*





le thi diem thuy trở về thăm xứ Mít:


Note: GNV là người đầu tiên giới thiệu bà với độc giả báo Văn Học, của NMG, qua bài Tạp Ghi dưới đây.

Chữ người tử tù 

Nhà văn Isaac Bashevis Singer, khi phải lựa chọn một số truyện ngắn, để làm một tuyển tập, ông nói đùa, mình đúng là một đấng "quân vương", với ba ngàn cung tần mỹ nữ, và hàng lô con cháu. Chẳng muốn bỏ đứa nào!

Ông sinh năm 1904, tại Ba Lan, di cư sang Mỹ năm 1935, và một thời gian làm ký giả cho tờ báo cộng đồng Jewish Daily Forward, tại New York City. Chỉ viết văn bằng tiếng Iddish, và được coi như nhà văn cuối cùng, và có lẽ vĩ đại nhất của "trường" văn chương Iddish.  Vĩ đại hơn, ông là nhà văn Iddish đầu tiên, sống nhờ viết văn. Chúng được dịch ra tiếng Anh, rồi ông được trao tặng Nobel (1978). Là một trong số những dịch giả truyện của mình, với ông, tiếng Anh  còn là ngôn ngữ mẹ đẻ thứ hai, nhưng ông thú nhận, ông viết bằng tiếng Iddhish, vì đây là "tử ngữ', và truyện của ông là để cho những người đã chết, đọc.

 Trong Nhà Văn Hiện Đại, khi Nguyễn Tuân mới xuất hiện, Vũ Ngọc Phan đã tiên đoán, văn tài của ông sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới lớp sau. Có thể mượn nhận định của Sartre, về chủ nghĩa Mác-xít: tùy bút của Nguyễn Tuân quả đã "không thể vượt được", nhất là chất khinh bạc của nó, đã "di truyền" mãi mãi về sau này. Như nhìn ra "phần số khắc nghiệt", để bù lại, trong truyện ngắn, Nguyễn Tuân  thường viết về những người đã chết. Ở đó, chất khinh bạc mất hẳn, hoặc được ngôn ngữ kỳ diệu của ông đẩy tới tột cùng, biến thành lòng nhân hậu.

 Cảnh Huấn Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của đời mình rồi quay sang nói với viên cai ngục, hãy kiếm một nghề khác mà nuôi thân, (con người như ông, những chữ như thế này  phải tìm đất khác để mà tụ lại): chẳng đợi người cai tù nói hết câu: xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ chưa khô mực. Khó mà thấy cõi lòng nhân hậu đó, của Nguyễn Tuân, ở trong những trang tùy bút tuyệt vời như Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn... kể cả sau này, trong những bài ký thời chống Mỹ cứu nước, như thể ông càng đi nhiều, càng gặp người (sống) nhiều, tài hoa, lòng nhân hậu của ông càng hao mòn dần... 

 Chữ người tử tù: lý tưởng một đời người, ý nghĩa của chữ. Trên đỉnh non Tản: hiện thực huyền ảo. Non Tản: Cái nôi, chốn hành hương, cội rễ nhà trời, nơi trời Việt, đất Việt gặp gỡ...

 Cá nhân người viết làm quen với Nguyễn Tuân rất sớm, phải nói là quá sớm. Mới biết đọc, biết viết, "thằng bé" đã nghe đọc văn ông, ở những bậc cha chú trong gia đình. Người bác trong lúc tâm đắc với một người bạn về những viên ngọc vương vãi, trên con đường từ giếng trời trở về trần, vô tình để mãi những viên ngọc trong trí tưởng của đứa cháu. Thế đấy, cậu bé đã dùng những viên ngọc như vậy để đánh dấu những trang sách hồng, Ông Đồ Bể, Cái Ấm Đất, của Khái Hưng. Đánh dấu những trang sách của một chuyện tình (chúng làm cho những lần chia ly bớt thê thảm đi một chút); của cuộc chiến: như những viên đất ném theo, ném theo mãi, xuống lòng huyệt...

Nhận xét của họ Vũ về thể văn tuỳ bút, ở Nguyễn Tuân, không ngờ đầy chất tiên tri. Những bài viết của ông sau này, là ký, không còn là tuỳ bút.

Với tuỳ bút, cái "tôi" rất quan trọng. Cá nhân người viết, khi đọc "Những essays hay nhất trong năm của Mỹ", The Best American Essays, thấy chúng rất giống thể văn tuỳ bút, ở tính tự thuật, ở chất hồi tưởng, và nhất là ở tấm lòng của người viết, khi chuyện trò với những hồn ma. Tuyển tập Những bài essay hay nhất (hàng năm) của Mỹ, có một đặc biệt: mười hai năm hiện diện cho tới nay, mỗi năm mời một tác giả làm "guest editor", thường là những khuôn mặt "đang lên": Joyce Carol Oates (1991), Susan Sontag... Gần đây nhất là Jamica Kincaid (1995), Geoffrey C. Ward (1996).

Tuyển tập 1997, với Ian Frazier lo việc in ấn và viết lời giới thiệu, có bài viết của Lê Thị Diễm Thúy, The Gangster We Are All Looking For. Qua phần ghi chú tiểu sử, chúng ta được biết, bà là một nhà văn, và nghệ sĩ trình diễn đơn (solo performance artist). Sinh tại Việt Nam, lớn lên tại miền Nam California, hiện cư trú tại phía tây Massachusetts. Đã từng đoạt giải thưởng 1997 Bridge Residency của Headlands Center for the Arts. Văn xuôi và thơ của bà đã xuất hiện trên The Massachusetts Review, Harper's Magazine, và Muae. Tác phẩm trình diễn: "Red Fiery Summer" và "the bodies between us". Hiện đang viết cuốn sách với nhan đề nêu trên, sẽ do Knopf xb.

Đọc Gã Găng-tơ Tất Cả Chúng Ta Tìm, chúng ta sẽ thấy hậu quả của cuộc chiến đè nặng lên những nhân vật trong truyện, và thật khó mà nghĩ rằng,  nó đã chấm dứt, không phải với chúng ta, mà với những thế hệ tiếp theo. Câu chuyện bắt đầu bằng một tấm hình đen trắng: Việt Nam là một tấm hình đen trắng, chụp ông bà tôi ngồi trên những chiếc ghế tre... Khi nhìn bức hình ông bà tôi, ở những năm cuối đời của họ, tôi cứ muờng tượng ra một sự khởi đầu. Khởi đầu cho cái gì, và ở đâu, tôi không biết, nhưng luôn luôn là một sự khởi đầu... Ký ức của bà mẹ truyền lại cho người con (nhân vật xưng tôi): Mẹ tôi có nghe một câu chuyện về một cô gái bị chết vì bom na-pan, khi xuống bãi dúng chân vào nước cho mát. Người ta kiếm thấy cô nổi lềnh bềnh trên mặt biển. Chất lân tinh của trái bom trùm lên thân thể cô, khiến nó lập lòe như một ngọn đèn...

Trên nói tiên tri, đối với cả thể văn tùy bút, lẫn con người Nguyễn Tuân. Một cách nào đó, khi ông phải "từ chối" tác phẩm (Những tác phẩm viết trước cách mạng như Tàn Đèn Dầu lạc, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, hoặc sau đó, như Phở chẳng hạn), tôi nghĩ, có thể ông tin rằng, tuy ông bị ở lại, nhưng thể văn tuỳ bút, và con người Nguyễn Tuân ở trong đó, đã "vượt thoát". Đã sống sót, ở một số nhà văn sau ông. Thí dụ như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo... Có điều, cả Nguyễn Tuân lẫn Vũ Ngọc Phan không thể ngờ, thể văn tuỳ bút lại trở thành một địch thủ lợi hại của thơ ca và giả tưởng, như trong bài Tựa của Robert Atwan, cho Tuyển tập 1997 kể trên: "Sự thay đổi của thể essay ngày hôm nay làm cho thi ca và giả tưởng trở thành tù đọng: essay là một dạng văn chương năng động nhất hiện nay của chúng ta. Nào là essays kể (narrative), như của Lê Thị Diễm Thuý, rất gần gụi với thể truyện ngắn. Essays khảm (mosaic) giống như thơ xuôi. Rồi phê bình văn chương mang dạng tự thuật. Thể văn báo chí mang giọng bi kịch, cộng thêm ẩn dụ, suy tưởng, với một liều lượng rất nặng tay, những thông tin. Một vài nhà essayists viết tranh luận (polemic) "cứ như thơ"!

Trong bài Giới thiệu, Ian Frazier lại coi essay là một hành động (Thì "đi" không phải là một hành động hay sao?, tôi như nghe Nguyễn Tuân, Vũ khắc Khoan, tuyết ngưu "gầm gừ" từ phía bên kia đời sống vang vọng qua). Ông định nghĩa thêm: Một bài essay là một người đang nói. Câu này thật đúng với tuỳ bút Nguyễn Tuân. Đây là sự khác biệt giữa hai Nguyễn Tuân, giữa tùy bút và ký. Có thể nói khinh bạc là tuỳ bút Nguyễn Tuân. Với ký, con người biến mất, chỉ còn "chúng ta", một khối vô danh đáng ghét, đáng sợ. 

Có thể có người "bắt bẻ"; trong truyện ngắn, trong tiểu thuyết, luôn luôn vẫn thấy, vẫn nghe người nói; nhưng người ở đây chỉ là giả tưởng, cái tôi trong tiểu thuyết, truyện ngắn là một tôi đeo mặt nạ. Khác hẳn cái tôi "bắt buộc", như chất khinh bạc, ở trong tuỳ bút Nguyễn Tuân. Khi nào quá chán cái tôi khinh bạc, ông viết về những người đã chết...

NMG đọc bài này, thú quá, gật gù phán, ông đúng là biến "tạp ghi" thành "sáng tác", tôi không làm được như ông!

Một nữ sĩ, đọc đoạn viết về Nguyễn Tuân, gật gù, NQT viết về ai thì cũng là về NQT!

Cá nhân người viết làm quen với Nguyễn Tuân rất sớm, phải nói là quá sớm. Mới biết đọc, biết viết, "thằng bé" đã nghe đọc văn ông, ở những bậc cha chú trong gia đình. Người bác trong lúc tâm đắc với một người bạn về những viên ngọc vương vãi, trên con đường từ giếng trời trở về trần, vô tình để mãi những viên ngọc trong trí tưởng của đứa cháu. Thế đấy, cậu bé đã dùng những viên ngọc như vậy để đánh dấu những trang sách hồng, Ông Đồ Bể, Cái Ấm Đất, của Khái Hưng. Đánh dấu những trang sách của một chuyện tình (chúng làm cho những lần chia ly bớt thê thảm đi một chút); của cuộc chiến: như những viên đất ném theo, ném theo mãi, xuống lòng huyệt... 

Tks. NQT

....như những viên đất ném theo, ném theo mãi, xuống lòng huyệt...

GNV, bi giờ đọc lại mẩu trên, mà còn cảm thấy bồi hồi!
Những hòn đất ném theo mãi có thực, và là cái cảnh lúc hạ huyệt thằng em trai, tại nghĩa trang Gò Vấp.
Cái cô Mai ở trong truyện Những Ngày ở Sài Gòn chịu cảnh này tới hai lần, một lần ông anh trai, một lần, ông bạn của anh, và là người yêu của cô, sau khi cô đậu Tú Tài I ít lâu.
Lần thi Tú Tài II, cô không thèm đi coi bảng, coi đậu hay rớt. Gấu phải đi, về, không thèm nhìn Gấu, cô nói, rớt rồi, phải không?
Lần sau cùng, Gấu gặp cô là ở nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi.
Cô đi thăm nuôi thằng em trai.
*
(1)
Thú thực, GNV này rất là hơi bị phản cảm với cái từ "đau đáu"!
"Mãi đau đáu với xứ Mít", sao bằng "mang một đứa bé chết, là anh cu Mít, ở trong bụng"?
"Phản cảm" thì cũng chịu không thấu!
Chắc là nghe quen tai từ 'sốc' rồi.
Hà, hà!

Making America

Lucy Carlyle
lê thi diem thúy

The Gangster We Are All Looking For.
 

        Before The Gangster We Are All Looking was published in the United States in 2001, lê thi diem thúy was a performance artist with a reputation for thoughtful, autobiographical theatre. In works such as Red Fiery Summer and the bodies between us (now being developed into a novel), she explored war, cultural colonization, memory and identity, drawing on her childhood experience of transplantation from Vietnam to the USA. With The Gangster We Are All Looking For she translates this intimate exploration of the relationships between Asia and the West into fiction. 

Like the author, the narrator is a young girl taken out of Vietnam on a boat by her father, settling in Southern California, where her mother later joins them. The books draws on thúy’s own  experience to relate the aftermath of that emigration – relocation from one unsatisfactory dwelling to another, the discomfiture of being stranded in a strange land and the fear of implosion as the family turns in on itself in frustration.

Through the eyes of her younger self, the child refugee, thúy translates the details of Californian life into mysteries and wonders. 

We stood in front of Ken's admiring the many shining pairs of dress-up shoes, each positioned at such an angle as to suggest the wearer had floated out of them, while the shoes, too heavy to follow, had to stay behind.
By means of such imaginative misinterpretation, America becomes something other than itself: not Amenca, not Vietnam, but a place of dislocation, of overwhelming foreignness and mystery. But thúy extends this inexplicability to her own family. She imagines how their entraced late-night visit to the supermarket must have appeared to passers-by: “they made no purchase and left shortly before 1 a.m., lay down in the spice aisle while the man was absorbed with the different varieties of salt available”. If the family make America strange, America likewise converts them into strangers in a process of mutual alienation.

Reflecting the alien nature of both the country and its new inhabitants, the narrator conveys not only a foreigner's interpretation of Western Iife, but a perplexed knowledge of her parents. She notes strictly unintrusive eye that her mother shaves her head after an argument and  wears a baseball cap; that while watching kungfu movies she slaps her legs with pleasure; that her father becomes "prone to rages" and then inscrutably sits still all night, The daughter believes that her mother was once a good Catholic girl, her father a gangster but the veracity of either claim is not established. 

Partly, we understand that this failure in understanding is due to the misapprehension inherent in love, to the mysteriousness of childhood. But it also appeals to spring from the loss of memory caused by the family’s transplantation. Unexplained reference a lost brother suggest a disconnection from history, while the confused reactions of her parents to the realities of American life convey a disengagement with the present moment.

In possession of neither past nor present, the focus of the narrative between both, just as the central character floats between the world of home and the outside world. Meanwhile, a disturbing sense of unsatisfied, unlocated blame drifts around the household, and in particular the narrator's father, prompting the daughter to resolve that one day she will become “the gangster we are all looking for-, swallowing blame and restoring the family to emotional dry land.Thúy explores these watery dislocations in language as delicately as a butterfly. A perverse sense of beauty informs her narrative, bestowing grace on acts of violence and passion and suggesting the charmed perception of a dreamer. She provides some magnificent metaphors. Eyes are “empty of expression, like two pieces of volcanic rock that have been drowned in a river to cool"; pebbles fall on her mother like “warm kisses on the curve of her back”; a bruise unfurls like a "blossom".

 Through her exquisite, transformative sensibility, lê thi diem thúy creates the possibility of understanding unfamiliarity as both dangerous and wonderful. She suggests that this double-edged sense of strangeness is an inevitable component not only of emigration, but also of the most intimate human relationships. And, while anatomizing the traumatic discontinuities which scar her family's story she creates the possibility of eventual return to a lost past through careful remembering.

 TLS số Jan 9 2004


Making America
Tạo Dựng Nước Mỹ
Lucy Carlyle
đọc
lê thi diem thúy
The Gangster We Are All Looking For.
Tên Găng Tơ Mà Tất Cả Chúng Ta Tìm.
Nhà xb Picador, 160 trang, 12.99 Anh kim.
Nhà xb Knopf [Mỹ], 18 Mỹ kim. 

Lời giới thiệu: Sự xuất hiện của những nhà văn Việt Nam, viết văn bằng tiếng của quê hương thứ hai của họ, và nổi tiếng trên toàn thế giới, thí dụ như Linda Lê, ở Pháp, viết văn bằng tiếng Pháp, với những nhân vật không thể nào quên được quê hương thứ nhất của tác giả, tức Việt Nam, và ở đây, là lê thi diem thuý, với cuốn tiểu thuyết đầu tay viết bằng tiếng Anh, vừa xuất hiện đã được tờ báo văn học uy tín hàng đầu trên thế giới, là tờ Phụ Trang Văn Học Thời Báo Luân Đôn, TLS, trang trọng giới thiệu, dưới nhan đề, đây là những con người tạo dựng nên nước Mỹ. 

Trân trọng giới thiệu [bản tiếng Việt] bài điểm sách nói trên.

NQT 

Trước khi The Gangster We Are All Looking For được xb tại Mỹ vào năm 2001, lê thi diem thúy là một nghệ sĩ trình diễn có tiếng trong giới kịch nghệ, với những tác phẩm mang tính tư tưởng, tự thuật. Qua những tác phẩm như Red Fiery Summer [Mùa Hè Đỏ Lửa, 1972, cũng là năm sinh của bà], và the bodies between us [những xác thân ngăn cách chúng ta, hiện đương được chuyển thành tiểu thuyết), bà đào sâu, khai phá những đề tài như chiến tranh, tính thực dân đô hộ về văn hóa, hồi ức, và căn cước từng cá nhân [identity], dựa vào kinh nghiệm trẻ thơ của bà, như là một cô gái, bị bứng ra khỏi Việt Nam và trồng lại ở Mỹ. Với The Gangster, bà chuyển những mầy mò khám phá riêng tư, thầm kín, về những liên hệ giữa Á Châu và Tây Phương, thành thể văn hư cấu. [The Gangster đã từng xuất hiện trong “Những tiểu luận hay nhất của Mỹ trong năm 1997”. CTND] 

Như tác giả, nhân vật kể chuyện ở trong The Gangster là một bé gái rời Việt Nam trên một con thuyền cùng với bố, định cư tại miền nam tiểu bang California ở Mỹ, bà mẹ sau cũng tới sống với họ. Cuốn sách dựa trên kinh nghiệm riêng của thúy, kể những gì xẩy ra sau cuộc dời đổi – tái định cư, từ một nơi ăn chốn ở không đuợc thoải mái, tới một nơi ăn chốn ở khác, sự chưng hửng nơi đất lạ, và nỗi lo sợ tai ương có thể bùng nổ bất cứ lúc nào, vì những cấu xé, trì chiết ở trong gia đình.

Bằng con mắt của một bé gái, của một bản ngã đang phát triển, một bé gái tị nạn, thuý chuyển những chi tiết vụn vặt của cuộc sống tại tiểu bang California ở Mỹ, thành niềm bí ẩn, và sự ngỡ ngàng.

     Chúng tôi ngồi trước mớ giầy chưng diện, đẹp đẽ, bóng loáng của Ken, đôi nào đôi nấy mỗi đôi mỗi kiểu, mỗi đôi mỗi góc,     như thể người mang giầy thì đã tuột ra khỏi, trong khi giầy, do nặng nề không thể theo, nên bị bỏ lại.

 Bằng những kiểu giải thích lầm lạc mang tính tưởng tượng như thế, nước Mỹ trở thành một cái gì khác chính nó: không phải Mỹ, không phải Việt Nam, nhưng mà là một nơi chốn của sự lạng quạng, trật chìa, trục trặc [a place of dislocation], của xa lạ thái quá, và của bí ẩn. Nhưng thuý đẩy sự không thể làm sao giải thích này về phía gia đình của mình. Cô tưởng tượng, những người qua đường đã nhìn như thế nào về gia đình của cô, nhân một lần đi siêu thị quá khuya: “Gia đình này chẳng mua sắm gì hết và rời siêu thị ít phút sau, trước 1 giờ sáng, sau khi đứa bé, có lẽ là con gái của họ, nằm giữa lối đi ở khu bán gia vị, trong khi người đàn ông thì mê mẩn với đủ thứ chai lọ, bao bì đựng các loại muối ăn.”

 Nếu gia đình này làm cho nước Mỹ trở thành xa lạ, thì cũng có thể nói ngược lại, y như thế, nghĩa là, nước Mỹ biến những người trong gia đình này thành những kẻ lạ, trong tiến trình “mày làm tao sao, thì tao làm mày y hệt như vậy” [a process of mutual alienation].

 Trong khi suy nghĩ về bản chất của sự xa lạ - của cả hai, một bên là xứ sở thâu nhận họ, và một bên là những người mới tới - người kể chuyện chuyên chở, không chỉ sự giải thích cuộc sống Tây Phương, của một người ở bên ngoài cuộc sống đó, mà còn thêm một hiểu biết thật ngỡ ngàng của cô, về cha mẹ của mình. Cô để ý, với con mắt gần như không muốn can thiệp vô, hay xâm phạm tới, sự kiện, mẹ cô cạo trọc đầu, sau một lần cãi lộn với cha cô, và sau đó đội một cái nón đánh banh; hay sự kiện này, trong khi coi phim chưởng, mẹ cô thích thú ngồi rung đùi, và điều này làm cho cha cô “như phát khùng”, và sau đó, ngồi cứng ngắc, bất động suốt cả đêm. Cô con gái tin rằng, mẹ mình ngày xưa là một người con chiên ngoan đạo, còn cha cô, là một tên găng tơ, nhưng  thực hư ra sao, chẳng làm sao biết.

  Một phần, như chúng ta thấy, sự thất bại trong việc hiểu biết lẫn nhau này, là do sự chẳng hứng thú gì, trong tình yêu [giữa ông bố và bà mẹ], và một phần, là do tính bí ẩn của tuổi thơ ấu [the myteriousness of childhood]. Nhưng có thể còn do sự mất mát hồi ức vì gia đình bị bứng ra khỏi mảnh đất này, đem tới mảnh đất khác. Sự nhắc nhở không giải thích tới một người anh, hay em trai đã mất, khiến chúng ta có thể nghĩ rằng, có một sự đứt đoạn về lịch sử câu chuyện, trong khi đó, những phản ứng lớ ngớ của cha mẹ cô gái về những hoàn cảnh thực tế của cuộc sống Mỹ, điều này như muốn nói lên sự bất bình, không muốn nhập vào thời điểm hiện tại, cuộc sống hiện thời.

 Do chẳng thể sở hữu cái đã mất, đã qua, cũng như cái đang có, đang cầm trong tay, điểm xoáy của câu chuyện kể vì vậy cứ đong đưa giữa quá khứ và hiện tại, và cũng thế, là nhân vật chính, cứ đong đưa giữa thế giới trong nhà, và thế giới bên ngoài. Cùng lúc, cái cảm giác khó chịu về một trách cứ không được thoải mái, không nơi bám trụ cứ thế lững lờ ở bên trong gia đình, nhất là ở nơi ông bố, như muốn thúc đẩy một điều rằng, một ngày nào, cô con gái sẽ trở thành “tên găng tơ mà tất cả chúng ta đang tìm”, cô sẽ nuốt trọn trách cứ, tủi nhục và ổn định lại gia đình tại mảnh đất khô cằn cảm xúc này.

 Thuý khai triển những mất mát do đổi dời bằng một ngôn ngữ duyên dáng như những cánh bướm. Một cảm quan ngược ngạo về cái đẹp là một dấu báo tuyệt vời về cách kể chuyện của bà; bằng một cách nhìn ngược ngạo về cái đẹp như thế, bà đã ban ân sủng cho những hành động hung bạo, và niềm đam mê, gợi ra cách cảm nhận khả ái đáng yêu, của một người đang mơ mộng. Bà đem tới cho người đọc một số ẩn dụ tuyệt vời. Đôi mắt “trống vắng mọi  biểu tỏ, như hai cục đá núi lửa, trầm xuống dòng sông để nguội dần”; sỏi rớt xuống lưng mẹ như “những nụ hôn ấm áp trên làn da cong của bà”; vết bầm giập nở ra như một “bông hoa”. 

 Qua sự mẫn cảm tinh tế nhắm tới thăng hoa, viên mãn, lê thị diem thuý sáng tạo được một điều, rằng, con người có thể hiểu được cái bất thường, cái vượt lên khỏi sự thông thường, rằng, cái bất thường này thì vừa nguy hiểm, vừa thật là tuyệt vời. Bà gợi ý, rằng, cái cảm quan “đôi bờ” đó, về niềm xa lạ, không chỉ là một thành tố không thể tránh được, của sự dời đổi từ nơi chốn này tới nơi chốn khác, nhưng mà còn của một trong những liên hệ thầm kín, riêng tư nhất, của con người. Và trong khi mổ xẻ những đứt đoạn đau thương tạo thành vết sẹo trong câu chuyện về gia đình mình, bà sáng tạo điều khả thể, về một sự trở về với quá khứ đã mất, thông qua sự tưởng nhớ một cách thật là thận trọng, nghiêm túc. 

Dịch từ Phụ Trang Văn Học Thời Báo Luân Đôn, TLS, số đề ngày Jan 9 2004
Ghi chú:

Như tiểu sử được ghi trong tuyển tập “Những tiểu luận Mỹ hay nhất trong năm 1997”, lê thi diem thuý là nhà văn và nghệ sĩ độc diễn [solo performance artist]. Sinh tại Việt Nam, được gia đình nuôi dưỡng tại nam California, bà hiện [1997] cư ngụ tại miền tây tiểu bang Massachusetts. Bà đã từng nhận học bổng 1997 Bridge Residency at the Headlands Center for the Arts. Văn và thơ của bà xuất hiện trên The Massachusetts Review, Harper’s Magazine và Muae. Những tác phẩm như Red Fiery Summer và the bodies between us đã được trình diễn ỡ nhiều nơi, trong đó có Museum of American Art at Philip Morris, International Women Playwrights’ Festival an Galway, Ireland, và tại New World Theater at the University of Massachusetts. Bà đang viết một cuốn sách cho nhà xb Knopf, Tên Gangster Tất Cả Chúng Ta Tìm.

Tiểu luận/truyện ngắn The Gangster lần đầu xuất hiện trên The Massachusetts Review.

Trên tờ Diễn Đàn, tháng Bẩy, 2003, Trần Hữu Dũng, điểm cuốn sách trên của lê thi diem thúy, cho biết thêm một số chi tiết: lê thi diem thúy [không viết hoa] sinh năm 1972 tại Phan Thiết. 

Trên báo Văn Học, Cali, của Nguyễn Mộng Giác, người phụ trách mục Tạp Ghi đã giới thiệu lê thi diem thuý, khi Tên Găng Tơ Tất Cả Chúng Ta Tìm xuất hiện trong tuyển tập “Những Tiểu Luận Hay Nhất Của Mỹ trong năm 1997”. Sau đó, tác giả đã chuyển bài tiểu luận thành tiểu thuyết.

NQT