*
















*

Mẹ

Mùa hè Còn Mãi
Truyện Dài
Nguyễn Chí Kham


30.4.2010

Dân Thái chiến đấu đòi dân chủ mấy tháng nay.
Bây giờ, tới lúc đếm xác chết!
Hình Paris Match, 20-26 Mai, 2010

Sun, May 30, 2010 1:36:44 PM
Ông đúng là 1 kẻ vô học
From: Thái Du Trương
To: TV

Hà, hà!
Cóc mở miệng!

Gấu này, sợ có học hơn ông Thái Dúi!
Nhưng với một tên VC mất hết nhân tính, như ông, thì đành phải tỏ thái độ vô học thôi. (1)

(1)
Ngoài bài này, còn bài của anh Trương Thái Dúi, cũng cùng một tông, đem đủ thứ anh hùng vĩ nhân trong lịch sử ra đọ với Bác.
Lịch sử quả có nhiều vĩ nhân.
Nhưng những huyền thoại về họ thường là được đám đệ tử, hậu thế phịa ra, để phù hợp với vĩ nhân, và sự nghiệp để lại cho đời.
Cứ giả như Bác Hồ là vĩ nhân, thì cái sự nghiệp của ông là cái gì nếu không phải là những tai ương, những điêu tàn, đổ nát, lòng nguời ly tán?
Yêu hay ghét Bác Hồ thì cũng đâu có thay đổi được thực tại đất nước?

Cần mở ngoặc thêm về Ngô Đình Diệm và sự thất bại không thể nào khác của ông ta ở đây. Một lãnh tụ không có huyền thoại đã là không ổn, ngoài ra họ Ngô lại còn là một giáo dân Thiên Chúa.
Thái Dúi (1)

(1) Bạn phải đọc ngược, thì mới ra tên của anh này. 

Diệm thất bại, là đúng. Ông không có huyền thoại, theo cái kiểu tự đút ống đu đủ vào đít mình thổi mình, mà chỉ có bi thoại, như cả một Miền Nam có bi thoại, là một lòng một dạ tin vào thằng anh ruột Bắc Kít của nó.
Nhân vật Diệm này, là do niềm tin về một lực lượng thứ ba, và một Mít hoàn toàn Mít, theo nghĩa quốc gia, dân tộc, không Việt gian, Pháp gian và nhất là không Cộng sản. Đây là đề tài cuốn Người Mỹ Trầm Lặng của Greene. Khi tác giả viết truyện đó, ông không thể ngờ, nó tiên tri ra thời hậu chiến Mít, chứ không phải là ở thời khi bắt đầu, với cú bom xe đạp ở Catinat.

Đây cũng là điều dân Miến nói về nhà tiên tri Orwell:
Tờ Asia Literary Review, [Đọc văn Á châu] số mới nhất, có bài viết của Andrew Lam, Love your Parents, Follow Your Bliss, kể câu chuyện ông chọn viết văn thay vì làm y sĩ, ngược lại ý muốn của cha mẹ, và một số bài dành cho Miến điện.
Bài xã luận, Editor’s Notes, viết:
Rangoon, người ta nói, Orwell viết câu chuyện của Miến điện trong ba cuốn tiểu thuyết, không phải một, và họ gọi ông là Nhà Tiên Tri. Những ngày Miến, Burmese Days, là câu chuyện quá khứ thực dân thuộc địa của Miến, Trại Loài Vật, Animal Farm, những năm khủng khiếp dưới chế độ độc tài của tướng Ne Win, và 1984: Ác mộng ngày hôm nay, tạm dịch cụm từ “the soulless dystopia of today”.
*

ngoài ra họ Ngô lại còn là một giáo dân Thiên Chúa.

Đúng là đồ khốn kiếp!
Obama đen thùi lùi mà làm tổng thống Mẽo đấy!

Tín hữu Ky Tô không phải là Mít.
Dân Nam Bộ cũng không phải Mít.
Chỉ Bắc Kít là Mít.
Đó là lý luận của những tên Thái Dúi, Đông B này.

Đọc blog của chúng, giọng đầy hận thù với Ky Tô giáo, chúng gọi là Kiêu dân.
Kiêu sao bằng Bắc Kít?
Ác sao bằng Bắc Kít?
Độc sao bằng Bắc Kít?
Cứ coi tình trạng đất nước bây giờ thì rõ.

Bác Hồ, như hồ sơ mật Điện Cẩm Linh ngày càng làm lộ ra, là một người bán mình cho Đệ Tam Quốc Tế. Người ăn lương của Đông Phương Cục, và là nhân viên của cơ quan này, suýt mất mạng trong vụ Stalin thanh trừng đám cựu trào. Những điều trên bây giờ đều là những sự kiện, facts, không phải huyền thoại. Bác Hồ có thể là vĩ nhân, nhưng không phải hoàn toàn của dân Mít chúng ta. Chán thế.

Ngô Đình Diệm mang trong ông huyền thoại về một con người Mít hoàn toàn Mít, không đảng phái, không Đệ Tam, Đệ Tứ, không Việt gian bán nước cho Tây, cho Tầu, cho Liên Xô. Cùng với huyền thoại về một vĩ nhân Mít hoàn toàn Mít đó, là huyền thoại về một lực lượng thứ ba, như Gấu đã từng lèm bèm nhiều lần, đây là đề tài của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng của Greene. Fowles khuyên anh chàng Mẽo ngây thơ, trầm lặng, mang Phượng về Mẽo, quên mẹ nó lực lượng thứ ba đi: lịch sử diễn ra đúng như vậy, nước Mẽo đã dang tay đón bao nhiêu con người Miền Nam bị cả hai bên bỏ rơi, những cô Phượng ngày nào.
NT vs HCM

Từ trước giờ Gấu viết Gấu đọc, bạn văn VC chắc có đọc, chẳng dám lên tiếng, rồi VC không phải bạn văn, hẳn là đọc, nhưng cũng vờ. Vậy mà hai cú chúng lên tiếng liền tù tì, là cú dám đụng vô Hoàng Cầm, bây giờ là Bác Hồ, và cháu ngoan của Bác là anh Thái Dúi!
Cũng thú!

Cái nick Thái Dúi này, Gấu mượn của một anh bạn tù. Do tên tiếng Việt rất dễ trùng, nên đám tù phải đặt nick để phân biệt. Một trong những cái nick tuyệt vời nhất mà Gấu còn nhớ là Sơn Mê Ô, tức Sơn Méo; rồi Thái Dúi, Hùng Võ Sĩ, Thành Tô Ma… Gấu, không có nick, và bởi vì Gấu là tên già nhất, chúng gọi là Bố, thời gian ở Đỗ Hòa, Nhà Bè. Một phần còn là vì Gấu lo công việc y tế trong Đội, anh nào muốn nghỉ một ngày lao động, là phải năn nỉ Gấu.
Anh Thái Dúi này, mơ biết mấy, thì cũng chẳng mong có 1 ngày đuợc làm người tù cải tạo!
Ban cho đặc ân như vậy, mà còn chửi Gấu là kẻ vô học!
*
Nhưng, Gấu thực sự không tin, tay Thái Dúi này hiểu được nỗi đam mê, thèm 'hỗ trợ thế giới', thèm có được 1, chỉ 1, và chỉ 1 mà thôi, 1 ngày cải tạo, như TCS thèm 1 ngày lính, như anh chàng Kiệt trong Bếp Lửa của TTT, thèm trở về để kịp chết vì cuộc chiến, như là một anh sĩ quan VNCH bị lầm là VC!

Cái anh tù Thái Dúi, Gấu nhớ ra rồi. Đó là thời gian tù ở nông trường Phạm Văn Cội, Củ Chi, cũng rất ư là thiên đường. Nông trường nằm lẫn trong dân, ngay đằng sau lều là nhà dân, thành thử tắm rửa, đánh răng, rửa mặt gì gì cũng chạy qua bên đó; ngược lại, do dân đói hơn tù, nên bao nhiêu phần ăn tù, thường nhường hết cho dân, vì tù khi đó, mới giải phóng mà, còn có thăm nuôi đầy đủ, và cũng không xa thành phố.

Kỷ niệm thật tuyệt, lần Gấu Cái lần đầu tiên thăm nuôi. Đám tù túa ra nhìn ngắm, tấm tắc, có anh còn có vẻ tủi thân. Thái Dúi bỗng chêm một câu giữa những ồn ào, lần sau chị đi thăm nuôi, nhớ mặc áo dài, tụi này thèm nhìn cái áo dài thành phố quá!
Nhưng lần đầu Gấu Cái đi thăm nuôi tại nông trường Đỗ Hòa, thì thật quá thê luơng, nhưng về già, nhớ lại vẫn thấy tí tức cười!
*

Những Bí Ẩn Về Nguyễn Tấn Dũng
Hoàng Dũng Cập nhật : 01/06/2010 01:28

Ông Hoàng Dũng ký tên dưới bài này không biết có thực không, song những "bí sử thâm cung" mà ông kể, chúng tôi đã được nghe từ cửa miệng của một cộng tác viên trực tiếp của ông Nguyễn Văn Linh (khi ông Linh làm tổng bí thư). Tất nhiên, cũng phải thêm là chúng tôi xin giới thiệu bài này với "sự dè dặt thường lệ". Nhân tiện, cũng xin "bật mí" he hé một sự việc khác. Việc này không do ông Linh nói với ai cả. Bạn đọc có thể vào mục hình ảnh của Google, bảo nó bấm hình ông Nguyễn Văn Linh và hình ông Lê Hồng Anh (đại tướng công an, bộ trường bộ công an). Xin cứ so sánh hai nét mặt, rồi rút ra kết luận, hay ít ra là một giả thuyết.

Note: Cái Sa Pô này là của "người chúng ta ở Paris"!
Cũng một thứ nằm gầm giường như nhà đại phê bình mà thôi!
Dân Mít đâu cần mấy thứ chuyện "bật mí" này?
Con thằng chó chết nào dân Mít cũng từ chết đến… chết!

Đặc biệt, từ thuở còn thanh niên cụ Hồ đã có một mối tình đầu rất đẹp với một người con gái miền Nam (sự thật này đã được nhà văn Sơn Tùng sưu tầm và công bố trong bài viết “đi tìm Út Huệ”), do vậy cụ Hồ có một ấn tượng và thiện cảm đặc biệt với những người phụ nữ Nam bộ. Biết thế nên Bộ chính trị đã chỉ đạo cho Trung ương cục miền Nam, mà lúc này Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung ương cục, phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ chính trị. Thời điểm đó thì Võ Văn Kiệt đang là ủy viên Trung ương cục được cụ Nguyễn Văn Linh tin tưởng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt này. Trong số vài cô gái tuyển lựa được lúc đó đang chuẩn bị bố trí bí mật đưa ra miền Bắc, có một cô còn trẻ và rất sắc sảo họ Phan. Giữa lúc đó thì tình hình chiến sự đang diễn ra khá ác liệt nên không thể đưa các cô đi ngay được và rồi không hiểu thế nào mà ông Kiệt lại quan hệ dan díu với chính cô gái họ Phan kia. Đến lúc sự việc vỡ lở thì cô gái đã có thai được mấy tháng rồi. Thế là cô ta phải ở lại và cái bào thai đó chính là vị tổng Giám đốc Tracodi : Phan Thanh Nam sau này.

Quà Miền Nam dâng Bác mà Sáu Dân cũng nếm trước. Giả như cô gái không dính bầu, thì đúng là Bác hưởng sái!
Hay là cũng tính buôn vua, như Lã Bất Vi?


Ôi chao, bây giờ thì Gấu giải ra được cái thai đố ẩn tàng trong câu phán khủng khiếp của Kafka rồi:
"Trong cuộc chiến đấu sinh tử tay đôi giữa mi và thế giới, hãy hỗ trợ thế giới."
“Dans le combat entre toi et le monde, seconde le monde”
“In the duel between you and the world, back the world.”
Franz Kafka, “Suy nghiệm về tội lỗi, đau khổ, hy vọng và con đường thực sự, le vrai chemin”.
*
“Trước kia, tôi không hiểu tại sao người ta không trả lời câu hỏi của tôi, bây giờ tôi không hiểu tại sao tôi lại cho rằng tôi có thể đặt câu hỏi. Nhưng thật ra tôi không tin gì cả, tôi chỉ hỏi để hỏi, vậy thôi”
«Autrefois je ne comprenais pas qu'on pût laisser ma question sans réponse, aujourd'hui je ne comprends pas que j'aie pu croire possible de questionner. Mais je ne croyais pas du tout, je questionnais seulement.»
(Franz Kafka, « Méditation sur le péché... »)

Mi phịa ra nỗi đau Lò Cải Tạo, mi đúng là thằng khùng!
Mi phịa ra Cái Ác Bắc Kít, mi thuổng Anus Mundi, Hậu Môn Thế Giới, của Milosz, mi…
*

« Tu peux t'abstenir des souffrances du monde, tu es libre de le faire et cela répond à ta nature; mais cette abstention est peut-être précisément la seule souffrance que tu puisses éviter. »
(Franz Kafka, « Méditation sur le péché ... »)
Mi có thể tránh né khổ đau của thế giới, mi vô tư làm chuyện đó, bởi vì mi là như thế; nhưng biết đâu đấy, cái sự tránh né này chính là nỗi đau khổ độc nhất mà mi có thể tránh né!

NAISSANCE D'UN ADJECTIF

« Kafkaïen, ienne, adj. (v. 1950). Qui rappelle "atmosphère oppressante des romans de Kafka. "
L'adjectif qualificatif - reconnu officiellement par le Petit Robert - est le reflet d'une gloire ambiguë, mais certaine, qui n'a pas toujours servi l'écrivain, à la fois célèbre et méconnu. Alexandre Vialatte, le premier traducteur en français, s'en irritait déjà il y a vingt ans. "En 1926 ( ... ), je croyais lancer un des princes de l'humour. Je retrouve un roi des ténèbres."
Tôi tưởng tôi giới thiệu một trong những ông hoàng tiếu lâm, hóa ra là vì vua của đêm đen
Vialatte, dịch giả Kafka ra tiếng Tây, 1926

Un homme souterrain
L'écrivain praguois était un rat de l'écriture qui n'avait besoin que d'une plume et d'une lanterne pour survivre
Người dưới mặt đất
Nhà văn Prague là một con chuột chữ chỉ cần một ngòi viết và một ngọn đèn soi để sống sót.

Ui chao lại nhớ lần đầu tiên đến nhà bạn C…. (1)
Ui chao lại nhớ những lần len lén bò dậy trong khi cả nhà yên giấc, mò ra cái bàn, bật ngọn đèn, y chang một tên ăn trộm...

(1)
Ngay từ những ngày đầu tới chơi, thấy anh T. ngồi co cả hai chân lên ghế, trước một cái bàn nhỏ ở góc nhà, tôi đã tưởng tượng, phải nói là đã mơ ước, tương lai của mình sau này rồi sẽ y hệt như vậy...
Một Người Anh


&

Hình căn cước


Essays
Czeslaw Milosz
PROUD TO BE A MAMMAL
Essays on war, faith and memory
Translated by Catherine Leach, Bogdana Carpenter and Madeline G. Levine
295pp. Penguin. Paperback, £9.99. 9780141 193199 

While Czeslaw Milosz saw his rejection of the logic of totalitarianism - a logic that seemed to absorb every contrary intellectual position into itself - as a "revolt of the stomach", it was not simply a negative movement, but a matter of keeping faith with intuitions of true goodness and value. Trying, in The Captive Mind (1953), to explain his position, he describes a moment during the Second World War when, in a dense crowd milling about a vast railway station in the Ukraine, amid the din of political slogans barked from loudspeakers, he saw a husband, wife and two children, whispering together. "This was a human group, an island in a crowd that lacked something proper to humble, ordinary human life."
In one of the essays in Proud To Be a Mammal - a new selection of his autobiographical and philosophical prose writings - he remarks, "could I start anew, every poem of mine would have been a biography or a portrait of a particular person, or, in fact, a lament over his or her destiny". The volume is full of such biographical sketches - their vividness sharpened by a consciousness of social and political catastrophe, in which human existence acquires a terrible "plasticity", and the particular is annihilated. One essay is a personal map of the city of Wilno (Vilnius), recapturing the lost human worlds of its streets. Another is a description of two elderly sisters, Anna and Dora, "defenseless against historical time, and simply time itself', their names remembered by "no one but me".
Milosz rejects, with sardonic humor, or a "despairing cheerfulness", modes of thought that subject human existence to the forces of "History" or "matter". He searches for a philosophy that would support his perceptions of human value, a philosophy defying the absurdity of the world. His refusals sustain and are sustained by hope. "If I am mistaken in my faith, I offer it as a challenge to the Spirit of the Earth."
Proud To Be a Mammal is a rich volume, and the writings included are well chosen - though they should not, perhaps, have been left undated. Nevertheless, this is a rewarding introduction to an achievement that was little short of heroic.
BERNARD MANZO
TLS 18 May 2010


BOOKS
THE GREAT AND THE GOOD
Somerset Maugham 's sense of vocation.
BY RUTH FRANKLIN

The Secret Lives of Somerset Maugham

*


Chim Việt Cành Nam

Nguyễn Du (1765-1820)
Phản Chiêu Hồn


A RIVER RUNS THROUGH HIM


*

Tình cờ đọc câu "SG mùa này thì cứ triền miên buổi chiều và rả rích đêm khuya", trên lưới, nhớ mưa SG quá, bèn viết tiếp.
Nhờ vậy quen CM. Rồi từ CM ra NL.
Không quen, nhưng thấy trong friends list của CM.

Thế rồi một bữa đẹp trời nhận được cái mail, đề nghị dịch Istanbul, của một tay lạ hoắc. Nhờ CM hỏi giùm, thật không đấy?
CM hỏi NL. Thật đấy.
Thế là dịch.
Tks all.

Quái nhất là cái tay lạ hoắc.
Rất rành ‘văn phong’ của Gấu!
Để rảnh kể tiếp.


Ha Jin khởi sự nghề văn [viết một cách nghiêm túc] sau cú Thiên An Môn, 1989, mà ông gọi là sự bắt đầu cuộc đời của ông như là một nhà văn, ‘nguồn của mọi nhiễu nhương’ [‘source of all the trouble’]. Tác phẩm đầu tay bằng tiếng Anh của ông là một bài thơ, “The Dead Soldier’s Talk”, cuộc nói của người lính chết, cho một xưởng thơ, poetry workshop, ở Brandeis. Ông thầy, thi sĩ Frank Bidart, đưa bài thơ cho Jonathan Galassi, lúc đó là tay chủ biên thơ của tờ The Paris Review. Ông này vồ ngay lấy, in liền tút suỵt! Với sự hối thúc của Bidart, Jin xin gia nhập chương trình MFA, học viết giả tưởng, của Đại học Boston. Tốt nghiệp, đi dậy ở Emory University ở Atlanta, vừa dậy học vừa viết truyện ngắn, tiểu thuyết, được mấy cái giải thưởng, PEN/Faulkner Award, the Flannery O’Connor Award dành cho truyện ngắn, một cái Guggenheim fellowship, và The National Book Award.

The Paris Review:
Vào cái thời ông sống dưới chế độ CS, ông có cảm thấy ngột ngạt không?
Không. Tôi cũng bị tẩy não vậy.
Làm thế nào mà trở thành không còn bị tẩy não?
[How did you become un-brainwashed?]
Đó là một tiến trình dài. Thoạt đầu, tôi không thể tưởng tượng thế giới quá biên giới TQ: như hầu hết những người TQ trẻ, tôi trở thành rất ái quốc và tin tưởng ở cái phải, cái đúng của cách mạng và của đảng. Nhưng, trong khi tôi theo học tại Đại học Shandong, tôi bắt đầu đọc một lố văn học Mỹ từ nguyên tác, và dần dần nhận ra có rất nhiều đường hướng giao tiếp, thông cảm, và có những dân tộc sống khác hẳn [người TQ]. Và, viết bằng một ngôn ngữ khác thay đổi tôi.
Ông về lần nào chưa?
Ha Jin:
Chưa.
Không bao giờ về ư?
Chưa về đất liền, nhưng Đài Loan, Hồng Kông thì có. Lúc đầu hăm hở về lắm, để thăm gia đình, bạn bè. Tôi kiếm đủ mọi cách, nhưng 7 năm qua tôi không làm sao gia hạn, renew, thông hành, không làm sao đi ra khỏi Mẽo. Rồi tôi trở thành công dân Mẽo, và tôi chán ngấy cái chuyện trở về. Bạn thử nghĩ coi, sách của bạn thì bị biếm - bạn có thể trở về, nhưng sách của bạn thì không được phép. Tôi không sao chấp nhận cái trò đó.
Tại sao sách của ông bị biếm [banned]?
Tôi viết toàn đề tài cấm kỵ: Tây tạng, chiến tranh Triều tiên, Cách mạng Văn hóa. Sau cú Thiên An Môn, tôi còn la dữ. Những cuốn sách của tôi làm nhà nước bực. Tôi không hề có ý định những gì tôi viết ra có tính chính trị. Nhưng những nhân vật của tôi thì chạy trời không khỏi nắng. Nói vậy để cho thấy, vô phương tránh né chính trị, nhất là ở TQ. Và, lẽ dĩ nhiên, nhà cấm quyền TQ sợ những câu chuyện thực được kể từ quan điểm của cá nhân. Còn vấn đề nữa, tôi là một thứ misfit, không thích hợp. Tôi lại còn to tiếng nữa, outspoken. Tôi viết bằng tiếng Anh, và như thế là bị coi như một kẻ phản bội tiếng mẹ đẻ. Tôi đi Mẽo, vờ phục vụ nghĩa cả, nhiệm vụ của Đảng giao cho. Đối với họ, tôi đúng là một con sâu làm rầu nồi canh, một thí dụ xấu, a negative example.


Tưởng niệm  Hoàng Cầm

Thai đố Lá Diêu Bông, hóa ra lại là thai đố mà viên y sĩ phải giải, khi nghe tiếng gọi cấp cứu của con bệnh ờ mãi tít Miền Nam. Muốn tới được, thì cần phải có cặp ngựa cho chiếc xe, kiếm hoài kiếm huỷ, điên tiết đá tung cái cửa chuồng lợn bỏ hoang, con quỉ xuất hiện với cặp ngựa. OK muốn cặp thì đổi nó lấy người làm Rose.
Giá đó nặng quá!
Bởi vậy viên y sĩ mới than, ta đã bị lừa!
Đúng vào lúc anh chiến sĩ VC, trong cuộc tử chiến với thế giới, cần hỗ trợ thế giới, thì bèn hỗ trợ Cái Ác Bắc Kít!


Võ Đình
Đêm Tận Thất Thanh là một nhánh kỳ hoa đó


Mấy ngày qua, do khám phá ra mỏ phim cũ, Gấu miệt mài với nó, coi đến mù con mắt, vì khói thuốc lá!

Quả là có một thời, không có điếu thuốc lá, là chẳng có gì hết, nhất là thời đại phim đen trắng. Trong phim Le Samurai, với thần tượng của Tây, Alain Delon, cảnh mở ra phim thật là tuyệt vời, chàng kiếm sĩ cô đơn, tay hit man bị cả hai phái chính, cảnh sát, tà, trùm giang hồ, săn đuổi, nằm ngửa trên giường, thở khói thuốc thành một vùng trắng mờ mờ trong căn phòng tối… Bạn của chàng chỉ là một con chim trong chiếc lồng, nhưng con chim hóa ra là cái tín hiệu alarm của chàng…


I Will Win You


le thi diem thuy trở về thăm xứ Mít:


NT vs HCM


*

Trong hồi ký của Nguyễn Hiến Lê, khi về già, sau 1975, ông có kể, về một lần ông bị đau, mà không làm sao tìm ra căn do, sau nhờ một ông bác sĩ khám phá ra, da qui đầu của ông chưa được cắt.
Gấu nhớ chuyện này, khi đọc cuốn La Circoncision, của Bernhard Schlinh, tác giả Người đọc chuyện, The Reader.
Gấu khám phá ra ông khi đọc truyện trinh thám, policier, Mùa hè ở Mã nhật tân, có lúc tưởng là có hai ông khác nhau, nhưng chỉ một.

Qua một nhân vật trong La Circoncison (1), một thứ "tân truyện", dài hơn truyện ngắn, ngắn hơn truyện dài, kiểu Kẻ Xa Lạ, Bếp Lửa, tác giả cho rằng, người Do Thái đã phát minh ra cái trò cắt da qui đầu, để có con chim “thật ra trò”, [không mềm như bún, thì cứ nói đại ra ở đây].
Ở Tây phương, theo như Gấu được biết, khi bé trai sinh ra, là họ cắt da qui đầu liền tù tì, để ngăn trường hợp như đã xẩy ra với NHL.
Lễ cắt da qui đầu, La Circoncision, là câu chuyện 50 năm sau Đệ nhị chiến, Andi, một anh cu Đức, và Sarah, một hĩm Do Thái, gia đình sống sót Lò Thiêu, thử sống tình yêu, mặc dù gánh nặng quá khứ.
Đọc, GNV lẩn thẩn tự hỏi, hay là mình phịa ra cái trò ‘đau đáu nỗi đau Lò Cải Tạo’ cho Bắc Kít, Yankee mũi tẹt?
Chúng có bao giờ đau nỗi đau này đâu!

(1) Gấu coi lại, đây là một trích đoạn từ truyện dài, Tình trốn chạy, Amours en fuite

De même, tandis que j'écrivais sur Auschwitz et la torture, je ne comprenais pas encore clairement que ma situation ne pouvait se ramener entièrement au concept de "victime nazie" ; ce n'est qu'en arrivant à la fin de mon travail et en méditant sur la nécessité et l'impossibilité d'être juif que je me reconnus aussi dans l'image de la victime juive.
Jean Améry
Chỉ một thằng Bắc Kít di cư 1954, thí dụ như Gấu, thì mới đau cái 'đau thắng trận 30 Tháng 4 1975', tới hai lần: Một, như là ‘nạn nhân Nazi’, một, như là ‘nạn nhân Do Thái’!

Moi, je traine le fardeau de la faute collective, pas eux.
Jean Améry
Tớ, Gấu Nhà Văn, vác gánh nặng Lò Cải Tạo, không phải chúng!

The Paris Review Xuân 2010

*

Trên số báo The Paris Review mới nhất, Mùa Xuân 2010, có mấy bài thú vị.
Thú và lạ, là bài phỏng vấn [encounter] có tựa đề ở ngoài bìa là Gunman for Buddha [Sát thủ của Đức Phật!], ở trong: The Monk’s Tale, câu chuyện của vị tu sĩ Phật giáo.
Tuyệt. Nó làm GNV nhớ đến “sát thủ” Văn Cao, đến Cửa tùng đôi cánh gài của Nhất Hạnh.
Nhân chuyện đôi uyên ương kiếm phật, có lẽ cũng thú vị, nếu giới thiệu sát thủ của Đức Phật tới độc giả TV.
*
Bài phỏng vấn Ray Bradbury cũng tuyệt. Ông là tác giả cuốn Fahrenheit 451 nổi tiếng.
Bật mí một câu hỏi/đáp ở đây.
Phỏng vấn gia:
Một trong những câu chuyện phổ thông nhất trong cuốn sách [The Martian Chronicles] là “There Will Come Soft Rains”, về một ngôi nhà cơ khí hoá, a mechanized house, vẫn tiếp tục hoạt động sau khi ăn bom nguyên tử. Không có người ở trong đó. Ông moi đâu ra cái ý tưởng đó?
Bradbury:
Sau cú Hiroshima, tôi nhìn thấy một tấm hình một căn nhà trên tường in bóng những người bị cháy cùng lúc bị nén lên tường. Người thì đi rồi, bóng còn ở lại, tôi 'ấn tượng quá', bèn chôm liền!
*

William Dalrymple: The Monk’s Tale

Phỏng vấn viên:
Làm sao có thể vừa là thầy tu vừa là chiến sĩ?
Tashi Passang:
Một khi là tu sĩ, thật khó giết người. Nhưng đôi khi đó là nhiệm vụ. Tôi biết, nếu tu ở chùa, dưới chế độ TQ, thì không có cách chi để thành tu sĩ. Họ không cho tôi tu. Bởi vậy, để bảo vệ Phật giáo, to protect the ways of Lord Buddha, the Buddhist dharma, tôi quyết định chiến đấu.
Không bạo động phải chăng là khía cạnh cơ bản để trở thành tu sĩ,
Isn’t nonviolent an essential aspect of being a monk?

Đúng như thế, bất bạo động là cơ bản của dharma. Điều này đặc biệt đúng đối với một tu sĩ.



Nabokov: Fiodor Dostoievski [1821-1881]
UNDER EASTERN EYES


Vụ Án