes it could avoid. But it is very difficult. There always is this fallacious belief: "It would not be the same here; here such things are impossible."
Alas, all the evil of the twentieth century is possible everywhere on earth.
Yet I have not given up all hope that human beings and nations may be able, in spite of all, to learn from the experience of other people without having to live through it personally. Therefore, I gratefully accepted Professor Ericson's suggestion to create a one-volume abridgment of my three-volume work, The Gulag Archipelago, in order to facilitate its reading for those who do not have much time in this hectic century of ours. I thank Professor Ericson for his generous initiative as well as for the tactfulness, the literary taste, and the understanding of Western readers which he displayed during the work on the abridgment.
ALEKSANDR I. SOLZHENITSYN
Cavendish, Vermont December, 1983

*

Tù Gulag, đầu thập niên 1930 

Tuột dốc té nhào trên hẻm núi
Chết điếng toàn thân trong giây lâu
*

In 1949 some friends and I came upon a noteworthy news item in Nature, a magazine of the Academy of Sciences. It reported in tiny type that in the course of excavations on the Kolyma River a subterranean ice lens had been discovered which was actually a frozen stream-and in it were found frozen specimens of prehistoric fauna some tens of thousands of years old. Whether fish or salamander, these were preeserved in so fresh a state, the scientific correspondent reported, that those present immediately broke open the ice encasing the specimens and devoured them with relish on the spot.
The magazine no doubt astonished its small audience with the news of how successfully the flesh of fish could be kept fresh in a frozen I' state. But few, indeed, among its readers were able to decipher the genuine and heroic meaning of this incautious report.
As for us, however-we understood instantly. We could picture the entire scene right down to the smallest details: how those present broke up the ice in frenzied haste; how, flouting the higher claims of ichthyology and elbowing each other to be first, they tore off chunks of the prehistoric flesh and hauled them over to the bonfire to thaw them out and bolt them down.
We understood because we ourselves were the same kind of people as those present at that event. We, too, were from that powerful tribe of zeks, unique on the face of the earth, the only people who could devour prehistoric salamander with relish.
And the Kolyma was the greatest and most famous island, the pole of ferocity of that amazing country of Gulag which, though scattered in an Archipelago geographically, was, in the psychological sense, fused into a continent-an almost invisible, almost imperceptible country inhabited by the zek people.
And this Archipelago crisscrossed and patterned that other country within which it was located, like a gigantic patchwork, cutting into its cities, hovering over its streets. Yet there were many who did not even guess at its presence and many, many others who had heard something vague. And only those who had been there knew the whole truth.
But, as though stricken dumb on the islands of the Archipelago, they kept their silence.
By an unexpected turn of our history, a bit of the truth, an insignificant part of the whole, was allowed out in the open. But those same hands which once screwed tight our handcuffs now hold out their palms in reconciliation: "No, don't! Don't dig up the past! Dwell on the past and you'll lose an eye."
But the proverb goes on to say: "Forget the past and you'll lose both eyes."
Decades go by, and the scars and sores of the past are healing over for good. In the course of this period some of the islands of the Archipelago have shuddered and dissolved and the polar sea of oblivion rolls over them. And someday in the future, this Archipelago, its air, and the bones of its inhabitants, frozen in a lens of ice, will be discovered by our descendants like some improbable salamander.
I 'Y0uld not be so bold as to try to write the history of the Archipelago. I have never had the chance to read the documents. And, in fact, will anyone ever have the chance to read them? Those who do not wish to recall have already had enough time-and will have more -to destroy all the documents, down to the very last one.
I have absorbed into myself my own eleven years there not as something shameful nor as a nightmare to be cursed: I have come almost to love that monstrous world, and now, by a happy turn of events, I have also been entrusted with many recent reports and letters. So perhaps I shall be able to give some account of the bones and flesh of that salamander-which, incidentally, is still alive.
* 

Cái chi tiết ăn sống nuốt tươi sinh vật tiền sử, mà lần đầu đọc Gulag của Solz, khiến Gấu nhớ ra con tép nhẩy lẫy quẩy giữa hai hàm răng, và giữa những cơn đói lập đi lập lại, những ngày tù Phạm Văn Cội.
Và khi đọc Gulag một lịch sử, chi tiết anh tù đi làm về nghe bạn tù ở nhà cho biết, dưới gối có quà đấy, lại tưởng là gói xôi, hay mẩu bánh mì, chạy vội về, lật lên, thì là thư nhà, khóc ngất, vì đói, vì hối hận, chi tiết này làm Gấu nhớ lần đầu Gấu Cái thăm nuôi, tại trại tù Đỗ Hòa, khi Gấu đang ở tổ trừng giới... Gấu đã kể hai chi tiết này rồi, đâu đó, trên Tin Văn.
Đừng đào bới quá khứ, hãy giao lưu hòa giải. Đào bới hoài quá khứ như thế, coi chừng đui con mắt.
Nhưng không đào, đui luôn hai con mắt!

* 


ZINOVY ZINIK
đọc
THE SOLZHENITSYN READER

Không có nhiều nhà văn góp từ mới vô từ điển của những quốc gia khác. Từ "Gulag" làm được điều này, và nó gắn liền với Solzhenitsyn.
Trước ông, từ những năm 1920, nhiều cuốn sách nói về số phận thê lương của tù chính trị, và những điều ghê rợn trong những trại tù cải tạo ở Liên Xô, đã tới được những bến bờ Tây Phương, tác giả của chúng là những di dân, tị nạn, đào thoát, cựu nhân viên của hệ thống tù đầy Liên Xô. Chúng chỉ đạt được một con số độc giả giới hạn.
Gulag của Solz, cơ bản khác hẳn những cuốn trước - những hồi ức cá nhân, trong có những phát hiện có tính xã hội - không chỉ vì trong đó là hàng hàng chứng tích, từ những hàng hàng lớp lang con người, với những cuộc sống khác nhau, từ đó phản chiếu cả một xã hội, cả một dân tộc; ấn tưọng hơn nữa, là, Solz đặt để tác phẩm, với kinh nghiệm của bao nhiêu con người trong có của riêng ông, vào trong nội dung của lịch sử dân tộc, tôn giáo, ý hệ của nó, từ đó, làm bật ra cả một hệ thống kìm kẹp từ đỉnh đến đáy, sự đồng lõa của toàn thể dân chúng, của toàn thể một dân tộc, cùng tham dự vào tội ác, với tất cả những chiều hướng ngang dọc, cao thấp mà chỉ chế độ Nazi mới tương xứng với nó.
Chỉ đến khi Quần Đảo Gulag lén lút được đem ra khỏi Đất Mẹ của nó, vào năm 1974, thì nhân loại mới hết còn ảo tưởng về một chân lý: "Thà Đỏ Còn Hơn Chết".
Thà Đỏ Còn Hơn Chết, đối với Miền Nam Việt Nam, trở thành: Thà VC còn hơn Chết [vì chiến tranh].
Note: Nhà thơ TTT đã có ý định, và đã từng được tay Thành, lái sách, đề nghị, dịch Solz, [có thể, Khu Ưng Thư, hay Tầng Đầu Địa Ngục]. HHT cũng đã từng phóng tác Solz, hình như cuốn Tầng Đầu. (1)
Thực sự, khó có thể, và không nên, phóng tác những tác phẩm của Solz.
Hiện chỉ có tác phẩm thu gọn, do chính Solz cho phép, của bộ sách khổng lồ, Gulag. Trên Tin Văn đã có giới thiệu.
(1) HHT có viết về
Tầng Đầu  do ông dịch, trên trang web của ông, và về những ngày dự lớp học tập cải tạo nhà văn tại Sài Gòn.
*
Thì cứ cho rằng, thấy kẻ sang bắt quàng làm họ: TTT và Solz có một số điểm tương tự.
Một, là tính tiên tri: Solz đã từng biết trước, ông sống dai hơn chế độ Xô Viết, và sẽ trở về khi nó sụp đổ.
Solz cũng đã từng biết trước Mẽo sẽ cút, nhưng ông thêm vô: Miền Bắc sẽ làm gỏi Miền Nam.
TTT đã từng gật gù với thằng em, bên ly "cà phe", trong một con hẻm Xóm Gà, gần nhà ông: Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này.
TTT không chịu nổi sự thỏa hiệp. Với ông, trắng là trắng, đen là đen.
Solz cũng vậy.
Nhưng với Solz, không phải vấn đề cá nhân: Ông loại ra khỏi đời ông, kẻ nào bẩn, tởm, không tin được, nhưng chỉ có cách đó, để giữ hồi nhớ những khủng khiếp, ghê rợn dưới thời Stalin, cho những thế hệ tương lai; với những người không ưa ông, thì coi đây nhằm che đậy sự phách lối ngông cuồng.
[TTT chẳng đã từng bị coi là kiêu căng, phách lối? NMG chẳng đã từng viết, mang tác phẩm đến tặng TTT, khi ông ghé nhà một người bạn, và khi ra về, TTT đã vô tình, sơ ý, hay cố ý, bỏ quên?]
[He banished from his life everyone whom he suspected of disloyalty, including the most insightful and trustworthy of his biographers, Michael Scammell. For Solzhenitsyn and his defenders it was the only way to preserve the memory of the horrors of Stalinism for future generations; for his detractors, his civic zeal was just a cover for megalomaniacal vanity].
[Khi ông xuất hiện trên chương trình Bouillon de Culture, 18 Tháng Chín, 1993 của TV Tây].

*
Giỗ đầu TTT
*

The book was also written as a treatise on the subject of survival. The tone had been set in Solzhenitsyn's first published masterpiece, One Day in the Life of Ivan Denisovich (not included in The Solzhenitsyn Reader). Unlike another genius writing in this genre, Varlam Shalamov  (a kind of Russian Primo Levi), who had exposed the prison camp as an unmitigated hell where man is stripped of any vestige of humanity, Solzhenitsyn's narrative is a moral fable of  the condemned soul seeking, in the grueling  experience of prison life, the light of spiritual rejuvenation. It gave hope. This was another reason why his writing was such a huge success in the West. The Gulag Archipelago became an international bestseller, together with earlier, more traditional political melodramas, The First Circle and Cancer Ward, whose style and mode of thinking were not so different - according to Shalamov - from the canonical works of socialist realism. Solzhenitsyn won the Nobel Prize for Literature in 1970, but didn't go to Stockholm for fear of not being allowed back into Russia-region.
(....)
Perhaps it is the time for the Russians to reread it from their own historical perspective.

The Old Days
ZINOVY ZINIK
đọc
THE SOLZHENITSYN READER
Cuốn sách còn được viết như là một luận đề về sự sống sót. Giọng  văn thì đã có từ tuyệt phẩm đầu tiên được xb, Một ngày (không có trong ấn bản The Solz Reader). Không giống một thiên tài khác cùng loại, Varlam Shalamov (một thứ Primo Levi của Nga), ông này coi trại tù là địa ngục hết thuốc chữa, nơi chất người kể như tiêu, giọng kể chuyện của Solz, là của một ngụ ngôn đạo đức của một linh hồn bị kết tội tìm kiếm, bằng kinh nghiệm nhọc nhằn của cuộc sống tù đầy, ánh sáng của sự tươi trẻ trở lại. Quần đảo Ngục tù trở thành một cuốn best-seller trên toàn thế giới, cùng với hai cuốn trước đó, Tầng Đầu và Khu Ung Thư, thuộc dòng bi kịch chính trị có tính truyền thống, giọng văn và cách suy nghĩ của hai cuốn này không khác gì dòng văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa chính thống, theo Shalamov.
....

Có lẽ đây là dịp để người Nga đọc nó, The Solz Reader, từ viễn tượng lịch sử của chính họ.
*

Cái cú khẳng định, tôi sẽ trở về trước khi chết, và khi đó đế quốc Đỏ đã sập tiệm, Solz phán gần như ngay sau khi bị tống xuất, trong chương trình văn học Apostrophes của đài truyền hình Pháp, của Bernard Pivot, vào tháng Tư 1975, tức là đúng lúc Miền Nam đi đoong. Vì vậy ngoài khẳng định sẽ về, còn tiên đoán về số phận Miền Nam: Miền Bắc sẽ chiếm đóng Miền Nam, chẳng có giải phóng giải phiếc gì hết [Soljenitsyne prophétisant la mainmise du Nord sur le Sud. Bernard Pivot: Le métier de lire, Nghề đọc]

Tay Pivot này phỏng vấn Solz hai lần [cho chương trình Apostrophes do ông chủ trì, sau đó, còn phỏng vấn Solz cho chương trình Bouillon de culture, khi Apostrophes sập tiệm]. Lần đầu, vừa kể, nhân dịp cuốn Le Chêne et le Veau, bản tiếng Tây, tất nhiên, ra lò ở Tây. Lần thứ nhì, tại Vermont, nơi cư ngụ của Solz. Lần đầu, chỉ bốn tháng sau khi chương trình văn học Apostrophes xuất hiện. Pivot, khi nhớ lại, vẫn còn cảm động, ui chao tôi nhớ là tui hơi run run khi đứng trước người khổng lồ, sống sót ba trận đại dịch của thế kỷ 20: chiến tranh, ung thư, và trại tù. Tôi thấy mình thật nhỏ bé trước người khổng lồ và cuốn sách mới ra lò… Người ta chê trách tôi, tại sao không mời thêm một tay trí thức CS để đấu tay đôi với ông ta. Lúc đó, thì thứ này vẫn còn ở Tây.
Tôi không nghĩ, Solz chấp nhận, nhưng còn vấn đề này căng hơn nhiều: Làm sao để một người khổng lồ kế bên một con bọ?

Vậy mà có thằng ngu gọi Solz là nhà trí thức CS, và để kế bên một nhà trí thức CS khác, là một tên trùm đồ tể!