*

Diary
















*
Cha Brisson, 31.8.2005. Bangkok
Happy Birthday Pho Thầu
Chuyện Tử Tế
Về Nhà


@ Markham Fair, Oct 4 2008


For U Only


Guantanamo Bay has replaced the Statue of Liberty as a symbol of America

Francis Fukuyama
*
*


I am in sympathy with Dostoevsky, who was so infuriated by Russian intellectuals who knew Europe better than they did Russia.
Orhan Pamuk: The Collector
Tôi chịu Dos: Ông cáu lắm khi đám trí thức Nga rành Âu châu hơn nước Nga của họ.

Nobel laureate's next project will marry words and pictures
Cuốn sách sắp ra lò của Pamuk sẽ là một cuộc hôn nhân giữa hình ảnh và những con chữ


Thơ không đứng ở vành móng ngựa

Có đấy. Ngoài Nguyễn Việt Chiến, còn Joseph Brodsky, thí dụ.

Ai cho phép mi là thi sĩ?

Tòa án: Chuyên môn của anh là gì?
Brodsky: Thi sĩ, dịch giả.
Tòa án: Ai chỉ định anh là thi sĩ? Ai cho anh vào hàng ngũ những thi sĩ?
Brodsky: Chẳng ai cả. Ai cho tôi vào hàng ngũ nhân loại?
Tòa án: Anh có học về cái đó không?
Brodsky: Học về cái gì?
Tòa án: Để trở nên thi sĩ. Anh không hề cố gắng học xong trung học, nơi mà người ta sửa soạn cho anh, người ta dậy anh...
Brodsky: Tôi không tin chuyện này liên quan đến học vấn.
Tòa án: Như vậy là thế nào?
Brodsky: Tôi nghĩ... vậy thì, tôi nghĩ, điều đó đến từ ông Trời.
Tôi hết còn tin vào nơi chốn đó

Note: Nguyễn Việt Chiến, sinh năm 1952, quê Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Tây.
Thạch Thất gần Quốc Oai, quê Gấu, nhưng nổi tiếng hơn, nhờ những nhà tù, trại cải tạo. Chắc độc giả còn nhớ cú Mẽo nhảy dù xuống TT?
NNT vs Hiện Sinh

Đã từng có những phiên bản lầm lẫn và giải thích sai lệch như vậy, trong khi chủ nghĩa hiện sinh vốn là một tư tưởng mang tính tích cực và đấu tranh, một nỗ lực chống lại tha hoá; tư tưởng Dấn thân thoát thai từ đó là một thí dụ.Việc tìm kiếm những ý nghĩa có vẻ siêu hình thông qua một hư cấu có vẻ phi lý như “Gió lẻ” vẫn chỉ chơi trò chơi ngôn từ khá phù phiếm vậy thôi.
Cái sự đọc NNT mà thấy hiện sinh ở trong đó làm Gấu nhớ tới sư phụ của Gấu, là Faulkner. Thầy của Gấu cũng giống Gấu, không thuộc loại khoa bảng: Đếch có cử nhân triết! Nhưng theo Coetzee, anh già Nam Bộ này cũng hơi bị nhún nhường, giống ông…. Sơn Nam, khi viết:
"Bây giờ, lần đầu tôi nhận ra," Faulkner viết cho một bà bạn, khi nhìn ngoái lại, từ lợi điểm, là khoảng giữa những năm năm mươi của ông, "tôi có một của báu thật là lạ: vô học trong bất kỳ ý nghĩa chính qui nào, chẳng có bạn hay chữ, nói chi bạn giỏi văn, thế mà lại làm được những điều tôi đã làm. Tôi không biết nó từ đâu tới. Tôi không biết tại sao Ông Trời, hay các thần linh, hay chẳng rõ vị nào, chọn tôi làm con thuyền."
["Now I realise for the first time", wrote William Faulkner to a woman friend, looking back from the vantage point of his mid-fifties, " what an amazing gift I had: uneducated in every formal sense, without even very literate, let alone literary, companions, yet to have made the things I made. I don't know where it came from. I don't know why God or gods or whoever it was, selected me to be the vessel"].
Coetzee cho rằng, chút hồ nghi về mình, của Faulkner, không được “thực thà” cho lắm. Bởi vì, như cái kiểu nhà văn mà ông muốn trở thành, ông có đủ thứ học vấn, đủ thứ sách học mà ông cần. Còn nói về bạn, ông có những bạn già tay chân xương xẩu, nhớ dai, nhớ đủ thứ, và cũng thật hay chuyện, không phải thứ văn nhược. Tuy nhiên, ngạc nhiên về ông cũng không hiếm. Bởi vì, ai mà tiên đoán ra được, một thằng bé từ một miền khỉ ho cò gáy Mississipi, trở thành, không chỉ một nhà văn nổi tiếng, ở nhà cũng như ở toàn thế giới, mà còn một nhà văn đổi mới triệt để  về tiểu thuyết Mỹ, đến nỗi, đám tiền phong ở Âu Châu và Mỹ Châu La Tinh phải xin thọ giáo.
Gấu này sợ rằng, đám tiền phong Mít, "rành Âu Châu hơn xứ Mít", hiện cũng đang điên lên vì hiện tượng NNT!
Rành Âu Châu hơn xứ Mít? Chưa chắc! Những nhận xét về chủ nghĩa hiện sinh có vẻ hơi bị nhảm.
Nỗ lực chống tha hoá?
Hơi lạ, bởi vì những "gì gì" vong thân, tha hóa, phóng thể... là của Marx đấy!
Cái gì của Cesar thì giả cho Cesar.
Nhưng còn cái ô thì của chú [Trụ] đấy nhé!
NQT

As I Lay Dying
I took this family and subjected them to the greatest catastrophe which man man can suffer - flood and fire, that's all.
Faulkner, Lion in the Garden
Viết xong Cánh đồng bất tận, tôi thấy buồn, nặng nề và đau đớn ghê gớm, hệt như trút ra hết những gì mình mang bên trong. Chắc phải nghỉ ngơi lâu lắm, tôi mới quên được hết ấn tượng về những điều tàn nhẫn mà mình đã phải mô tả. Tôi đã động tới cái ác vì có nó, thì cái thiện, sự thương yêu, sự yếu ớt mong manh của những tình cảm tốt đẹp mới nổi lên được, để cho người ta nhìn thấy rõ hơn. Chỉ vậy thôi.
NNT
Phán như thế, mà là phù phiếm vậy thôi?
*
Camus nói, con người, sinh nhằm một thế giới phi lý, có mỗi một phận sự thực sự, là sống, âu o về đời sống, về cuộc loạn, cuộc tự do của mình đó. Ông còn nói, giải đáp độc nhất cho nan đề sống, là chết. Và chết, là thuộc con đường sai lầm. Con đường đúng, là phải dẫn tới đời sống. Con người không thể cứ thế tiếp tục rên rỉ vì đau thương lạnh lẽo. Chính vì thế mà ông nổi loạn. Ông từ chối rên rỉ vì lạnh lẽo. Ông từ chối đi theo con đường dẫn đến cái chết...
Ông nói, "Tôi không thích tin rằng cái chết mở ra một cánh cửa khác. Với tôi, nó là cái cửa đóng lại." Ông cố tin như vậy. Nhưng thất bại.
Khi ông được Nobel, tôi gửi điện cho ông, "Chào mừng một tâm hồn không bao giờ ngừng nghỉ, trong việc tự tìm kiếm, tự hỏi mình", "On salue l'âme qui constamment se cherche et se demande".
Faulkner viết về Camus

Young Faulkner

Gì thì gì, trong 33 năm, cho tới khi Faulkner mất vào năm 1962, cuộc hôn nhân cứ thế tiếp diễn, cứ thế tồn tại. Tại sao?
Một trong những lý do trần tục nhất của nó, là, cho tới cuối thập niên 1950, Faulkner không làm sao mà chịu đựng nổi những thủ tục đầu tiên [tiền đâu] của một vụ ly dị. Luôn cả chuyện, ly dị rồi, làm sao mà chu cấp nổi, một bà vợ chỉ thích xài tiền, cộng thêm một lũ con, những binh đoàn có tên là Faulkners, hay Falkners, lại thêm ông bà già vợ, tất cả đều sống phụ thuộc vào ông. Ấy là chưa kể, lại phải tái lăn lưng vào cuộc đời, nghĩa là, phải tái trình diện với xã hội loài người, một cách bảnh bao tươm tất, như là một người đàn ông goá vợ, và một nhà văn. Nhưng, như Karl, một trong những người viết tiểu sử của F. cho thấy, còn một lý do sâu thẳm nữa, là, F. không làm sao rứt ra khỏi bà vợ. Họ sinh ra là để làm khổ lẫn nhau, và, nếu không có lý do làm khổ lẫn nhau thì làm sao giải thích được chuyện họ sinh ra đời, và... lấy nhau? Như Karl viết: Ở từng sâu thẳm nào đó, Faulkner cần Estelle [Đây là câu Gấu cái thường ngày ca cẩm Gấu đực: Anh cần tui chứ anh đâu có iêu tui]. "Estelle không có thể nào mà thoát ra khỏi mớ bòng bong,chằng chịt ở những vùng xa xăm nhất mà trí tưởng tượng của Faulkner vươn tới", Karl viết. "Không có Estelle [Gấu cái], là đếch có Faulkner [Gấu đực. Nên nhớ một trong những truyện ngắn thần sầu của Faulkner là... Gấu]. Nguyên văn: "Không có Estelle... ông ta không thể nào tiếp tục [viết]". Nàng là bà mệnh phụ "không cám ơn" của chàng. [She was his madame sans merci: Nàng là bà mệnh phụ tàn nhẫn, không xót thương, của chàng] - cõi lý tưởng, thánh nữ mà người đàn ông thờ phượng... nhưng cũng còn là vật bất tường, miền tàn khốc, cõi huỷ diệt.
Bằng cách chọn Estelle làm vợ, bằng cách chọn nhà của chàng ở Oxford, giữa bộ lạc "Falkner", Faulkner tự chọn mình một thách đố khủng khiếp: Làm sao làm ông chủ, người được sự hỗ trợ của toàn thể gia đình, người cha, con đực đứng đầu cả một bộ lạc… giống như một đàn ruồi, xâu xé, từng đồng xu kiếm được, trong khi, cùng lúc, làm sao phục vụ con quỉ nằm ở nơi đáy sâu con người ông. Trường kỳ kháng chiến, cùng một lúc chịu đựng cả hai mặt trận như thế, sức voi cũng chịu thua, cho nên, như Parini gọi ông, “một con quỉ của sự hữu hiệu”, với khả năng của vị thần Appolon, cuối cùng, khối lượng công việc cũng quật ngã ông. Để cung phụng đàn ruồi, thiên tài chói chang của văn chương Huê Kỳ thập niên 1930 sau cùng đành phải để việc viết tiểu thuyết qua một bên - đây là thứ viết lách mà chàng quan tâm tới nhất, chàng sinh ra đời, là để viết tiểu thuyết – quay qua, đầu tiên là viết ba đồ làm xàm, bá láp cho mấy tờ lá cải, sau tới kịch bản phim cho Hồ Ly Út.
[Đây chính là điều mà Gấu cái ca cẩm thường ngày: “Tài” của mi đâu phải để làm trang... nhà! Tài của mi, là để viết “tỉu thết”, thứ để đời, nhờ đó mà ta được thơm lây!]
Thời vô song


Bạch Hổ
Làm nhục dân Ấn
Roars of anger
Aravind Adiga's debut novel, The White Tiger, won the Booker prize this week. But its unflattering portrait of India as a society racked by corruption and servitude has caused a storm in his homeland. He tells Stuart Jeffries why he wants to expose the country's dark side.
Bạch Hổ thắng Booker, nhưng dân Ấn tại quê nhà không ưa bộ mặt xấu xa của đất nước được mô tả ở trong đó. Tác giả giải thích tại sao ông mang đồ dơ ra phơi ở trước nhà.
Làm nhục dân Thổ
Frankfurt Book Fair: Orhan Pamuk denounces Turkish oppression
Tại Hội Sách ở Frankfurt, Orhan Pamuk tố cáo chế độ đàn áp của nhà nước Thổ.
Làm nhục dân Mit
TGM Kiệt: « Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam ».


  Phúc phương phì

Mình tưởng vết thương ngày nào đã thành sẹo, không ngờ vẫn mưng mủ…
Hồi Gấu còn giữ mục Tạp Ghi cho tờ Văn Học của NMG, sau khi đụng tới NHT, và Nguyễn Huệ của ông, khi ra Bắc, làm cái chuyện ấy với bà gì gì đó trong Phẩm Tiết, và làm cái chuyện gì gì đó, với đám sĩ phu Bắc Hà, tờ VH nhận được thư của một độc giả, phàn nàn, chuyện NHT đã 10 năm rồi, vết thương đã lên da non, ông Trụ này còn chọc dao vô, rồi ngoáy ngoáy, nhưng hy vọng, lần này nó sẽ thành sẹo!
Khi Văn Cao tự khui ra cái vụ làm đao phủ thủ cho Đảng, Gấu tự hỏi, tại sao, nhưng sau nghĩ ra, không khui ra là bỏ mẹ, vì đúng vào sắp sửa đi, chưa kịp chôn, mà tổ chức khui ra, như vụ Vũ Bằng thì khốn nạn nào bằng!
Truờng hợp Đỗ thi sĩ, Gấu thoạt đầu thấy hơi lạ, ông này đâu cần phải lạy ông tôi ở bụi này, và lấy trường hợp Kim Phúc để cắt nghĩa, nhưng một nữ độc giả "mắng cho", và mách nước, phải so sánh với trường hợp Grass, và cùng với nó, là thế kỷ bửn nhất trong mọi thế kỷ, và chính vì vậy, ai sắp sửa đi, là làm một cú "thú tội trước bàn thờ", để mà còn thanh thản đi đầu thai.
Quả có thế. Thí dụ trường hợp Kundera.
Ông này viết về "Đời nhẹ khôn kham", và Đời bèn đáp lễ: Lịch sử không nhẹ như cuộc đời đâu. Hòn đá Sisyphe đấy!
Milan Kundera
The unbearable weight of history
A long-buried scandal may taint a giant's reputation
MILAN KUNDERA'S poignant novels epitomised the tragic division of central Europe from the rest of the continent. Works such as "The Unbearable Lightness of Being" told of lives clouded or ruined by totalitarianism.
The story of Miroslav Dvoracek, a Czech spy for the West, would fit well into a Kundera novel. Caught by the secret police in 1950 while on an undercover mission to Prague, he was tortured and then served 14 years in a labor camp. He was lucky not to be executed. He has spent nearly six decades believing that a childhood friend called Iva Militka betrayed him; he had unwisely contacted her during his clandestine trip. Similarly, she has always blamed herself for talking too freely about her visitor to student friends. Now a police record found by Adam Hradlicek, a historian at the Institute for the Study of Totalitarian Regimes, in Prague, suggests that it was one of those friends, the young Mr Kundera, who was the informer.
Mr Kundera, a recluse for decades, insists that he had no involvement in the affair and is baffled by the document.
Communist-era records are not wholly trustworthy. But a statement from the Czech archives says it is not a fake; the incident (if it happened) could help explain why Mr Kundera, then in trouble with the authorities, was allowed to stay at university even though he had been expelled from the Communist Party.
True or not, the story echoes themes of guilt, betrayal and self-interest found in Mr Kundera's own work, such as "unbearable lightness" (dodged but burdensome responsibility). In "The Owner of the Keys", a play published in 1962, the hero kills a witness who sees him sheltering a former lover from the Gestapo.
As Mr Kundera himself has written so eloquently, "the struggle of man against power is the struggle of memory against forgetting." Under totalitarianism, fairy tales good and bad often trumped truth. Some heroes of the Prague Spring in 1968 had been enthusiastic backers of the Stalinist regime's murderous purges after the communist putsch of 1948.
Mr Hradlicek surmises that Mr Kundera probably acted out of self-interest, not malice or conviction. Millions faced such choices in those times. Some have owned up; many have not. Countless episodes like that linger over eastern Europe like an invisible toxic cloud +
Người Kinh Tế, 18 Oct, 2008
Những cuốn tiểu thuyết nhức nhối của Kundera kể những cuộc đời u ám hay bị tiêu tan vì chế độ toàn trị. Và câu chuyện một điệp viên chìm Tây phương gốc Czech bị mật vụ tó do có người tố cáo thật hợp với chúng. Anh chàng này cứ đinh ninh là mình bị cô bạn thời thơ ấu phản bội. Cô bạn này cũng cứ tự hành hạ mình, vì lỡ nói về chuyến đi của anh với bạn bè của cô. Nhưng hồ sơ mật mới khui cho biết, người tố cáo là một trong những người bạn của tay điệp viên, và là chàng trai trẻ Kundera.
Kundera bác bỏ lời tố cáo, nhưng đây là một tài liệu thực. Và nó giải thích được, trường hợp Kundera, tại sao gặp khó khăn với nhà nước vậy mà vẫn được tiếp tục ở Đại học, mặc dù đã bị đuổi ra khỏi Đảng.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng Nobel vừa rồi về tay Kundera, mới thấy sự việc khủng khiếp là dường nào. Chẳng lẽ vừa trao xong, là đòi lại liền?
Kundera như chúng ta được biết, rất ghét cái món tiểu sử. Và sống cũng rất ư là ẩn dật. Hay là chàng hơi bị nhột, vì vụ này?
“Sử nặng khôn kham”: Độc giả Kim Dung thì quá rành đòn “Gậy ông đập lưng ông”.
“Gieo gió gặt bão”, liệu có thể nói như vậy?

Salvation or Ruin?
Trong một xã hội tan rã, một khi thế hệ trẻ mù lòa đi theo chân lý muôn đời, hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu nhân dân, tai ương thảm họa là điều không thể tránh khỏi, và được báo trước. Nhưng chính cứu rỗi, chứ không phải điêu tàn mới là điều "tới mà chẳng ai biết trước, chẳng ai trông chờ, chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính nó, chứ không phải điêu tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con người.
[Mô phỏng Hannah Arendt, trong Franz Kafka: A Revaluation, trong Essays in Understanding 1930-1954, nhà xb Schocken Books, New York: In a dissolving society which blindly follows the natural course of ruin, catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin, comes unexpectedly, for salvation and not ruin depends upon the liberty and the will of men].
Chỉ một khi thế hệ trẻ, tốt nghiệp Harvard, trở về nước, bằng tự do và ý chí của chính họ, từ chối không chịu ngồi lên đầu nhân dân, thì mới mong có cứu chuộc được.


LE CHOC PICASSO

Nobel 2008

L’Express [16/10/2008]:
Vous aviez  “franchi l'âge de la venngeance ", mais votre dernier livre, Ritournelle de la faim (Gallimard), est très dur, pas du tout apaisé, sur la culpabilité de la société française envers les juifs ou les peuples colonisés.
Le Clézio: Je ne suis pas quelqu'un d'apaisé. Comme disait le biologiste Jean Rostand, « la vérité a nécessairement un goût de vengeance ». Enfant, j'ai vécu les dernières répliques du séisme qu'avait été la Seconde Guerre monndiale. Je me souviens de propos racistes ou antisémites entendus dans ma famille proche et éloignée: la guerre avait eu lieu, et ils n'avaient rien appris. Quand on est ennfant, on ne comprend pas ce que cela signifie, mais, instinctivement, on est choqué.

Où en sont selon vous les rappports entre l'Occident et le tiers monde?
Je ne crois pas à un affronntement. Je déteste Huntinggton et sa théorie du « choc des civilisations ». J'avais même écrit un pamphlet intitulé « Contre Samuel Huntinggton », que je n'ai pas publié.
Pourquoi?
Parce que c'était un pammphlet. Je ne crois pas qu'il y ait « nous» et « les autres », le monde occidental d'un côté et, de l'autre, une sorte de monde barbare, à l'affût de la moindre de nos faiblesses. Dans Le Choc des civilisations, Huntington prévoit une invasion militaire des « Sino-marxistes » via Marseille - par traîtrise, sans doute - tandis que les Soviétiques passeront par le nord! En fait, les cultures sont toutes métisses, mélangées, y compris l'occidentale, faite de nombreux éléments venant d'Afrique, d'Asie. On ne peut pas faire barrage au métissage. Et la modernité est aussi bien japonaise, coréenne, chinoise qu'européenne ou américaine.


Gấu có nhớ nhà không?

Về cầu tre, luỹ tre làng, giếng làng, làng, làng… những hình ảnh của Quê Hương thuở nào.
Cái làng của Gấu, làng Thanh Trì ở bên bờ sông Hồng, khi Gấu bỏ chạy nó, vào năm 1954, tuy vội thì vội, cũng từ Hà Nội về thăm nó, và trước khi bỏ đi, cũng cố vơ vội vơ vàng, vài hình ảnh, theo cái ý nghĩ, mình quơ đi, để cho đỡ nhớ, và nếu có ngày nào được trở về [hay trở về được], thì so chúng với những hình ảnh thực, để coi trí nhớ của mình có bảnh không, và mình có thực sự nhớ nó không.
Đúng ra, lần đó, Gấu về, để ở luôn, chứ không phải để bỏ đi. Hình như Gấu cũng có lèm bèm về chuyện này rồi.


Cuốn sách ưa thích của ông là gì?
Ruồi Trâu. Tôi tự dịch lại cuốn sách đó vài năm trước. Tôi vẫn muốn tự dịch cuốn sách đó từ những năm 20 tuổi nhưng khi đó tôi chưa đủ sẵn sàng.
Nguồn: Hội ngộ văn chương
Đây là nguyên văn 10 Questions for Haruki Murakami
What's your favorite book?
Sarosh Shaheen
Ottawa, Canada
 
The Great Gatsby. I translated it a couple of years ago. I wanted to translate it when I was in my 20s, but I wasn't ready.
Cuốn sách gối đầu giường của ông?
Gatsby vĩ đại (1). Cách đây mấy năm tôi đã dịch nó. Tôi muốn dịch nó từ những năm đôi mươi của mình, nhưng lúc đó tôi chưa sẵn sàng.
Của Mẽo mà thành của Liên Xô. Thế mới ghê!
(1) The Great Gatsby is a novel by the American author F. Scott Fitzgerald. First published on April 10, 1925, it is set in Long Island's North Shore and New York City during the summer of 1922. Wikipedia
 


Viết cho ai?
Vả chăng, những kẻ thật biết viết văn ở đời, ban đầu nào có ý định viết văn?
Lý Trác Ngô (Tựa Tây Sương Ký).
I. Cõi Riêng.

Trong bài viết Văn chương và Hậu-lịch sử (trong Ngôn ngữ và Câm lặng), G. Steiner tự hỏi liệu có còn nghệ thuật, ở thị trấn công chính (the just city), vào một ngày mai ca hát, hay rõ hơn, khi con người đã hết còn bị vong thân?
Theo ông, “quan niệm hiện thời về văn chương của chúng ta, trong một vài khía cạnh, liên quan tới cõi riêng. Một mình với cuốn sách, trong yên lặng, là một phát triển đặc thù, mới đây thôi so với lịch sử. Nó hàm chứa một số những tiền-điều kiện (pre-conditions) kinh tế và xã hội: một căn phòng cho riêng ai (a room of one's own), như cách nói ý vị của Virginia Woolf; hay là ít ra, một mái nhà khá rộng để có được vài góc yên tĩnh; sở hữu một số sách, quyền giữ riêng ít sách hiếm, người khác không được sờ vào; ánh sáng đèn lúc tối trời. Tất cả là để nói lên cách sống trưởng giả trong một phức thể gồm những giá trị và những đặc quyền tại những đô thị kỹ nghệ lớn. Phức thể (complex) này kết tinh trễ hơn là người ta tưởng. Giai cấp trung lưu thời Victoria vẫn thường sử dụng cách đọc sách lớn giọng, một thành viên trong gia đình là "người đọc lên", cho những người còn lại, hay là cuốn sách được truyền khẩu, từ "giọng này qua giọng khác". Thật là vô ích, nếu phải nhấn mạnh những thay đổi lớn lao mà sách in - ý nghĩa của chữ chủ yếu do mắt nhìn thấy chúng - đã đem đến cho những hình thức xưa cũ hơn, là cách đọc lớn lên cho nhiều người cùng nghe. Marshall McLuhan đã khai triển "cuộc cách mạng Gutenberg" (c.1400-68, người Đức, phát minh ra máy in), ở nơi ý thức Tây Phương. Vấn đề chưa được hiểu rộng rãi là, có bao nhiêu văn chương - và bao nhiêu văn chương "hiện đại" - không được ấp ủ, để đọc trong thầm lặng, riêng tư…”
Ở Miền Nam Việt Nam, thú kể chuyện Tầu, chuyện Vân Tiên ở mấy ông bà già hình như chỉ chịu lui bước khi vai trò kể chuyện được truyền lại qua một em nhỏ biết chữ trong gia đình, buổi tối vặn lớn ngọn đèn dầu hôi, đọc lớn cho cả nhà nghe những câu chuyện đăng từng kỳ trên nhựt trình. Thanh Tâm Tuyền, vào Nam năm 1954, đã sớm nhận ra sự khác biệt giữa hai dòng văn chương của hai miền. Trong tiểu thuyết của ông, nổi bật là những xen đoạn tả cảnh sông nước bến phà, họp chợ trên sông, sinh hoạt trong một xóm chị em, tiếng hát vọng cổ trong đêm khuya vắng… Ông như muốn chuyển cõi riêng của một chàng trai Bắc Kỳ vào cõi chung của một miền đất thật mới lạ đối với ông. Nên nhớ, cái thú vui xuồng xã thân mật ở trong một xóm chị em, ở ngoài Bắc không có. Người ta làm việc đó một cách lén lút, và coi đó như là tội lỗi, hoặc nó (cái xấu) là chỉ dành riêng cho giai cấp có tiền, hoặc có tài: không phải ai cũng có thể cầm trống chầu để mà được quyền tới xóm bình khang, hưởng thú hát ả đào. Nếu ở trong thơ, ông ao ước, ‘khởi từ ca dao qua tự do’, ở trong văn, ông như muốn làm một cuộc hôn nhân giữa viết và nói, viết và kể (chuyện)… Ngược lại, cái cõi riêng lạ hoắc kia, cái lối viết là viết riêng cho mình, là chuyển tải ý thức, cuộc sống nội tâm vào cuộc sống xô bồ bên ngoài xã hội, đã ảnh hưởng tới một số cây viết Miền Nam. Viết thế nào thì độc giả thế đó.
Note: mẩu trên, thấy trong archives.


Hậu hiện đại là cái gì?

Postmodernism.
After 1945, there was radical questioning of the basic, savagery in human nature
. William Golding, Iris Murdoch, Norman Mailer, and John Fowles brought this theme into fiction. The freedom to write explicitly of sex and violence was taken further. Drama and the novel now presented the human dilemma in terms influenced by French existentialist philosophy. The theatre of the absurd, with Samuel Beckett and Harold Pinter, took dramatic speech away from the communicative and naturalistic to the inconsequential. The term Postmodernism has been given to the extension of Modernism into a more radical questioning of the integrity of language and the uncertainty of all linguistic performance.
The Oxford Companion to the English Language.
*

Hậu hiện đại là sau hiện đại. Sau hiện đại, là sau Lò Thiêu, Lò Cải Tạo.
Hậu hiện đại như vậy,
[there was radical questioning of the basic, savagery in human nature] là tìm cách trả lời, tại sao có Lò Thiêu, có Lò Cải Tạo.
*
Trịnh Lữ, và Hoàng Ngọc Hiến, mỗi người đưa ra một ông, là người đầu tiên sử dụng từ hậu hiện đại. Trong bài viết của Hoàng Ngọc Tuấn cũng không đưa ra một ông thực sự là tác giả của thuật ngữ trên, từ đó suy ra, đây tuy là một trào lưu, nhưng không có ai là chủ súy của nó. Liệu, bất cứ một quan tâm tới cái ác Lò Thiêu, Lò Cả Tạo, đều có thể là chủ nhân của từ hậu hiện đại?

Vụ này làm Gấu nhớ đến cuộc tranh luận về vấn đề ai là tác giả của vi tích phân, Leibniz hay Newton. Đến nay cũng chẳng ai biết được!