*

 

Nobel Peace


Nobel Peace

There have been a number of previous occasions when the Laureate has been prevented from attending. This has in fact been the case with several awards which have proved in the light of history to have been most significant and honorable. Even when the Laureate has come, he or she has several times been severely condemned by the authorities of his or her own country.

Trước đây đã có những trường hợp khi người được giải bị ngăn tham dự lễ. Điều này thực tế xảy ra với nhiều giải thưởng mà ánh sáng lịch sử cho thấy chúng mang tính quan trọng và vinh dự nhất.

Source: DM

Tay dịch này không rành tiếng Việt, và cũng không nắm được tinh thần của câu tiếng Anh.
Đúng ra nên dịch gọn gàng như vầy:
Trước đây có một số [không phải ‘những’] dịp, người được giải bị ngăn cản tham dự. Trường hợp này thực tế đã xẩy ra, với một vài giải thưởng, và điều này chứng tỏ, dưới ánh sáng lịch sử, những giải thưởng đó đều thật là có ý nghĩa, và thật đáng vinh danh.

Người viết muốn nói, trước đây có vài dịp [occasions] người được bị ngăn cản không làm sao tham dự buổi lễ trao giải. Tiếp đó, ông viết, thực tế, trường hợp [case] này quả đã xẩy ra cho vài giải thưởng, và dưới ánh sáng lịch sử cho thấy, vài giải thưởng này đều thật là có ý nghĩa, và thật đáng vinh danh.

Có vẻ như tay dịch này, chẳng hiểu tí chó gì, về bước đi của câu văn, và tính uyển chuyển của nó, từ ‘dịp’ qua trường hợp có thực [case, in fact]. Và, làm gì có từ ‘quan trọng’ ở trong nguyên tác?
Dịch như vậy, mà dám đề là, đã có sự chau chuốt, chứng giám, của… BBT!
Có vẻ như câu dịch nào thì cũng phải dịch lại cả!
Chán mớ đời!


Nobel Peace

Bài viết này, còn quá 1 văn bản ngoại giao, vì nó nói lên tinh thần của thiên niên kỷ, của hiện tại so với quá khứ, sau những Lò Thiêu, Lò Cải tạo, Gulag, 11/9…

BBC có vẻ rất thận trọng, khi dịch, còn DM, hung hăng con bọ xít, dùng từ rất dễ mất lòng Thiên Triều!
TV post ở đây cả ba bản văn, nguyên tác, bản dịch của BBC, và của DM. Thủng thẳng sẽ đi vài đường bình loạn, sau.

Peace Nobel Speech

In the course of my life, for more than half a century, June 1989 was the major turning point.
Bản dịch đầu tiên của DTT:
Trong cuộc đời hơn nửa thế kỷ của tôi, tháng Sáu năm 1989 là khúc quanh quan trọng.
Bản dịch sửa lại:
Vì vậy, trừ trường hợp có vị nào dịch thẳng từ bản chữ Hán đúng ý ông Lưu Hiểu Ba hơn, tôi xin dịch lại câu mở đầu như sau: “Trong dòng đời của tôi trải qua hơn nửa thế kỷ, tháng Sáu 1989..."
Nguồn

Câu sau, dịch đúng câu tiếng Anh.
Câu trước, dịch sai.
Vấn đề ở đây, không mắc mớ gì tới nguyên tác tiếng Tầu.

Câu dịch lại của DTT, tương tự câu của GNV, ngay sau khi đọc câu ông dịch, [Câu tiếng Anh muốn nói, trong cái dòng chảy tạo nên cuộc đời của tôi, cho đến nay là đã trải qua hơn nửa thế kỷ, cái ngày Bốn Tháng Sáu 1989 là 1 bước ngoặt quan trọng], giống như cái đập cánh của 1 con bướm, gây ra trận bão dịch thuật ở 1 'diễn đàn bạn'!

Điều này chứng tỏ, DTT không biết đến trang Tin Văn, và vì thế, ông cám ơn LTC lia liạ!
Cái này Tầu nó kêu là “Mượn Hoa Tiến Phật”, còn Mít, đểu giả hơn, gọi là đòn “Của Người Phúc Ta"!
Trong giới nhà văn nhà báo, họ lịch sự hơn, và nói, ‘thiếu sự thành thực, công bằng’, hay ‘chơi không đẹp’, ‘not fair’!

Giả như chúng ta cần biết, độ lệch pha, giữa câu dịch tiếng Anh, so với câu tiếng Tầu, của LHB, thì lúc đó, chúng ta mới cần tới nguyên tác.
Với câu dịch tiếng Việt của DTT, từ câu tiếng Anh, chúng ta đâu cần tới nguyên tác?
Thành thử cả bài viết của DTT, theo GNV, là…. nhảm, và 1 cách nào đó, tính vờ cái chuyện lệch pha.
Chỉ cần hai câu thôi. Câu dịch trước đó, và câu sửa lại, sau đó.
Tốt nhất, là phúc đáp liền, đừng để ra Tết, mới trả lời, vừa phụ lòng độc giả DM, những người đã mất công viết còm, và nhất là nhà phê bình BVP, đã chịu đòn thay ông, vừa làm xui năm mới đi! (1)
NQT

(1)
Đừng nghĩ là GNV có gì thù hằn DM.
Hồi mới xuất hiện, GNV có đi 1 đường về cái tên DM, rồi thôi kệ. Dưới thời DTT làm chủ biên, chắc thế, GNV thường xuyên nhận bản tin hàng tuần của DM, kèm những lời thật ân cần, mời 'anh chị NQT' đóng góp bài vở!
Có lần Gấu Cái, đọc hoài, chắc thấy ngại, đề nghị, hay là mi viết cho họ?
Gấu lắc đầu, vì nghĩ, không cần thiết, nhất là sau cái cú Chợ Cá, Hậu Vệ….
*

Perry Link, trong bài viết trên Blog, NYRB, kể về buổi lễ trao giải Nobel Hòa Bình, mà ông có tham dự:

The ceremony was one of the most exquisite and moving public events I have ever witnessed. The presentation speech was made by Thorbjørn Jagland, the chairman of the prize committee who is a former prime minister of Norway and now secretary-general of the Council of Europe. Only a few minutes into the speech, he said:

We regret that the Laureate is not present here today. He is in isolation in a prison in northeast China…. This fact alone shows that the award was necessary and appropriate.

When he had finished reading these words the audience of about a thousand people interrupted with applause. The applause continued for about thirty seconds and then, when it seemed that the time had come for it to recede, it suddenly took on a second life. It continued on and on, and then turned into a standing ovation, lasting three or four minutes. Jagland’s face seemed to show an expression of relief. After the ceremony, in a news interview, he said that he understood the prolonged applause not only as powerful support for Liu Xiaobo but as an endorsement of the controversial decision that his five-person committee had made.

Buổi lễ là 1 trong những sự kiện công chúng kỳ tuyệt, và cảm động nhất mà tôi đã từng chứng kiến, Perry Link viết. Thorbjørn Jagland, ngài chủ tịch Uỷ ban Nobel, đọc bài diễn văn trao giải. Ông là cựu thủ tướng Na Uy, và bây giờ là tổng thư ký của Hội đồng Âu Châu.

Chúng tôi thật lấy làm tiếc vị Khôi nguyên không có mặt bữa nay. Ông hiện đang trong tình trạng bị ngăn cách, biệt lập với thế giới bên ngoài, tại 1 nhà tù ở đông-bắc TQ… Chỉ nội sự kiện đó cho thấy giải thưởng thì cần thiết và xứng hợp. 

Khi ông đọc xong đoạn trên, cả ngàn người trong hội trường ngắt lời ông bằng những tràng vỗ tay. Tiếng vỗ tay kéo dài chừng 30 giây, và khi nó có vẻ ngưng, bất thình lình, sống thêm 1 lần nữa. Nó tiếp tục, tiếp tục, và sau chuyển thành 1 cuộc hoan hô đứng, kéo dài chừng ba hoặc bốn phút. Nét mặt của ông dãn ra, như hài lòng. Sau buổi lễ, trong cuộc gặp gỡ báo chí, ông nói, ông hiểu, sự kiện vỗ tay kéo dài như vậy, không chỉ biểu tỏ sự hỗ trợ mãnh liệt dành cho Liu Xiaobo, mà còn như một tán đồng, trước quyết định gây tranh cãi của Uỷ ban.

Nhưng phải đọc cái còm của 1 độc giả, mới thật sướng, nhất là đoạn này:

It was Mario Vargas Llosa, who looked sick and tired, who took the courage of the gentleman to cut those opinions in clear terms: “human rights are not Western values and it is not necessary to wait for a high degree of economic development to aspire for decent basic rights.” As the Russians continued to argue confidently but appallingly, Vargas Llosa was more troubled to find arguments that would appease such simpletons and he resorted to the most basic he could afford: “look, if you ask people in the world in particular in Latin-American countries whether they prefer dictatorship or democracy they will vote by majority for democracy.” He was a Don Quixote alone and sad.

Phải đợi đến khi Vargas Llosa, tân Nobel văn chương, trông thật bịnh và mỏi mệt, lấy được can đảm của 1 bậc quân tử Tầu, cắt mẹ những lời lèm bèm của cả đám chết nhát, và phán, bằng những lời thật bảnh tỏng:: "Nhân quyền đâu phải do Tây Phương phịa ra, và làm gì có cái chuyện phải đợi cho kinh tế khá lên thì hãy đòi nhân quyền... Hãy cứ hỏi dân chúng Mỹ Châu La Tinh coi họ khoái độc tài hay dân chủ... ".

Đúng là 1 Đức Ông Don cô đơn, và buồn rầu!
*

Một câu tiếng Anh, dịch ‘hơi bị lệch đi 1 tí’, vậy mà nhất định lôi cả lò TQ ra để mà biện minh!
GNV đành phải ngửa mặt lên trời, nhìn lên trên chúng ta: ABOVE US!

JULIA HARTWIG 1921-

Expectation of an imminent calamity. Many people have lived through such a moment, but they haven't left poems about it. Yet those moments are an integral part of history, of many cities and countries.

Ngửi thấy mùi thảm họa. Nhiều người Mít đã trải qua một khoảnh khắc như thế, nhưng họ quên không để lại 1 bài thơ.
Tuy nhiên, những khoảnh khắc này là 1 phần toàn thể của lịch sử, của nhiều thành phố và xứ sở.

ABOVE US

Boys kicking a ball on a vast square beneath an obelisk
and the apocalyptic sky at sunset to the rear
Why the sudden menace in this view
as if someone wished to turn it all to red dust
The sun already knows
And the sky knows it too
And the water in the river knows
Music bursts from the loudspeakers like wild laughter
Only a star high above us
stands lost in thought with a finger to its lips

Translated from the Polish by Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh

Czeslaw Milosz giới thiệu, trong A Book of Luminous Things

Đầu năm mà đọc bài thơ này thì hơi bị nhảm.
Nhưng biết đâu đấy, đúng là dịp đọc nó?

Ở bên trên chúng ta

Trẻ con chơi đá banh ở một công viên rộng lớn
bên dưới Đài Kỷ Niệm Điện Biên

và bầu trời tận thế thì đỏ mọng,
‘không gian bỗng đỏ rực, rồi đêm xuống trùm lên tất cả’

Tại sao cái sự hăm dọa bất thần như thế
Như thể có 1 người nào đó ao ước biến tất cả thành bụi đỏ
[Có phải đốt sạch Trường Sơn, thì cũng đốt]

Mặt trời biết điều đó
Bầu trời cũng biết điều đó
Nước sông Sài Gòn cũng biết luôn
Nhạc “Như có Bác H trong ngày vui như thế này”,
bỗng ré lên như 1 tiếng cười man rợ

từ chiếc loa của Ban Thông Tin Phường Bến Nghé
Chỉ có 1 ngôi sao ở thật cao trên đầu chúng ta,
thì vẫn như lạc lõng trong suy tư,
với ngón tay đặt lên đôi môi


*

The empty chair

Vụ này, còn 1 tí tiếu lâm, nữa, là, cho đến nay, không thấy dịch giả DTT lên tiếng. Điều này làm chúng ta suy đoán, ông không hề biết đến trận ‘bão tố dịch thuật’ liên quan tới ông, nghĩa là, ông không trực tiếp gửi bài cho DM. Bởi vì nếu có, là DM đã chuyển cho ông những thắc mắc của độc giả, và luôn cả cái cú nhà phê bình BVP đưa lưng chịu đòn giùm cho ông!
Nếu đúng, đâu cần ‘cái mũ’ ở đầu bản dịch, mà chỉ cần ghi nguồn, khỏi cần trang trọng, khiến GNV này phát thèm, vì đã từng nhặt 1 hạt sạn trong bài thơ bà chủ nhiệm chủ bút chủ biên gì gì đó của DM, mà chẳng được 1 lời cám ơn!
Những điều tưởng nhỏ nhặt, nhưng nó làm lộ ra tính đạo đức của 1 diễn đàn văn học.

*

China: From Famine to Oslo

TQ: Từ Trận Đói đếnOslo
*

Bài diễn văn Nobel Hòa Bình TV tính dịch, nhưng thấy “diễn đàn bạn” là Da Màu đã làm rồi, nên thôi. Ghé mắt nhìn thì thấy cái nón này: 

LTS: Trong tinh thần ủng hộ tự do ngôn luận, cùng những nỗ lực nhân quyền của Lưu Hiểu Ba, Da Màu xin đăng toàn bộ bản dịch bài diễn văn trao giải Nobel Hòa Bình năm 2010 của Chủ tịch Ủy ban Nobel Na-Uy Thorbjorn Jagland, do dịch giả Anh Anh chuyển ngữ. Bản dịch đã được đối chiếu với bản Anh ngữ và nhuận sắc bởi BBT Da Màu. Da Màu hân hạnh chào đón mọi ý kiến của quý độc giả về dịch thuật.
DM

Đừng nghĩ là GNV này cố tình “bới bèo ra bọ”, nhưng ngay câu đầu, là đã thấy không OK rồi.
Người dịch không tôn trọng trật tự của từ, và điều này làm câu văn mất đi ý nghĩa của nó.
GNV này đã từng suýt soa, cái tay đích thực tác giả bài viết là 1 bậc thầy về ngoại giao, thành thử bạn vờ đi trật tự từ, là làm hỏng bản văn!
Làm què nó, đúng hơn!

 "The Norwegian Nobel Committee has decided to award the Nobel Peace Prize for 2010 to Liu Xiaobo for his long and non-violent struggle for fundamental human rights in China. The Norwegian Nobel Committee has long believed that there is a close connection between human rights and peace. Such rights are a prerequisite for the "fraternity between nations" of which Alfred Nobel wrote in his will."
 
Ủy ban Nobel Na-Uy quyết định trao giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 2010 cho Lưu Hiểu Ba vì sự đấu tranh bất bạo động và lâu dài cho những quyền cơ bản của con người tại Trung Quốc. Ủy ban Nobel Na-Uy tin tưởng mạnh mẽ có một mối liên hệ mật thiết giữa nhân quyền và hòa bình. Nhân quyền là điều kiện tiên quyết cho “tình huynh đệ giữa các quốc gia,” điều mà Alfred Nobel đã viết trong chúc thư của ông.
DM

Đúng ra, phải dịch là sự đấu tranh lâu dài và bất bạo động.
Lâu dài, trước, bạo động sau.

Ủy ban Nobel Na-Uy tin tưởng mạnh mẽ
Uỷ ban Nobel hằng tin tưởng.
Bỏ đi từ “mạnh mẽ”, vì không có trong nguyên tác.

Liên hệ mật thiết: close, dịch là mật thiết, thì cũng được, nhưng GNV đã nói rồi, tay này là Thầy về ngoại giao, thì nên dịch là… có 1 mối liên hệ “môi hở răng lạnh”.

Tầu đặc, Mít đặc!

Dịch như vậy là nhắc khéo đến tình bạn lâu đời giữa An Nam ta và Thiên Triều, những năm chiến tranh Thiên Trều trang bị anh bộ đội Cụ Hồ từ đầu đến đít, mấy cái lông chim, là cũng “made in China”, nhờ vậy mới ăn cướp được Miền Nam, hà, hà!

“Tình huynh đệ giữa các quốc gia”, không ngửi ra mùi mấy em xẩm, bằng “tứ hải giai huynh đệ”!
Những từ trên, người viết đều nhắc khéo đến những châm ngôn của Tầu, thành thử mới để trong ngoặc.

Để trong ngoặc, “tứ hải giai huynh đệ”, rồi lại thòng thêm, “câu này có trong di chúc của ông Nobel”, là cũng muốn nhắc khéo đến, nhân quyền đâu phải do Tây Phương phịa ra!

Ui chao, khó nhá quá, ba cái chuyện dịch doạc này!
*
Đính chính: Sáng nay đọc lại, thì Gấu nhận ra là, trật tự từ ‘bất bạo động và lâu dài’, đúng hơn là ngược lại, ‘lâu dài và bất bạo động’.
Ấy là vì trong tiếng Anh, ‘tính từ’ đặt trước ‘danh từ’, khi dịch qua tiếng Việt, phải đảo ngược lại vị trí của tính từ, bởi vì trong hai tính từ, ‘bất bạo động’, trong tiếng Anh, đứng kế ngay danh từ ‘đấu tranh’, mạnh hơn ‘lâu dài’, đứng xa hơn.
‘Tính từ’ nào càng gần ‘danh từ’ càng ảnh hưởng mạnh lên nó. Người viết coi trọng tính 'bất bạo động' hơn tính 'lâu dài', khi viết về cuộc đấu tranh cho nhân quyền, tại, ở đây là TQ.
Ai thì cũng biết, 'tính từ' là 1 thứ tiếng, từ dùng để bổ nghĩa, thay đổi nghĩa, modifier, của/cho 'danh từ'

Thái, biết bao Thái, nhưng Thái Dúi, thì biết ngay là anh nào!

Sorry abt that. NQT
*

He is in isolation in a prison in north-east China.
Ông đang bị cô lập trong một nhà tù ở đông bắc Trung Quốc. BBC
Ông đang bị biệt giam tại miền Đông Bắc Trung Quốc. DM
Ông đang ở trong một tình trạng cách biệt với thế giới bên ngoài, trong 1 nhà giam ở … GNV

Câu dịch của BBC đúng hơn của DM.

Chỉ những người đã từng biết, do sống, hay do đọc về tù ở 1 xứ sở CS, mới hiểu được những từ như biệt giam. Khi dịch là ông đang bị biệt giam, thì độc giả tưởng ông này ở tù nhưng được biệt giam, nghĩa là không được ở chung với những bạn tù. Biệt giam là tù trong tù!

This fact alone shows that the award was necessary and appropriate.
Riêng điều này chứng tỏ giải thưởng là cần thiết và phù hợp. BBC
Sự thật này tự nó chứng tỏ rằng giải thưởng là cần thiết và xứng đáng. DM
BBC, đúng hơn.

Bài viết này, còn quá 1 văn bản ngoại giao, vì nó nói lên tinh thần của thiên niên kỷ, của hiện tại so với quá khứ, sau những Lò Thiêu, Lò Cải tạo, Gulag, 11/9…

BBC có vẻ rất thận trọng, khi dịch, còn DM, hung hăng con bọ xít, dùng từ rất dễ mất lòng Thiên Triều!
TV post ở đây cả ba bản văn, nguyên tác, bản dịch của BBC, và của DM. Thủng thẳng sẽ đi vài đường bình loạn, sau.

Peace Nobel Speech





There may not be a Nobel Peace Prize ceremony this year, if neither Liu Xiaobo, who is in prison; his wife, who is under some sort of house arrest; or another close relative can accept it. According to the A.P.,
If that happens, it will be the first time since 1936, when there was no one present to accept the medal and diploma for German journalist Carl von Ossietzky, who was seriously ill and not allowed to leave Nazi Germany.

Bóng ma Nobel

Theo tin AP, năm nay có thể sẽ không có lễ trao giải Nobel Hoà Bình, nếu Liu Xiaobo, hiện đang ngồi tù, bà vợ, hiện đang bị quản thúc tại gia, hay một thân nhân gần gụi, có thể có mặt để nhận giải.
Và nếu đúng như thế, thì đây là lần đầu tiên, kể từ 1936, là năm ký giả Đức,
Carl von Ossietzky, được trao giải, nhưng do bịnh quá, và không được rời xứ Nazi của Đức, để đi nhận.
Carl von Ossietzky: Ông thật đáng để chúng ta đi 1 đường tiểu chú. Là nhà diễn tiến [hay diễn biến?] hoà bình, xuất bản tờ báo Weltbühne, “bịnh nặng, và không được phép rời nước Đức Nazi”, theo như thông báo của nhà nước Nazi, giống y chang nhà nưóc VC. Sự thực, ông ở trong trại tập trung, ở ngoại vi Oldenburg, khi đám Đức lưu vong vận động Nobel Hòa bình cho ông. Chờ chết về bịnh lao, nhưng đám quản giáo chẳng thèm làm gì để chữa trị. Trước khi bị tống vô trại tù, ông đã bị tra tấn ở nhà tù Spandau.
Chế độ Nazi đã làm đủ mọi cách để gây sức ép lên Uỷ ban trao giải, đến nỗi, năm 1935 đã không có giải Nobel Hoà Bình.
Một trong những người hết mình cổ võ cho Ossietzky là Willy Brandt, sau này thành thủ tướng Đức, đã từng quỳ trước Lò Thiêu để xin lỗi, và cũng đã từng được Nobel Hoà Bình vào năm 1971.

*

*

“a slap in the face of fascism”: Một cái tát vào mặt Phát Xít, Vi Xít!

Bức hình do tay ký giả chụp, đã có hết tất cả những tính chất của một 'altarpiece' [altar: bàn thờ] – nào chiếc áo choàng đen, cùng những hình ảnh mang tính tôn giáo đi theo cùng với nó, cộng thêm cái cử chỉ quỳ xuống…. ui chao đúng là một thoáng chốc đi vào vĩnh cửu, đi vào thơ!

Tuy nhiên, không phải tay nhiếp ảnh viên, mà Brandt, mới là tác giả thực sự của bức hình, ông ta là thiên tài, như Gorbachov là Thánh Khùng!

Chỉ những bậc thiên tài mới làm được những cử chỉ thiên tài, đúng như 1 tay thiên tài phán: những đại tác phẩm, chỉ những bậc thiên tài mới tạo ra được!

December 7, 1970. A picture can speak a thousand words, and that is what Willy Brandt had expected when he silently knelt down at the monument to Warsaw Ghetto Uprising. The gesture of humility and penance was not favorably viewed by West Germans at that time. 48% thought the “Kniefall” was exaggerated. The opposition tried to use the Kniefall against Brandt with a vote of No Confidence in April 1972 which he survived by only two votes. However, Brandt’s Ostpolitik and Kniefall helped his reelection, as his reformist policies helped Germany gain international reputation, and he went on to win the Nobel Peace Prize in 1971. 

The incident took place during visit to a monument to the Nazi-era Warsaw Ghetto Uprising, in what was then the communist People’s Republic of Poland. After laying down a wreath, Brandt, very surprisingly, and to all appearances spontaneously, knelt. The largest single revolt by the Jews during the Holocaust, the uprising inside the Warsaw Ghetto in German occupied Poland during World War II resisted Nazi Germany’s effort to transport the remaining ghetto population to the Treblinka extermination camp. The poorly armed and supplied resistance was crushed by the German troops. 

The above photo by Sven Simon has all the qualities of an altarpiece–the black bulk of the coat and religious connotations of the kneeling creates ephemeral and poetic moment. However, it was not Simon, or other photographers that defined that photo. It was Brandt, who was the true author of this photograph.
Source

Giả như có 1 anh VC nào đó, làm được cử chỉ trên, thì mới giải ra được nỗi đau Lò Cải Tạo!
Không phải anh ta xin lỗi lũ Ngụy, mà là cả dân Mít, vì đã gây ra cuộc chiến (1), mà còn vì đã đẩy đất nước vào con đường băng hoại, như ngày này.
GNV này đã tưởng tượng một ông Thánh Toán, làm được điều này, chẳng cần phải quỳ kiếc làm gì, mà chỉ cần phán, phải thay đổi chế độ,  nhưng hỡi ơi, anh ta không hề biết lũ Ngụy, đất nước băng hoại là cái chi chi, anh ta chỉ mê Toán! (2)

(2)

Ông này có 1 cái blog, ông gọi nó là chùa, và khi đám VC, do cái vụ ông vội vàng không "ở" nhà cũ, mà "về" nhà mới, do nhà nước VC cấp cho ông, chọc quê ông, ông quê lại, đóng cửa chùa, ‘để lo quét dọn’.
Thử hỏi trên đời này, có chùa nào đóng cửa lo quét dọn, cấm tín hữu tới.... tụng kinh niệm Phật?

“Chùa” của Gấu, bị thiên hạ chọc quê trên 10 năm nay, chưa 1 ngày đóng cửa!
Vậy mà cũng bầy đặt lo việc lớn!
SCN, phận đàn bà kia, mà cũng cố cầm cự được 9 năm, bằng thời gian Đệ Nhất Cộng Hoà, là đi theo ông Diệm!
Ông Diệm bị đệ tử làm thịt, khác chứ!
[Phách lối vừa thôi, cha nội!]

Phải có 1 ông Thánh Khùng, như Gorbachov, thì mới làm được điều này, cho Liên Xô!
Nhưng VC giả như có, thì sẽ bị làm thịt, vì tội diễn biến hòa bình, hay nhận đô của Mẽo, hay bị tụi đế quốc, tụi tư bản lừa....

(1)

Gấu này thực sự tin là VC, đúng hơn Bắc Kít, gây ra cuộc chiến, khi cố tình nhử Mẽo vô Miền Nam, bằng cú ngụy tạo, đầu độc tù Phú Lợi, và bằng cú đó, thành lập Mặt Trận Giải Phóng, làm như đây là chuyện nội bộ của Miền Nam, vì chỉ có một cách độc nhất, là biến Miền Nam vào thế đối đầu với Miền Bắc thì mới ‘thống nhất’ được.
Thành thử không phải tự nhiên mà mấy anh nhà văn Bắc Kít phải đổi níck, khi viết về Miền Nam. Tất cả đều nằm trong âm mưu của Bắc Bộ Phủ.
Gấu nhớ là cái tay trưởng phòng hình ảnh AP, Horst Faas, đã có lần suýt chết, chỉ vì cố chụp cho được 1 cái nón bộ đội Bác Hồ, trong đám mũ tai bèo !

Graham Greene nắm ngay được tia chớp mặc khải này, khi nghe 1 tên Xịa bật mí, cố tìm ra một khuôn mặt đại diện cho lực lượng thứ ba, tức 1 tay Mít thực sự quốc gia, để đương đầu với CS, và cùng lúc, xóa ảnh hưởng, thế lực của Pháp tại Việt Nam, và từ đó, ông đẻ ra tác phẩm Người Mỹ Trầm Lặng.
Mê Việt Nam, ông luôn ở về phía VC, nhưng vẫn cảnh cáo đám nhà văn, coi chừng, một khi cái nón tai bèo rớt xuống, là lập tức phải chạy về phía những kẻ bị tủi nhục, là lũ Nguỵ !

Một khi mà đám VC vẫn còn lải nhải về những chiến công, về những hy sinh, về những đỉnh cao, về những bước ngoặt vĩ đại, thì đừng hòng một cuộc tái  sinh nước Mít!

November 18, 2010

Nobel Ghosts

Posted by Amy Davidson 

There may not be a Nobel Peace Prize ceremony this year, if neither Liu Xiaobo, who is in prison; his wife, who is under some sort of house arrest; or another close relative can accept it. According to the A.P., 

If that happens, it will be the first time since 1936, when there was no one present to accept the medal and diploma for German journalist Carl von Ossietzky, who was seriously ill and not allowed to leave Nazi Germany. 

Carl von Ossietzky: He is always worth thinking about, for more than one reason. Ossietzky was a pacifist and the publisher of the magazine Weltbühne, and “seriously ill and not allowed to leave Nazi Germany” is an understatement. He was in a concentration camp, outside of Oldenburg, when German exiles began a campaign for him to be awarded the Nobel Prize, dying of tuberculosis that the camp did nothing to treat. Before being sent there, he had been tortured in Spandau prison. The Nazi regime put incredible pressure on the Norwegian Nobel Committee not to give him the prize, to the extent that, in 1935, no Peace Prize was given at all. (One of those advocating for Ossietzky in Norway was Herbert Frahm, a twenty-one-year-old who had fled Germany and was living there under the name Willy Brandt; thirty-five years later, as West Germany’s Chancellor, he would kneel in front of the Warsaw Ghetto memorial, and would win the Peace Prize himself, in 1971.) 

It took the Nobel committee a year to work up the courage to honor Ossietzky, and that only after two members withdrew, saying that they didn’t want to meddle with whatever was going on in Germany; the 1935 Peace Prize was announced the same day as the 1936 prize, on Novermber 24th of that year. (The 1936 honor went to Carlos Saavedra Lamas, who had negotiated a treaty to end a war between Paraguay and Bolivia.) The Times, in a dispatch with the title “GERMANY ENRAGED BY OSSIETZKY PRIZE,” called it “a slap in the face of fascism.” The paper mentioned that an unnamed German official had called the award “preposterous and fatal.” Ossietzky had been moved to a guarded hospital bed by then, thanks to the publicity. The German government told him that he had to turn down the award, “a demand that Ossietzky did not honor,” in the words of his official Nobel biography. The tuberculosis killed him a year and a half later; he was forty-eight years old. Hitler, meanwhile, ordered that no Germans were to accept any Nobels ever again. 

Ossietzky, who was born to a Catholic mother and a Lutheran father, was one of those arrested by the Nazis after the Reichstag fire. But his first term of imprisonment came under the Weimar government. Weltbühne had run a series of investigative pieces on the rightward swing in German political life, including exposes on extrajudicial killings carried out by paramilitaries who had ties to the Army. Then, in 1929, Ossietzky published an article on how the military was secretly violating its international treaty commitments under Versailles by preparing for an air war, using private contractors for cover. It identified a secret “Department M” at an airport at the edge of Berlin—what one might call a black site. It’s tempting to compare these revelations to the Pentagon Papers or WikiLeaks, as different as the times, countries, and dangers are; neither America nor China is Germany as it was then, but one can still learn from each. Also: Ossietzky was warning about a war to come, rather than the untruths of one well underway. (I want to hear what my colleague Richard Brody has to say about another piece in the same issue of Weltbühne: by Rudolf Arnheim, with the title “Lubitsch, Dupont, Czinner.”) 

The article was written by Walter Kreiser, an aeronautics engineer who described himself as the “only one among the pacifists who has a real sense about planes.” To protect him, the piece carried a fake name, Heinz Jäger; it didn’t work. Kreiser and Ossietzky were charged with betraying military secrets, and, after a drawn out trial—one that raised questions, still current, about what secrecy and loyalty mean, and the role of the press—they were convicted, and sentenced to a year and a half in prison. (Kreiser managed to flee the country.) Ossietzky said, 

Deprived of freedom for a year and a half? That’s not so bad, since freedom won’t be around in Germany much longer. Bit by bit, the line between the prisoners and the non-prisoners is fading away. 

Ossietzky had just been out of jail a couple of months—he got out early, in a general amnesty—when the Nazis came for him. The University of Oldenburg is now named after him.
*
 

October 8, 2010
What Do Chinese Leaders Really Think About the Nobel Prize?

Liu Xiaobo Wins the Nobel Peace Prize
Posted by Evan Osnos 

The Nobel Prize is an object of obsession in China, and a consistently maddening one. “How far are we from a Nobel Prize?” was the title of a science program on Chinese state television some years ago, and similar discussions pop up in the paper all the time. Driven by both insecurity and pride, the government and academia have pursued Nobel prizes for scientists and writers with such intensity that all the analysis and prognostication begin to look like elements of a state campaign—which, in fact, they are. “The task of securing a Nobel Literature Prize—viewed as a passport to world recognition as a modern civilization—generated conferences, a national literature prize, delegations to Sweden and countless articles,” Julia Lovell, the British sinologist, writes in “The Politics of Cultural Capital,” her 2006 book dissecting China’s quest for the Nobel Prize in Literature.
During the nineteen-eighties, Nobel prizes of any kind were elevated in the Chinese official mindset into emblems of prestige akin to hosting the Olympic Games, or qualifying for the World Cup, or getting into the World Trade Organization. The quest for prizes was so intense that Chinese commentators began to talk about the country’s “Nobel complex,” framing the hunt for prizes as a matter of national emotional health. “The Nobel Literature Prize had become a cause of a psychological disorder, a token whose value and authority as imagined in China was inflated out of all proportions to its real importance or exchange value in international letters,” Lovell writes.
But when China actually won the prize for literature, it was not at all what it had hoped: the prize went to Gao Xingjian, a Chinese-born exile writer, who was living in France. His writings were sharply critical of China, and the government in Beijing responded by denouncing the “political purposes” of the Nobel Prize and declaring that the prize had lost its legitimacy. (Gao was eventually listed as a “French” writer.)
The Chinese government faced a similar problem when the Dalai Lama won the Nobel Peace Prize, in 1989. Though the government classified him as a citizen, he had been living in exile since 1959, much that time in explicit opposition to the Beijing regime. When the Tibetan leader won the prize, China’s officialdom needed to explain to itself how this happened. A fascinating internal report from that period, produced by a state-backed research group, discounts the significance of the prize (after China had spent years trying to win it). The report, published in “Internal Analysis,” a publication of the Tibet Autonomous Region Academy of Social Sciences, helps us imagine the kind of internal conversations that are going in the halls of power after the imprisoned writer Liu Xiaobo won the Peace Prize today:
The Peace Prize has always been very controversial and has always been an instrument of political struggle and has very often been an object of severe criticism and rebuke. For example, in 1938 Neville Chamberlain received it *… The award has included people like Havel, Sakharov and Lech Walesa. So, very often this prestigious prize has gone to terrorists or politicians who serve the interests of capital. It’s like a prostitute claiming to be a virgin.
Knowing how much China cares about the prize adds another dimension of pique to its public response: a few hours after the Nobel Peace Prize went to Liu Xiaobo, China’s Foreign Minister responded, as expected: “Liu Xiaobo is a criminal who has been sentenced by Chinese judicial departments for violating Chinese law.” Giving him the prize “runs completely counter to the principle of the prize and is also a blasphemy to the peace prize,” according to a statement. CNN was blacked out when it tried to report Liu’s win. Some Chinese users on Twitter flooded the Web with congratulations, though Twitter is banned in China, so the messages were out of sight to most Chinese readers. For days, the Chinese Web site Sina had been running a special page dedicated to chronicling the news of the 2010 Nobel prizes. On Friday afternoon, after Liu received the Peace Prize, the Sina page was nowhere to be found. 

* False comfort, I’m afraid. It was Neville’s half-brother, Austen, who won it for statesmanship. Thanks to the reader who noticed.

It’s like a prostitute claiming to be a virgin: Như điếm, khăng khăng phán, em còn trinh!
Đểu thật!
Có thể, đó là lý do Lê Đức Thọ chê, chăng?
Nhận, hoá ra là điếm của tư bản, ư?

Cần phải thú thật một điều: tôi không quan tâm mấy đến các giải thưởng văn học, ngay cả giải Nobel. Bởi vậy, mấy tuần vừa rồi, mặc dù biết giải thưởng sắp được công bố, tôi cũng không có chút tò mò hay nôn nao nào cả. Cũng không có ý định viết. Nhưng sáng nay, vào mạng, đọc báo nào cũng nhắc đến Mario Vargas Llosa và cái giải thưởng Nobel văn chương mà ông vừa nhận được, tự nhiên thấy ngứa ngáy.
Thôi thì viết.
NHQ

Tôi dừng lại hơi lâu ở trường hợp Hiếu Chân, vì là một biệt lệ, có thể là duy nhất, nhưng có nguy cơ bị khuếch đại và xuyên tạc.
DT

Note: Mỗi ông hách một kiểu! NQT
*

Nobel Hoà Bình vs TQ

Giải Nobel quả là một ám ảnh nhức nhối đối với TQ. Và nó làm họ khùng. "Chúng ta còn bao xa so với nó? Liệu chỉ ‘xém 1 tí’, là tới, chăng?" (1) Đó là cái tít của 1 chương trình khoa học TQ, trên màn ảnh TV nhà nước mấy năm trước đây, và những thảo luận, chát chiếc thì nở rộ trong phạm vi cả nước. Bị thúc đẩy bởi cả hai, sự bất an và lòng kiêu ngạo, chính quyền và giới khoa bảng theo đuổi Nobel trong cả hai giới khoa học và nhà văn, căng đến nỗi chẳng khác chi một chiến dịch, và quả đúng như vậy!
“Nhiệm vụ cuỗm cho được 1 cái Nobel - được coi như là cái hộ chiếu để được sự nhìn nhận của thế giới đã làm nở rộ những cuộc diễn thuyết, tạo ra những giải thưởng văn chương nhà nước, những phái đoàn tới Thụy Điển, và hằng hà những bài viết”, Julia Lowell, một chuyên gia TQ người Anh viết, trong “The Politics of Cultural Capital”, cuốn sách của bà xb năm 2006, đã chỉ ra cho thấy cuộc truy tìm Nobel Văn Chương của TQ.
Vào thập niên 1980, TQ coi những cú như được hân hạnh tổ chức Olympic Games, World Cup, được vô Tổ Chức Thương Mại Quốc tế… là đưa thế giá TQ lên tới 9 tầng mây. Ám ảnh “Làm thế nào vớ cho được Nobel” biến thành‘mặc cảm Nobel’, một vấn nạn liên quan tới sức khoẻ tâm thần của cả nước.”Giải Nobel văn chương trở thành một nguyên nhân đưa đến ‘trục trặc tâm lý’, một bằng chứng, mà giá trị và quyền năng, như TQ tưởng tượng, thì vượt ra khỏi sự quan trọng đích thực của nó, hay giá trị trao đổi trong văn chương thế giới”, Lowell viết.
Nhưng, hỡi ơi, khi TQ, sau cùng, thực sự vớ được giải Nobel văn chương, thì nó lại chẳng giống như tất cả mọi người chờ đợi, ao ước, và hy vọng: giải thưởng về tay một nhà văn lưu vong gốc TQ, sống ở Pháp, là Cao Hành Kiện. Tác phẩm của ông, phạng nhà nước TQ ra trò, thế là nhà nước TQ bèn đi một đường tẩy chay, tố cáo mấy ông Nobel có hậu ý đen tối về chính trị, khi trao cho thằng cha chết tiệt đó, và giải thưởng thì mất mẹ nó mất tính hợp pháp rồi! (CHK sau được ghi là nhà văn “Tây”. Cũng giống ‘ca’ NBC, được ghi là nhà toán "Tây", đối với xứ Mít).
TQ đã từng gặp tình trạng tương tự, khi Đức Dalai Lama được Nobel Hòa Bình vào năm 1989. Mặc dù họ vẫn coi Ngài là một công dân, Đức Dalai Lama sống lưu vong từ năm 1959, trong tình trạng chống đối nhà nước TQ. Và khi nhà lãnh đạo Tây Tạng được Nobel Hòa Bình thì giới chức TQ thấy cần phải giải thích cho chính nó, tại làm sao chuyện này lại xẩy ra! Một báo cáo nội, thật lạ lùng thú vị, vào thời kỳ này, do tổ chức nghiên cứu được nhà nước bảo trợ thực hiện, cho thấy nhà nước TQ làm ra vẻ đếch cần, và rẻ rúng giải thưởng, [mặc dù TQ đã trải qua nhiều năm cố gắng làm sao giành cho được]. Báo cáo được in trong “Internal Analysis”, thuộc ‘the Tibet Autonomous Region Academy of Social Sciences’, giúp chúng ta tưởng tượng ra cuộc nói chuyện giữa đám chóp bu nhà nước, sau khi nhà văn hiện đang ngồi tù được Nobel Hòa Bình:
“Giải thưởng Nobel Hòa Bình luôn luôn gây tranh cãi, luôn luôn là một thứ khí cụ dùng vào việc đấu tranh chính trị, rất thường xuyên bị chỉ trích, và chê trách. Lê Đức Thọ chẳng đã từng ném nó vô sọt rác! Những người được nó thì như Havel, Sakharov, Lech Walesa. Thành thử, thường xuyên giải thưởng cao quí này về tay những kẻ khủng bố, hay những chính trị gia phục vụ quyền lợi của tư bản…. Giống như bướm mà lại cứ la làng, em còn trinh.”

[Ui chao, báo cáo nhà nước mà tới cỡ này, thì trách gì Thái Dúi và cái còm của hắn ta!]

Biết được cái sự khát khao giải thưởng của nhà nước TQ chúng ta mới thực sự hiểu được phản ứng của họ, khi, lần này, người tù đang ở tù được giải thưởng. Chỉ vài giờ sau khi Nobel Hòa Bình được trao cho Lưu Hiển Ba, Bộ Trưởng Ngoại Giao TQ ra đòn:
“LHB là một tên tội phạm, đã bị bỏ tù vì vi phạm luật pháp TQ”. “Cho hắn ta giải thưởng là hoàn toàn đi ngược lại nguyên lý của giải thưởng và còn là phỉ báng giải thưởng hòa bình”

(1)
Lại nói chuyện "xém một ". Câu chuyện tiếu lâm này, Gấu nghe hồi ở tù VC.
Một anh Liên Xô nói phét, nước tớ sáng chế hỏa tiễn bắn tới Mặt Trăng. Mấy đàn em Đông Âu thấy đàn anh nổ quá, lắc đầu; đàn anh sửa sai, chưa tới, nhưng xém một , thì tới.
Cứ đà đó, thi nhau nổ. Tới đàn em Việt Nam, nhỏ nhẻ thưa mấy anh, ở nước "chúng em", "gái" bi giờ (2), nhờ ơn Đảng, đẻ bằng lỗ đít!
Mấy anh kia trợn mắt, trợn mũi, anh VC nhẹ nhàng buông câu, thì cũng xém một !
(2) Thay vì nói, người đẹp, mấy anh này nói, gái đẹp.
NKTV


Jonathan Mirsky

On October 8, Liu Xiaobo became the first Chinese to receive the Nobel Peace Prize and one of only three winners ever to receive it while in prison. The Oslo committee had already received a warning from Beijing not to give Liu the prize because he was a “criminal,” serving eleven years for “subversion of state power.” After Oslo made its announcement, Beijing labeled the award an “obscenity.” By Beijing’s standards it certainly is. Charter 08, a document that Liu helped write—and that was published in English for the first time in the January 15, 2009, issue of The New York Review—was soon signed by ten thousand Chinese. It demanded that 

We should make freedom of speech, freedom of the press, and academic freedom universal, thereby guaranteeing that citizens can be informed and can exercise their right of political supervision. These freedoms should be upheld by a Press Law that abolishes political restrictions on the press. The provision in the current Criminal Law that refers to “the crime of incitement to subvert state power” must be abolished. We should end the practice of viewing words as crimes. 

The petition also said, “We must abolish the special privilege of one party to monopolize power and must guarantee principles of free and fair competition among political parties.”

Words can be fatal in China. Zhang Zhixin, a young Chinese woman, was executed in 1975 for “opposing the Great Helmsman Chairman Mao, opposing Mao Zedong thought, opposing the revolutionary proletarian line and piling offense upon offense.” To ensure that Ms. Zhang could not cry out at her execution, her vocal cords were cut.

In May 1989, in Tiananmen Square, I saw the then-thirty-three-year-old Mr. Liu, a university teacher, exhorting students to demand democracy above all, in addition to their calls for free speech and an end to corruption. On the night of June 4, Mr. Liu helped broker a deal with the army that permitted the last protesters in the square to escape the slaughter that had already taken hundreds of lives. He was immediately imprisoned for twenty months as a “black hand.” After his release Mr. Liu said, “I hope to be a sincere Chinese intellectual and writer. This can put me back into prison—which is what happens to people like me in China.” 

It is indeed his words that have put Mr. Liu back behind bars. Chinese state television went black before Oslo announced that Liu had won the prize. But enthusiastic crowds gathered outside Liu’s house in Beijing. If nothing else, the Prize ensures that, unlike Zhang Zhixin, Liu will not disappear in prison. Despite every effort to cow Oslo and silence Liu Xiaobo, Beijing has failed, and millions of Chinese will cheer. But within twenty-four hours of the award to Liu, twenty-four human rights activists were detained. Many others have been placed under house arrest, including Liu’s wife. She said that after she saw her husband and informed him that he had won the Prize, he wept and said, “This is for the Tiananmen martyrs.” 

October 11, 2010 9:30 a.m.

Liu Xiaobo and Charter 08

To the Nobel Peace Prize Committee
   September 22, 2010

What Beijing Fears Most
   January 27, 2010

The Trial of Liu Xiaobo
   December 21, 2009

Sharing a Responsibility for History

Liu Xiaobo In Prison

China’s Repression of Liu Xiaobo
   August 13, 2009

The Poet in an Unknown Prison
   May 28, 2009

Remarks by Václav Havel
   April 30, 2009

Charter 08
   January 15, 2009

BẮC KINH (AP) – Nhà tranh đấu Trung Quốc vừa đoạt giải Nobel Hòa Bình trong lúc bị cầm tù được gặp vợ mình hôm Chủ Nhật và nói trong nước mắt rằng ông dành tặng vinh dự này cho các nạn nhân của cuộc thảm sát của quân đội Trung Quốc tại Thiên An Môn năm 1989, theo lời bà vợ và một người bạn thân.
Người Việt online 

LHB dùng từ ‘martyr’, thánh tử nạn, kẻ tuẫn đạo, không phải ‘nạn nhân’! (1)

Dịch kiểu này thì ‘bỏ mẹ’ hết!
Bà vợ gặp chồng xong, về, là bị  tù, tại nhà. 

(1) The wife of jailed Nobel prize-winning dissident Liu Xiaobo has reportedly been allowed to meet her husband.
Liu Xia said her husband wept during their prison meeting, dedicating his Nobel Peace Prize to the "martyrs" of Tiananmen Square in 1989.

Source
*

Thơ Lưu Hiểu Ba  

08/10/2010

Trương Thái Du

Đặt câu hỏi nếu LHB không phải là người TQ thì ông ta có được trao giải Nobel ko? Chắc chắn là không. Cho nên giải Nobel là của người Nauy, dùng để phục vụ người Nauy mà thôi. Lê Đức Thọ cũng đã từ chối giải Nobel vì những kẻ mặc áo đuôi tôm không phân biệt được kẻ xâm lược và nạn nhân, kẻ sát nhân và những người bất khuất. Điều này dễ hiểu như chính ngôn ngữ phương Tây, đặc biệt trong từ colony. Đông là Đông mà Tây là Tây.
Thực ra trí thức TQ hiểu rất rõ điều này, trong khi đó Trung Nam Hải thì không. Trương Di Vũ, Phó giáo sư Khoa Trung văn đại học Bắc Kinh từng trả lời phỏng vấn ông Phùng Lâm ngày 06-10-1996 như sau: Cho dù người Thụy Điển không thích chúng ta, nhưng cũng sẽ chọn một đại biểu của chúng ta để chứng tỏ lòng yêu ghét và sức mạnh của họ.
Đây là nói về Nobel Văn học, một thứ không ít lần được dùng làm con bài chính trị. Chứ còn loại Nobel chính trị thuần túy như Hòa bình thì còn gì lăn tăn nữa. Tôi vẫn hay cười khùng khục mỗi khi đọc báo VN bình luận, tiên đoán khi nào người VN đoạt giải Nobel “chính trị” (tức là Văn học hoặc Hòa Bình).
Trung Nam Hải thật sự là rất “nai” và hung hăng khi phản đối trước, càng phản đối thì khả năng người Nauy trao giải cho họ Lưu càng cao.
Xin chép lại một bài thơ của Lưu Hiểu Ba từ blog Giao, cuối tuần rảnh dịch cho vui
.
*

Anh Thái Dúi này có thể coi như là 1 biểu tượng của cái gọi là chủ nghĩa quốc gia cực đoan, tức, chủ nghĩa phát xít.
Vargas Llosa có 1 bài viết thật tuyệt về hội chứng này, ‘cuối tuần rảnh, dịch cho vui.’

Nên nhớ, Na Zít thì cũng chỉ là 1 thứ chủ nghĩa quốc gia của Đức: Đức Quốc Xã
Cái Ác Bắc Kít, thì cũng thế!
Đối với anh Thái Dúi này, làm đếch gì có xứ Mít, mà chỉ có xứ Bắc Kít và những 'nô lệ' của nó, là Trung Kít, Nam Kít.

Bạn có thể nói, Thái Dúi có thể là 1 tay Trung Kít, hay Nam Kít ?
Sai.
Bất cứ một tên Mít nào, suy nghĩ theo kiểu trên, thì đều là Na Zít.
Hay Bắc Kít, thì cũng rứa!

Nobel văn học quả có tính chính trị, nhưng, không nên hiểu chính trị theo cái kiểu chủ nghĩa quốc gia cực đoan như tên TD này được.


Nobel Peace

Tại sao lại cho O và L?

Chỉ Cần Một Lá Thư  

                               Cho Hà

Chỉ cần một lá thư
cho anh vượt thoát để trực diện
em, để nói

khi gió lướt qua
đêm
bằng máu của mình
viết câu thơ bí mật
nhắc nhở anh rằng
mỗi ngôn từ là lời cuối

băng đá trong người em
chảy thành huyền thoại lửa
trong mắt của đao phủ
sự cuồng nộ biến thành đá

hai chấn song sắt
bất ngờ nhập một 
thiêu thân bay vào đèn–
ánh sáng, biểu hiện vĩnh hằng
viền quanh bóng em.

8. 1. 2000
 

One Letter Is Enough

                                    for Xia

one letter is enough
for me to transcend and face
you to speak

as the wind blows past
the night
uses its own blood
to write a secret verse
that reminds me each
word is the last word

the ice in your body
melts into a myth of fire
in the eyes of the executioner
fury turns to stone

two sets of iron rails
unexpectedly overlap
moths flap toward lamp
light, an eternal sign
that traces your shadow

Thơ Tình của Lưu Hiểu Ba
Chuyển ngữ: Đinh Từ Bích Thúy

Nguồn: Da Màu 

namdao viết:

Những bài thơ này tuyệt vời, ĐTBT dịch hay hơn bản tiếng Anh, xin chúc mừng. Giá mà chúng ta có được những bản bằng tiếng Hán-Việt thì lại càng có thể ” cảm” LH Ba như một nhà thơ, và không (chỉ) là một người tranh đấu. Cuối cùng, thật may, tranh đấu không đẩy người xa nghệ thuật, như trường hợp LH Ba đây, là chứng cứ.

.- 13.12.2010 vào lúc 6:30 am
 

Bình Loạn của GNV:

Vì có không có nguyên tác, và giả như có, thì cũng thua, vì Gấu này mít đặc tiếng Tầu, nhưng nếu chỉ so hai bản dịch Mít/Anh, mà dám phán là DTBT dịch hay hơn bản tiếng Anh, thì có lẽ hơi bị nhảm, và có thể, là do nịnh đầm mà ra.

Chứng cớ:
Cái tít tiếng Anh, “Một lá thư là đủ”, với cái tít tiếng Việt, “Chỉ cần 1 lá thư”, có sự “lệch pha” [từ này Gấu mượn của Thầy Cuốc, ông coi đây là tiếng lóng, và dùng thật dắc địa để chỉ thứ tình yêu cùng phiá, nam yêu nam, nữ yêu nữ].

Cần và đủ, là hai  tiến trình trong toán học. Cần, chứng minh phần thuận; đủ, chứng minh phần đảo, một định lý toán học.
Điều kiện cần và đủ, nécessaire et suffisante, là thế.

Thử dịch ngược lại, là thấy khác ngay. Một lá thư là cần. A letter is necessary!

Ông này ở tù VC Tẫu, chẳng cần cái chó gì cả, vì chúng có cho cái chó gì đâu, mà đòi hỏi, mà cần. Nhưng chỉ một lá thư của em lọt vô đây thôi, là đủ để anh bay bổng lên mây, đi một đường câu đẩu vân, về gặp em....

to transcend, ở đây mà dịch là "vượt thoát", là… sai. Vì ông này ở tù, nếu dùng "vượt thoát", tất nhiên độc giả sẽ nghĩ, là ông ta.. trốn tù, "vượt thoát" sẽ được hiểu ngược qua tiếng Anh, là, escape!

    transcend, là.. siêu thoát. Tức là để hồn bay bổng, thoát ra ngoài thân xác, vì thế mới có thể đối mặt, to face, em, và nói với em [to speak]….

Dịch nhảm như thế, mà cũng có tay hít hà!

GNV « bầy đặt », dụt dè, trình bản dịch của hắn ta:

Một lá thư là đủ để anh siêu thoát,
để nhìn mặt em, để nói chuyện
Như gió thổi qua đêm
dùng máu của nó
viết câu thơ bí mật,
nhắc nhở anh, mỗi lời là lời cuối.

Băng giá trong cơ thể em
tan vào huyền thoại lửa.
Trong mắt tên đao phủ
giận dữ biến thành đá.

Hai chấn song sắt
Không chờ không đợi
Bỗng nhập vào nhau
Thiêu thân bay vào đèn
Ánh sáng, một dấu hiệu vĩnh hằng
Vẽ dáng em.

Cái cảnh trên đây GNV đã trải qua, những ngày Mậu Thân, và cũng “vẽ dáng cô bạn”, y chang Lưu Hiển Ba, chán thế, thấy người sang, bắt quàng làm họ:

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Cõi khác

Vì không có nguyên tác, nên chúng ta không biết, LHB dùng từ gì, khi chuyển qua tiếng Anh, thành ‘transcend’, siêu thoát.
Và, vì trong bài thơ nhắc tới lời cuối, đao phủ, thành thử có thể coi đây là 1 thứ di chúc của ông cho bà vợ; ‘siêu thoát’, như thế là còn muốn nhắn nhủ, cho dù chúng có làm thịt anh, thì linh hồn anh cũng sẽ được siêu thoát, và sẽ bay bổng đến bên em, như con thiêu thần lao vào lửa, nhập vào thứ ánh sáng vĩnh hằng.
Làm sao ‘vượt thoát’ được?
Một bài thơ tuyệt vời, mọi hình ảnh, mọi ý nghĩ, mọi liên tưởng là đều "vẽ dáng em".

A Letter Would Be Enough

 A letter would be enough
For me to surmount all
To speak with you

When the wind blew
The night with its own blood
Wrote down a secret word
To let me remember
That every word is the last one 

The ice in your body
Melted into a myth of fire
To the eyes of executioners
The anger became a stone 

Two rails suddenly overlapped
The moths flying toward the light
In the eternal gesture
Followed your shadow 

2000.1.8

Note: Đây là bản dịch tiếng Anh, mới, do 1 độc giả DM cung cấp, kèm nguyên bản



Diễn Văn Nobel Hòa Bình

Liu has told his wife that he would like this year's Peace Prize to be dedicated to "the lost souls from the 4th of June." It is a pleasure for us to fulfill his wish.

Ông Lưu nói với vợ rằng ông muốn dành Giải Hòa bình năm nay cho "những linh hồn đã khuất từ ngày 4/6". Chúng tôi rất vui làm theo tâm nguyện của ông.
BBC

Bình Loạn của GNV:

Lưu Hiển Ba là nhà văn nhà thơ.
Chữ của ông, đâu có thường!
Đúng nhất, phải dịch là: “những linh hồn đã uổng tử.”
Còn nếu sợ TQ, thì cứ dịch “mot-à-mot”: “những linh hồn đã mất”. 

Câu trên nên dịch thật lịch sự là:

Ông Lưu nói với vợ, là ông muốn giải Nobel Hòa Bình năm nay được dâng tặng cho "những linh hồn uổng tử từ 4 Tháng Sáu" . Thật là một niềm vui cho chúng tôi được làm tròn lời mong ước của ông.

Từ "fufill" cũng thật tuyệt, được dùng để đối lại với từ "from" của Lưu Hiển Ba! 

Bài diễn văn quá tuyệt. Nhất là những đoạn nâng bi TQ!
Đúng là 1 tay ngoại giao bậc Thầy, vì, trong khi nâng bi TQ, thì là để vinh danh giải thưởng Nobel Hòa Bình!
TV sẽ chuyển dịch toàn bài viết, sau.
Bài trên BBC chỉ là trích đoạn. 

"Lost Souls", là còn muốn nhắc tới Dead Souls, “Những linh hồn chết” của Gogol!
Ý nghĩa của từ "Dead Souls" là 1 lời tiên tri về xã hội Nga, về sự tái sinh, nhập thế của những nhân vật trong tác phẩm, trong 1 nước Nga mới sau khi chế độ Nga Hoàng chấm dứt. (1)
Ý
nghĩa của "Lost Souls", thì, như chính LHB chỉ ra, trong tuyên cáo mới nhất của ông, Tôi không có kẻ thù:
Twenty years have passed, but the ghosts of June Fourth have not yet been laid to rest. Hai mươi năm đã qua nhưng những bóng ma của 4 Tháng Sáu vẫn chưa được yên nghỉ.
Nghĩa là vẫn bị mất, lost. Không thể dùng chữ “khuất” được, là vậy. Còn dùng, thì phải thêm từ “oan”, nghĩa là “oan khuất”.
Tiếng Việt có đủ từ để dùng, cho mỗi trường hợp, không đúng như anh Tẩy mũi tẹt phán ẩu, cái gì gì cụ thể, cái gì gì trừu tượng! Lost Souls là những linh hồn bị mất, không sao kiếm lại được, và trở thành những bóng ma lang thang, không làm sao an nghỉ, siêu thoát.

Theo nghĩa đó, cái tay viết diễn văn Nobel Hòa Bình mới phán, chúng tớ rất mừng vì được chu toàn lời nguyện của ông Lưu.
It is a pleasure for us to fulfill his wish.
Chu toàn lời nguyện”, là mong ước của Uỷ ban Nobel: “Cầu cho những hồn ma được yên nghỉ”.

Cái từ ‘pleasure’ ở đây, cũng có 1 ý nghĩa đặc biệt, nếu chúng ta để ý đến thân phận của tay viết và đọc diễn văn Nobel Hòa Bình: Một gã mũi lõ. Thảm kịch Thiên An Môn, là của đám mũi tẹt, da vàng gây cho lũ chúng nó, mũi tẹt, da vàng, Á Châu. Thành thử cái tên Âu Châu mà tổ tiên của nó đã gây ra Lò Thiêu, mới nhỏ nhẻ nói, chúng tớ thật vui, là vậy.

Đừng nghĩ là GNV này cường điệu. Cái tay viết về phim Shoah, đang được revised, và cho trình chiếu lại, trên nước Mẽo, cũng nói y như GNV, khi nhắc tới 1 tên Mẽo đã tham gia vào cái việc tưởng niệm Lò Thiêu, một Lò Thiêu mà chúng tớ đếch nhìn thấy!

Timothy Snyder .

Ian Dunin-Markiewicz  12/17/2010 02:11 PM
... the finger should be plainly pointing at you and me - this is the true nature of unprecedented evil.

Cái tay này, “còm” câu này, thật bảnh: ngón tay phải trỏ thẳng vào mặt ta và mi, lõ hay không lõ, tẹt hay không tẹt - đó là bản chất đích thực của cái ác chưa từng có tiền lệ!
*

Nhưng, liệu một anh ‘không phải mũi tẹt, không phải da vàng’, đau được nỗi đau ‘vàng làm thịt vàng’?
GNV này tin là, chẳng thể nào đau được!
Và chính cái sự thiếu vắng nỗi đau này, làm thành điều mà bài thơ sau đây muốn nói!

Hà, hà!
* 

TADEUSZ ROZEWICZ
1921- 

This poem by Tadeusz Rozewicz is about absence, but just as in Samuel Beckett, absence expresses something that is not attainable, yet nevertheless exists. And so love, here, is defined only negatively. 

A SKETCH FOR A MODERN LOVE POEM 

And yet whiteness
can be best described by greyness
a bird by a stone
sunflowers
in december

love poems of old
used to be descriptions of flesh
they described this and that for instance eyelashes 

and yet redness
should be described
by greyness the sun by rain
the poppies in november
the lips at night 

the most palpable
description of bread
is that of hunger
there is in it
a humid porous core
a warm inside
sunflowers at night
the breasts the belly the thighs of Cybele. 

a transparent
source-like description
of water is that of thirst
of ash
of desert
it provokes a mirage
clouds and trees enter
a mirror of water
lack hunger
absence
of flesh
is a description of love
in a modern love poem 

Translated from the Polish by Czeslaw Milosz

the most palpable description of bread is that of hunger: Miêu tả bánh mì bằng cái đói, là tuyệt nhất.
*
In the course of my life, for more than half a century, June 1989 was the major turning point:
Trong cuộc đời hơn nửa thế kỷ của tôi, tháng Sáu năm 1989 là khúc quanh quan trọng.
Đinh Từ Thức: Da Màu

Câu dịch tiếng Việt hơi bị "lệch pha", thuổng chữ của Thầy Cuốc, so với câu tiếng Anh, do câu tiếng Việt 'quả quyết', cuộc đời của LHB chỉ gói trọn vào hơn 1 nửa thế kỷ!

[Thảo nào, ông ta phán, đây là phán quyết chót của tôi, tôi đếch có kẻ thù!]

Câu tiếng Anh muốn nói, trong cái dòng chảy tạo nên cuộc đời của tôi, cho đến nay là đã trải qua hơn nửa thế kỷ, cái ngày Bốn Tháng Sáu 1989 là 1 bước ngoặt quan trọng.
*

Tay LHB này bảnh hơn GNV nhiều quá, tất nhiên, khi phán, tớ đếch có kẻ thù, trong khi GNV thì nhìn đâu cũng thế kẻ thù, và nếu nhìn kỹ, thì kẻ thù nào sao cũng y chang GNV!

Phát giác khủng khiếp trên đây xẩy ra, thời gian GNV thường nằm ngủ dưới chân Ngài Quan Công, nơi chùa Long Vân, Parksé, trong khi chờ vượt sông qua Thái Lan, vô trại tị nạn, và một lần, khi thức giấc, theo lệ thường thì bèn mò xuống mé sông Mekong tắm 1 phát, bỗng thấy 1 cái xác trôi lều bều, nhìn kỹ, hóa là ra xác của GNV!
Tới lúc đó, thì ngộ ra cái câu cách ngôn Tầu mà Brodsky trích dẫn, làm đề từ cho 1 bài của ông, cứ ngồi hoài bên mé sông, là sẽ có ngày nhìn thấy xác kẻ thù trôi qua!

Từ đó, mở ra mục Dọn!

*
Nobel Peace

In the course of my life, for more than half a century, June 1989 was the major turning point:
Trong cuộc đời hơn nửa thế kỷ của tôi, tháng Sáu năm 1989 là khúc quanh quan trọng.
Đinh Từ Thức: Da Màu

Câu dịch tiếng Việt hơi bị "lệch pha", thuổng chữ của Thầy Cuốc, so với câu tiếng Anh, do câu tiếng Việt 'quả quyết', cuộc đời của LHB chỉ gói trọn vào hơn 1 nửa thế kỷ!
[Thảo nào, ông ta phán, đây là phán quyết chót của tôi, tôi đếch có kẻ thù!]
Câu tiếng Anh muốn nói, trong cái dòng chảy tạo nên cuộc đời của tôi, cho đến nay là đã trải qua hơn nửa thế kỷ, cái ngày Bốn Tháng Sáu 1989 là 1 bước ngoặt quan trọng.

Câu văn dịch của DTT, do dịch vội, nên mắc lỗi, và ông nghĩ, cũng không quan trọng, có thể, nhưng, giả như không có câu tiếng Anh đính kèm, lại thêm cái cụm từ, ‘phán quyết chót’, thì bài viết của LHB đúng là 1 thứ di chúc gửi cho hậu thế!

Quả thế thực! Đọc thơ văn của ông này, bài nào cũng có chất di chúc, ai điếu chính mình, thế mới lạ!

Tay LHB này bảnh hơn GNV nhiều quá, tất nhiên, khi phán, tớ đếch có kẻ thù, trong khi GNV thì nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, nhất là trong số bạn quí, và nếu nhìn kỹ, thì kẻ thù nào, sao cũng y chang GNV!

Phát giác khủng khiếp trên đây xẩy ra, thời gian GNV thường nằm ngủ dưới chân Ngài Quan Công, nơi chùa Long Vân, Parksé, trong khi chờ vượt sông qua Thái Lan, vô trại tị nạn, và một lần, khi thức giấc, theo lệ thường thì bèn mò xuống mé sông Mekong tắm 1 phát, bỗng thấy 1 cái xác trôi lều bều, nhìn kỹ, hóa là ra xác của GNV!
Tới lúc đó, thì ngộ ra cái câu cách ngôn Tầu mà Brodsky trích dẫn, làm đề từ cho 1 bài của ông, cứ ngồi hoài bên mé sông, là sẽ có ngày nhìn thấy xác kẻ thù trôi qua!
Từ đó, mở ra mục Dọn!

Note: Đoạn trên, viết ngược ngạo, không theo trình tự thời gian.

GNV ra hải ngoại mới làm quen Brodsky, và, khi đọc bài viết của ông, "Collector's Item", với câu cách ngôn Tẩu, đề từ, [If you sit long on the bank of the river, you may see the body of your enemy floating by: Ngồi lâu bên bờ sông, có thể thấy xác kẻ thù trôi ngang qua....], GNV thắc mắc hoài, chẳng lẽ đời người chán đến thế, con người sinh ra là để có kẻ thù, và khi có kẻ thù, mà, vì 1 lý do nào đó, không thể trả thù ngay, bèn ngồi bên bờ sông chờ cái xác của người đó ư, sao thảm thế!

Thế rồi, bữa đó, nằm mơ, sống lại những buổi trưa, nằm dưới chân ông Quan Công, trong khi chờ đổi đời, qua kiếp khác, nghĩa là thoát kiếp tù đầy VC, qua được thế giới tự do…. Và như 1 kẻ mộng du, bèn thức giấc, bèn xuống mé sông tắm, và bèn thấy xác của Gấu trôi lều bều, và bèn tỉnh hẳn giấc hôn thuỵ, và nhớ ra cái xen Đường Tam Tạng vượt dòng sông sau cùng tới Đất Phật, bị té xuống sông, rồi bò lên được cái bè, và nhìn thấy 1 cái xác đang từ từ trôi ra xa, hỏi Phật, Phật phán, xác của mi, chứ của ai vào đây nữa, không lẽ của... Ta?


Trong trường hợp này, ở đây, một lần nữa, tôi chỉ muốn cám ơn dịch giả Đinh Từ Thức đã cho độc giả một bản dịch sáng và đẹp, nói chung, của một văn bản cũng thật đẹp và sáng. Ngoài ra, cũng xin cám ơn độc giả Lương Thùy Châu đã “raise awareness” (nâng cao ý thức) của người đọc về một vấn đề tế nhị của sự dịch văn và thưởng văn.
Bvp

Vụ này tiếu lâm quá. TV là nơi đầu tiên ‘raise awareness’, LTC, [cũng 1 độc giả TV, vì đã đôi lần nói chuyện ‘phải quấy’ với GNV rồi], có thể đã đọc TV, và do biết hai bên DM và TV không chơi với nhau, nên gửi ‘còm’ cho DM, như để nhắn nhủ, này, coi lại nhé, theo cái kiểu ‘forward’, (1), tuy nhiên, chắc chắn ban biên tập DM biết, nhưng lại vờ, như đã từng vờ khi sửa ‘cần’ thành ‘đủ’, trong bài dịch thơ của LHB.
Thế là bạn BVP ‘của’ GNV "bé cái lầm", cám ơn lia lịa LTC!
Còn câu dịch của DTT, thì sai, do đọc đến đâu dịch tới đó. Chẳng có nếu, nếu gì hết. Dịch vội, sai là thường, đâu có gì ghê gớm. Chỉ sợ DTT đọc 'còm' của BVP lại phải ‘đính chính’, không, tôi dịch sai, lúc đó mới khổ dữ, tiếu lâm dữ!

Note: “raise awareness” dịch "nâng cao ý thức", sợ không "sáng và đẹp", dịch, "đánh động sự quan tâm", chuẩn hơn chăng?
Câu văn của BVP, trên, có cụm từ 'nói chung, của' quái dị quá!
“Nói chung”, tiếng Việt cũng khó viết lắm đấy! Ấy là nói về “của sáng và đẹp”!
Ẩn dụ “bé cái lầm” mà chẳng hay sao. Đọc vội là hay bị líu lưỡi lắm đấy! GNV đã từng bị rồi!

Hà, hà!

(1)
NQT tôi viết, 'có thể', nhưng, biết đâu đấy, LTC cũng, ‘cùng 1 lúc’, nhìn ra sự sai lầm, và bèn viết ‘còm’ cho DM!
Chuyện này cũng đã từng xẩy ra, như trường hợp, cho tới nay, chưa ai biết được, Newton hay Leibniz, ai là người khám phá ra vi tích phân, đệ tử Newton nói, thầy tớ, đệ tử Leibniz nói, không, thầy tớ!

Nobel Peace

At the Nobel Ceremony: Liu Xiaobo’s Empty Chair

After Jagland’s speech the Norwegian actress Liv Ullman read the full text of the statement that Liu Xiaobo had prepared for his trial in Beijing in December 2009. The statement is called “I Have No Enemies,” and it was significant that Liv Ullman read it in full because, at Liu’s 2009 trial, his own reading had been cut off after fourteen minutes. The presiding judge that day had interrupted him, declaring that the defendant would not be allowed to use more time than the prosecutor, who had summed up Liu’s crimes in only fourteen minutes. Ullman’s reading took about 25 minutes and was beautiful. She held the audience in immaculate silence when she read a passage in which Liu Xiaobo pays tribute to his wife Liu Xia:

I am serving my sentence in a tangible prison, while you wait in the intangible prison of the heart…. but my love is solid and sharp, capable of piercing through any obstacle. Even if I were crushed into powder, I would still use my ashes to embrace you.

The reading was followed by songs from a Norwegian children’s choir. Liu Xiaobo’s wife, Liu Xia, was able to see Liu Xiaobo in prison on October 10, before she was placed under house arrest, and he told her his wish that children participate in the ceremony.

The climactic moment of the ceremony came when Jagland, unable to hand the Nobel diploma and medal to Liu Xiaobo, placed both upon the empty chair where Liu was supposed to have been sitting.

Sau bài diễn văn của Jagland, Liv Ullman, nữ nghệ sĩ Na Uy đọc trọn "Lời cuối cho em", mà LHB sửa soạn cho vụ ông ra tòa tại Bắc Kinh vào tháng Chạp 2009.
Em Liv vận nội lực, đi 1 đường, trọn luôn "Lời Cuối", ấy là vì, tại tòa án vào năm 2009, khi LHB đích thân đọc nó, bị ông tòa ra lệnh “bịt miệng nó lại”, sau 14 phút. Ông VC/TQ quan tòa chủ tọa phán, mi không được phép nói dài hơn vị công tố, ông này nói chỉ có 14 phút.
Em Liv này đọc "Lời Cuối" hết 25 phút, và thật là tuyệt vời.
Em làm hội truờng nín thở vì xúc động, khi đọc những lời dặn dò của LHB, tới bà vợ, Liu Xia: 

Anh phục vụ án tòa của anh trong 1 nhà tù hữu hình, trong khi em đợi anh trong nhà tù vô hình của trái tim… nhưng tình yêu của anh dành cho em thì vững vàng, sắc bén, dư sức chọc thủng, xuyên qua bất cứ 1 trở ngại. Ngay cả khi anh bị nghiền thành bột, thành tro, thành than, thì anh cũng dùng mớ tro than đó để mà ôm em…

Như vậy, cái sự vỗ tay kéo dài, khi Jagland đọc bài diễn văn, mà theo như ông giải thích, [sự kiện vỗ tay kéo dài như vậy, không chỉ biểu tỏ sự hỗ trợ mãnh liệt dành cho Liu Xiaobo, mà còn như một tán đồng, trước quyết định gây tranh cãi của Uỷ ban], thì vẫn còn thiếu 1 lý do, mà, 1 tay ngoại giao bậc Thầy như ông, cố tình vờ đi: cái sự vỗ tay kéo dài là để nhắc tới cái cú, "bịt miệng nó lại, không cho nó nói quá 14 phút" tại tòa án.

Bài nói, “Tớ đếch có kẻ thù”, và cái tiểu tít, “Lời Cuối”, bây giờ chúng ta mới hiểu hết ý nghĩa của nó.
*

Since he was posted as the political officer at the U.S. Embassy in Hanoi, Vietnam, in September 2007, Christian Marchant has advocated “tirelessly” and “persuasively” on behalf of political dissidents and for property rights and freedom of religion and against torture in the Communist country with which the United States fought a nearly decade-long war.
Source

Từ khi nhậm chức tham vụ chính trị tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội, Việt Nam, vào tháng Chín năm 2007, ông Christian Marchant đã bênh vực không mệt mỏi và thuyết phục trong việc thay mặt những người chống đối về chính trị và về tự do tư hữu cùng tự do tôn giáo và chống lại việc tra tấn trong một nước cộng sản mà Hoa Kỳ đã có chiến tranh với họ trong một cuộc chiến lâu hàng chục năm.

DTT

Tay này, ký giả chuyên nghiệp, dịch đúng theo kiểu chuyên nghiệp, nghĩa là thật nhanh, thật gọn, thành thử câu tiếng Việt khó hiểu.

Ngay trong câu tiếng Anh, người viết cũng biết, có hai cái từ sẽ gây khó cho người đọc, và phải để vô ngoặc, để độc giả để ý đến chúng 1 tị, ông dịch giả quên không cho vô dấu ngoặc, Gấu đọc không ra nghĩa, phải cầu viện câu tiếng Anh!

Nhiều khi, khi dịch, phải thêm vô 1 tí, như ‘mồi dẫn’, thì mới rõ nghĩa! 

Gấu thử dịch lại:

Kể từ khi nhậm chức tùy viên chính trị Tòa Đại Sứ Mẽo tại Hà Nội, vào Tháng Chín 2007, CM đã bênh vực ‘không mệt mỏi’ và ‘theo tính cách thuyết phục hơn là cứng rắn, làm mặt ngầu’, nhân danh những nhà ly khai chính trị, vì quyền tư hữu, vì tự do tôn giáo, chống lại sự tra tấn trong 1 xứ sở CS mà với nó Mẽo đã từng có 1 cuộc chiến kéo dài gần 1 thập kỷ.

Hà, hà!

Dịch ‘xém 1 tí’ thì đúng [nếu thêm tí phong vị Vẹt, hay, nếu dịch lại như sau đây…], vậy mà khi có người góp ý thì lại lôi văn bản tiếng Tầu ra, hay lôi cả nghề dậy học, chuyên về ngôn ngữ ra để khoe, vậy mà cũng…

Chán thật!
*

Steiner coi, dịch thuật là phận người. Nhưng ông cũng thường nhắc câu của Goethe, văn hóa dành cho thiểu số. Áp dụng vào cái phận người là dịch thuật, thì suy ra rằng, dịch thuật có thể cũng dành cho 1 thiểu số !
Nghĩa là, sức tới đâu thì dịch tới đó, đừng làm quá sức của mình !
Dịch tưới hột sen, thì cũng vẫn được đi, thiểu số gì thứ văn hóa dịch đó, ‘you inside me’, cũng đâu có sao, vì, như ông anh của GNV phán, sai tới đâu sửa tới đó.
Ui chao, cái đó mới khó, vì có thằng cha nào đủ can đảm để mà thú nhận, mình dịch sai, và xin lỗi độc giả, và cám ơn kẻ đã chỉ ra chỗ dịch sai đâu, ngoài... GNV ra !

Trên TV, Gấu dịch ào ào, là vì không sợ sai, và vì, yên trí lớn, sai thể nào cũng có 1 đấng độc giả mail cho biết, sai đấy, sửa đi, và bèn sửa liền, bèn cám ơn liền.
Ngược lại, GNV mỗi lần khui ra 1 tí dịch sai, là bị thiên hạ chửi, hoặc vờ !
Vờ là vờ cám ơn GNV, nhưng kín đáo sửa cái từ dịch sai!
Chán thế !

Về dịch thuật, có câu, dịch là phản. Trong cái chữ phản này, hàm ý phần đảo của 1 định lý. Chứng minh phần thuận, thí dụ, ‘những góc vuông thì đều bằng nhau’, OK, thì  còn phải chứng minh phần đảo nữa, mới coi như xong, mà phần đảo ở đây, không xong: ‘những góc bằng nhau thì là.. góc vuông’ !

Thành thử, khi dịch 1 từ, 1 câu qua tiếng Vịt, thì cũng thử dịch ngược lại câu, từ vừa dịch, qua trở lại tiếng của người, nếu thấy OK, thì hãy rung đùi tự hào.

Có những đấng, từ, chữ người ta dịch rồi, bây giờ theo đóm ăn tàn, cũng cố mà dịch lại, dịch nữa, thì cũng OK thôi, vì mỗi thời có bản dịch của nó, có phận người của nó, tuy nhiên, dịch nhảm quá, vì muốn chơi trội, hóa ra chẳng ra làm sao cả.
Thí dụ, the prophet, thường được dịch là nhà tiên tri, bây giờ ông dịch giả dịch là ‘ngôn sứ’, cũng vẫn được, nhưng dịch lại qua tiếng Anh, thì cái từ ‘ngôn sứ’ sẽ bị dịch ra 1 từ tiếng Anh rất gần với nó, là… thiên sứ, the messenger !

Ui chao lại nhớ Chợ Cá !
Nhớ cái thời cắp rổ theo... Thiên Sứ !

Ui chao, chẳng biết Thiên Sứ/Ngôn Sứ/Nhà Tiên Tri/Chủ Sạp Cá... bây giờ ra sao?

Năm Mới, gửi lời chúc mạnh khoẻ, bình an.
NQT

Note : Cái từ ‘ngôn sứ’ theo GNV, tiếng Việt, rất dễ bị hiểu sái đi, thành ‘ngôn sú’.
Có thể vì thế, mà ít người dám đụng tới, chăng
?

Note: GNV đọc cái tin Mẽo nhân quyền được mề đay của nhà nước Mẽo, có nhận xét như sau: Người viết tin,1 thứ ký giả Mẽo, loại làng nhàng, của 1 tờ báo địa phương, tức cũng làng nhàng, ông Mít dịch sang tiếng Mít, cũng dùng thứ tiếng Mít làng nhàng [thí dụ, deepen, làm sâu đậm thêm, ông dịch là, ‘can dự sâu đậm’, tức là ‘xâm phạm sâu đậm vào nội bộ xứ VC’: State Department news release said Marchant is being “honored for outstanding work to deepen cooperation to prevent torture and address land rights issues, strengthen the bilateral Human Rights Dialogue, design an Internet Freedom road map and defend the rights of Vietnam’s dissidents in the midst of an extended crackdown on Freedom of Expression.”: Bản tin của bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết: Ông Marchant đã được “vinh danh về công việc làm nổi bật để can dự sâu đậm vào công cuộc hợp tác chống lại tra tấn và đáp ứng các vấn đề về đất đai, thêm sức cho việc Đối thoại Song phương về Nhân quyền, phác họa một lộ trình về Tự do Internet, và bảo vệ quyền của những người Việt chống đối giữa cuộc đàn áp kéo dài trên Tự do Phát biểu”.

Đúng là thứ tin nào, thì có người dịch đó!

Nói ra thì bảo thằng Gấu phách lối, nhưng đọc bản tiếng Anh còn hiểu được, vì còn câu cú, dù chẳng văn hoa, nhưng đọc câu tiếng Việt thì quả là 1 khủng khiếp, 1 sự ‘tra tấn’, vì không làm sao mà phân tích câu, phân tích tự loại được!

Ui chao, dịch mới dọt!