*













*

Insomnia’s Philosopher

Triết gia của sự mất ngủ

November 11, 2010
Charles Simic

Bài này tuyệt.
Simic là ‘thi sĩ nhà nước’ của Mẽo.
Viết về sư phụ của Linda Lê!
*

“I don’t know of anyone with a happier childhood than mine.”
Tớ không biết có tên con nít nào có 1 tuổi thơ hạnh phúc hơn thằng Cu Gấu ở xứ Bắc Kít!

Hà, hà!


Who reads E.M. Cioran nowadays? Someone must, since most of his books have been translated and are in print. At universities where graduate students and professors are familiar with every recent French philosopher and literary theorist, he’s practically unknown, though he was a much finer thinker and wrote far better prose than a whole lot of them. Much of the neglect of Cioran is unquestionably due to his uncompromisingly dark vision of the human condition; his denunciations of both Christianity and philosophy read at times like the ravings of a madman. To make it even more confusing, he had two lives and two identities: the Romanian Cioran of the 1930s who wrote in Romanian and the later, better-known French Cioran who wrote in French. Since his death in 1995, the sensational revelations about his youthful sympathies for Hitler and his involvement with the Iron Guard, the Romanian pro-fascist, nationalist, and anti-Semitic movement in the 1930s, have also contributed to his marginalization. And yet following the publication in 1949 of the first book he wrote in French, he was hailed in France as a stylist and thinker worthy of comparison to great seventeenth- and eighteenth-century moralists like La Rochefoucauld, La Bruyère, Chamfort, and Vauvenargues.
This is what makes Searching for Cioran by the late Ilinca Zarifopol-Johnston, who didn’t live to finish her book, so valuable. It tells the story of his Romanian years and gives a fine account of the personal and political circumstances in which both his philosophical ideas and his brand of nationalism were formed. In later years, Cioran spoke rarely of that shameful period in his life and never—except to allude vaguely to his “youthful follies”—talked openly of his one political tract, Romania’s Transfiguration (1936), a short, demented book in which he prescribed how his native country could overcome its second-rate historical status through radical, totalitarian methods. Along with Mircea Eliade, the philosopher and historian of religion, the playwright Eugène Ionesco, and many others, equally eminent but less known abroad, he was a member of Romania’s “Young Generation,” the “angry young men” responsible for both a cultural renaissance and apocalyptic nationalism in the 1930s. To understand what led Cioran to leave Romania and become disillusioned with ideas he espoused in his youth, it’s best to start at the beginning.
Emil Cioran was born in 1911, the second of three children, in the remote mountain village of Rasinari near the city of Sibiu in southern Transylvania, which at that time was still part of the Austro-Hungarian Empire. His father, Emilian, was a Romanian Orthodox priest who came from a long line of priests, as did his mother, Elvira. He loved his native landscape with its streams, hills, and woods where he ran free with other kids, even telling one interviewer, “I don’t know of anyone with a happier childhood than mine.”
At other times, when not moved by nostalgia, he called it this “cursed and splendid paradise” where …

Triết gia của sự mất ngủ

Ngày này còn ai đọc ông này? Hẳn 'có tay' phải, nhất định phải [đọc], bởi vì hầu hết sách của ông đều được dịch, và đều có ở tiệm.
Ở Đại học, cả sinh viên lẫn giáo sư, đều rất rành với bất cứ một triết gia hay lý thuyết gia Tây thường được nhắc tới, ông kể như vô danh, mặc dù ông hơn hẳn cả đám kia, suy tư mịn hơn, viết bằng một thứ thơ xuôi bảnh hơn.
Lý do của sự lơ là này, phần lớn là từ cái nhìn âm u, không hề giao lưu hòa giải, đếch thèm năn nỉ Thượng Đế hãy khoan thứ cho/về phận người!
Đã thế, ông ta ‘phủi thui’ cả hai, Ky tô giáo và triết học, đọc ông, nhiều đoạn ‘khủng’ đến nỗi giống như những tiếng gầm rú của 1 thằng khùng!

Để làm cho sự tình rối bung thêm lên, ông bèn trình cho đời, không phải 1 mà là 2 căn cước, 2 cuộc đời. Một ông Cioran gốc Romania, viết bằng tiếng Romania, vào thập niên 1930, và sau đó, một ông Cioran Tây, khá nổi tiếng, viết bằng tiếng Tây.
Kể từ khi ông mất vào năm 1995, những phát giác thật ấn tượng, thật ‘hot’, về một thời mới lớn của ông, say mê thần tượng, là Hitler, đã từng rỏ máu ngón tay viết đơn tình nguyện, và được Đảng và Nhà Nước OK, cho là 1 thành viên của Thành Đoàn có tên là Vệ Sĩ Sắt, một lực lượng “tiền vệ, tiền phương, đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên", phò Phát Xít, quốc gia, bài Do Thái, vào thập niên 1930.
Những phát giác hay ho này lại càng đẩy ông ra ngoài lề của luồng chính.
Tuy nhiên, kể từ sau khi xuất bản cuốn đầu tiên viết bằng tiếng Tây, ông được dân Tây ca ngợi, như một văn gia, tư tưởng gia ngang tầm với những nhà đạo đức lớn lao của thế kỷ 17 và 18 như La Rochefoucauld, La Bruyère, Chamfort, và Vauvenargues.
Những điều trên càng khiến thiên hạ càng thêm tò mò về ông, và càng khiến cho tác phẩm Đi tìm Xia O Răng,  Searching for Cioran của Ilinca Zarifopol-Johnston, mất trước khi hoàn tất tác phẩm của mình, càng trở nên quí giá.
*
Hồ sơ Cioran trên TV

Một khi thần thánh hóa Lịch Sử, bất tín nhiệm Thượng Đế, chủ nghĩa Marx chỉ thành công, là làm cho Thượng Đế trở nên xa lạ, và trở thành một ám ảnh khôn nguôi.
En divinisant l'Histoire pour discréditer Dieu, le marxisme n'a réussi qu'à rendre Dieu plus étrange et obsédant.
Cioran: Nga xô và con vi-rút tự do, La Russie et le virus de la liberté, trong Lịch sử và Không tưởng, Histoire et Utopie
*

+ Có vẻ như là triết học của Cioran (triết gia gốc Rumani viết tiếng Pháp, nổi tiếng về tính bi quan) gây tác động rất lớn đến chị. Chị có thể nói về điều này không?

Linda Lê:
Còn hơn nhiều triết học của Cioran, mà tôi phát hiện cùng lúc với triết học của Kierkegaard, chính mối quan hệ giữa ông và tiếng Pháp mới thực hấp dẫn tôi. Ông nói rằng bất hạnh của người trú dân là muốn làm mọi thứ giỏi hơn dân bản địa. Ông đã làm được điều này, bằng cách viết một thứ ngôn ngữ vô cùng thuần khiết. Sở thích của ông dành cho các tác phẩm thần bí cũng làm sống dậy ở tôi cùng một niềm hứng khởi. Người ta vẫn thường coi Cioran là một kẻ hư vô chủ nghĩa, còn với tôi trước hết ông là một kẻ tà đạo, người đã giáng những cú đòn đau cho giới chính thống và làm chúng ta sung sướng với những châm ngôn mang một màu đen đầy gợi hứng.
Blog Nhị Linh.
*
Rushdie chẳng đã từng phán: Chinh phục "tiếng không phải tiếng Mẹ" là hoàn tất tiến trình giải phóng của chúng ta, sao?
Brodsky mới hách: Ông này viết, làm thơ, bằng bất cứ tiếng gì, thì cũng là bằng tiếng Mẹ [tiếng Nga] đối với ông.
Source

Khi phải phán về tuyệt bi, về một con người không được ở nhà trong cõi tồn sinh, màn diễn - mẩu văn, mẩu chuyện, mẩu triết ngôn, mẩu thông báo mang tính tâm lý - sẽ chỉ là tản mạn. "Tản mạn" ở đây, có một nghĩa đặc biệt. Bi kịch thực, câu chuyện-Kafka, đường tới hư vô, nẻo về tự sát: chúng hoàn tất chỉ nhờ cái vỏ bề ngoài. Hiển nhiên, chỉ một mẩu. Không thể dài, bởi vì viễn ảnh mà nó cưu mang thực không chịu nổi, bởi vì chiêm ngưỡng, cũng đành chấp nhận vực thẳm, cho dù chân thật, cho dù không phải những trò dàn trải tình cảm, những ẩn dụ nhằm tự hạ mình: chúng đều đẩy chúng ta tới mép bờ. Sự đối đầu của lý trí và hình thức với tận điểm của phi lý, hay trò sa-đích [lại Pascal ở đây, trong hình ảnh của ông về "cái chết và mặt trời"]: chỉ kéo dài giây phút, nếu trọn vẹn. Tiếng kêu trầm thống đó, con người chỉ có thể bi kịch hóa, giả tưởng hóa, bằng phương tiện ngăn kéo: nén chặt nó lại. Không-điểm là vậy: một điểm, thu gom mọi tối đen vào nó. Muốn chịu nổi sự xét lại, chỉ cần (rất hiếm hoi) dàn trải năm ba hồi cho một bi kịch, vài đoạn cho một câu chuyện ngụ ngôn, một bi ca, một bầy tỏ ngắn gọn (như của Swift hay Artaud). Hiện nay, phát ngôn viên tuyệt bi, là một nhà châm ngôn (Cioran). Chỉ có tản mạn, ở đó hoàn tất là cắt xẻo, là chấm hết - nhờ vậy mà được miễn dịch, dưới ánh sáng.
Steiner: Tuyệt Bi

GNV, lần đầu đọc thấy cái tên Cioran, là qua đoạn trên đây. Cái bài đầu tiên - nhân lần tham quan Tiểu Sài Gòn đầu tiên 1998, nhân dịp ra mắt cuốn sách đầu tiên xb tại hải ngoại, Lần Cuối Sài Gòn - GNV trình ông chủ chi địa NMG, đề nghị cho đăng trên mục Tạp Ghi, do Gấu phụ trách trên tờ Văn Học, là bài Tuyệt Bi.
Cả băng VH lắc đầu, khó nhá quá.
NMG thì nói thẳng, độc giả VH đếch làm sao chịu nổi!
Thế là bèn dinh về nhà, và nhen nhúm ý định làm trang Tin Văn trên net.
Không thằng nào chịu chơi thì mình ta chơi chịu vậy!
*
Miếng Cơm Manh Chữ (1)

Trả lời phỏng vấn, về chuyện phải từ bỏ đất nước, và quan trọng hơn, phải từ bỏ tiếng mẹ đẻ, nhà văn Romania, Cioran cho biết: phải viết văn bằng tiếng “ngoại” là một tai nạn lớn lao đối với một nhà văn. Ông kể hai kinh nghiệm, tưởng như chẳng liên hệ, về chữ viết “ngoại”, và về miếng ăn “ngoại”.

Cho tới năm 1947, ông vẫn viết văn bằng tiếng Romania. Tới bữa đó, ông tính dịch Mallarmé sang tiếng Romania. Bất thình lình, ông tự hỏi chính mình: “Thậm vô lý! Ích chi đâu, khi dịch Mallarmé sang một thứ tiếng mà chẳng ai biết?” Thế là, tôi từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Tôi bắt đầu viết văn bằng tiếng Tây. Thật trần ai khoai củ. Viết văn bằng một ngôn ngữ khác là một kinh nghiệm đáng sợ. Người ta phải mầy mò với từng chữ. Khi viết bằng tiếng mẹ đẻ, tôi cứ thế mà viết, giản dị như vậy đó. Chữ viết không có quyền độc lập, đối với tôi (Les mots n’étaient pas ‘indépendants’ de moi). Khi viết văn bằng tiếng Tây, mấy con chữ như thách đố tôi: chúng như ở trong những xà lim (cellules), và tôi phải nhặt ra từng con: nào tên này, nào tên kia, ra đây biểu!

Kinh nghiệm đó, theo ông, y hệt kinh nghiệm về miếng ăn, cũng ngày đầu tới Paris. Lần đó, ông trọ tại một khách sạn nhỏ, khu ‘người em xóm học’ (khu Latinh). Bữa đó, ông xuống nhà gọi điện thoại, và thấy nhân viên coi khách sạn, bà vợ, và ông con trai: cả ba đang sửa soạn bữa ăn, họ như đang sửa soạn kế hoạch cho một trận đánh! Tôi sững người: ở Romania, tôi luôn luôn được nuôi ăn như một con vật, chẳng thèm để ý tới “ăn nghĩa là gì”. Ở Paris, tôi mới nhận ra ăn là một nghi lễ, một hành động văn minh, gần như xác định một thái độ chính trị. 

Vũ Bằng phân biệt hai miền qua món ăn: món ngon miền bắc ‘đấu’ với món lạ miền nam. Ôi chao, những cái lỉnh kỉnh, nhiêu khê, cầu kỳ, nhưng thật cần thiết, không có không được của một tô bún thang, cái mỏng dính của một lá bánh cuốn Thanh Trì, cái thú ngồi canh bánh trưng ngày tết... chỉ tới khi vào Nam, hết sợ đói, thằng bé Bắc Kỳ mới mới thấy “thấm thía” cái tuyệt vời của một miếng ăn. 

Cái tuyệt vời của những kỷ niệm khi còn là một đứa bé chuyên môn đi ăn chực, tại một miền đất. 

(1) Tựa, của PTH

*

Nhật Ký Thời Chiến

Tôi như nhiễm độc văn chương (I am feeling poisoned by literature).

Khi nhà văn Ba lan gốc Do Thái Mihail Sebastian quyết định viết nhật ký, vào năm 1935, ông 28 tuổi, và đã nổi tiếng như là một ký giả, kịch tác gia, và tiểu thuyết gia.
Là một Do Thái “hội nhập”, ông cảm thấy quá chán chủ nghĩa bộ lạc, và tỏ ra hoài nghi những khẩu hiệu, theo kiểu “yêu nước tức là yêu xã hội chủ nghĩa”, hay rõ hơn, “những sự nghiệp lớn lao mang tính ý thức hệ”. “Tôi có niềm tin ở con người cá nhân (the individual man), nhưng niềm tin ở đây cũng chỉ là một thoả thuận giữa hai con người”, ông viết vào năm đó (1935).
Là một thành viên trong một nhóm gồm toàn thứ dữ: Mircea Eliade, Eugène Ionesco, Camil Petrescu, E. M. Cioran, nhưng đến khi, nhiều bạn bè của ông ăn phải thuốc lú, cập kè với một nhóm cực tả có tên là Vệ Binh Sắt, ông bèn giãn ra. (Eugène Ionesco, “giáo chủ” trường phái Kịch Phi Lý, là người độc nhất “không thèm chơi với hủi” (the only one who refused to embrace totalitarianism: người độc nhất từ chối ôm ấp chủ nghĩa toàn trị).

Trong thời kỳ khủng hoảng chính trị-xã hội của thập niên 1930, chủ nghĩa bài Do Thái nở rộ, ở đám đông cũng như trong số những thành phần được coi là tinh hoa của xã hội. Ngay đầu năm 1938, chính quyền Octavian Goga (một nhà thơ có tài), đã ra lệnh thu hồi thẻ công dân của hàng trăm ngàn người Do Thái. Vào tháng Chín, 1940, nhóm cực tả Vệ Binh Sắt, có khuynh hướng  phò Nazi, bài Do Thái, lên cầm quyền. Tướng Ion Antonescu, một trong những đồng minh của nhóm, trở thành nhà “dìu dắt” đất nước. Tuy nhiên, chỉ mấy tháng sau, ông đập tan cú đảo chánh của Vệ Binh Sắt, và ban hành chế độ độc tài riêng của ông ta.

Chiến thuật bài Do Thái của chế độ Antonescu rất “uyển chuyển”: thật cứng rắn trong những năm đầu, thận trọng hơn khi chiến thắng của Đức không còn “chắc ăn”; cực kỳ dã man tại những vùng biên giới phía đông với Bessarabia và Bukovina, nơi người Do Thái bị tống xuất hàng loạt tới những trại tập trung ở Transnistria, bị Romania chiếm đóng. Phần đất nước còn lại, là một chính sách đỡ hiểm độc đi một chút. Tuy nhiên, ngay ở Bucharest, nơi Sebastian trải qua những năm tháng chiến tranh với bà mẹ và em trai, thường xuyên xẩy ra những đợt hung hăng xuống đường bài Do Thái, làm nhục họ, chơi trò blackmail, và những đợt cưỡng bức lao động.

Nhật ký của Sebastian cho thấy: đây là một trong những chứng liệu quan trọng nhất  về thảm kịch Do Thái trong giai đoạn trên, có thể so sánh với “Sống sót tại Auschwitz” của Primo Levi, hay "Nhật ký của Anne Frank".
Không như Levi và Frank, là những người viết từ bên ngoài Địa Ngục, miêu tả cuộc sống ở những trại tập trung hay trong khi ẩn trốn, Sebastian viết, với một sự chân thành và một cái nhìn sắc bén, từ lò luyện ngục, là chính căn phòng riêng của mình ở Bucharest, nơi ông “sống với nỗi chết không rời”, trong sợ hãi có thể bị gõ cửa mời đi bất cứ lúc nào, tới một nơi là trại tập trung, hay tử thần.
Trong những lúc tạm cho mình thoải mái, ông tra hỏi đời mình: thú nghe nhạc, những cuộc tình, đọc, viết, hay học tiếng Anh.

Khi ông mất vào năm 1945, một trong những anh em của ông đã giấu nhật ký, gồm 9 cuốn sổ tay, sợ chính quyền theo Stalin tịch thu. Nhật ký được lén đưa qua Israel, rồi đưa lại cho một người anh/em ông, đã dời đi Paris sau thời kỳ trên. Mãi tới năm 1997 gia đình ông mới đồng ý cho xuất bản.
(Sebastian bị xe tải cán, mất vào ngày 29 tháng Năm, 1945). 

Trên đây là tóm tắt bài giới thiệu nhật ký của Sebastian, đăng trên tờ The New Yorker (Người Nữu Ước, số Oct 2, 2000). Tác giả bài giới giới thiệu là Norman Manea, nhà văn Romania đào thoát qua Tây Phương; Jennifer tôi đã giới thiệu ông với độc giả Tin Văn, qua bài “Số phận một nhà văn lưu vong”.
Dưới đây là một vài trích đoạn, từ nhật ký của Sebastian, dưới nhan đề “Bạn và Phát xít” (Friends and Fascists) trên tờ The New Yorker số đã dẫn.

1936

Ngày 3 tháng Năm:
Đại hội của Hội Nhà Văn. Làm sao họ có thể tỏ ra trịnh trọng, với những trò hề lố bịch như vậy, nhỉ?…

Tôi như nhiễm độc văn chương (I am feeling poisoned by literature). Tại sao mình không làm một nghề bình thường – luật sư, công chức? Tại sao không chọn phần số, một con người được sinh ra là để có một căn nhà của riêng mình, một đời của riêng mình, một tình yêu của riêng mình – mà chẳng có một tí rắc rối nào hết?

Ngày 25 tháng Sáu:
Tôi gặp Camil Petrescu sáng nay. Ông lập lại những gì ông nghĩ, về những vụ tấn công người Do Thái mới xẩy ra.
-Thật đáng tiếc, bạn già ơi. Nhưng tất cả những người Do Thái đều có trách nhiệm về chuyện xẩy ra.
-Thế là thế nào, Camil?
-Bởi vì có quá nhiều Do Thái.
-Nhưng cũng có quá nhiều người Hung Gia Lợi vậy?
-Có thể, nhưng ít ra họ cũng ở cùng một chỗ, một vùng.
Ông cứ thế tiếp tục, “Bạn thân ơi, những người Do Thái gây ra hết. Không thể tin họ được, đã vậy lại hay xía vô chuyện chẳng liên quan tới họ.
Đó là Camil Petrescu nói. Ông là một trong những bộ óc tuyệt vời nhất ở Romania.
Một trong những con người đa cảm nhất ở Romania.

Ngày 25 tháng Chín.
Chiều hôm qua, đang trò chuyện êm ả với Mircea [Eliade] về chính sách ngoại, ông bất thình lình trở giọng hung hãn.
-Titulescu? [Một vị bộ trưởng ngoại giao bài Đức]. Ông ta đáng bị xử tử. Kéo ông ta ra trước đội hành quyết.
Chẳng lẽ tôi mất một người bạn chỉ vì những chuyện không đâu như vậy? Làm sao tôi quên nổi mọi điều tuyệt vời ở ông: ngây thơ, trẻ con, thành thật…
Ông bạn của tôi có thể làm việc thoải mái cho nhật báo bài Do thái Vremea. Chuyện bình thường, chẳng có chi là ghê gớm.
Dù sao tôi cũng cố giữ cho được người bạn của mình.

1937

Ngày 8 tháng Giêng. Sinaia.
Trong cỡ chừng 4 tiếng đồng hồ, tôi nặn ra được ba trang, nhưng vẫn còn cả lố phải sửa chữa.
Hôm qua, trong lúc đi dạo núi, tôi cứ suy nghĩ hoài. Tôi thiếu tính tự phát (spontaneity), mà thiếu nó gần như thiếu tất cả, Thành thử, tôi chỉ có thể viết những câu chuyện chừng hai trăm trang, với giọng điệu nhật ký riêng, chẳng ra vẻ tiểu thuyết. Tôi cũng nghĩ, mình có thể viết kịch, mà món này sẽ khá hơn nhiều….

Ngày 15 tháng Giêng. Bucharest.
Đã hơn nửa tháng, tôi chưa đi coi Marietta [một nữ nghệ sĩ]. Bà vừa mới giáng một đòn cho đám Do Thái:
“Tụi khốn giật bánh mì khỏi miệng chúng ta; chúng bóc lột chúng ta, làm chúng ta nghẹt thở. Đuổi chúng ta khỏi đây. Xứ sở này là của chúng ta. Không phải của họ. Romania là của người Romania.”

Ngày 25 tháng Hai.
Chiều qua, có một bữa xum họp bè bạn tại chỗ tôi ở. Có vợ chồng Mircea, Marietta và chồng… Tôi tự hỏi không biết có phải đây là lần họp bạn cuối cùng. Thật khó mà kéo dài sự giả dối, kể từ khi họ chơi với đám Vệ Binh Sắt. Liệu có thể có tình bạn với những người mà những ý nghĩ, tư tưởng thật xa lạ với mình? Xa lạ đến nỗi, vừa thoáng thấy bóng tôi, là họ ngưng câu chuyện, trong dáng điệu tủi hổ và bối rối?…
Nếu tôi không phải là một tên Do Thái, những vở kịch của tôi có thể được trình diễn, và tôi sẽ là một “kịch tác gia”, được như vậy là hết xẩy, tôi đâu còn muốn gì hơn thế nữa cơ chứ!…

Lương tâm nhà nước (The national conscience) không cho phép một vở kịch của Mihail Sebastian được trình diễn tại nhà hát Bucharest
Tôi phải thú nhận, tôi chẳng thèm đặc biệt lo lắng cho những bản thảo của tôi. Chuyện tôi lo, là những cuốn sách không thể viết ra được nữa, nhất là cuộc đời này, cho tới nay, tôi vẫn chẳng làm được một chuyện gì cho ra hồn…
Jennifer Tran chuyển ngữ

Ngày này còn ai đọc ông này? Hẳn 'có tay' phải, nhất định phải [đọc], bởi vì hầu hết sách của ông đều được dịch, và đều có ở tiệm.
Ở Đại học, cả sinh viên lẫn giáo sư, đều rất rành với bất cứ một triết gia hay lý thuyết gia Tây thường được nhắc tới, ông kể như vô danh, mặc dù ông hơn hẳn cả đám kia, suy tư mịn hơn, viết bằng một thứ thơ xuôi bảnh hơn.
Lý do của sự lơ là này, phần lớn là từ cái nhìn âm u, không hề giao lưu hòa giải, đếch thèm năn nỉ Thượng Đế hãy khoan thứ cho/về phận người!
Đã thế, ông ta ‘phủi thui’ cả hai, Ky tô giáo và triết học, đọc ông, nhiều đoạn ‘khủng’ đến nỗi giống như những tiếng gầm rú của 1 thằng khùng!

Để làm cho sự tình rối bung thêm lên, ông bèn trình cho đời, không phải 1 mà là 2 căn cước, 2 cuộc đời. Một ông Cioran gốc Romania, viết bằng tiếng Romania, vào thập niên 1930, và sau đó, một ông Cioran Tây, khá nổi tiếng, viết bằng tiếng Tây.
Kể từ khi ông mất vào năm 1995, những phát giác thật ấn tượng, thật ‘hot’, về một thời mới lớn của ông, say mê thần tượng, là Hitler, đã từng rỏ máu ngón tay viết đơn tình nguyện, và được Đảng và Nhà Nước OK, cho là 1 thành viên của Thành Đoàn có tên là Vệ Sĩ Sắt, một lực lượng “tiền vệ, tiền phương, đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên", phò Phát Xít, quốc gia, bài Do Thái, vào thập niên 1930.
Những phát giác hay ho này lại càng đẩy ông ra ngoài lề của luồng chính.
Tuy nhiên, kể từ sau khi xuất bản cuốn đầu tiên viết bằng tiếng Tây, ông được dân Tây ca ngợi, như một văn gia, tư tưởng gia ngang tầm với những nhà đạo đức lớn lao của thế kỷ 17 và 18 như La Rochefoucauld, La Bruyère, Chamfort, và Vauvenargues.
Những điều trên càng khiến thiên hạ càng thêm tò mò về ông, và càng khiến cho tác phẩm Đi tìm Xia O Răng,  Searching for Cioran của Ilinca Zarifopol-Johnston, mất trước khi hoàn tất tác phẩm của mình, càng trở nên quí giá.