*




                                       


   Mùa hè còn mãi
  Nguyễn Chí Kham                 

                                   

                                                     Phần Thứ Nhất

                                                                I

            Chỉ còn ít hôm nữa là Thụy hết thời gian nghỉ phép. Sáng nay, lúc sắp xếp quần áo và các thứ quà bánh vào túi vải nhà binh, chặt gọn, căng đầy, bỗng dưng lòng anh thấy nôn nao, lạ thường,  tưởng như đang mang mang một nỗi nhớ về người mình yêu. Thực sự, Thụy đang yêu và ước mơ về Ninh Hà. Nàng đã đi lấy chồng, nhưng trong tình yêu, nàng vẫn còn để lại cho anh với rất nhiều lá thư.

            Huế, thành phố và con người có chung một dòng sông. Mới cách đây một tuần , không khí của mùa thi rộn rã , hoa phượng đỏ rực trời, trên đường Lê Lợi bao nhiêu tà áo trắng làm sáng đẹp một ngày mai như đó là sự xuất hiện những đàn chim thiên thần. Nhưng rồi, vang âm ấy chợt bơ vơ sau hồi trống im bặt, vắng lặng, có chút gì tựa áng mây phiêu bạt bên trời  làm bạn cảm thấy nó muộn màng, chẳng còn nữa sự đợi mong.

-Anh không đi đâu chơi ?

            Nhi xuất hiện ở thềm cửa, trên bàn tay nắm đầy một chùm quả mận vừa mới hái ngoài vườn. Thụy nhìn cô em gái và thấy cả một nụ cười dịu sáng nơi cặp mắt vui của thiếu nữ.

-Anh còn bao nhiêu ngày phép nữa ?

-Sắp hết rồi.

            Nhi để những quả mận vào dĩa, xong kéo chiếc ghế ngồi xuống. Một cơn gió vừa làm dịu đi sức nóng và trong tiếng lào  xào bên ngoài vườn, Thụy ngửi được cả mùi vị thơm của lá và trái cây.

            Nhi ăn ngon làm Thụy thèm, anh lấy một quả nhỏ, vừa cắn đã thấy có vị chát.

-Anh Nguyên lúc này, sao ?

-Anh ít khi về nhà.

            Rồi một giọng thân tình, Nhi nói:

-Anh ấy đã có chị Vân Oanh.

-Bạn gái của anh ?

            Cô em gật đầu, mắt nhìn Thụy như thể dò ý. Thụy hỏi:

-Hai anh chị quen nhau lâu chưa ?

-Em không rõ, chắc là mới đây thôi.

-Em  đã gặp chưa ?

-Có chứ. Anh Nguyên đưa chị Oanh về nhà chơi mấy lần.

-Chị Vân Oanh cũng người Huế.

-Không, ở Đà Nẵng.

-Lạ nhỉ, sao anh Nguyên không nói gì hết.

-Anh về phép sớm hơn là gặp chị rồi.

-Anh đâu hay biết gì mà có ý định về thời gian nghỉ phép.

            Sau câu nói, bỗng dưng Thụy băn khoăn. Gia đình ở Đà Nẵng, cô gái ra Huế học trường Mỹ Thuật năm tới là năm thứ hai. Từ  ít nét qua trí tưởng, hình ảnh Vân Oanh tỏa rộng trên khung vải một bức tranh thiếu nữ có một gương mặt đẹp, phảng phất nỗi buồn. Và với chiếc áo dài tím, cô gái cũng cho anh lắng nghe ra tiếng nói, hình dung từng dáng cô bước đi thật dịu dàng như  những bông hoa vừa mới nở.

            Thụy hỏi Nhi:

-Mẹ có hay biết gì không ?

-Có.

-Mẹ nói sao ?

-Mẹ rất vui. Cả nhà, ai cũng mến chị.

-Ờ nhỉ, anh đã hình dung thấy rồi. Mong là, hình ảnh chị ấy như anh đang nghĩ tới.

            Một giọng vui, Nhi nói:

-Chị Oanh có đọc truyện anh  viết.

-Vậy à. Anh Nguyên đưa cho chị.

-Không phải, em đưa.

-Chị có nhận xét gì không ?

-Chị nói, anh thật lãng mạn.

            Lòng vui Thụy mơ nghĩ đến người con gái, và nàng còn đây, đang hiện diện trong tâm trí anh.

            Ngày hôm sau, buổi sáng trời mưa Thụy đi Phú Bài để ghi chuyến bay. Viên Trung úy nhận giấy phép xong, quay lại xem bảng phi trình, nói:

-Ngày mai có hai chuyến Sài Gòn. Anh muốn đi sáng hay trưa ?

-Tôi muốn đi chuyến sáng.

-OK. 8 giờ có mặt.

            Xong việc, Thụy ra về. Trời đã tạnh. Thật may, Thụy xin quá giang được chuyến xe nhà binh về phố. Xe chạy không nhanh, trên đường, Thụy nhìn ngắm quang cảnh đồng quê hiện ra trong vẻ ẩm ướt sau cơn mưa. Lạ nhỉ, một niềm bâng khuâng trong anh như thể cơn gió lạnh trở mùa. Thụy đang nghĩ đến câu chuyện của Nhi nói về một cô gái mà anh chưa được gặp. Cô đã đến Huế, rồi xa nơi này đã lâu chưa thấy trở lại.

            Thụy cứ lan man mơ mộng bóng dáng cô gái, rồi sực tỉnh khi xe về tới thành phố. Huế vẫn đông vui, rộn ràng. Xe ngừng lại phía bên đây cầu Trường Tiền. Thụy nhảy xuống xe, đưa cao tay vẫy chào tạm biệt anh tài xế và hai người lính ngồi phía trước. Họ gửi lại anh một nụ cười. Từ dốc cầu, Thụy thong thả đi bộ đến sạp báo nằm ngoài khuôn viên Đài Phát Thanh. Phong nhận ra Thụy, vội la lớn tiếng làm nhiều người nhìn anh chú ý. Ngày trước, Thụy khá thân với Phong. Nhớ một thời đi học, những buổi chiều hè Thụy thường có mặt  ở đây say mê đọc báo và hết sức vui được nghe những lời bàn luận thể thao của các cổ động viên cùng tâm ý như mình. Thế nhưng, nay thời gian đã đổi khác Thụy rất nhiều, anh  không còn say mê môn bóng tròn như trước nữa, mà từ ngày đi lính, trong lòng anh mang nặng nhiều ý nghĩ  về chiến tranh, về cuộc đời, vừa hoài nghi từ những mối mặc cảm.

            Vừa chuyện trò với bạn , Phong vẫn tiếp khách mua báo. Một lúc sau, câu chuyện ngừng hẳn vì khách đến khá đông.

            Thụy mua tờ báo Nghệ Thuật số cũ. Từ ngày sáng tác được vài truyện ngắn đăng báo, Thụy bắt đầu chú tâm đến các sinh hoạt văn nghệ, và ngày càng trở nên yêu thích việc đọc sách, kể cả cái thú đến phòng triển lãm xem tranh.

            Thụy không đứng lâu, trả tiền báo xong anh và Phong bắt tay. Phong hỏi:

-Hôm nào đi ?

-Ngày mai, Thụy đáp.

            Đứng ở trong quầy, cái dáng người cao, hơi gầy của Phong vẫn như ngày nào. Có chuyến xe buýt vừa đến, đang ngừng,  Thụy vội chạy nhanh. Lên xe, Thụy ngồi cạnh một cô gái. Tờ báo cầm trên tay, Thụy mở ra đọc lướt. Cô gái cũng ghé mắt nhìn vào trang báo của anh. Hai người không hỏi nhau một câu. Những hàng cây lùi rất xa trên đường xe đang chạy. Bên kia công viên, dòng sông đang chảy vào thành phố, Thụy chợt nghĩ đến ngày mai lên đường.

            Xe ngừng ở nhà ga, Thụy và cô gái cùng bước xuống. Mỗi người đi một ngả. Thụy vẫn nhớ được về cô gái qua cặp mắt nâu và cánh tay áo dài trắng.

            Về đến nhà, Thụy vui lây trong tiếng mấy đứa em reo mừng. Anh Nguyên cũng có về nhưng đã vào lại đơn vị.

            Sau bữa ăn, Thụy mở ví lấy tiền đưa cho mẹ một ít rồi còn lại là cho mấy em. Thụy đi lính, đồng lương không nhiều, nhưng anh vẫn luôn cố gắng dành dụm cho những kỳ được về phép thăm gia đình. Trong một thoáng lặng im, Thụy lại nhớ anh Nguyên  , và nhớ rất nhiều trong sự hình dung qua từng nét về một cô gái.

-Sang năm anh về phép nữa không ?

-Chưa biết. Nếu xin được kỳ nghỉ, anh về thăm.

            Có tiền của Thụy cho, em anh, đứa nào cũng cất dành. Những ngày qua anh sống thật nhẹ nhàng yên vui với mỗi bữa ăn, mỗi câu chuyện của người mẹ và các đứa em, trong tâm tình đó,  những dòng thơ Huy Cận anh yêu thích bỗng dội lên những cơn sóng nước giạt dào, tỏa ánh một miền quê , miền ấy, là quê ngoại mà trong tâm tư anh thường hay mơ tưởng đến.

            Thụy trải chiếu lên tấm phản, đặt chiếc gối xong , lăn người nằm. Anh ngủ ngon giấc, lúc thức dậy, đã nửa buổi chiều. Rửa mặt xong, anh rời nhà đi bộ qua thăm dì Quyên. Nhà dì anh ở gần, đầu ngã ba trông xuống bến sông. Trời vẫn còn hanh nóng, chưa dịu hẳn.

            Vừa thấy Thụy trước cửa, Phương lên tiếng, cô gái nhìn người anh họ qua ánh mắt vui. Rồi một cô gái mặc áo trắng chợt quay đầu nhìn làm Thụy ngạc nhiên, liền nhớ ra ngay là mới gặp cô lúc trưa trên chuyến xe ngừng đỗ ở trạm nhà ga.

            Bà dì ở nhà sau đi lên, với nụ cười thật điềm đạm.

-Ngày nào con đi ?

-Dạ ngày mai.

            Nhìn gương mặt dì Quyên, Thụy cố gắng tìm một lời để nói. Và, lúc đó Phương giới thiệu anh  với  cô bạn học. Thụy và cô gái nhìn nhau hơi bỡ ngỡ. Nhưng rồi, lướt qua bằng giọng tự nhiên , thật vui Thụy nói:

-Anh có linh cảm là tới đây để tìm em.

-Thực không ?

-Cô hỏi bạn của cô đi.

            Phương nhìn hai người, tỏ ra ngạc nhiên. Chỉ qua ít giây bối rối thôi, câu chuyện trở nên rõ ràng, và Thụy hơi dài dòng khi thuật lại sự tình cờ gặp cô bạn của Phương trên chuyến xe buýt đi từ dưới phố lên ga.

            Thụy kéo ghế ngồi. Vừa lúc ấy, có tiếng rao quà của người bán hàng rong. Dì Quyên vội đứng lên đi ra cửa, rồi cất tiếng gọi. Một lúc sau, chị bán quà xuất hiện đặt chiếc gánh xuống thềm hiên.

            Cả ba người ngừng chuyện để chờ bữa quà chiều. Rất nhanh gọn, mỗi người một dĩa bánh với nước mắm dằm ớt cay.

            Ngồi bên ngoài, chị bán hàng cầm chiếc nón đưa lên quạt. Trên vầng trán của chị ít giọt mồ hôi còn đọng. Người nào ăn cũng thấy ngon. Cô gái hay ngừng đũa nhìn qua Thụy. Cô gái có nước da ngăm, cặp mắt nâu, và trên áo trắng thêu tên của cô. Một giọng nhỏ nhẹ, cô hỏi:

-Anh làm việc ở Sài Gòn ?

-Anh đi lính, đóng ở căn cứ Tân Sơn Nhất.       

            Chỉ có mình Thụy ăn thêm. Bà dì, Phương và cô bạn ăn xong một dĩa lớn là quá no. Nhìn ra ngoài hiên, Thụy thấy chị bán hàng đang rửa chén bát ở cái thau nhôm. Vội vàng anh ăn nhanh, xong đứng lên mang dĩa ra trả cho người bán. Bà dì và chị bán hàng cùng tính tiền, sau đó, dì vào nhà lấy một cái dĩa ra mua thêm, dĩa này để phần cho Trinh, em kế Lăng và cũng là chị của Phương.

            Bóng chị bán hàng đi khuất ra cổng. Thụy hỏi Phương:

-Lúc nào em mới tựu trường ?

-Đầu tháng 9.

-Cũng gần đến rồi, hai tuần lễ nữa thôi.

-Mỗi năm anh đều về nghỉ phép.

            Cô gái nhìn Thụy khi hỏi. Lòng Thụy cảm thấy có được sự an ủi của cô qua một giọng nói chân tình. Vậy mà anh cứ băn khoăn tìm cách giải thích cho cô hiểu về tình cảnh người lính không dễ sống yên bình, phẳng lặng như cuộc đời người công chức.

-Anh về phép lần này là lần đầu kể từ khi vào lính, Thụy nói.

            Cô gái tên  Liên An. Thụy nhìn tên cô thêu trên áo, và đọc trong cặp mắt cô một điều thầm lặng.

            Phương quay lưng rút một cuốn sách ở kệ. Cô đem cuốn sách để lên bàn và mở ra trang đầu. Bỗng nhiên cô ngừng đọc hỏi:

-Anh Nguyên đi đâu không thấy ghé.

-Anh còn ở đơn vị.

            Phương ngả người dựa lưng ghế, cười nói:

-Không chắc đâu. Anh đi Đà Nẵng thăm chị Oanh rồi.

-Sao Phương biết ?

-Cả nhà, đều biết.

-Phương gặp chị ấy rồi.

-Chị Oanh  thân với em lắm.

            Thụy ngẩn người, lạ lùng. Cô gái nhìn qua anh. Buổi chiều, có một chuyến xe lửa vừa về đến ga.

-Ngày mai anh đi buổi sáng, hay chiều ?

-Buổi sáng. Sài Gòn lúc này đang bắt đầu mùa mưa.

            Sau điều vừa nghĩ, bỗng dưng Thụy có cảm giác bàn tay cô gái đặt lên vai mình. Hai người nhìn nhau, đôi mắt cô gái hết sức ngại ngùng.

            Và rồi, buổi chiều xuống nhanh. Cô gái đứng lên kiếu từ, trên tay cầm hai cuốn vở và một tập giấy. Thụy cũng muốn về nhà, rồi cùng cô gái đi ra phía cổng.

            Giọng thân tình, cô gái nói:

-Em mong sang năm anh về phép.

-Anh cũng mong như em.

            Hai người đi bộ trên con đường ven sông. Dừng bước lại, Thụy hỏi:

-Nhà Liên An gần đây không ?

-Dạ gần.

-Bên kia cầu ?

-Em ở gần nhà ga .

-Em thích về một mình hay muốn có anh theo.

-Anh tiễn em một đoạn qua cầu thôi.

-Anh sẽ cùng đi với em.

            Trong câu chuyện, cô gái cho Thụy biết qua về gia đình cô. Và, cùng với sự thân tình ấy, cô nói về mẹ anh, các em anh, và rất là thích thú khi cô tả qua cho Thụy nghe về nàng Vân Oanh. Thụy hỏi:

-Em thấy anh Nguyên ra sao ?

-Anh ấy rất đẹp .

-Còn nàng Vân   Oanh?

-Em chưa tìm ra được ai để so sánh với nàng.

-Nhi  đã vẽ hình ảnh Vân Oanh và kể hết chuyện cho anh nghe. Ở thành phố này, vẻ đẹp của áo trắng rất là thuần khiết.

-Anh thích em mặc áo trắng không ?

-Anh rất mong, mỗi cô thiếu nữ, ai cũng đều có riêng cho mình một màu áo yêu thương.

-Anh thật có tâm hồn lãng mạn.

-Anh rất vui được nghe tiếng nói của em.

-Anh có mong gặp lại em không ?

-Anh đang đi bên em. Những ngày tới đây, anh xa khỏi thành phố này. Áo trắng, tên Liên An của em, tên Vân Oanh người con gái xứ Quảng chúng ta vừa nhắc đến là kỷ niệm thật đẹp mà Huế đã cho anh sự rung động của tiếng nói trong ngày về.

-Em có cảm tưởng, anh luôn đi xa, nhưng lúc nào cũng mãi nhớ thương ngày tháng cũ.

-Em nói được những ý tưởng của anh. Những ý tưởng ấy nhắc anh nhớ đến một bài hát rất quen thuộc.

-Anh hát đi.

-Anh không biết hát.

            Sau vài giây, Thụy bỗng nói:

-Anh nhớ được một đôi câu ... nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em vắng tôi một chiều...

            Bóng nắng chiếu nghiêng nghiêng, dòng sông không lớn nhưng nó tạo ra được cái dáng vẻ đẹp riêng cho thành phố. Hình ảnh chiếc cầu trắng sáng màu vôi, theo ánh nắng, bóng hai người đi qua con sông , bỗng nhiên nghe tiếng động cơ nổ dội lên vang thật xa. Và lúc đó, một chiếc thuyền máy xuất hiện lênh đênh trên sóng nước, khi ra khỏi dòng sông nhỏ này chiếc thuyền sẽ gặp dòng sông lớn.

            Nơi đây, trở lại sự  yên bình. Nhà ở hai bên nằm ven theo bờ sông, mỗi căn nhà đều  có khoảnh sân ở phía trước và căn vườn nhỏ sau lưng.

            Bỗng nhiên Liên An dừng bước lại, cô nói với Thụy:

-Đã đi qua hết cây cầu, anh có nhớ lời em nói không ?

-Nhớ chứ. Nhưng sao em không nghĩ anh muốn tiễn em lên nhà ga để đợi một chuyến tàu.

-Anh muốn em làm kẻ lữ hành đơn độc.

-Hãy cùng anh đến đó.

            Thụy nói với cô gái vừa  hình dung về khung cảnh nhà ga, trong buổi chiều muộn màng biết bao nhiêu hành khách mong đợi có chuyến tàu đến, riêng một mình cô gái đứng lẻ loi bên cạnh tháp nước, đôi mắt đăm đăm nhìn về ngôi nhà trống bỏ hoang. Hình ảnh Liên An áo trắng, tấm lòng buổi chiều là gió thổi tung bay mái tóc.

-Anh có ra Quảng Trị thăm quê  không ?

-Có, anh về được ít ngày. Thời trước, nhà anh ở ngay ga Quảng trị. Nhà ở, nhìn sang bên kia con đường ray thấy bóng cái tháp nước.

-Em có linh cảm, anh hay đi xa nhà, nhưng luôn ước mong có được ngày trở về.

-Có được ngày trở về là cả sự bao dung.

            Nhà ga yên lặng, trống vắng. Hai người đã dừng bước, họ đứng bên nhau nhìn qua bãi đất trống. Bên cạnh hàng rào kẽm gai có một hồ nước. Căn nhà lợp mái tôn, sân trước rộng, ở đằng sau, có một con đường nhỏ dẫn ra tới bến đò.

-Em ở căn nhà đó đã mười năm.

-Ngày anh mong gặp lại em, thời gian có đổi khác đi nhiều không ?

-Không, em không biết.

            Thụy cầm bàn tay Liên An, rồi nói:

-Ngày mai anh xa thành phố, xa em nữa. Cám ơn em cho anh một ngày gặp gỡ.

-Em về một mình, nghe.

-Em về một mình.

            Liên An bước đi không ngoái đầu nhìn lại. Thụy bỗng nghĩ, mình mới là người lữ khách đang trông đợi một chuyến tàu 

 

                                                                 II

 

            Lúc nghe tiếng động rất khẽ của chiếc ghế, người mẹ thức giấc. Giọng bình thường, bà hỏi:

-Đi sớm vậy con ?

            Thụy không đáp lời, anh chợt ngửi mùi vị sương muối từ ngoài vườn tan vào, rồi lặng yên ngồi xuống bên giường mẹ. Trên chiếc gối, mái tóc đã bạc của mẹ anh xõa rộng, lúc này, anh vẫn không biết mình muốn nói điều gì.

-Sang năm, con về thăm nhà ?

-Dạ, chưa biết.

-Sao con không xin về ngoài này cho gần nhà ?

            Thụy nắm lấy bàn tay của mẹ. Vừa đủ để cho mẹ nghe tiếng, Thụy nói:

-Ở trong đó con có điều kiện tìm kiếm thêm việc làm.

-Con ở nhà thuê ?

-Không, ở trại lính.       

-Thằng Nguyên có đem cô bạn gái về.

-Con biết.

-Con đã gặp chưa ?

-Dạ chưa.

-Cô Oanh dễ thương lắm, ở Đà Nẵng.

-Dạ.

-Với con, thì sao . Đã quen ai chưa ?

-Chưa.

-Ba mẹ rất mong các con có gia đình.

-Nhưng vẫn còn lâu, mẹ ạ.

            Trong bóng tối, tiếng chuyện trò vẫn gây một cảm giác xa vắng lẫn vào trong  sương muối.  Thụy chợt nghĩ đến người cha. Hình như trong đời mình, ba anh luôn sống xa gia đình nhưng mỗi khi có được dịp trở về, lòng ông thấy rất vui, rồi bao nhiêu hạnh phúc của mình lại chỉ muốn được để dành hết cho người vợ.

-Thôi, mẹ nằm nghỉ đi.

            Thụy nhấc bổng chiếc ghế đem cất. Với túi xách nhỏ trên tay cùng vai đeo ba lô, anh bước ra ngoài và cẩn thận đóng cánh cửa.

            Có tiếng Nhi cất lên gọi. Vừa mới dời bước, Thụy ngoái đầu nhìn  lại rồi vẫy tay tạm biệt cô em gái.

            Nhà gia đình Thụy thuê ở nằm khuất sau lưng vườn, có lối đi riêng bằng đường nhỏ, và trong lúc trời hẳn còn tối Thụy đi bộ ra phía cổng để gặp con đường chính. Thụy dừng bước ít giây vì  mắt anh bị chói lóa bởi ánh đèn điện hắt xuống. Từ con đường ngang trước mặt, anh lại đi bộ lên phía nhà ga nơi có trạm ngừng xe buýt. Một mình, khí lạnh ban mai làm anh cảm thấy thật dễ chịu. Mùa hè như đã xa, và mùa thu là một nơi nào đó.

            Bên ngoài sân ga, đèn mở sáng suốt đêm. Chỉ có một chiếc xe buýt đậu chờ khách. Khi vượt qua khỏi cây cầu Thụy trông thấy hai quán hàng mở cửa bán cà phê. Đèn trong quán hắt ra một vũng nhỏ, và anh đến vừa  kịp lúc xe sắp chạy.

            Người tài xế dụi tắt điếu thuốc, tiếng máy xe nổ khô khan, rồi nặng nề lăn bánh. Ra khỏi ga, chiếc xe vượt cây cầu nằm trên con đường về trung tâm thành phố. Những hàng cây phượng đẫm ướt  qua sương sớm,  ánh đèn điện cứ lùi dần khi xe đang chạy. Thụy nhìn qua công viên thấy sương mù trên sông, thấy những chấm đèn sáng của mấy con thuyền neo đậu, còn bên xa kia kinh thành vẫn đang mờ tối, chập chùng những cái bóng di chuyển trên bức tường gạch.

            Chỉ hơn mười phút từ bến nhà ga, xe đến cầu Mới rồi rẽ xuống phố Trần Hưng Đạo để vào bến chính nằm bên trái khu chợ.

            Xe ngừng, hành khách xuống. Không khí buổi sáng sớm ở bến xe yên lặng, ấm áp. Những người đạp xích lô đang chuyện trò, mấy người buôn bán còn đứng bên cạnh những gánh hàng để chờ xe đổi chuyến. Quán cà phê mở cửa sớm, trong quán, đông khách ngồi. Thụy ghé vào quán, ngồi bàn trống ở ngoài gọi một ly cà phê và thêm chiếc  bánh pâté chaud. Cà phê đã pha sẵn, rất nóng, Thụy uống một hớp nhỏ rồi đốt điếu thuốc. Thụy sẽ ăn chiếc bánh, và uống cà phê sau khi hút xong điếu thuốc. Buổi sáng sớm, trời thấm lạnh, lúc này sắp sang thu. Mùa hè mong muốn đi xa, còn lại thành phố này, bóng dáng con tàu, những chiếc ghế trống và người lính đang ngồi đây với bao nỗi niềm riêng của mình, Thụy chợt nghĩ đến hai hình ảnh thiếu nữ, một cô gái nhỏ bé áo trắng, và một cô mang hình bóng áo tím như đang lớn dậy giữa cuộc đời, hai hình ảnh đó anh có thể mang theo với sự trìu mến ân cần, hay tốt hơn, hãy nên cứ gởi lại cho thành phố để nhớ ngày về.

-Con đã quen ai chưa ?

-Dạ chưa.

            Ly cà phê đậm bỗng làm Thụy nhớ đến Huê. Chiều hôm ấy trời đổ xuống trận mưa lớn. Căn phòng ở tầng lầu hai bật đèn sáng. Trên chiếu bạc, mọi người hồi hộp theo dõi cô Năm làm cái đang bắt bài. Rút cây thứ tư, cô nhẩm  cộng số nút trên từng lá, ra vẻ ngập ngừng, suy nghĩ. Ngân cười nói:

-Còn bài non đó cô Năm.

              Cô Năm không đáp lời mà chỉ nhìn qua mỗi tụ bài của các nhà con đang để úp. Trong lúc chờ , Thụy đếm tiền sắp lại ngay ngắn. Trời mưa lớn, anh nghe tiếng mưa và cứ tưởng mình đang ngóng đợi, trông chờ ai.

-Nhà nào bù, bỏ ra.

               Cô Năm  đã rút thêm cây bài nữa mà Thụy chẳng hay. Huê reo lên:

-Em hên quá.

                Rồi tiếp theo là Ngân nở nụ cười mãn nguyện. Cô  Năm  bắt lá 6 chót, dư một nút, nếu là 5 hay 4, là cô ngũ linh, ăn toàn làng. Từ trái sang phải, theo thứ tự, cô Năm lật bài xem xét lại và chung tiền. Bài của Thụy hai con tây, quá chắc ăn. Từ trưa đến giờ anh thật đỏ, trúng luôn nhưng vì không đặt lớn  nên ăn không nhiều lắm.

                 Hết cái, cô Năm đưa bộ bài qua cho anh Thái. Với bàn tay mau lẹ anh Thái xóc bài, rồi chẻ bài, trước khi mở hội đã lên tiếng :

-Cho đặt líp.

                 Thụy nghỉ chơi, đứng dậy nhường cho Phụng vào chiếu. Ra lối cầu thang, Thụy bước nhanh chân xuống nhà. Nhà dưới vắng lặng, mọi người đang ở trên lầu chơi bài thành hai hội, một hội xì dách, một hội tứ sắc. Ở hội tứ sắc , người lớn chơi và luôn có tay dì Hồng mẹ của Thúy. Thúy cũng đang ngồi bên chiếu bạc, say mê.

                 Thụy đi xuống bếp, mở chạn tủ lấy gói cà phê và chiếc phin ra. Thụy cho cà phê vào phin vừa đúng hai muỗng đầy. Xong, Thụy để phin lên  cái ly nhỏ rồi xách chiếc ấm ra bể lấy nước. Thụy đổ nước đầy ấm đem trở vào đặt lên lò , tay sắp  những thanh củi gác chồng lên nhau xong bật diêm mồi que đóm cho lèn vào dưới lớp củi. Đóm bằng gỗ thông có chất dầu nên bắt lửa, cháy bùng thật nhanh.

                 Gian bếp nằm riêng biệt, không rộng nhưng ngăn nắp. Trên cái bàn gỗ cũ kỹ, phía đầu để một rổ chén bát, và ngay bên trên là ống tròn bằng nhôm móc vào sợi thép cứng để bỏ đũa. Chiếc bàn dựa sát tường phên với nhà bên cạnh, có ô cửa lưới ăn thông. Vào giờ đứng bếp, hai nhà cùng nấu nướng, vừa chuyện trò với nhau. Nhà dì  Hồng và cô Tư rất thân thiện. Bên cô Tư đông con cái đến mười người. Cô chỉ có hai cậu con trai, còn tất cả là gái, từ mấy chị lớn đến các cô nhỏ người nào cũng thùy mị, dễ mến trong cách trò chuyện hay vui đùa. Cô Tư ở nhà nội trợ, còn thầy đang làm Hiệu trưởng trường tiểu học Cầu Kho.

            Thụy đứng cạnh bếp lò nhìn những ngọn lửa cháy sáng đều. Trời mưa lớn, bỗng anh thích thú với ý nghĩ mình sẽ được thưởng thức một ly cà phê thơm, vừa đậm ngon. Mọi thứ, đều đã có sẵn.  Thụy để tay lên túi áo sờ nhẹ gói thuốc, thấy nó còn đầy. Chút nữa, pha xong cà phê, anh uống một ngụm cho ngon miệng rồi sẽ đốt điếu thuốc.

            Bất giác Thụy mỉm cười một mình, liền ngay đó  Huê xuất hiện. Thụy hỏi:

-Sao em nghỉ, không chơi nữa ?

-Em thua, hết tiền rồi.

-Có cần, anh cho mượn.

-Không, em cũng không thích ngồi lâu.

            Thụy ngước mắt nhìn khuôn mặt Huê. Thụy thấy cái dáng vẻ Huê đúng là một thiếu nữ đẹp. Huê mặc bộ quần áo thường có chấm bông đỏ, khuôn mặt trái soan rất hợp với mái tóc cắt ngắn. Và nét đẹp của Huê rất là Tây phương. Thúy, con dì  Hồng  cũng dịu dàng nhưng không đẹp bằng Huê. Trong ngõ hẻm này, từ dãy nhà đầu đến cuối rất đông các cô gái còn đi học, nhưng không cô nào đẹp sánh bằng Huê  cả. Ba mẹ cô gái người Bắc, nhưng mấy anh em đều nói theo tiếng Nam. Huê có hai anh chị học Đại Học. Vào ngày thường, Huê hay mang gạo qua gởi nhà dì Hồng quen gọi là cô Ba để nhờ nấu cơm. Thụy đã để ý đến Huê , và bắt chuyện làm quen sớm hơn ai hết, ngay sau tuần lễ đầu anh đến ở nhà dì Hồng. Huê cũng mến anh, cô rất thường hay qua nhà Thúy và lúc gặp Thụy cô gái chuyện trò rất tự nhiên. Huê học trường Gia Long, cô học khá, là một thiếu nữ rất ghiền xem phim. Thụy cũng mê phim ảnh, các nam nữ tài tử anh đều nhớ hết tên, và những phim kể chuyện tình, lúc xem, anh còn nhớ rõ từng chi tiết. Thế nhưng, Thụy không có được sự kiên nhẫn, chăm chỉ với sách đèn. Thụy đã bỏ học, và rồi đây anh sẽ  xa cách với bao nhiêu kỷ niệm buồn câm nín trong lòng mình.

-Anh đun nước pha cà phê ?

             Chỉ trong ít giây, hình ảnh Huê kéo Thụy  trở về gần gũi bên nàng. Thụy mỉm cười, nói giọng tự  nhiên:

-Trời lạnh, không có gì thú bằng uống cà phê.

-Anh có tâm hồn nghệ sĩ.

-Một chút thôi. Em uống cà phê nghe, uống với anh cho vui.

-Không, em không uống được cà phê.

              Thụy nấu một ấm đầy cho cả nhà dùng luôn nên đứng chờ lâu. Giờ thì nước sôi đã reo, vừa bốc hơi. Cả hai người cùng lặng im để nghe tiếng nước reo, bên ngoài mưa càng lớn.

               Thụy nhấc ấm nước, lửa trong bếp dần tàn ngọn. Huê bước tới gần nhìn anh pha cà phê. Sau khi rưới cho thấm ướt cà phê một chút, Thụy đổ nước sôi đầy phin, xong đậy nắp. Cà phê rớt xuống chiếc ly trong từng giọt đậm, thật đẹp mắt làm Huê  thích thú. Huê đứng ngắm những giọt cà phê chảy, cô chợt nghĩ, nước mưa thì vui như tiếng nói hay tiếng cười, còn từng giọt cà phê là màu đen đậm đặc, nó luôn mang mang  nỗi buồn.

-Em lên chơi bài tiếp đi.

-Bộ anh đãng trí rồi sao ?

-Không. Anh sẽ đưa tiền cho em lên chơi tiếp. Ăn thì mình cưa đôi.

-Còn thua, sao ?

-Thì thôi.

-Thôi, hôm nay em đen lắm. Anh ăn nhiều phải không ?

-Anh được hơn sáu trăm.

-Anh ăn non rồi đứng dậy.

-Anh chơi cho vui thôi. Ít ngày nữa, anh xa Sài Gòn .

-Anh đi đâu vậy ?

               Thụy và Huê bỗng đưa mắt nhìn nhau. Thụy nói, giọng nhỏ đi:

-Ngày mai anh xa em đó, biết không ?

               Huê hỏi:

-Nhưng mà anh đi đâu ?

-Anh đi Nha Trang. Anh vào lính rồi.

-Anh không học nữa sao ?

-Không.

                Thụy đáp, giọng nói khô vừa tan trong tiếng hạt mưa lớn rớt xuống mái tôn. Rồi phút giây ấy lặng im, vừa dửng dưng, mỗi người chợt theo đuổi một ý nghĩ. Thụy vừa thoáng thấy vẻ buồn trên cặp mắt của Huê. Giữa anh và cô gái, không phải hai người có đã có nỗi rung động vì yêu nhau, mà đúng ra, rất mến nhau một cách thân tình như anh em. Lúc nãy chơi bài ở trên lầu Huê ngồi cạnh Thụy , có lúc nàng hơi nghiêng đầu dựa vai Thụy, mắt chăm chú xem những cây bài Thụy bắt lên. Và lúc ấy, Thụy nhìn thấy người em dễ thương lạ.

                 Cà phê ngừng chảy. Thụy nhấc chiếc phin ra khỏi ly, múc mấy muỗng nhỏ đường cho vào cà phê khuấy nhẹ. Cà phê pha xong dậy lên mùi thơm làm Huê thấy thèm, và nàng cũng thấy cái dáng vẻ nghệ sĩ của người con trai qua mái tóc quăn dợn sóng, thật tự nhiên.

                   Thụy cầm ly cà phê đưa mời :

-Em uống thử đi.

                    Rất chậm từng tiếng, Huê đáp:

-Đã bảo, em không uống được mà.

-Em nói giọng Bắc hay lắm.

-Vâng, anh.

                     Hai người nhìn nhau cười. Trời vẫn mưa, mù mịt. Tiếng mưa lớn, nước dội ào ào xuống mái tôn. Thụy bỗng nhớ đến một câu thơ cổ: Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.

                     Trong gian bếp, có mấy chiếc ghế con. Thụy để cà phê lại trên bàn, lấy một chiếc ghế nhỏ đưa cho Huê cầm rồi hai người dời ra gần chỗ sáng.

-Mưa lớn quá.

-Có mưa, mới giữ được em ngồi đây, Thụy nói.

                      Thụy  uống vài hớp nhỏ, xong châm điếu thuốc. Huê cười trong mắt, nàng nhìn Thụy uống cà phê, hút thuốc tỏ ra thích thú. Thụy  nhắc lại câu nói lúc nãy:

-Có mưa, mới giữ  được em ngồi đây với anh.

-Tại sao anh bỏ học đi lính ?

                      Đôi mắt Thụy bỗng trở nên trơ trọi sau câu nói của Huê. Và, anh bỗng nhớ đến Ninh Hà , người bạn gái ở nơi một thành phố xa xôi.                       

-Tuần rồi, em có đi xem phim không ?

-Có. Phim Les Jeunes loups, anh coi chưa ?

-Có, phim hay lắm.

-Em lặng người đi lúc nghe tiếng kèn thật não nuột.

-Em cũng thật lãng mạn.

-Còn anh, lúc nào cũng ra vẻ nghệ sĩ.

-Anh cũng có một vài điểm giống em.

                       Thụy nói xong, Huê không giãi bày gì cả. Cơn mưa bị chiều gió thổi tạt, một giọt mưa lớn rớt xuống vai áo của Huê. Thụy bỗng cầm lấy tay Huê lúc cô gái đứng dậy dịch chỗ ngồi tránh mưa. Rồi Thụy buông tay  ra lúc Huê ngồi xuống. Nhìn gương mặt đẹp của cô gái, Thụy nói:

-Anh có một người bạn gái rất thân.

                          Huê hỏi:

-Anh sẽ đi xa bao lâu ?

-Chừng ba tháng.

-Rồi anh trở về lại đây.

-Chưa biết nữa, nhưng anh rất mong về. Anh rất nhớ Sài Gòn, anh nghĩ đây là thành phố tuổi trẻ của mình.

- Anh sẽ làm phi công ?

-Không, anh đi chuyên viên. Có thể sau này anh trở thành thợ máy.

-Làm thợ máy cho phi cơ ?

-Khi nào phi cơ hư hỏng, trở ngại đem vào ụ thì chuyên viên coi sóc sửa chữa. Giống như xe hư, mình sửa vậy.

               Thụy  giải thích cho Huê   bằng những điều nghe được trong những ngày qua khi anh làm đơn tình nguyện vào Không quân, và những ngày đi khám sức khoẻ anh hay chuyện trò với những người lính cũ, họ đã cho anh biết một số ngành nghề trong binh chủng này.

                Huê  hẳn còn là một cô gái học sinh. Nàng chưa quen ai cả, và nàng cũng đã biết anh để ý tới nàng ngay từ những ngày đầu mới gặp.

-Anh học ở quân trường nào ?

-Nha Trang .  Em đến thành phố đó chưa ?

-Chưa.

-Em có thích những thành phố ở miền biển ?

-Rất thích. Nhưng tại sao anh không làm phi công ?

                 Thụy bỗng nhìn lâu vào mắt Huê. Anh thấy Huê đúng là hình ảnh của cô Phượng trong tiểu thuyết Đời Phi Công của nhà văn Toàn Phong. Thụy đã đọc cuốn đó một đôi lần, anh thật mến yêu cô Phượng trong tập  tùy bút đó. Và rồi, anh  cũng nghĩ mình chọn binh chủng Không Quân vì yêu cuốn sách, vì bóng hình cô gái đó. Giờ đây, Huê chính là cô Phượng đang ngồi trước mặt anh. Nàng thật là giống, giống lắm, với mái tóc cắt ngắn bao quanh gương mặt đầy đặn, với nỗi buồn nhẹ nhàng luôn làm đẹp cặp mắt khi nàng cảm thấy vui, hạnh phúc. Nhưng thật buồn thay, anh không phải là phi công. Thụy nói thầm với  Huê , anh yêu em.

            Những ngày cuối sắp rời Sài Gòn, giây phút nào nỗi buồn cũng cứ dờn dợn, chấp chới trong cõi lòng khiến Thụy có cảm giác miệng lưỡi cứ đầy ứ những vị chua, vừa đắng. Mỗi ngày, Thụy hầu như ngồi trên các chuyến xe buýt.  Một hôm ấy, Thụy tìm đến Lăng. Vừa thấy bóng Thụy xuất hiện lối hiên ngoài, Lăng vội ngừng viết, gấp sách. Thụy bước vào, với vẻ mặt ủ rũ . Lăng nhìn Thụy lo ngại, định lên tiếng hỏi nhưng  vừa ngồi xuống ghế, Thụy nói ngay.

-Tôi sắp đi Nha Trang.

-Anh đi có việc gì ?

-Tôi nhập ngũ, vào binh chủng Không Quân.

                 Lăng hơi ngạc nhiên, và những ý tưởng Lăng muốn nói bỗng nằm lại trong cặp mắt mình với một nỗi xốn xang, tuy nhiên, nếu có nói ra cũng sẽ không phù hợp với những điều Thụy đang nghĩ. Thụy tiếp lời:

-Tôi đi chuyên viên, lính thường thôi.

-Chừng nào anh đi ?

-Hai ngày nữa.

                 Hai người im lặng. Thụy nhìn vào chồng sách, cầm một cuốn sách Luật xem qua rồi gấp lại. Lăng hỏi:

-Anh không đợi đến hè, thi cử xong đã.

-Thôi, tự nhiên tôi chán chuyện học hành.

-Anh đi, có bạn nào quen không ?

-Có, bạn học ở Đà Nẵng. Bạn thân, nó muốn tôi đi cùng.

                   Lăng không nói gì, nhưng rất hiểu tâm trạng của Thụy. Từ ngày vào Sài Gòn, Thụy sống như một kẻ lạc lõng, chênh vênh không có điểm tựa. Những ngày đầu háo hức trước một thành phố có đời sống xô bồ, sôi nổi, giờ đây đã lắng dịu , buồn bã trong lòng anh. Vào đây, Thụy cố gắng tìm kiếm việc làm, nhưng nó không ổn định.

-Anh đợi thi xong đã.

-Thôi, tôi không thích học nữa.

                  Thụy vẫn muốn giấu, không cho Lăng biết đơn xin hoãn dịch của anh  đã bị từ chối. Buổi chiều thật yên tĩnh. Lăng xếp sách vở cho vào kệ xong thay quần áo, mở hòm rương lấy ít tiền bỏ túi rủ Thụy đi chơi.

                     Hai người rời nhà đi ra trạm xe buýt. Vừa đi, Thụy bắt đầu câu chuyện nói với Lăng. Bằng một giọng cố gắng giữ niềm tự tin, Thụy nói cho Lăng biết anh đã làm đơn xin nhập Không Quân từ một tháng nay.  Mỗi ngày, Thụy đều có mặt ở Bộ Tư Lệnh Không Quân để bổ túc hồ sơ và khám sức khoẻ. Kết quả, anh đủ điều kiện để theo học khoá chuyên viên. Bên Không Quân khác với Bộ Binh, nói là đi lính, nhưng sau mấy tháng học căn bản quân sự không phải ra ngoài chiến trận mà sau đó, được theo học ngành nghề, những ngành như không lưu, kiểm báo, hoặc cơ khí , rất dễ có cơ hội được gởi đi nước ngoài học thêm về chuyên môn.

                Lúc Thụy ngừng nói, Lăng hỏi:

-Anh đi học chừng bao lâu ?

-Ba tháng.

-Rồi trở về Sài Gòn.

-Không biết nữa, ra khỏi quân trường là đi đơn vị.

-Mình có chắc được đi học ngành không ?

-Ở đơn vị một thời gian, sau đó họ sẽ cho đi học.

                 Hai người đứng chờ bên trạm xe buýt. Không biết nói với nhau gì thêm, Thụy nhìn ra con đường, lúc này trên gương mặt anh không giấu được cái vẻ còn ngơ ngác của mình. Chuyến xe buýt tới trạm ngừng.  Xe đông khách, Thụy và Lăng  đứng ở cạnh lối cửa lên xuống. Và, chuyến xe chạy đi ngay sau ít phút ngừng, rồi cứ ghé vào mỗi trạm là thả khách xuống rồi đón khách lên.

                 Xe vào bến chính ở trước chợ Bến Thành trong cảnh tượng buổi chiều thật huyên náo giữa đô thị. Xuống xe, Thụy hỏi Lăng:

-Mình đi đâu ?

-Đi lòng vòng chơi phố một lúc.

                 Thụy bước theo Lăng, trong đầu óc đôi lúc còn nghĩ vẩn vơ. Ngang qua những tiệm tạp hoá, hiệu sách và các quán dọc vỉa hè, Thụy và Lăng chỉ đưa mắt nhìn thoáng. Bất chợt Lăng hỏi:

-Anh cần mua gì không ?

-Không.

-Anh cứ mua đi, có tiền đây .

-Thôi, chẳng có gì cần mang theo.

                 Thụy và Lăng cứ đi dọc theo vỉa hè phố Lê Lợi mắt lướt nhìn, và trong ý nghĩ như cố gắng gợi nhớ ra một chuyện gì quan trọng. Thụy tự dưng thấy mình xúc động trước hình ảnh một ngày cuối ở Sài Gòn. Thụy nhìn quang cảnh phố có cảm giác xa lạ hơn bao giờ cả, và dù cho anh đã vào đây ở được sáu tháng, nhưng anh vẫn không thể coi đây là thành phố thân thuộc với mình.

                 Không mua sắm gì, hai người ghé vào quán Mai Hương ngồi nghỉ chân uống nước, sau đó, sẽ đến rạp hát Lê Lợi xem nếu có phim hay thì vào coi, không cả hai xuống nhà dì Hồng.

                 Rạp Lê Lợi luôn chiếu thường trực, có nhiều phim hay và giá vé rất rẻ. Thụy thường xem phim ở rạp Lê Lợi. Chỉ cần có 10 đồng trong túi là mua được một ly trái cây xay, một lát bánh mì nướng và một vé xem phim thường trực.

                  Rạp đang chiếu phim The Sun Also Rises. Trong lúc Lăng đến quầy mua vé, Thụy ghé vào quán nước mua bánh mì và nước giải khát mang vào rạp để vừa xem vừa ăn.

                  Xuất hát trước vãn, giờ đang đón khách cho xuất hát mới. Dòng người theo nhau tiến vào cửa. Aùnh đèn và hơi mát của máy lạnh làm cho Thụy cảm thấy dễ chịu khi bước vào. Hai người ngồi ở bên bìa hàng ghế giữa. Trong rạp, đang giờ nghỉ, phim chưa chiếu nhưng có phần nhạc đệm cho khán giả vừa nghe vừa giải lao.

-Đến hè, Lăng có về Huế không ?

-Về, nhưng cũng đợi kết quả thi xong mới về.

            Bỗng dưng trong lòng Thụy khơi dậy một niềm bâng khuâng. Và anh đã nhớ ra từ ngày ấy, về lại hôm nay, vào những phút giây sắp lên đường Thụy có cảm tưởng đời anh luôn là một kẻ cứ trông ngóng, đợi chờ.

            Trên con sông, những lớp sương mù mỏng tan dần. Thụy chỉ ngồi ở quán cà phê chừng hai mươi  phút. Khi đứng dậy, anh đeo vai ba lô, tay cầm túi xách đến quầy trả tiền và mua thêm một gói thuốc bọc đi đường. Hàng xe buýt đậu gần nhau đối diện với quán nước. Một khoảng sân rộng giữa  bến dùng để cho xe ra vào hay trở đầu. Xe đi Phú Bài nằm cuối hết, gần bờ sông. Khi thằng lơ xe dắt Thụy  đến, có thêm vài người khách nữa cùng lên. Xe vẫn đợi khách, chưa tới giờ chạy. Thụy không ngồi dãy ghế trước mà chọn ở đằng sau, gần lối cửa lên xuống. Ở phía sau, cảnh vật cho bạn nhìn thấy rõ và lâu hơn. Khi đặt chiếc ba lô xuống cạnh chân , Thụy cảm thấy dễ chịu. Thụy lấy làm vui khi nghĩ đến trưa nay được có mặt ở Sài Gòn. Sài Gòn, thành phố của mùa mưa. Rất có thể buổi chiều khi cơn mưa tới, anh đang ngồi trong rạp hát. Và, đến tối, anh tìm đến quán cà phê quen thuộc, nơi ấy, có bóng dáng người thiếu phụ trẻ đẹp với vẻ nghiêm trang,  và trên gương mặt nàng luôn phác họa những nét buồn rất dịu dàng, ngây thơ. Nhưng nếu trời không mưa, tôi sẽ làm gì ?  Thụy đặt cho mình một câu hỏi, rồi tự nghĩ nếu Sài Gòn không mưa, thì lúc anh về tới, trời đã quá trưa, hoặc bắt đầu vào buổi chiều với không khí dịu mát, tươi vui, nhiều sắc màu của nắng và của những tà áo tung bay trên đường phố, chừng đó, cũng đủ gây cho anh niềm vui ngày trở lại Sài Gòn, với  buổi chiều lang thang trên vỉa hè dọc dãy theo các phố buôn bán sách báo cũ. Anh cũng cầu mong gặp Huê, giữa anh và nàng luôn hòa hợp nhau trong một tâm hồn rất mến yêu văn nghệ và cuộc sống.

             Từ  băng ghế sau, nhìn qua con sông, Thụy trông thấy cây cầu và dãy phố bên kia với những mái nhà im vắng và những hàng cây cao, rất thẳng đều. Thụy nhận ra Huế trong lúc này, nó không thay đổi gì nhiều đối với người lính từ nơi xa mới trở về.  Nhưng có Huế ,  những điều ấy anh  có thể nói ra được với bạn bè  về những ngày khó khăn đầu tiên của tuổi trẻ. Từ ngày đó, anh  luôn cảm thấy mình đơn độc, sự dừng bước một nơi chốn chẳng bao giờ lâu.

-Ủa, đi đâu đây ?

            Thụy giật mình, nhận ra Hạnh. Ánh lửa que diêm sáng lên khi Thụy đang đốt điếu thuốc.

-Tao mới về nghỉ phép.

            Thụy đưa gói thuốc cho Hạnh.

-Mầy còn nhớ tao không ?

-Nhớ chứ. Hạnh, B1.

-Đúng rồi.

            Hạnh mặc đồ lính mới toanh, cũng mang ba lô túi xách như Thụy. Hạnh ngồi xuống bên cạnh , châm xong điếu thuốc Thụy mời,  hắn hỏi:

-Mày đi đâu ?

-Về lại Sài Gòn .

-Đơn vị ở trong đó ?

-Ờ, Thụy đáp.

            Hạnh nhìn qua Thụy trong vài giây.       

-Sao không đeo lon lá gì cả ?

-Lính thường thôi, không được Sĩ quan như bạn đâu.

            Hạnh chỉ cười, và Thụy thấy cặp lon Hạnh đeo sáng lên.

-Mầy làm việc ở Tổng Tham Mưu ?

-Không, ở căn cứ Tân Sơn Nhất.

-Không quân.

-Đúng.

-Mẹ, anh chọn đi lính cậu để phè phỡn.

-Vậy thôi, còn bạn chừng nào lên Thiếu úy.

-Sáu tháng nữa.

-Đơn vị đóng ở đâu ?

-Pleiku.

-Quân đoàn II.

-Đúng.

-Piston của bạn cũng mạnh lắm.

-Ông anh tao làm Phòng 4 Quân đoàn.

-Băng của tướng Toàn.

-Sao mày hay vậy ?

-Tao là lính, nhưng dân nhà báo.

            Hạnh cười lớn, bàn tay nắm vai Thụy.

            Xe rời bến lúc nào không hay. Hai đứa cùng ngừng câu chuyện trông ra đường. Trên phố chính Trần Hưng Đạo xe còn chạy chậm, để rồi trong ý nghĩ riêng mình, mỗi hình ảnh người lính trở về phép là để ấp ủ lấy một vài bóng dáng người thân, sau đó là tâm trạng sắp sửa rời thành phố đi đến nơi xa. Nơi nào xa, người lính cũng nghĩ mình sẽ đối diện với chiến tranh.

            Xe chạy nhanh khi ra khỏi thành phố. Thụy và Hạnh trở lại câu chuyện, và cũng có lúc ngừng, như thể phút giây ấy là sự ràng buộc, mơ hồ vừa thân thiết. Trên quốc lộ, gió thổi lướt qua cánh đồng tìm đến các ngôi làng, cảnh ruộng vườn, nhà ở, ánh đèn trong sự chuyển động xôn xao và sẽ trở nên bình yên khi trời sáng. Có tiếng súng nổ lẻ tẻ, và Thụy chợt trông thấy vài bóng dáng người băng qua núi.

            Thụy hỏi Hạnh:

-Về nghỉ phép được bao lâu ?

-Mười ngày.

            Thụy nhớ lại rõ những tháng năm của thời niên thiếu, trong số bạn học, có Hạnh. Hạnh cũng đã đi lính, nhưng không thay đổi nhiều, vóc dáng vẫn nhỏ bé, giọng nói chậm rãi, thân tình.

            Trời rạng sáng và có mưa. Xe buýt không vào phi trường, đậu ngoài đường lộ và chỉ có mình Thụy và Hạnh xuống xe. Khi hai người lính đã xuống, xe chạy tiếp. Trời mưa nhẹ hạt. Từ đường ngoài vào trạm tiếp liên gần 200 mét, hai người lính bước đi nhanh. Vừa lo mưa nặng hạt, nhưng trong mắt, trong lòng anh nào cũng thấy vui, vừa thích làm dáng.

-Ở Không quân, mầy cấp bậc gì ?

-Lính trơn.

-Vậy thôi .

-Ờ, yên thân ở thành phố. Nhưng rồi cũng đi học chuyên môn.

-Mầy cũng phải xin học khóa chuyên môn.

-Đang chờ.

            Hai người dừng lại ngoài mái hiên lấy khăn lau mặt. Bên trong, đã có một số hành khách chờ chuyến bay. Kim đồng hồ trên tường mới 7 giờ kém 10. Sau khi coi lại bảng phi trình, Thụy hỏi Hạnh:

-Mầy ăn uống gì chưa ?

-Chưa.

-Còn sớm, qua quán cà phê ngồi.

            Tự nhiên, Thụy  cảm thấy mình lớn hơn Hạnh, và trong tình bạn hai đứa rất muốn nói với nhau một đôi điều để có sự che chở. Thụy và Hạnh cùng ngồi xuống chiếc bàn ngoài. Quán cũng đông khách, có tiếng trò chuyện của lính tráng , nhưng không ai làm ồn. Cà phê, khói thuốc lan tỏa.

            Hạnh kêu hủ tiếu và cà phê sữa. Thụy không ăn sáng, chỉ uống cà phê, và anh vẫn thích cà phê đen bỏ chút bơ hơn là dùng với sữa.

            Năm học đó, hai bạn cùng đậu vào Đệâ Thất trường Nguyễn Hoàng. Mấy tháng đầu còn học ở trường nhà tranh gần bến Hộ, đến trước Tết Nguyên Đán chừng một tuần học sinh dọn về trường mới nằm ở sân vận động. Nơi đây, trường ốc, sân chơi rộng rãi, và học sinh có một ngày vui liên hoan tại lớp với các thầy cô trước khi được nghỉ mười ngày về ăn Tết với gia đình.

            Đứa bé gái bưng chiếc khay ra đặt xuống bàn thấp. Tô hủ tiếu và ly cà phê sữa cho Hạnh. Ly cà phê của Thụy đen đậm, anh cầm thìa nhỏ  lấy đường trong hủ cho thêm vào xong khuấy nhẹ.

            Thụy uống cà phê, nhìn Hạnh đang ăn. Ở ngoài sân, những đám bụi mưa bay trong gió sớm, mang cái vẻ buồn vắng rất nhẹ nhàng. Bỗng Hạnh hỏi:

-Mầy lên Pleiku bao giờ chưa ?

-Chưa.

-Đó là thành phố của lính.

-Đất của Pleiku màu đỏ.

            Thụy thấy người bạn ăn ngon.  Trên gương mặt còn thư sinh, hắn cũng là thứ lính cậu, an nhàn như Thụy, hai đứa chẳng có gì hơn nhau ngoài cái lon đeo trên ve áo, nhưng với Hạnh  tương lai có được sự đợi chờ. Ngày ra quân trường đi đơn vị, Thụy may mắn được ở Sài Gòn, đây là thành phố anh dễ tìm kiếm thêm việc làm bằng nghề viết báo, vừa được vui thích, tự do.

            Thụy cười nhìn bạn cũ, hỏi:

-Sao ?, vợ con hay có bồ em nào chưa ?

-Chưa, nhưng mầy yên chí.

-Em, Pleiku.

-Ờ, một em làm cô giáo.

            Hạnh tiếp tục ăn. Một lúc hắn hỏi:

-Có coi phim The quiet American không ?

-Có.

            Thụy được coi phim này ở rạp Châu Tinh ngay trong tuần nghỉ phép đầu tiên.     Hạnh lấy trong túi ba lô cuốn truyện bản tiếng Anh. Thụy cầm cuốn sách lật xem qua vài trang, nói:

-Tao có đọc rồi, đọc qua bản dịch.

-Còn phim, mấy thấy sao ?

-Xem cũng được, không hay bằng truyện.

            Trong lúc Hạnh còn ăn, Thụy nhớ nghĩ đến Phượng. Phượng rất là thân thiết với tác giả, với Sài Gòn và có anh nữa. Anh yêu thích nhân vật Phượng. Anh thấy nàng đẹp khi xõa rộng mái tóc xuống vai áo. Và, Saigon thuở ấy, được gói ghém yêu thương trong lời đề tặng ở trang đầu của tác giả. Graham Green là một nhà văn người Anh, ông đã có thời gian sống lâu ở Việt Nam trong cuộc chiến tranh Pháp-Việt Minh. Nhà văn Jules Roy viết cuốn trận Điện Biên Phủ có nhắc đến tên ông. Và, trong cuốn sách ấy, hai người được nói đến nhiều nhất là tướng Navarre và tướng Võ nguyên Giáp.

            Ăn xong, Hạnh cầm ly cà phê sữa đưa lên miệng uống. Hắn uống nhanh, cảm thấy thỏa mãn sau bữa ăn sáng no bụng. Tô hủ tiếu hắn gọi là tô lớn. Thụy hẳn còn ít cà phê chưa uống hết. Thụy uống chậm và đã đốt liền mấy điếu thuốc trong lúc Hạnh ăn , vừa chuyện trò. Hạnh nghe Thụy nói:

-Tao có nhiều truyện dịch hay.

-Mầy nên tìm nguyên tác mà đọc.

-Ngoại ngữ tao không khá.

-Mầy cứ đọc bừa, tự nó vỡ ra.

-Đọc truyện Anh, Pháp phải có nhiều ngữ vựng.

-Nhưng chịu khó đọc, cứ đọc đi, rồi nghĩa các câu chữ sẽ bật ra.

-Mầy xong trên Đại học chưa ?

-Chưa, mới được hai chứng chỉ.

-Bên nào.

-Văn khoa. Tao cũng có được một chứng chỉ bên Luật.

-Có tính học tiếp không ?

-Có chứ. Phải cố cho xong.

            Chỉ hai mươi phút ngồi ở quán mà thời gian tưởng như lâu. Khi cả hai đứng lên, vừa lúc có một xe ca chở khách tới và ở văn phòng trạm tiếp liên thông báo giờ các chuyến bay cho hành khách. Hầu hết là lính tráng đi phép, đi công tác, có một số ít thường dân xin quá giang. Tự dưng, Thụy và Hạnh có cảm giác lạc lõng, vì sắp sửa chia tay. Có hai tuần phép, và đây là kỳ nghỉ phép đầu tiên từ ngày Thụy đi lính. Liên An nhỏ bé thân thương, nhìn đôi mắt An, anh nói với cô gái được một đôi điều về đời lính và hình ảnh người lính trong đời anh. Về Huế, thành phố này thật đầy ắp những kỷ niệm. Thụy có hai ngày ra Quảng Trị thăm làng quê bên nội. Thụy gặp vài người bạn cũ, bạn anh không bị đi lính, đang dạy học. Khu Morin là khu Đại học, ở khu này có nhiều quán cà phê đông nam nữ sinh viên tụ tập tạo nên không khí văn nghệ thật đặc biệt dành cho lớp trí thức trẻ. Và, mỗi buổi chiều cũng có khá đông lính tráng  đến, họ là lính thành phố và một thời là sinh viên. Thực ra, Thụy rất muốn vào Đà Nẵng để thăm gia đình Ninh Hà nhưng chẳng hiểu sao anh lại không mong mỏi chuyến đi. Và rồi anh nghĩ, khi trở lại Sài Gòn anh sẽ nhận được một hai lá thư của nàng. Hay là, anh đã cảm thấy vương vấn hình ảnh của Vân Oanh vì trong  chuyện về cô gái và anh Nguyên nghe Nhi kể thật là vui, dễ thương cho mình.

            Bên kia con đường, người lính trông thấy cánh đồng, phía xa là ngôi làng và bóng núi. Sương mù làm mờ khuất, trời đang mưa nên cảnh vật trở nên hiu quạnh vắng vẻ, nhưng nó cũng đã tạo cho bạn có một vẻ đẹp xa vắng của nỗi buồn. Bỗng nghe có tiếng còi tàu vọng, một lúc sau, đoàn tàu tới gần và chạy ngang qua với tốc độ bình thường. Thụy nhìn đoàn tàu, chỉ thấy có hai toa hành khách. Những toa xe khác nối nhau nhưng cửa đóng kín.   

            Hai người lính chia nhau điếu thuốc, đốt que diêm châm lửa, và bắt tay nhau. Thụy đứng vào hàng đợi nhân viên của trạm hướng dẫn ra cổng. Có bốn chuyến bay sáng nay, mỗi chuyến cách nhau một giờ. Sau chuyến đầu Thụy đi Sài Gòn là tới chuyến  Pleiku của Hạnh.

-Đi nghe Hạnh.

-Ờ, mong gặp lại.

            Hành khách di chuyển. Khi ra ngoài sân bay, họ cùng nhìn thấy một quang cảnh trống trải, hai chiếc phi cơ đậu hai nơi xa cách nhau, và cả đoàn đi theo viên Trung úy hướng dẫn đến chiếc C130 đang chuyển hàng.

            Hành khách dừng lại khi tới gần. Viên Trung úy gặp trưởng phi cơ trình danh sách, một nhóm trong phi hành đoàn đứng dưới cánh bay lớn đang hút thuốc trò chuyện. Viên Đại úy Trưởng phi cơ người tầm thước, mặc đồ bay lam, đội nón lưỡi trai có gắn phù hiệu phi đoàn và ba bông mai.

            Sự tình cờ làm  Thụy chú ý nhìn lên phía trước khi thấy bóng một cô gái xuất hiện với chiếc áo dài trắng. Anh thấy mái tóc dài của cô phủ trên lưng áo. Cô có mái tóc đẹp, nhưng anh chưa trông thấy rõ khuôn mặt cô. Huế-Sàigòn xa cách gần hai giờ bay, và anh nghĩ, cô gái đang học ở Sài Gòn, những ngày tháng qua của mùa hè cô về thăm gia đình. Ngày về phép của những người lính như anh thì ngắn, còn cô gái, những ngày nghỉ được sống với gia đình lâu hơn, luôn luôn được nghe tiếng nói là nguồn vui của hạnh phúc. Nhưng chắc gì sang năm, khi mùa hè tới, cô sẽ rời xa Sài Gòn để về Huế. Thụy chợt vui, nghĩ rằng, mỗi cô gái thường chọn các thành phố thích hợp với thời tiết trong tâm hồn mình. Và riêng anh, cũng có lúc thầm nghĩ cuộc đời như một bài hát.

            Hành khách bước lên phi cơ sau khi hàng hóa quân nhu chuyển xong hết. Không đợi lâu, đèn trong phi cơ bật sáng và rồi tiếng động cơ nổ. Thụy bắt đầu đếm từng khoảnh khắc thời gian khi phi cơ lăn bánh.  Tới đầu phi đạo định hướng, phi cơ dừng, trong một phút chờ đợi , phi công liên lạc với đài kiểm soát không lưu. Khi động cơ rùng lên, thân phi cơ rung chuyển , rồi với vận tốc cất cánh phi cơ lao đi bay lên bầu trời.

            Sau hơn một tiếng mười lăm phút vượt không gian, chuyến bay đưa hành khách tới Sài Gòn. Ngồi bên cửa nhìn xuống  lúc phi cơ hạ thấp cao độ chuẩn bị đáp, dần dần qua bóng những đám mây tản mác, Thụy nhớ lại những bóng hình ngọn núi, sương mù, biển và con đèo Hải Vân bên dưới đôi cánh phi cơ. Và, đó cũng là lúc, anh chợt nghĩ đến Vân Oanh, ước mong gặp nàng. Anh cũng không hiểu sao, với kỳ phép rộng thời gian mà anh không có được ít ngày vào Đà Nẵng thăm gia đình Ninh Hà, để lúc ấy, được gần gũi và nói với nàng những lời yêu thương.

 
                                                           III

 
            Trung úy Nguyên cùng đội dân sự vụ  và y tế đi Phò Trạch. Ở đó một tuần, đoàn làm công tác khám bệnh, đào giếng, gặt lúa và lợp nhà cho dân. Khi trở lại đơn vị Trung đoàn, cả toán được nghỉ xả hơi ít ngày. Nguyên về thăm nhà , tắm rửa xong anh vội vàng thay quần áo đón xe đò vào Đà Nẵng.

            Tới thành phố giữa buổi chiều, nắng hè đã dịu bớt. Vân Oanh có mặt ở nhà lúc Nguyên tới,  nàng hết sức ngạc nhiên nhưng lòng cũng thấy vui khi gặp chàng. Hai người nhìn nhau có chút ngại ngùng, vừa cảm thông.

            Căn nhà Vân Oanh nằm ở khu phố chính trông ra hai con đường Hùng Vương và Triệu Nữ Vương. Những lần trước, Nguyên được cô gái cho phép chàng theo chuyến xe khách từ Huế vào Đà Nẵng khi cô về thăm nhà, và họ ngồi chuyện trò ở quán nước một giờ khá lâu trước khi chia tay. Có một đôi lần, qua nhắn tin, hai người gặp nhau ở nhà người bạn thân. Luôn luôn, cô gái rất giữ gìn ý tứ.

            Và, đây là lần đầu tiên vì quá nhớ nhung, Nguyên liều lĩnh tìm đến nhà Oanh. Với tình yêu, cô gái rất hiểu. Hai người ngồi ở bàn khách nhà dưới chuyện trò, giọng nhỏ nhẹ, thân tình. Nguyên nhìn mái tóc, gương mặt, và nghe tiếng Vân Oanh nói, anh có cảm giác như thời gian là cánh cửa thấp thoáng những hình bóng của anh.

            Sau những phút giây băn khoăn, Nguyên mời Oanh đi chơi phố. Không chỉ tiếng nói nhỏ, mà trên gương mặt Nguyên lộ ra hết vẻ bỡ ngỡ khiến Oanh không giấu được nụ cười trong cặp mắt nhìn lại anh. Một lúc sau cô đứng dậy, để Nguyên lại một mình. Nguyên thật lo lắng khi nghe tiếng Oanh nói chuyện với bà mẹ. Cũng khá lâu, Oanh mới trở  ra ngoài và bảo Nguyên ngồi chờ.

            Chỉ nửa tiếng, Oanh thay quần áo xong . Phố đông vui ngày cuối tuần, ra khỏi nhà một quãng xa nàng mới để cho Nguyên nắm tay mình. Bên nhau, hai người dạo bước, giọng nói Oanh rất hồn nhiên và tự tin. Trên đường đi, Nguyên kể cho người yêu về mấy ngày đi công tác vừa qua, và anh tả lại ngôi làng Phượng Liễu  bằng những nét phác họa sống động như làm một bài luận văn.

            Bên kia đồi cát là ranh giới hai tỉnh. Hải Lăng là một quận lỵ ở gần ngay đó, từ quận về quê nội của Nguyên khoảng mười cây số. Quê nội anh ở gần biển và trước khi đến biển con đường xuyên qua một khu nghĩa địa là những đồi cát trắng trải dài trông hình dáng như đàn voi. Biển rất vắng,  rất xanh,  tràn ngập bầy chim bay rộng cả một vùng trời.

            Tiệm giải khát đối diện với rạp hát. Hai người ngồi dưới mái dù che gần mái hiên. Bên ngoài rạp hát, lảng vảng một hai bóng người còn đứng xem những tấm biển quảng cáo chiếu phim kỳ tới. Lúc này, trong rạp phim đang chiếu, chừng bốn lăm phút nữa mới vãn xuất.

            Nguyên ngoắc tay gọi đứa gái nhỏ đến gần.

-Cà phê đá.

-Nước cam tươi.

            Đứa bé gái bỏ đi ngay vào quầy. Nguyên lặng nhìn Oanh với một nụ cười trong đôi mắt. Nàng cũng rất yêu đôi mắt đẹp của Nguyên. Nàng rất thích cái dáng trẻ thơ của anh, và những câu chuyện anh kể về đời lính. Những cô gái trước đây Nguyên quen, anh cũng kể ra cho nàng biết, có những chuyện vui ngộ nghĩnh làm nàng bật cười. Và, sau này, anh tỏ lòng tha thiết nói lời tâm sự, giờ đây chỉ có nàng là hơn hết.

            Nguyên uống cà phê, nhưng không hút thuốc. Anh không biết hút thuốc lá, nhưng cà phê thì phải có. Những năm ở Sài Gòn làm báo, mỗi buổi sáng, Nguyên thường viết bài ở quán cà phê ngay trước mặt tòa soạn. Anh viết nhanh, và cà phê là chất xúc tác gợi nhiều cảm hứng cho anh viết.

            Thỉnh thoảng mắt Nguyên lơ đãng nhìn ra đường ngắm phố và chú ý những người đi qua lại.

            Vân Oanh uống từng ngụm nước, trên cặp môi mỏng ướt của nàng đẹp như cánh hoa. Nàng rất vui tính, những ngày qua về nghỉ hè nàng cũng biết mình nhớ Nguyên rất nhiều. Nhưng với tâm hồn thiếu nữ, nàng có sự ấp ủ, vừa e thẹn để giữ gìn nỗi nhớ nhung luôn thật dịu mềm như là một thứ tơ lụa.

-Oanh  định hôm nào ra Huế ?

-Ngày mốt.

-Anh ở đây chờ Oanh ra luôn.

-Anh không sợ bị phạt à ?

            Nguyên cười bảo:

-Có Oanh , anh chẳng sợ ai cả.

            Nàng cười. Anh tiếp lời:

-Anh được nghỉ phép ít ngày sau chuyến công tác.

-Tối nay, anh ở đâu ?

-Ở nhà người bạn.

            Ánh mắt nàng nhìn qua người yêu có vẻ bối rối, vừa ngại ngùng. Nhưng rồi, lấy một giọng bình thản, Oanh nói.

           

-Về nhà em mà nghỉ.

-Má có la không ?

-Em sẽ xin phép cho anh.

-Cám ơn em.

-Cám ơn suông thôi sao ?

-Anh bao em một vé ciné được không ?

-Quá đúng ý em.

            Nguyên nắm tay người yêu. Bàn tay cô gái rất mềm mại,  nhan sắc nàng cũng tỏa ra hương thơm làm anh thật sung sướng với tình yêu mình đang có.

-Em có vẽ tranh không ?

-Có, em vẽ được khá nhiều.

            Trong khoảnh khắc này đã làm Nguyên nghĩ nhiều đến cô gái. Anh nghĩ về cô trong năm học tới. Anh nghĩ tới những màu sắc cô yêu thích, những khung vải hình thành bức tranh cô đã vẽ. Cô gái yêu thích hội họa và tài năng của cô sẽ phát triển. Cô là một họa sĩ lãng mạn có tâm hồn thật phong phú, rồi đây những bức tranh sáng tác sẽ làm cô nổi tiếng.

            Hai người nhìn nhau trong sự   yên lặng của niềm cảm thông. Trên bàn, ly nước cam và ly cà phê đã vơi một nửa. Trong màu vàng của ly nước cam, ánh lên âm thanh hay đó là bao nhiêu tiếng nói cô gái đã ghi nhận được từ những tấm ảnh của cô sắp xếp trong cuốn album. Cô gái có một cuốn album nhỏ, trong cuốn này, những tấm ảnh của cô được sắp xếp theo thứ tự thời gian.

            Mỗi lúc, trên đường phố ngang qua rạp hát người đi và xe cộ qua lại rất đông. Mùa hạ sắp hết nhưng trời còn nóng. Và khi nghe gió rung động những cây lá, bạn sẽ có cảm giác ánh nắng cũng bị gió cuốn trôi, bập bềnh, lan rộng ra tới bờ sông. Thành phố nằm bên con sông. Con sông chảy qua bến Cảng rồi theo dòng chính trôi giạt tới biển. Miền Trung đất hẹp rất dài dựa lưng núi Trường Sơn và hướng ra biển Đông. Thành phố này cách xa biển 6 cây số. Có nhiều bãi biển rất đẹp. Ở thành phố này có phi trường lớn, ngoài quân đội Việt Nam Cộng Hòa còn có những đơn vị Đồng Minh Mỹ, Đại Hàn, Tân Tây Lan, Úc. Và, về đêm trong thành phố không khí chiến tranh vẫn có lúc đe dọa.

            Hai người chuyện trò với nhau cho đến lúc bên kia rạp hát đèn sáng lên ở ngoài và xuất hát vừa vãn. Từ cửa chính, khán giả ra đông còn vọng tiếng ồn ào từ những câu chuyện về cuốn phim.

            Nàng cười nhìn chàng, nói:

-Anh phải giữ lời hứa với em.

            Chàng gật đầu, lúc ấy mắt nàng nhìn chàng một cách trìu mến. Chàng còn dáng vẻ thanh tú của một sinh viên. Chàng có đôi mắt đẹp. Nàng cũng rất thích cái dáng điệu ngập ngừng của chàng khi nhìn nàng và muốn nói một câu tỏ tình. Từ  buổi đầu gặp, hai người rất ăn ý với nhau.

            Năm ngoái, nàng trông thấy chàng ở một quán cà phê. Tối hôm đó có buổi trình diễn nhạc của một nhóm sinh viên. Trong đám đông người trẻ  nổi bật một chàng trai mặc đồ lính, dáng vẻ linh động, anh ta đang chuyện trò với các sinh viên thuộc thế hệ cùng lứa ngày xưa. Anh chàng này ham vui chuyện mà không trông thấy cô gái để ý đến mình. Buổi ca nhạc nhiều tiết mục thật sôi động, vui nhộn, hào hứng với nhiều người thay nhau lên bục sân khấu. Có những bản nhạc, mọi người cùng vỗ tay và hát. Trong một lúc bất chợt quay hướng nhìn, chàng trông thấy nàng. Thực sự đó lá phút kỳ diệu, nhớ đời. Chàng đã cảm ngay hình ảnh cô gái ngồi ở phía bên bên kia với gương mặt dịu hiền và mái tóc xõa rộng thật là quyến rũ. Nhưng chàng không dám nhìn lâu, sau ít giây trầm lắng, thiết tha với nàng, chàng quay trở lại nói chuyện với người bạn bên cạnh.

            Mười hai giờ đêm chương trình nhạc kết thúc, quán cà phê đóng cửa. Khi về đến nhà, cả hai người bỗng hết sức ngạc nhiên gặp nhau ở lối cổng vào. Và, người nào cũng thấy vui, có sự thân tình ngay lúc đó như  thể đã quen từ trước.

-Cô ở đây mà tôi không hề hay.

-Em mới dọn đến tuần trước.

-Vậy à. Nhưng trước đây, thì  ở đâu ?

-Em ở trong thành nội.

-Tôi ở đơn vị ít khi về nhà .

-Em cũng không thấy anh từ hôm dọn đến bây giờ.

            Nguyên nhìn cô gái với đôi mắt thiện cảm, nghĩ cô như là em gái của mình. Cô gái nói:

-Lúc nãy trong buổi nghe nhạc, chỉ có mình anh mặc đồ lính.

-Lạ quá phải không ?

-Ờ, cũng thấy lạ.

            Hai người dừng lại bên cổng, ngập ngừng, nửa muốn chia tay về nhà, nửa muốn chuyện vui. Trăng sáng bất ngờ. Bên lối cổng vào là con đường đi ra bờ sông. Khi trăng dậy sáng, quang cảnh khu phố ánh lên một màu vàng tuyệt đẹp. Từ chỗ hai người đứng, họ trông thấy chiếc cầu, và cũng trông thấy mặt nước trên dòng sông, tự dưng mỗi người nghe lòng mình có một cảm giác nôn nao kỳ lạ. Nguyên nhìn thấy cô gái đẹp lạ lùng. Và, lúc ấy, cô gái cũng thật là bối rối, vì quá lo sợ lời tỏ tình của chàng sẽ nói với mình. Thế nhưng, nàng cứ chôn chân một chỗ, không thể dời bước nổi.

-Em cho anh biết tên được không ?

            Nàng đáp:

-Em tên Oanh.

-Anh tên là Nguyên.

            Họ vẫn còn bên nhau, và lúc này, cùng nghe thấy rõ tiếng nước dòng sông chảy.

-Trăng sáng đẹp quá, phải không Oanh?

            Một giọng vui, Oanh nói đùa:

-Vâng, nó cũng đẹp như anh đang mơ mộng.

-Tên em cũng có vầng trăng.

-Có phải anh liên tưởng đến một câu trong Kiều.

-Em nói đúng.

            Với nụ cười vừa dịu sáng trên đôi mắt đẹp, bao nhiêu ý tưởng trong đầu chàng, nàng biết hết.

            Rồi một giọng thân tình, nàng hỏi:

-Anh ít khi về nhà lắm phải không ?

-Anh thường ở trên đơn vị.

-Sao anh ít về nhà ?

-Anh sẽ về, đểâ luôn được gặp em. Em đang học ngành nào ?

-Em học trường Mỹ Thuật.

-Hay quá. Hôm nào cho anh xem những bức tranh em vẽ.

-Em mới học năm thứ nhất.

-Anh có nhiều người bạn dạy bên đó.

-Chắc là thân với anh.

-Những năm anh chưa đi lính, những bạn ấy học chung với anh ở trường Văn Khoa.

-Anh học xong rồi.

-Chưa. Anh học dang dở, rồi đi lính.

            Giọng Nguyên nói nghe khô khan. Cô gái nhìn anh, nàng hiểu được lời thành thực của anh khi nói ra điều ấy với nàng. Với sự cảm thông ấy, cả hai người dời gót lúc nào không hay. Bên nhau, cùng đôi mắt và ý nghĩ về cuộc đời, họ theo con đường hướng đến bờ sông.

            Trên chiếc cầu, độc nhất có một bóng người đi xe đạp. 

-Em không có gia đình ngoài này ?

-Gia đình em ở Đà nẵng.

            Trên bờ sông đầy cỏ , những hàng cây trồng rất đều ở bên này cũng như bên kia. Ở cạnh lối đi xuống bến nước có băng ghế đá, hai người ngồi xuống. Đêm bắt đầu trôi giạt khi sương mù giăng trên sông.

-Em thấy lạnh không ?

-Lạnh.

-Ngồi đây một chút rồi mình về.

-Tùy anh.

            Khi Nguyên rời ghế đứng dậy đi tới quầy trả tiền nước, Oanh ngồi một mình, nàng vừa nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai người cách đây hơn một năm.

            Trên bàn, chàng để lại tiền lẻ cho người phục vụ nước uống. Hai người đi bộ tới ngã tư, họ dừng chờ đèn dành cho bộ hành. Rồi tay nắm tay, cả hai băng qua đường cùng với nhiều người khác. Từ ngã tư, họ đi ngược trở lại đến rạp hát đối diện với quán nước. Bỗng dưng cô gái hỏi:

-Người em của anh đang ở đâu ?

-Ở Sài Gòn. Nó vừa trở về phép thăm nhà, giờ đi lại rồi.

-Em anh cũng đi lính.

-Ờ, nó đi lính thường thôi, không phải Sĩ quan.

-Sao không phải là Sĩ quan ?

-Nó học hành dang dở, không được hoãn dịch đành đi lính. Tuy nhiên, hắn có được bằng Tú Tài bán, hai năm nay, hắn thi toàn phần, keo nào cũng trượt.

-Người nào học hành dang dở cũng đều thất bại.

-Trên nguyên tắc là như vậy.

-Người em đi lính gì ?

-Không quân.

-Chà, đó là lính hào hoa.

-Văn vẻ vậy thôi, nó cũng rách lắm.

-Ít có tiền tiêu xài.

-Đúng vậy.

-Có viết văn nữa, phải không ?

-Ờ, nó đang tập tễnh viết văn. Cũng có năng khiếu, triển vọng.

-Em có đọc một truyện ngắn.

-Em thấy nó viết được không ?

-Cũng được. Lãng mạn, có triển vọng như anh nhận xét. Lấy bút hiệu Thiên Lan là sao?  Chắc là quen cô nào đó.

-Ờ, nó được quen cô nào là đưa người đó vào truyện.

-Bao nhiêu phần sự thực ?

-Anh chịu.

-Còn anh, đến bao giờ sẽ viết về em ?

-Đã hẳn rồi, một ngày sắp tới.

-Anh phải nhớ đưa em đọc.

            Với sự dừng bước nhẹ nhàng, chàng gởi vào đôi mắt nàng cái nhìn thật trìu mến. Chàng yêu nàng, hạnh phúc trong tình yêu dành hết cho người em gái .

            Rồi, nàng đi theo chàng. Nàng có ý tưởng, từ nay, chàng là điểm tựa của nàng. Tới rạp hát đông người, nàng đợi chàng mua vé. Nàng nhìn lên đồng hồ trước rạp ước tính thời gian cho buổi đi chơi bên nhau. Khi thấy chàng từ  quầy vé trở ra, nàng rất vui với nụ cười trên đôi mắt.

            Khán giả đi vào cửa chính. Đây là rạp hát lớn nhất của thành phố rất lịch sự, sạch sẽ. Những hàng ghế trống trước mặt lần lần có khán giả vào lấp chỗ, hai người ngồi ở hàng ghế xa bên dưới mái hiên của tầng lầu trên.

            Đèn trong rạp hát sáng, một bản nhạc dạo nghe êm ái, thân tình. Bàn tay nàng trong tay chàng, những ngón tay đan vào nhau, ấm áp như bao giờ cũng có mùa đông và những sợi len đan cho cuộc đời.

-Anh ở đơn vị lúc này ra sao ?

-Anh đi công tác luôn. Đôi khi, sau chuyến công tác phải viết bài phóng sự gởi báo Tiền Tuyến ở Sài Gòn.

-Ở đây, mình cũng làm việc cho báo Sài Gòn.

-Việc này anh làm thêm, khi đăng bài, tòa báo trả tiền nhuận bút.

-Em rất hãnh diện về anh.

-Còn em của anh là một cô họa sĩ trẻ đẹp.

-Em sẽ vẽ bức chân dung tặng anh.

            Bỗng nhiên, tiếng nhạc ngừng, rạp hát lắng im vừa đúng lúc đèn tắt. Trong bóng tối, chàng thấy từ gương mặt nàng ánh sáng tỏa rất dịu hiền. Nhìn gương mặt nàng, một giọng thầm, chàng nói:

-Em đẹp quá.  

            Chàng nghiêng mình qua,  trải rộng cánh tay lên thành ghế và chàng thấy hạnh phúc vô cùng khi nàng ngả xuống cả mái tóc mềm dịu rồi tựa đầu lên cánh tay chàng. Chàng hôn xuống vầng trán, xuống bên đôi má hồng của nàng, rồi hai người im hơi, dấu yêu với từng nụ hôn ngọt ngào trên cặp môi mềm ướt, thơm tho. Khi chàng hôn, đôi mắt nàng khép lại, run rẩy, và nàng thấy lại hình ảnh nhỏ bé thời thơ ấu, nàng cũng nhớ đến cô em gái có gương mặt thiên thần, và luôn luôn những bóng dáng ấy hiện về trong trí tưởng khi nàng nghĩ đến ngày mai đây của đời mình.

-Em và anh, chúng ta có nhau.

-Em yêu anh, nàng nói.

-Cám ơn em.

            Hai cánh tay nhẹ nhàng buông. Hai người đã qua phút mê đắm, giờ họ trở lại với cuốn phim dạo đang chiếu trên màn ảnh. Một lúc khá lâu, phim chính bắt đầu.

            Khi trên màn bạc hiện ra một quang cảnh những đoàn quân đang di chuyển Nguyên bỗng nhớ ngay đến những giòng đầu tiên ở cuốn tiểu thuyết mình đã đọc và liên tưởng đến một miền đất nước Ý trong thời kỳ chiến tranh. Đây là cuốn phim dựa vào tác phẩm cùng tên L’adieu aux armes của nhà văn nổi tiếng Mỹ đoạt giải văn chương Nobel, Ernest Hemingway.

            Bỗng nghe tiếng khán giả, và tiếng cô gái nữa cũng  kêu lên:

-Trời , cô ta dữ không.

            Rồi cô gái nắm giữ chặt cánh tay chàng. Cảnh trên phim vừa diễn ra là cái tát mạnh của cô gái vào mặt chàng trai khi anh chàng cố ý liều lĩnh ôm hôn cô. Rồi cô ta xin lỗi, và hai người trở lại với câu chuyện lòng của mình. Sau đó, cô để cho chàng ôm siết lấy và hôn mình.

            Khi xem phim, Nguyên luôn gợi nhớ từng đoạn văn mình đã đọc, và khung cảnh chiến tranh đã cho anh nghĩ nhiều đến số phận những người lính. Bên cạnh anh , người yêu cũng cuốn hút say mê xem phim. Jennifer Jones nữ tài tử nổi tiếng trong vai cô y tá Cathérine , Rock Hudson nam diễn viên, đóng vai chàng Trung úy Henry. Henry là người Mỹ phuc vụ trong đội cứu thương bên quân Ý.

            Một ngày hôm đó, đơn vị anh đóng quân bị địch tấn công bằng trọng pháo, và anh bị thương. Từ mặt trận, Henry được đưa về bệnh viện, ở đây anh gặp lại người mình yêu . Và, từ  đó mối tình nẩy nở.

..Nghe mưa kìa.

-Mưa đang nặng hạt.

-Và anh sẽ luôn yêu em phải không ?

-Sẽ luôn luôn yêu.

-Và mưa cũng sẽ chẳng gây nên điều gì khác biệt ?

-Chẳng làm khác biệt.

-Dễ chịu quá. Bởi em sợ mưa.

-Sao vậy ?.....

-Em không biết, anh yêu. Nhưng em luôn sợ mưa.

-Anh thích mưa.

-Em thích đi dầm mưa. Nhưng chẳng thể nào yêu được.

-Còn anh thì luôn yêu em.

-Em sẽ yêu anh trong mưa, trong tuyết, trong cả mưa đá và.. có còn loại gì khác nữa ?

-Anh không biết. Anh thấy buồn ngủ quá.

-Ngủ đi, anh yêu và dẫu thế nào đi nữa thì em cũng mãi yêu anh.

-Em chẳng sợ mưa lắm phải không ?

-Chỉ trừ lúc được ở bên anh.

-Sao em lại sợ mưa ?

-Em không biết.

-Nói đi.

-Đừng buộc em.

-Nói cho anh biết đi.

-Không mà.

-Hãy nói đi.

-Thôi được. Em sợ mưa bởi đôi lúc em thấy mình chết trong mưa.

-Em chẳng chết đâu.

-Và thỉnh thoảng, em cũng thấy anh chết trong mưa.

            Vân Oanh bỗng thốt lên sung sướng, cảm kích với đoạn đối thoại rất hay sau khi lắng nghe, vừa đọc hết dòng phụ đề Việt ngữ. Và cũng mang tâm trạng lo âu như cô gái trong cuốn phim, nàng nắm giữ chặt lấy cánh tay của chàng.

            Sau thời gian dưỡng bệnh, Henry trở lại chiến trường. Anh trở lại vào mùa thu năm sau đó. Trên đường đi, anh nhìn thấy quang cảnh những hàng cây trơ trụi lá và đường sá đầy bùn lầy. Từ  Udine, anh đến Gorizia trên một chiếc xe nhà binh, xuống đây, anh tìm đến chỗ đóng quân của đơn vị cũ. Không khí chiến tranh nay hoàn toàn thay đổi. Vào giai đoạn này, quân đội Ý bị nguy khốn và quân Áo đang thắng thế đã chiếm được nhiều ngọn đồi, nhiều ngọn núi và một số điểm chiến lược trọng yếu trên toàn mặt trận. Người ta bắt đầu thấy chán ghét chiến tranh. Rồi đến lúc, nhiều đơn vị của quân Ý phải di tản. Một cuộc rút quân diễn ra dưới cảnh trời mưa tầm tã. Henry cũng có mặt cùng với đồng đội là những người lính cứu thương trong đoàn quân triệt thoái. Nhưng khi vượt vòng kiểm soát của địch quân Áo đến vùng do quân Ý canh gác, Henry lại bị bắt giữ cùng với nhiều Sĩ quan khác. Những viên Sĩ quan này bị kết tội đầu hàng làm nhục nước Ý. Rất nhanh trí, thừa cơ lúc lộn xộn với  quân số đông, Henry đào thoát lao ra bờ sông, sau đó, anh leo lên trốn ở mái toa của đoàn xe lửa, và nhảy xuống trước khi tàu tiến vào ga Milan.

            Đối với Henry, anh đào thoát và coi như cuộc chiến tranh không còn nghĩa lý gì nữa với anh. Sau những gian nan, bất ngờ, Henry tìm gặp lại được yêu của mình. Do có lệnh truy nã vì tội đào ngũ, một lần nữa Henry phải trốn khỏi đất Ý.  Lần này, anh cùng với người yêu ra đi, trong đêm tối  trên một chiếc thuyền hai người cố sức chèo vượt sóng nước trên hồ, mưa tầm tã suốt đêm, nhưng rồi họ cũng đến được đất Thụy Sĩ. Nơi mảnh đất này là chốn yên bình, họ được sống bên nhau những tháng ngày rất hạnh phúc.

            Rồi Cathérine báo tin cho Henry biết, nàng có thai. Nhưng đến ngày hạnh phúc ấy, trong khi sinh nở khó, Cathérine kiệt sức do bị băng huyết, và cái chết của nàng như đã có trước sự ám ảnh: nàng chết dưới cơn mưa.

            Cuốn phim dài đúng hai tiếng đồng hồ, rất hay và xúc động. Khi đèn sáng, khán giả trong rạp cùng đứng lên và nối theo hàng trên các lối đi ra cửa chính.

            Bên ngoài, màn đêm vừa buông xuống phủ dài trên đường phố nhộn nhịp. Rạp hát vẫn còn chiếu  một xuất cuối nữa.

            Nguyên hỏi cô gái:

-Em nghĩ là mình nên ăn ở đâu ?

-Về nhà em.

            Anh chiều ý nàng, tay nắm tay, hai người đi bộ và rất thú vị khi trở lại với cuốn phim vừa xem. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng được dựng thành phim Nguyên đã đọc, lúc này, anh phân tích cho cô gái nghe những nét, những chi tiết gây được ấn tượng trong tác phẩm. Và, qua đề tài mưa, mưa trong tình yêu, mưa trong một cuộc chiến, mưa trong hạnh phúc tìm đến một nơi chốn riêng biệt thanh bình, với giọng nói của một tâm hồn trung thực, anh làm cho cô gái lắng im trong dòng tư tưởng.

            Rồi anh hỏi nàng:

-Em thích mưa không ?

-Rất thích, nhưng em cũng sợ mình chết trong mưa.

-Không đâu, chúng mình sẽ được yêu nhau trong mưa.

-Đó là tiểu thuyết mà anh.

-Không hẳn đâu. Ngoài đời, biết bao nhiêu đôi tình nhân đi dưới mưa. Mưa cũng là cảnh của nghệ thuật, mưa với dòng nhạc, với tiếng đàn, và mưa trong tiếng nói nữa.

-Em rất muốn vẽ một bức tranh mưa .

-Hay lắm. Em nên vẽ, hãy nói cho anh biết ý nghĩa.

            Vân Oanh nhớ lại buổi sáng ấy của ngày nhập học trời mưa lớn, vừa lúc cô đến cửa lớp thì chiếc guốc cô mang bị đứt. Và, lúc cô cầm chiếc guốc trên tay, nửa muốn cười, nửa như đang khóc, cảnh tượng lạ lùng đó đã làm cô ghi nhớ một hình ảnh thiếu nữ, và luôn luôn cô tự nhủ hãy đợi một ngày hoàn thành nên bức tranh.

-Hãy vẽ bức tranh quí giá đó. Em sẽ thấy mình đẹp, vẻ đẹp chính là cái bóng của em trong cuộc đời.

            Cô gái chợt hỏi:

-Anh có ý tưởng trời đang mưa không ?

-Em thật lãng mạn. Em đang nghĩ đến mưa, phải không ?

-Hãy cùng em nhớ cảnh mưa trong phim.

            Và rồi, chắp nối từng lời, hai người cùng ghi lại đoạn đối thoại rất hay, rất đầy ý nghĩa.

            Vân Oanh bỗng nói:

-Em phải tìm đọc cuốn này.      

-Anh sẽ tìm cho em.

-Nhưng có bản dịch tiếng Việt không ?

-Có.

-Em đọc được tiếng Việt thôi, tiếng Pháp, tiếng Anh em còn yếu.

-Em nên học thêm.

-Anh dạy em đi.

-Em sẽ học với anh lúc anh có thì giờ rảnh.

-Trước khi đi lính, anh có dạy học không ?

-Thời sinh viên, anh có dạy lớp đêm trong tổ chức của Tổng hội.

            Về đến nhà, thay áo quần áo nhẹ xong Oanh đi đến phòng người mẹ. Bà mẹ hiểu được lòng cô con gái, và bảo cô chu đáo dọn chỗ nghỉ cho Nguyên ở căn phòng dành cho khách. Oanh thấy trong lòng vui, nàng xuống bếp làm bữa ăn tối. Bữa ăn chỉ cho hai người thôi. Rất đơn giản, mỗi người một tô mì lớn đặt trên chiếc khay. Vừa ăn, chuyện trò, lúc này cô gái kể cho Nguyên  chuyện về gia đình, về người cha, người mẹ, và các cô em gái. Cô không có anh hay em trai, và cô tâm sự, đó là một tình cảm dường như làm cô thấy thiếu vắng.

            Nguyên nói:

-Hãy nghĩ là có anh trong đó.

            Cô gái gật đầu, và nói:

-Em cũng rất mong, đôi khi, em tìm được anh qua những ý nghĩ về gia đình. Em rất cần có một người anh.

-Còn một người em thì sao ?

-Cũng được, nhưng em thích có anh hơn.

            Một lúc ngập ngừng, Nguyên nói:

-Năm sau, nó được về phép, anh sẽ đưa nó tới thăm em.

-Người em có giống anh không ?

-Nó giống mẹ anh nhiều hơn. Bề ngoài với khuôn mặt khô, cứng cỏi, nhưng đời sống nội tâm của nó rất là sâu lắng, đam mê. Nó thích viết văn, đang muốn mình có sự nghiệp.

-Anh thì sao ?

-Anh chỉ theo nghề báo, về sau này, hết chiến tranh anh cũng sẽ làm báo.

-Anh không thích dạy học.

-Không. Những năm ở Sài Gòn, anh sống bằng nghề viết báo.

-Từ  Huế ra quê anh xa không  ?

-Bằng nửa đường Huế- Đà Nẵng.

            Bữa ăn xong. Vừa đứng lên dọn dep, cô gái nói.

-Lúc nào có dịp, anh đưa em ra ngoài đó thăm.

-Cám ơn em.

 

                                                          IV

            

            Bên cạnh lối cầu thang có một căn phòng dành cho khách. Khi mở cánh cửa đi vào, Oanh bật sáng thêm một ngọn đèn nữa, xong nàng sửa soạn chăn màn cho Nguyên nằm nghỉ. Rồi trước khi rời phòng, nàng đứng lại giây lát để cho Nguyên đặt môi hôn lên trán nàng.

-Chúc em ngủ ngon.

-Anh ngủ ngon.

            Nguyên nghe bước chân của Oanh đi trở xuống cầu thang, rồi xa dần. Nguyên có cảm giác thật dễ chịu, êm ái khi lên giường nằm, và trong cảm giác ấy anh nhận ra Oanh còn bên anh.

            Bỗng nhiên Mỵ Châu ngước mắt khi nhìn thấy người chị xuất hiện.

-Em chưa ngủ ?

            Cô bé mỉm cười. Cô bé có gương mặt của thiên thần, đôi mắt đen mở to đẹp lạ thường.

            Oanh kéo chiếc ghế ngồi xuống bên cạnh em. Và nàng cầm lấy cuốn sách, lật xem qua vài trang.

            Giọng cô em gái hỏi:

-Nhà mình có khách ?

-Anh Nguyên, bạn của chị.

-Học cùng trường ?

-Không, anh ở trong quân đội. Trước đây là sinh viên.

            Hai chị em lặng yên nhìn nhau. Không nói gì thêm cho đến lúc nghe chuông đồng hồ thong thả đánh lên từng tiếng nhạc trước khi báo giờ.

-Em nghỉ đi.

-Dạ.

            Chỉ để lại ánh sáng ngọn đèn nhỏ trong phòng, hai ngọn đèn lớn đều tắt. Khi trở ra, Oanh cũng tắt đèn cầu thang rồi lặng bước về phòng mình nằm nghỉ.

            Nắng sớm dâng lên lan tỏa rất nhanh và tràn vào hết các căn phòng. Nguyên đã thức dậy, mặc xong quần áo, ngồi một mình anh mở tờ báo ra đọc. Oanh xuất hiện với một gương mặt sáng đẹp, dịu hiền:

-Anh ngủ ngon không ?

            Nguyên ngước mắt với nụ cười nhìn người yêu. Oanh đến gần, ngồi xuống cạnh anh và mở rộng bàn tay.

            Một chốc lát sau, nàng đứng lên nói:

-Em làm cà phê và dọn bữa ăn sáng cho anh.

            Nguyên lại ngồi đọc báo và chờ nàng trở lại. Sau khi dọn bữa ăn sáng xong, nàng trở lại tìm Nguyên. Hai người ngồi xuống ở bàn ăn tối hôm qua. Bữa ăn sáng có trứng ớp la, bánh mì cắt từng lát, và còn có bơ, pâté, cà phê sữa.

-Sáng nay mình đi biển chơi.

-Anh thích ra biển hay là chơi phố.

-Thôi, chơi phố, để nhớ phố trong những ngày hè. Ngày mai, em trở ra Huế và bắt đầu năm học mới.

-Anh nghĩ, em nên chọn ngành gì ?

-Em phải chọn ngành trong năm nay ?

            Vân Oanh gật đầu. Nguyên uống cà phê sữa, khen ngon. Cũng đã lâu, Nguyên mới có được ít ngày nghỉ thoải mái bên cạnh người mình yêu. Rồi những ngày tới đây, đời lính của anh, không chỉ có trách nhiệm cá nhân, còn là của cả đơn vị.

            Nhìn đôi mắt Oanh , anh nói:

-Em ra ngoài đó học, có gì cần cho anh biết.

-Em muốn anh gìn giữ sức khỏe, luôn về với gia đình.

            Nguyên đột nhiên đứng dậy, lên tiếng chào , Oanh vừa quay đầu thấy bà mẹ xuất hiện. Nàng hỏi:

-Má đã ăn sáng chưa ?

-Chưa, má chưa ăn.

            Một giọng tự nhiên, cô gái nói:

-Anh Nguyên mới ở Huế vào hôm qua. Có má đây anh được gặp, chút nữa con đưa anh đi thăm cả nhà luôn.

            Bà mẹ nhìn Nguyên và cô con gái. Bà hỏi Nguyên:

-Cậu quen Oanh đã lâu chưa ?

-Dạ, cháu biết Oanh từ năm ngoái.

-Cậu ở Huế một mình, hay có gia đình nữa.

-Dạ, gia đình cháu ở Huế đã lâu.

            Xong bữa ăn, cô gái không phải dọn dẹp mà nhân thể gặp bà mẹ, cô đưa Nguyên đi thăm và giới thiệu cả gia đình bên mình. Nguyên chỉ đáp lời khi nghe câu hỏi từng người.

            Và sau cùng, Oanh đưa Nguyên vào một căn phòng riêng để thăm cô gái út trong gia đình.

            Nguyên rất ngạc nhiên trước vẻ sáng đẹp như thiên thần của Mỵ Châu và anh cũng  rất là ái ngại,  cảm thấy chạnh lòng. Mỵ Châu nhìn anh với cặp mắt thơ ngây. Nguyên chưa tìm được lời nói, bà mẹ ngồi đó lên tiếng giải thích.

            Có được không khí thân thiện trong gia đình, Nguyên hỏi:

-Em thích đọc truyện không ?

            Cô gái chỉ cười. Nguyên tiếp lời:

-Anh sẽ tìm những truyện hay cho em đọc.

            Một cuốn sách cô gái đang đọc dở, Nguyên mượn xem. Đó là cuốn truyện dịch: Con Chim Trốn Tuyết (Snow goose) của nhà văn Mỹ Paul Gallico.

-Những tiểu thuyết tiền chiến em thích đọc không ?

            Bà mẹ cười nói:

-Ngày nào, em nó cũng đọc sách.

            Nguyên gây được sự thiện cảm với người mẹ của hai cô gái, không bằng những câu khách sáo, mà sự chân thực biểu lộ rõ nét trên vẻ mặt của mình. Khi có được một con người thân tình như thế, bà mẹ hài lòng. Ngồi với con gái không lâu, bà đứng lên. Oanh hỏi:

-Má thích ăn gì con đi mua.

-Khỏi, chút nữa má đi với ba.

            Oanh cười, giọng dí dỏm nói với Nguyên:

-Má không lúc nào để riêng ba một mình.

            Người mẹ đáp ngay:

-Không, ba một mình không được đâu.

            Căn phòng tuy hơi tối nhưng ấm cúng nhờ ánh sáng những ngọn đèn néon. Nguyên ngồi xuống bên cạnh Mỵ Châu, nắm giữ bàn tay nhỏ bé của cô em gái. Anh nói:

-Em sẽ có nhiều sách hay đọc. Và, rồi đây, em sẽ làm một công việc viết văn để đi tìm ánh sáng đẹp cuộc đời.

-Anh nghĩ, là em có thể viết văn không ?

            Một giọng nhấn mạnh rất thân tình, Nguyên nói:

-Em sẽ phải có một cuốn sách của mình.

-Em viết nhật ký.

-Đã có ai đọc nhật ký của em chưa ?

-Chị Vân Oanh.

            Oanh đưa mắt nhìn hai người, gật đầu nhẹ. Nguyên và Mỵ Châu ngồi bên nhau chuyện trò, và lần đầu tiên cô bé rất cảm kích về người anh của mình.

            Oanh rời ghế đứng lên, sau vài bước đi, nàng kéo nhẹ bức màn làm cho ánh nắng tràn vào khung cửa sổ rực sáng lên. Bên kia bức màn là phòng vẽ tranh của Oanh. Bên ngoài khung cửa, một cây bàng có những chiếc lá khô nhẹ nhàng rung động. Gió đang bay, qua cửa sổ nhìn xa hơn bạn có thể trông thấy một dãy phố bên kia. Ở phía đó, có một con đường đất dẫn tới một khu nghĩa địa bên ngã ba, từ đó, lại trông thấy một con đường nhựa khá rộng, rất dài ra đến vùng biển.

            Trong khi Oanh đứng ngắm những bức tranh trên giá vẽ của mình, Nguyên nhìn Mỵ Châu với tình thương vô bờ đối với cô em gái. Anh nắm bàn tay Mỵ Châu, dìu bước cô em qua phòng tranh.

            Oanh nói:

-Đây là những bức em đã vẽ xong.

            Nguyên ở bên cạnh Mỵ Châu, hai anh em nhìn tranh vẽ của Oanh.

            Oanh lên tiếng hỏi:

-Anh thấy em vẽ được không ?

-Anh muốn chọn một bức, em nghĩ thế nào ?

-Được chứ. Anh chọn hay là em ?

-Để cho em Mỵ Châu chọn, phải không nào ?

            Cô bé nở nụ cười, gương mặt hiện lên cái bóng của thiên thần. Lúc này, không khí trong phòng tranh thật là ấm cúng, trong đó, bạn chợt hiểu ra ý nghĩa về sự đi tìm tha nhân của mùa hè.

            Mỵ Châu nói:

-Chị Vân Oanh là nguồn ánh sáng của em.

            Oanh đưa mắt nhìn Nguyên. Nàng nói:

-Khi em ngồi vẽ tranh, luôn có Mỵ Châu bên em.

            Nói xong một câu ngắn, Vân Oanh dừng để tìm ý tiếp cho lời. Nguyên bỗng nhắc:

-Và cây bàng ngoài kia, những chiếc lá khi còn xanh.

-Em cũng nghĩ như thế. Anh đã tìm được ý đó cho em.

            Tiếng Mỵ Châu nói:

-Về cây bàng, em có được đọc truyện Chiếc lá cuối cùng.

            Bỗng dưng, cả ba người ngơ ngẩn khi nghe tiếng chuông nhà thờ vang vọng.

-Anh Nguyên và chị Oanh dạo phố đi.

            Oanh đi lên phòng riêng của mình thay quần áo. Nguyên đưa Mỵ Châu về lại chỗ nằm. Bức màn khi kéo ra, đã làm cho cả căn phòng rộng rãi , ánh sáng đầy ắp, và có chút hương vị thơm.

            Oanh xuất hiện với chiếc áo dài tím, mái tóc xõa vai. Nguyên nói với Mỵ Châu:

-Anh sẽ tìm một cuốn truyện hay cho em đọc.

-Cám ơn anh.

            Rồi trước mắt hai người, khu phố mở ra một ngày sinh hoạt náo nhiệt như thường lệ. Nguyên đã cho nổ máy, nhưng xe chưa lăn bánh. Oanh ngồi sau, cẩn thận kéo vạt áo và xê dịch một chút vị thế chỗ ngồi.

            Ông bà Tri đứng ở trên balcon nhìn xuống, cả Nguyên và Oanh không trông thấy. Khi ra đầu đường, Nguyên cho xe rẽ phải lên phố Độc Lập. Rồi từ ngã tư đầu phố này, anh chạy xe hướng về phía bến Cảng. Trên đường Độc Lập, hai bên lối đi là vỉa hè lát đá ca rô nhỏ, những hàng cây vươn cao, thẳng đều. Thành phố Đà Nẵng, thời Pháp có tên là Tourane, nay vẫn còn quen dùng ở những người thuộc thế hệ yêu thích nói tiếng Pháp. Nơi thành phố này cũng ghi nhận hai sự kiện lịch sử, ngày 1-9-1858 Hải quân Pháp đánh chiếm hải cảng này mở đầu cuộc xâm lăng thuộc địa, ngày 8 tháng 3 năm 1965, có hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ một dấu hiệu cho thấy cuộc chiến tranh Việt Nam bắt đầu leo thang.

            Vân Oanh , nàng là một thiếu nữ có vẻ đẹp tựa như mặt trời và mặt trăng trên trái đất. Nguyên thật sung sướng, anh sẽ giữ mãi trong tim anh một lời cám ơn nàng. Và, nàng đang nói với anh những lời của ánh nắng mùa hè, rồi lời của gió, cơn gió nghe rung động bỗng ùa tràn tới thổi tung bay mái tóc của nàng.

-Em phải trả lại căn nhà ngoài đó ?

-Sao vậy ?

-Nhà người anh họ của em, anh ấy học ở Sài Gòn nay trở về.

-Rồi em định sẽ ở đâu ?

-Ở nhà người bạn trên đường Huyền Trân, cũng không xa nhà anh lắm.

-Anh sẽ về nhà luôn như lời em dặn.

-Nhớ đó, lời nói của em tuy nhẹ, nhưng cũng cứng như thép.

-Ngày mai, em tính đi bằng cách nào ?

-Thì ra bằng xe đò.

-Anh nghĩ, đi xe lửa ngắm cảnh vui hơn.

-Cũng được. Đi xe lửa cũng thích.

            Ngôi trường Sao Mai ló dạng phía trước. Khi đi ngang qua một cửa hiệu nước hoa, vừa trông thấy tên bảng hiệu, Nguyên nói:

-Cô gái ngồi trong cửa hiệu là bạn học của Thụy đó.

-Anh cũng biết.

-Anh biết. Thụy đã dẫn cô ấy lên quân trường Thủ Đức thăm chồng, anh ta học sau anh một khóa.

-Cô Ninh Hà phải không ?

-Hình như vậy.

-Cậu Duy có bà con bên gia đình mẹ em.

-Thụy  cũng học ở trường Sao Mai.

            Ngôi trường đối diện với bến Cảng. Vân Oanh nói:

-Mới đó mà đã hai năm em xa trường cũ.

-Em cũng nên dành thì giờ học thi ?

-Chương trình Tú Tài nhiều môn quá, em học không hết.

-Em gắng học ngoại ngữ để thi ban văn chương .

-Em chỉ biết tạm tiếng Anh, tiếng Pháp quá yếu.

-Anh sẽ giúp em.

-Hoàn tất nhiệm vụ không ?

-Có em, anh rất hết lòng.

-Người con trai nào khi được yêu, lời nói nghe thật dịu dàng.

-Nước trái cây là chất xúc tác của tiếng nói, em đồng ý không ?

-Anh nhớ hoa hồng nào cũng có gai, nhé.

-Tên em là tên của loài chim, không phải của những bông hoa.

-Vậy mà, em rất thích hoa, vẽ tranh về hoa.

-Em là đôi cánh của thiên thần. Một ngày nào đó, anh nhìn thấy em trên bầu trời, và cũng có thể trên mặt biển.

-Em rất thương Mỵ Châu ?

-Anh biết. Nhưng tại sao em Mỵ Châu chịu cảnh tật nguyền.

            Với giọng xúc động của người chị yêu thương em, Vân Oanh kể câu chuyện cô bé em mình cho Nguyên nghe.

-Con bé giúp việc ham chơi quá.

            Nguyên cố nói ra giọng hờ hững để che dấu xúc động. Oanh đang khóc, nàng nói thêm:

-Nếu em Châu chịu khó, có thể thương tích sẽ lành lặn.

            Vào năm đó, Mỵ Châu được đưa lên Đà Lạt để trị bệnh và điều dưỡng. Nhưng ở một nơi cao nguyên lạnh lẽo, vắng lặng, cô bé rất buồn vì xa gia đình, vậy đó mà đành chịu không chữa được nữa.

            Từ bến Cảng, Nguyên phóng  xe chạy trên con đường hướng ra biển. Hai người nghĩ đến nhau qua câu chuyện về gia đình, về cuộc sống đã có trong quá khứ.

            Khi đến biển, Nguyên gởi xe và cùng với Oanh đến chỗ nhà nghỉ ngồi uống nước nhìn ngắm cảnh biển. Ngoài biển, nhiều người đang tắm. Trên bãi, đông người đi dạo, chơi bóng tròn, bóng chuyền. Nhìn lên phía xa một chút, có một nhóm du khách phụ nữ nước ngoài, họ ngồi trên ghế  vải dưới mái những chiếc dù màu hồng, màu xanh dương, và hướng tầm mắt nhìn tới một nơi xa đang có sương mù bao phủ bóng núi.

            Nguyên nói:

-Năm đầu tiên lên trung học, anh và Thụy được đi dự trại hè ở Cửa Đại.

-Em có ý tưởng, anh và người em rất giống nhau.

-Khi được hay biết em học về ngành mỹ thuật, nó sẽ hỏi em nhiều lắm.

-Thụy cũng biết vẽ chứ ?

-Không. Nhưng nó rất thích về họa. Tâm hồn của hắn là ly cà phê, chiếc áo mặc màu thuốc lá, và những bức tranh vẽ ngựa uống nước bên dòng suối. Bên dòng suối, không chỉ có khung cảnh thanh bình của bầy ngựa, mà còn có những cô gái nữa.

-Chắc là người em, chưa biết gì về chuyện quen nhau của anh và em.

-Chưa đâu.

-Anh không hề nói.

-Không. Năm tới, em nán ở lại ở Huế những ngày hè, rất có thể nó được một kỳ nghỉ phép trở về thăm.

            Oanh cười nhìn sang Nguyên đang nói. Trên tay, nàng luôn trở nhẹ hai thanh gọng chiếc kính mát .

-Anh nghĩ, em có nên chuẩn bị một câu chuyện hay về hội họa để nói với Thụy khi gặp nhau không ?

-Không nên, em cứ nói ra bằng cảm xúc trong sự sáng tạo của mình.

            Nguyên gọi người hầu bàn đến trả tiền. Hai người rời nhà nghỉ đến chỗ gửi xe, và từ phía biển cách xa thành phố Nguyên chạy xe nhanh trở về, lúc tới bến Cảng anh men theo con đường bờ sông. Một giọng vui, anh nói:

-Trên sông đang đầy nắng, đợi có gió lớn em nhớ  thả cho mái tóc bay qua sông.

-Em không lãng mạn như anh nghĩ đâu .

-Nhưng em cũng đừng để cho sợi tóc nào cứa đứt môi.

-Sao vậy ?

-Linh hồn của tình yêu nằm trong sợi tóc. Khi một sợi tóc cứa đứt môi, đó là dấu hiệu của sự chết chóc.

-Nhưng đó  cảnh bi thảm về chiến tranh.

-Em có nhớ không ?, Cathérine ám ảnh cái chết của mình trong cơn mưa.

-Vâng, em hiểu.

-Mưa, tác giả nói về chiến tranh, nói về tình yêu chỉ tìm thấy ở một nơi riêng biệt thanh bình.

-Em có cảm giác mình run sợ.

-Không đâu em, anh chỉ nói về lãng mạn của tình yêu đấy thôi. Em đang còn một thời thiếu nữ đỏ rực như hoa phương nở trong mùa hè.

-Anh thích màu tím không ?

-Anh thấy đó là màu buồn. Còn hoa hồng, em thích chứ.

-Đôi lúc, anh cứ gọi tên em là Rose.

-Anh nhớ.

            Dòng sông trải dài với nhiều đợt sóng nước lớn và nắng tỏa rộng hết quang cảnh hai bên bờ.

            Tới một ngả ba, có lối rẽ lên phố chính Nguyên theo con đường này  trở lại khu trung tâm của thành phố. Nguyên cho xe chạy quanh một vòng ngắm phố rồi đến ngừng trước hiệu sách Lam Sơn.

            Xe dừng bên lề đường. Oanh bước xuống, nàng sửa lại thân áo và mái tóc hơi bị xổ rối bởi gió ngoài sông.

            Buổi trưa, cửa hiệu sách còn đông khách ra vào, và giờ này cũng là giờ cao điểm phát hành các nhật báo Sài Gòn.

            Hai người đi sâu vào bên trong, dừng lại trước dãy kệ dành cho sách truyện. Nguyên lướt nhanh mắt nhìn qua mỗi tầng kệ để tìm mấy cuốn sách, trước hết cho Mỵ Châu, sau đó là của Vân Oanh. Nguyên thực vui, hài lòng khi tìm thấy. Rồi đến lượt, Oanh dắt Nguyên qua chỗ trưng bày sách về họa và nhạc. Oanh chọn được mấy tập nhạc tiền chiến, và tập nàng thích nhất là Những Tình Khúc Bất Tử, nhạc ngoại quốc, Phạm Duy soạn lời Việt.

            Khi ra quầy trả tiền, cô bán hàng cho tất cả sách hai người mua vào cái túi nylon nhiều màu có tên của hiệu sách in ở ngoài trông rất đẹp. Oanh cầm túi xách theo Nguyên ra đường, rồi hai người lên xe về nhà không đi đâu nữa.

            Buổi chiều ấy, Nguyên ở nhà với Vân Oanh và trò chuyện với mọi người trong nhà. Ông bà Tri có bốn cô con gái, sự hiện diện của Nguyên mang một tình cảm đặc biệt với gia đình Oanh.

            Suốt buổi chiều, đôi tình nhân không rời nhau. Nguyên cũng biết đánh đàn, anh đánh một số ca khúc, còn Oanh rất thích những bài hát trong tuyển tập Những tình khúc bất tử. Nàng đã hát theo nhịp đàn lúc Nguyên phụ họa. Ở tập này, có cả lời tiếng Pháp nữa, những bài nào Oanh thích, Nguyên vừa đọc lời tiếng Pháp và giảng nghĩa cho Oanh hiểu.

            Tối hôm ấy, cũng là tối đầu tiên Nguyên hướng dẫn cho Oanh học môn tiếng Pháp.

            Ngày hôm sau, hai người đi chuyến tàu sớm. Nguyên tới quầy mua hai vé ở toa đặc biệt. Khi ra khỏi cửa ga, hai người đi về phía toa cuối hết. Nguyên xách chiếc vali của Oanh, còn Oanh đeo túi xách, và một tập giấy vẽ cùng cọ, bút màu. Nàng mặc quần jean,  áo sơ mi kẽ sọc tím, dáng bước thật nhanh nhẹn. Khung cảnh nhà ga có những nét lạ làm Nguyên chú ý, sinh hoạt buổi sáng ở đây rất ồn ào nhưng không diễn ra cảnh hỗn độn, chen lấn.

            Cửa sổ toa xe mở cả hai phía. Nguyên sắp xếp hành lý lên giá xong xuống ngồi cạnh Oanh. Tàu chạy đúng giờ đã ghi trên bảng thông báo hành khách, những vòng bánh lăn chậm lướt qua, bên dưới một vài người đưa tay vẫy chào, rồi con tàu cứ thế dần xa, khuất dạng thành phố.

            Bữa ăn sáng trên toa đặc biệt có nhiều món , hai người gọi hủ tiếu và cà phê sữa.

-Khi nào có Thụy về phép, chúng mình ra thăm quê ngoại một chuyến.

-Xa không anh ?

-Xa hơn quê nội chừng ba mươi cây số.

-Em thấy bác trai hay đi nhiều, ít khi ở nhà.

-Ba anh làm việc ở ngành xã hội nên đi công tác luôn.

-Anh và Dung có nét mặt giống bác trai.

-Ba anh tuy nhỏ người nhưng cũng hay. Ông có má lúm đồng tiền đó.

            Oanh cười:

-Anh cũng có nữa.

            Nguyên ăn xong, cầm ly cà phê sữa uống. Trong lúc Oanh còn ăn, anh cầm thìa khuấy sữa cho ly cà phê của Oanh. Nàng nhìn anh, luôn cảm thấy hạnh phúc từ cặp mắt anh gửi lại, trẻ thơ, đằm thắm. Hai người, anh cũng như cô gái luôn có một ý nghĩ giống nhau từ những nụ cười tỏa sáng ra nơi cặp mắt.

            Hai bên đường, ánh sáng rõ dần lan rộng trên từng cảnh vật. Và rồi, chỉ ra khỏi thành phố nửa giờ đường, đoàn tàu đã dừng lại một nhà ga nằm gần quốc lộ, nơi đây bạn sẽ nhìn thấy biển và con đèo bên dưới núi.

-Em chọn học về lụa, anh nghĩ sao ?

-Anh không mấy rành về hội họa, nhưng chọn học vẽ lụa, thích hợp với em hơn.

-Em chọn con đường nào anh cũng thấy đúng phải không ?

            Nguyên gật đầu. Oanh ngả người trong vòng tay ôm ấp của anh. Nguyên vẫn lặng im như thể tìm một câu chuyện, một khoảng thời gian nào đó đã xa, trước khi anh có cơ duyên được gặp cô gái đang hạnh phúc trong vòng tay của anh. Tàu chuyển bánh rời ga, từ cửa toa tàu, hai người nhìn thấy một không gian rộng sáng đẹp, hài hòa những màu sắc êm dịu và nổi vật như là cảnh trong bức tranh.

-Cô họa sĩ của anh !

-Anh nhớ cô nào đó mà gọi tên đấy.

-Anh không nhớ ai hết, nhưng anh biết em yêu anh ?

-Thực không ?

-Đó là tình yêu của thiên nhiên.

-Em rất là vui khi được anh dạy em học.

-Anh mong mỗi ngày đều có em.

            Đoàn tàu vừa đến bên dưới chân đèo, rồi dừng lại. Không gian đã phối hợp và sắp đặt từng vị trí cảnh vật hai bên đường trước khi con tàu chuyển bánh. Biển lòa sáng dưới nắng. Những cánh rừng bên triền núi xanh thẳm và có những khe suối khi ẩn, khi hiện. Nước suối chảy gập ghềnh qua những mô đá. Và, chim rừng cất tiếng vừa ca hát, vừa gọi nhau.

            Bây giờ con tàu chuyển bánh trở lại. Trong tình yêu dấu, Nguyên ôm giữ lấy Oanh và cả hai cùng yên lặng ngồi trên chiếc ghế sát cửa sổ toa xe, vừa nhìn và cố ghi nhận từng nét cảnh vật. Đoàn tàu trườn lên vượt qua từng đoạn dốc với hai đầu máy, trước kéo, đằng sau đẩy. Sau cái nhìn luyến nhớ từ đôi mắt, Oanh hé môi để cho Nguyên đặt môi hôn.

            Chẳng bao lâu, đoàn tàu qua khỏi Hải Vân con đường đèo dài đến 12 cây số.

Bên dưới đèo là vùng đồng bằng, cảnh trí là ruộng đồng, làng mạc, những con sông, những cây cầu. Khi Vân Oanh nhìn cảnh vừa vẽ tranh, Nguyên lục tìm trong túi xách tờ báo, hoặc cuốn sách để đọc. Buổi chiều qua, ở hiệu sách, Nguyên mua được mấy cuốn để dành cô em gái Mỵ Châu và người yêu của mình.

            Khi lấy cuốn sách, Nguyên chưa mở ra đọc ngay, anh nhìn ngắm Oanh đang buông thả tâm hồn với cảnh vật và qua những nét trên bức vẽ. Nắng sáng, in dấu trên mái tóc nàng. Và, cả trên thân áo của nàng nữa cũng điểm lấm tấm những bông hoa của ánh nắng. Rồi, cùng với bút vẽ những nét tài hoa của nàng bay lượn trên giấy , mỗi nét tạo được ngay ấn tượng không cho bạn nhận ra từ cảnh ở ngoài mà chỉ thấy trên tranh nàng đang vẽ. Bên dòng suối chảy có bóng cây, trên mái nhà có ánh nắng, một dòng sông bên dưới cây cầu, rất xa khung cảnh đó là một làng quê vắng lặng yên bình.

            Nguyên mở sách đọc. Thung lũng  Salinas ở về phía Bắc tiểu bang California là một dãy đất dài và hẹp nằm giữa hai dãy núi và con sông Salinas ngoằn ngoèo uốn khúc ở chính giữa cho đến khi đổ thẳng ra vịnh Monterey.

            Nguyên đọc nhanh và từng trang dịch của câu chuyện rất cuốn hút anh. Cuốn sách anh đang cầm đọc là cuốn Phía đông vườn địa đàng (East of Eden), tác giả là nhà văn Mỹ John Steinbeck.

            Lúc này, đoàn tàu đang chạy chậm sắp sửa đến ga xép. Qua bóng im của lá rừng, Nguyên trông thấy người bẻ ghi cầm cờ đứng đợi đoàn tàu tới.

-Em vẽ xong chưa ?

-Chưa đâu.

-Anh muốn ngưng đọc sách để ở bên em.

-Khoan đã. Anh cứ đọc sách đi. Em đang sửa lại bức vẽ.

-Em là một cô họa sĩ rất dễ thương.

-Anh khen em nhiều lắm rồi, từ hôm qua đến hôm nay.

-Không có ai thật lãng mạn như em cả. Vừa là hành khách trên tàu, vừa là họa sĩ vẽ tranh.

-Em cảm thấy thật dễ chịu.

-Anh đọc sách tiếp đây.

-Anh đọc đi. Rồi kể cho em nghe.

            Khi đoàn tàu dừng, những người bán hàng rong cất tiếng rao. Và, có một đứa nhỏ đứng bên dưới nhìn cô họa sĩ vẽ tranh. Bất chợt gặp nó, cô gái mỉm cười rất là thú vị.

            Sau mười phút ngừng, đoàn tàu chuyển bánh. Cô gái đã vẽ xong bức tranh. Người yêu của cô ngừng đọc sách, rất hài lòng với bức tranh cô vẽ. Trên quãng đường đi, đoàn tàu lúc nhanh, lúc chậm và đến mỗi ga xép lại ngừng khoảng chừng trong năm, hoặc mười phút.

 
                                                              V

       

            Sài Gòn vẫn đang trong mùa mưa. Thụy mới viết thư về thăm gia đình. Trong lá thư này, anh nhắc đến Vân Oanh với cô em gái và nhờ Nhi cho anh gởi đôi lời thăm nàng. Trong sự thầm kín không phải vì đã yêu, nhưng thực lòng rất mong nhớ, anh rất muốn viết lá thư gởi nàng, những dòng thư của anh sẽ trang trải hết mọi niềm hân hoan từ buổi chiều nghe câu chuyện em gái anh nói về nàng, thế là anh có gặp nàng trong trí tưởng, hay là trong giấc mộng.

            Sau thư gia đình, cùng hôm đó Thụy viết thư gởi Ninh Hà. Vừa áy náy, vừa cân nhắc, rốt cùng anh phải bỏ qua không nói với nàng về kỳ nghỉ phép về Huế mới đây. Nhưng  ích gì không, người bạn gái dường như vẫn còn ở trong tim anh một sự chờ đợi, vẫn có một mối tình mà dù ở hoàn cảnh nào cũng không ngăn cách nổi. Đã có lúc, anh tự nhủ mình quên, nhưng rồi, bóng dáng nàng từ đâu trở lại đứng bên anh rất lâu trong thời gian của giấc mơ.

            Thụy rất thường hay đến nhà dì Hồng, có bữa ở lại chơi ăn cơm và đánh bài xì dách. Thụy thường được bạc nhờ đỏ, nhưng không nhiều lắm.

            Suốt cả tuần nay bên nhà Huê đóng cửa. Thụy  không hỏi Thúy, nhưng mỗi lần đi ngang không thấy bóng nàng, anh băn khoăn.

            Rồi cũng không vắng lâu, nàng đã trở lại. Vừa trông thấy nhau, cả hai cùng vui mừng. Huê mặc bộ quần áo thường có chấm bông đỏ đứng ở hiên ngoài. Gió thổi nhẹ mát, lay động những ngọn lá trên chậu hoa nơi Huê đang đứng. Thụy tới gần, dừng lại trên bậc thềm.

-Anh mới đi đâu về ?

-Đi chơi với người bạn.

            Huê  mời Thụy vào nhà chơi. Đèn căn phòng trước sáng, thật dễ chịu trong không gian rộng vì chỉ bày biện đơn giản. Cô gái nói:

-Em ở Long Xuyên mới về.

-Vậy à.

-Em về thăm ba mẹ.

            Huê bỏ đi ngay sau đó, cô vào nhà trong, chốc lát sau trở ra với chiếc khay rộng có trái cây và nước uống. Thụy đang ngắm nhìn bức ảnh của Huê đóng khung treo trên tường. Bức ảnh đen trắng, thật đẹp, càng nhìn anh càng thấy những nét đẹp duyên dáng của nàng trên gương mặt thật tươi trẻ trong một nụ cười ánh hiện trên đôi mắt .

-Trái cây đầu mùa phải không em ?

-Vâng.

-Em thi cử ra sao ?

-Trượt rồi.

-Em không nói đùa.

-Không.

-Em không thể nào rớt được.

-Anh không tin à ?

-Hoàn toàn không .

-Tùy ý anh.

            Hai người ngồi xuống gần nhau.

-Trông anh khỏe mạnh.

-Anh trông tin em. Đi ngang qua nhà mấy lần vẫn thấy đóng cửa.

-Thúy không nói gì với anh ?

-Anh không hỏi.

-Em mới về chiều nay.

            Mỗi thứ trái cây có vị ngọt, hương thơm riêng. Hạnh phúc đến với Thụy hơn hết là lúc này được ngồi bên Huê trong nhà nàng. Nhà vắng, Thụy hơi bâng khuâng và có chút do dự, ngỡ ngàng.

            Huê nói:

-Em sắp đi ở nơi khác.

            Thụy bỗng ngồi im, bất động. Một lát sau, anh hỏi nàng:

-Sao em muốn đi khỏi đây?

-Nhà này gia đình muốn cho thuê.

-Cho thuê hả.

-Ờ. Huê cười tiếp lời, anh muốn thuê không ?

            Thụy bỗng có ý tưởng như đây là căn nhà của anh. Cô gái để nguyên vẹn khuôn mặt cho anh ngắm nàng. Thụy nhớ lại buổi chiều hôm ấy trời mưa, canh bạc nhỏ trên căn gác, tiếng nói của Huê, rồi ly cà phê mang ý nghĩa cuộc đời của kẻ thất chí, nỗi buồn nhớ ấy anh vẫn còn ray rứt trong ngày ra đi. Rồi một buổi sáng ấy trên bến Cảng có hình ảnh một thiếu nữ mặc áo trắng. Con tàu cất tiếng còi nghe vắng xa. Tàu vừa tách bến, Huê ở trong lòng anh, nàng theo anh qua một quãng đời.

-Anh về nghỉ phép vui không ?

-Không vui, buồn.

-Sao vậy ? Chắc cô bồ ngoài đó quên anh.

-Không, anh không có bồ.

-Thực vậy sao ?

-Về Sài Gòn, gặp lại em anh vui.

-Thực hả.

            Rồi một giọng điềm nhiên , Huê nói:

-Hết tháng này người thuê nhà dọn đến ở.

- Nhưng em đi đâu, xa hay gần Sài Gòn.

- Cóù nhà bên khu Bàn Cờ, em về ở với gia đình chị Yến.

-Còn anh Chương ?

-Anh đi du học, qua Mỹ rồi.     

-Ở nơi này sẽ vắng bóng em.    

-Em nghĩ là không sao cả. Thực tình, chỉ thi lại loạt hai nên em dễ đậu.

-Mừng cho em.

            Huê không nói gì, nhưng đôi mắt nàng muốn gợi nhớ ra nhiều kỷ niệm cũ. Từ ngày ấy không xa lắm khi người lính trở về.

            Ngày hôm đó nhập ngũ, Thụy lên đường ra Nha Trang bằng tàu thủy. Lênh đênh giữa sóng biển một ngày đêm, sáng hôm sau tàu ra tới thành phố Nha Trang, và đây là một thành phố biển đẹp nhất miền Trung.

            Rồi sau ba tháng học căn bản quân sự, ngày mãn khóa Thụy được cấp bằng hẳn hoi. Thụy rời quân trường trễ hơn các bạn một tuần, vì ở lại dự kỳ thi Tú Tài I. Thực may mắn, mấy hôm thi anh làm bài được, nhưng cũng có nhờ hai thí sinh ngồi gần bàn nữa. Buổi chiều ngày chủ nhật, Thụy đi ra phố chơi, ghé quán nước giải khát rồi vào rạp xem phim Le temps d’aimer et le temps de mourrir. Cuốn phim dựa theo tiểu thuyết của nhà văn người Đức Erich Maria Remarque. Thụy  đã đọc cuốn truyện dịch, nên lúc coi phim, có nhiều câu đối thoại bằng tiếng Pháp anh hiểu được, không cần nhìn xuống dòng phụ đề.

            Khi đèn rạp hát sáng lên, anh vẫn ngồi trên ghế. Ý nghĩa về cái chết của người lính trong chiến tranh thật là buồn. Tình yêu của nàng và người lính, nương tựa vào lá thư, vậy mà lá thư anh ta cầm trên tay chỉ đọc được ít giòng, rồi anh ngã gục, lá thư buông trôi trên dòng nước.

            Phố chính đường Độc Lập bừng dậy trong không khí nhộn nhịp, rất đông người ngày cuối tuần. Hai bên, những cửa hiệu buôn bán nối nhau, nhiều quán hàng ăn, quán giải khát chỗ nào cũng đông khách ra vào, và rạp hát đang vọng ra ngoài những điệu nhạc êm dịu.

            Thụy ghé tiệm phở, lúc bước vào thấy đông khách ăn nhưng anh không đợi lâu. Tiệm ăn sạch sẽ, mùi phở thơm ngào ngạt làm anh cảm thấy đói. Thụy gọi tô lớn, lúc người chạy bàn mang ra, có bao nhiêu thứ gia vị để sẵn trên bàn, anh cho mỗi thứ một chút, và rồi một mình thưởng thức bữa ăn ngoại lệ của mình. Và, thực sự anh muốn quên đi cảnh đời khó khăn của gia đình ba mẹ, các em anh đang ở Huế, quên đi số phận mình là người lính dù không bị súng đạn đe dọa, nhưng cuộc sống không cách nào nhìn thấy ngày mai đây sẽ trở nên tốt đẹp.

            Thụy ăn hết tô phở, vừa đủ no và ngon. Bên kia đường là một hiệu sách có bày nhiều tranh ảnh đẹp treo ra phía ngoài. Trên phố nãy giờ luôn nhộn nhịp, đông vui, và những gương mặt người tân binh hay SVSQ các quân trường trông rất tươi trẻ. Hạnh phúc cho các thiếu nữ và các chàng trai người đang có người yêu đi bên cạnh mình. Thụy dừng lại giây lát trên bờ đường nhìn ngắm mái tóc, những tà áo duyên dáng, mơ mộng của các cô gái trong thành phố này. Và, mai đây như thế nào thì đó là chuyện của thời gian trả lời.

            Ở trên chiếc bàn dài thấp gần quầy tính tiền là nơi đặt  báo. Tất cả đều mới, tạp chí, tuần báo đến nhật báo. Báo Văn, số này là tuyển tập thơ văn. Lúc báo này ra mắt số đầu tiên, Thụy rất thích, khi mượn được của người bạn trong tuần đầu anh đã đọc hết. Và, báo này đã gợi lên trong anh niềm ước ao sự có mặt tên tuổi của mình. Thời gian qua, anh không dám gởi bài vì lượng sức mình chưa đủ. Những truyện ngắn anh sáng tác, chỉ vừa trong trình độ của nhật báo, tuần báo thôi. Nhìn báo Văn, truyện muốn được đăng phải có cách viết mới, ngôn ngữ mới, ý tưởng mới. Một lần thất bại của Thụy là truyện ngắn viết về Ninh Hà, người bạn gái anh vô cùng yêu thương. Khi nhận được thư  tòa soạn, anh hiểu ra cái non nớt, yếu kém của mình không là nội dung câu chuyện, mà ở cách viết. Tuy nhiên, anh rất hài lòng với chi tiết tả buổi sáng ở lớp học cùng với nàng đánh cờ ca rô , bất giác, trong phút giây xúc động của tình yêu, nàng để cho anh mở rộng bàn tay nâng mái tóc nàng lên để được nhìn gương mặt nàng qua một vẻ đẹp tỏa sáng.

            Buổi chiều đang xuống, nắng dần trôi xa. Khi ra khỏi hiệu sách, bên tay Thụy là một cái túi nylon đựng một cuốn truyện dịch và mấy tờ báo.

            Trên đường về nhớ đầy

            Chiều chậm đưa chân ngày

            Thụy bước đi thanh thản, vừa sống với những giờ khắc hạnh phúc. Mỗi nơi chốn mang đến, từng thứ một là niềm nhớ thật nhẹ nhàng.

            Buổi chiều thân tình như người bạn. Thụy  chưa muốn trở về trại, vì hôm nay là ngày cuối ở Nha Trang, và sáng mai, với túi sac marin, với chiếc ba lô đeo vai, Thụy sẽ giã từ quân trường.

            Bỗng nhiên, Thụy dừng bước đưa tay dụi mắt. Một bóng người đàn bà áo trắng vụt hiện, đứng ngay trước mặt anh thật lạ lùng. Thụy hết sức bối rối, ít giây sau mới nhận ra. Và, anh thấy nàng thay đổi rất nhiều. Nàng đứng yên đó, cặp mắt bất động nhìn anh.

            Anh thấy nàng (có hơi mờ đi), và anh cũng thấy e thẹn, ngập ngừng.

-Ông Thụy, nàng khẽ nói.

            Người lính mỉm cười, vẻ mặt bỡ ngỡ.

-Ông không nhận ra tôi ?

            Một vài giây sau.

-Có, anh nói vừa gật đầu.

-Ông biết tên tôi không ?

-Cô Thùy.

            Nàng cười, đưa tay cho Thụy  bắt. Nhìn quanh, anh nhận ra đây là khu Phước Hải ngày xưa, không thay đổi nhiều. Phía bên đường là nhà thờ Chánh tòa xây bằng đá. Thụy nhớ lại những buổi tối anh và Nhuận ra nhà thờ ngồi chơi, hóng mát, gió nhẹ rung lên khi buổi chiều vừa tới giờ chuông đổ, sau một lúc, có tiếng còi tàu từ nhà ga vọng tới.

-Cô Thùy vẫn còn ở Đà Lạt ?

            Nàng cười bảo:

-Tôi đâu còn là học sinh nữa.

-Tôi cũng vậy, mới đi lính mấy tháng.

-Ông có nhà ở đây ?

-Không, tôi đang ở quân trường.

            Quán nước mía bên đường có căng tấm bạt rộng. Thụy và nàng đến đó, ngồi xuống ghế nhỏ bên chiếc bàn vuông thấp. Nước mía mang ra, mỗi ly có ống hút.

-Cô Thùy được mấy cháu rồi ?

-Chưa.

-Sao vậy ?

-Đừng hỏi lôi thôi, ông bạn.

-Không lẽ, cuộc sống gia đình không có gì vui ?

-Bộ ông muốn nhảy vô hả.

-Không dám.

            Nàng cười nhìn lại người bạn cũ.

-Anh Thụy vẫn trẻ con như ngày đó.

-Tôi vẫn nhớ buổi đầu tiên gặp Thùy . Những kỷ niệm về Đà Lạt của tôi nằm trong ngày đó.

            Nàng chỉ mỉm cười không nói.

-Nước mía uống thật ngon.

-Anh có viết thư thăm thầy Phiên không ?

-Có. Cậu tôi đã được giải ngũ.

-Rồi đến lúc nào anh ra trường ?

-Tôi vừa mãn khóa học. Ngày mai, tôi trở về Sài Gòn.

            Ly nước mía bên nàng đã vơi một nửa. Nàng nói:

-Gia đình Thùy vẫn ở Đà Lạt.

-Đường Phan Bội Châu ?

-Sao mà nhớ ghê vậy ?

-Có cây si trồng ở đó, chặt đứt không ?

            Nàng cười, ánh mắt dịu lên một vùng sáng. Bên cạnh người lính, còn một chiếc ghế trống. Và, nàng vừa mở rộng bàn tay cho chàng được nắm lấy.

-Đà Lạt, kỷ niệm đẹp trong thời đi học.

-Rồi sương mù, rồi cỏ, những đồi thông, rồi.. nhiều nữa.

-Thùy  sinh ở Đà Lạt hay ngoài miền Bắc.

-Ở đường Phan Bội Châu.

-Con đường có đồi khế, màu đất đỏ.

-Cám ơn anh Thụy đã nhớ.

-Tại sao Thùy không mặc áo tím ?

            Thời gian đã làm cho kỷ niệm lắng xuống rất sâu. Và, nếu tôi nhớ lại rõ nét, nói ra tên con đường, vẽ lại từng màu sắc chiếc áo, vẽ lại được cả từng hạt mưa, thì những hình bóng cũ ấy cũng đã là một sự mất mát, muộn màng thật cảm động. Vì thế, tôi đã ngăn được ý nghĩ của mình khi muốn gợi ra một câu hỏi về những lá thư tôi trao tận tay nàng, về những điều nàng đã biết tại sao tôi yêu nàng, và trong đó nữa có một tấm lòng của nàng đối với ba mẹ tôi ở xa, khi đã có những lần nàng giúp tôi ghé qua trạm bưu điện bỏ giúp những lá thư tôi gởi về nhà.

            Ngồi chuyện trò cũng khá lâu, trời đã tối, đường phố sáng đèn. Thụy cùng đi bên cạnh nàng một đoạn đường, tới ngã tư gần đó hai người dừng bước.

            Thùy ngước mắt, nàng nói:

-Bao giờ cũng vậy, gặp lại nhau là biết kỷ niệm vẫn còn nhớ.

            Và lúc này đây, Huê còn nhắc Thụy nhớ đến khuôn mặt viên Trung úy trưởng trại và chữ ký của ông nằm trong khuôn dấu đỏ. Thụy vẫn nhớ cái bắt tay rất chân tình cùng lời từ giã ông nói, trong đó, ngày mai anh sẽ đi xa không hy vọng gặp lại ông nữa. Ông rất quí mến Thụy, và riêng anh đã có sự đóng góp làm tờ Đặc San cho một khóa học, tuy gấp gáp vì  thời gian quá ngắn nhưng thể hiện được điều ông mong muốn.   

-Anh có món quà dành cho em.

-Đâu nào ?

-Anh để bên nhà.

-Anh cho em món quà gì ?

-Một tờ Đặc San anh và các bạn làm ở quân trường.

-Hay qúa, chịu khó về mang qua cho em.

-Sáng mai, anh đem qua cho.

-Không. Về lấy đi anh.

            Thụy biến mất như cái bóng. Thúy ra mở cửa khi nghe có tiếng chuông.

-Anh đi đâu về ?

-Đi với người bạn.

            Thụy đi nhanh lên gác, vội vàng mở túi xách lấy tờ báo. Rồi anh vụt chạy xuống cầu thang lúc ấy,  tiếng chuyện trò của mấy người ngồi ở nhà sau.

            Huê vẫn ngồi một mình trong phòng khách trống vắng. Khi thấy Thụy trở lại, nhìn vẻ mặt anh nàng không thể nhịn cười. Thụy đặt tay lên vai nàng, giữ  lâu trong chốc lát.

            Hai người ngồi xuống bên nhau trên chiếc ghế xô pha rộng. Thụy cầm chén nước trà đưa lên miệng uống từng hớp. Ý nghĩ về ly cà phê dậy chút men, anh ngồi im mắt không rời khỏi những ngón tay Huê đang giữ lấy từng trang báo. Khi thấy bài Thụy ký tên nàng ngừng lâu. Nàng chợt mỉm cười, Thụy nói:

-Có em trong đó.

            Huê đọc thêm một đoạn, rồi lật trang. Tờ giấy vàng đục, chữ đánh máy đen đậm trong đó mang dấu vết ngày tháng in sâu nỗi buồn nhân thế. Thụy chẳng hề tâm sự với ai, nhưng anh đã viết. Anh viết về Huê , trong bóng dáng và tên gọi của nàng anh đã lẫn lộn biết bao nhiêu điều chỉ muốn nói về một người bạn gái của mình. Và, ngồi đây bên cạnh một cô gái không phải là người yêu, Thụy nghĩ rằng mình đang trốn khỏi một cuộc chiến. Thụy rất ngạc nhiên, vì nó đã vây hãm cuộc sống của anh những ngày trước đây đến đỗi sống ở Sài Gòn anh vẫn lo sợ, nhất là, nhận diện rõ ràng qua quần áo mặc của mình.

            Huê gấp tờ báo lại, cô nói:

-Hay quá, anh đã thực hiện được tờ báo này.

-Chỉ trong vòng mười ngày.

-Anh kể chuyện mấy tháng ở quân trường cho em nghe.

-Ngày nào anh cũng tắm nắng và đổ mồ hôi.

-Anh quá lãng mạn.

            Thụy rót thêm đầy tách nước, rồi đưa qua cho Huê.

-Cám ơn anh.

            Thụy cầm tờ báo lên xem qua. Đồng hồ trên tường đổ chuông. Rồi sau đó, anh và Huê hai người giúp nhau chuẩn bị bữa ăn tối. Khi ở trong căn nhà trống vắng, ánh đèn điện sáng lên đó là sự ấm cúng, điềm đạm, vừa chừng mực, đó cũng là một dấu hiệu về lương tri. Chúng tôi đây là hai anh em ruột thịt sống bên nhau trong những ngày ở xa gia đình. Cách đây hơn một giờ, tôi ngồi với Minh ở quán ăn bên khu chợ Thái Bình. Minh và tôi, hai đứa gặp lại nhau sau một năm. Ở Đà Nẵng vào Sài Gòn, không phải mong học tiếp mà tìm kiếm việc làm. Rồi người bạn đổi ý, hắn đợi chờ mười ngày nữa đi chuyến bay quân sự lên Đà Lạt. Minh sắp vào trường Võ Bị.

            Dứt một giây hồi tưởng, Thụy hỏi Huê:

-Em có nghĩ tới hạnh phúc cho mình trong tương lai.

-Em vẫn sống bình thường, tự nhiên.

-Anh luôn luôn nghĩ đến hạnh phúc của em.

-Bây giờ không có gì cả là hay nhất.

-Thật vậy sao ?

-Anh có chọn nghiệp văn cho đời mình không ?

-Em hãy chọn cho anh.

-Em không biết .

-Anh cảm thấy vui khi em còn ở Sài Gòn.

            Có bóng người đi qua bên ngoài. Thụy cảm thấy nôn nao muốn nói với Huê:

-Không, sự ràng buộc đời tôi là Ninh Hà. Tôi yêu nàng, vì tôi nghĩ nàng đã sống với tôi trong bao nhiêu tình cảnh người vợ qua những kiếp luân hồi. Trên miệng lưỡi, hễ gọi tên nàng là tôi nhận ra dư vị cay đắng lẫn ngọt ngào.

            Thụy để lộ ra một bộ mặt si dại, ngớ ngẩn. Huê buông đũa, cười lớn tiếng, tiếng cười dồn đổ nghe như là một trận mưa. Trong người Thụy nóng ran lên như cơn sốt, ngay lúc đó, anh để ngửa lòng bàn tay.

            Vậy rồi, buổi tối đó qua đi mà chàng cũng đã che giấu hết sức vội vàng. Chàng được ở bên cô gái đến nửa đêm. Hai người chơi đánh bài. Chàng luôn chú ý những con bài cơ hồng đỏ hình trái tim, nó rạo rực trên mấy ngón tay của Huê.

            Bỗng tiếng cô gái nói:

-Thôi, anh về đi. Đã khuya rồi.

            Chàng không muốn nghe giọng ái ngại ấy làm gì. Rồi không thể nào cô tránh kịp, chàng đã ôm gọn lấy thân cô gái, rồi thật yên lặng  cô để cho chàng đặt môi hôn, nhưng một lúc sau chàng nghe tiếng cô khóc. Cô gái khóc,  chàng nói những lời dỗ dành, vừa nghe tiếng hạt mưa và tiếng mình nói xúc động hòa tan vào hương vị thơm của mùi tóc.

            Về nhà, Thụy thao thức không ngủ được. Anh cảm thấy mình hối hận và nghĩ đến Ninh Hà. Sau đó, anh gặp nàng trong giấc mơ. Bên cánh cửa, nàng bồng đứa con trai nhỏ. Anh đứng yên lặng sau lưng nàng một lúc rất lâu, bỗng nhiên, trên tường vôi trắng anh  trông thấy nàng ngồi một mình xõa tóc. Không biết nàng tìm thấy ai đó trong dĩ vãng.

            Sáng hôm sau thức dậy, Thụy vẫn còn nuối tiếc giấc mơ. Anh không lo âu, sợ hãi, nhưng nghĩ rằng Huê vẫn còn khóc. Nàng khóc vì ức chế, chứ không có gì giận dỗi ai cả. Thụy lại rời nhà, cùng đi với Lăng suốt ngày. Hai đứa đi xe đạp, đến thăm gia đình họ hàng. Ai cũng thấy anh thay đổi, trông vẻ mặt đầy nghị lực, tin tưởng vào cuộc sống. Và, những lời khuyên chân tình của bà con làm anh xúc động, tự hứa với mình cố gắng trở lại với sách đèn.

            Qua tuần lễ sau, Thụy trở lại nhà dì Hồng và đi qua nhà Huê. Anh mạnh dạn bước lên bậc thềm, vừa gọi tên, vừa bấm chuông.

            Huê ra mở cửa, thấy anh nàng hỏi:

-Đi  đâu cả ngày nay ?

            Thụy  nhìn đồ đạc đang bỏ lung tung trên bàn ghế.

-Em đang làm gì ?

-Ngày mai em dọn nhà.

            Thụy cầm lấy tay Huê.

-Anh còn muốn gì nữa ?

-Anh rất nhớ em.

-Bày vẽ ra.

-Em cần  anh giúp em một tay không ?

-Thích làm giúp thì nhảy vô.

            Thụy để Huê sắp xếp quần áo, còn sách vở, mấy thứ linh tinh anh dọn giúp nàng. Cô gái nói:

-Em cũng thật bê bối với những thứ đồ đạc của mình.

-Ngày mai thì sao ?

-Giúp cho tôi một tay.

-Em không dịu ngọt chút nào cả ?

-Người em hay nổi nóng, lên cơn lắm.

-Còn anh lúc nào cũng thèm đi xa. Có em, anh thấy lòng mình vui.

-Anh liều với em, không chỉ một lần đâu.

            Giọng Huê  rất giản dị, lắng sâu. Thụy  không đáp lời, chỉ thu xếp những thứ còn lại vào túi xách.

            Trước khi rời nhà, buổi sáng Huê mời Thụy uống cà phê. Khi Huê hỏi chuyện về sự liên hệ của anh với dì Hồng, anh nói rõ hơn.

-Em là bạn thân của Thúy.

-Anh biết.

            Một giờ sau, Huê và Thụy cùng đi chuyến xe lam đến nhà người chị. Người mẹ đi vắng, hai đứa nhỏ vòng tay chào đón khách. Huê có căn phòng riêng ở nhà dưới. Thụy giúp nàng dọn dẹp căn phòng.

-Công việc này làm anh luôn nhớ đến em.

            Thụy vừa nói, vừa đặt khung ảnh của nàng treo ngay ngắn trên tường chỗ có đặt bàn học. Khi đã có được chút nồng nàn với cô gái, lúc nào trong tôi cũng đầy ắp hương vị của tình yêu. Treo bức ảnh xong, tôi lùi lại một bước nhìn đăm đăm bóng dáng người đẹp. Trong tôi, nắng ấm chan hòa, ánh sáng của ngày vừa đổi mới.

            Xong việc dọn nhà, Huê mời Thụy đi ăn cơm trưa. Thụy không đói lắm, nhưng từng giây phút được ở bên cạnh nàng là một dịp anh được sống với cuộc đời hạnh phúc khi có được tình yêu. Yêu một người con gái, và được gần gũi bên nhau để chuyện trò, dù cho chưa có gì với nhau cả, cũng đã cảm giác được tình yêu. Huống gì, vào buổi tối ấy, sự đâm liều của anh nó may mắn như một người trúng vé số.

            Nhà Huê ở trong khu bàn cờ, gần đấy là khu chợ, và đi ra đầu đường là gặp phố chính. Dọc con phố, nhà nào cũng là cửa hiệu buôn bán, quán ăn, quán giải khát. Quán ăn của người Hoa luôn đông khách. Hai người ngồi phía dãy ngoài mái hiên, Huê cầm menu gọi món ăn, và anh có hơi ngạc nhiên khi cô gọi cả bia nữa.

            Thụy lên tiếng:

-Ông cho một chai bia lớn, hai ly.

            Không đợi lâu, bữa ăn dọn ra ngay sau đó ít phút. Cả cơm và thức ăn nóng tràn hơi khói. Thụy cầm chai bia rót vào ly Huê trước xong đến bên mình.

            Thụy bảo Huê cầm ly lên, cụng một cái trước khi uống. Và, anh nói:

-Rượu bia này uống chơi.

            Nàng nhìn lại anh hỏi:

-Khi nào mới uống thiệt ?

-Đâu biết. Chuyện của em mà.

            Huê nói:

-Em không cám dỗ anh đâu.

-Không , thì thôi.

            Bữa ăn trong sự yên lặng. Nhưng không có gì đáng tiếc xảy ra cho hai người. Sau bữa ăn, Thụy đưa Huê về nhà rồi chia tay.

            Không biết đi đâu, và cũng chưa muốn về nhà, ra tới trạm xe buýt gặp xe anh bước lên và theo chuyến xe về tới bến.

            Sài Gòn luôn đông vui. Một mình lang thang trên phố, hai mắt người lính trẻ luôn nhìn xa gần, chung quanh, và trong ý nghĩ luôn ước mong gặp một ai quen để nói ra những lời tâm sự.

            Trên vỉa hè Lê Lợi có rất nhiều bán sách báo cũ. Qua mỗi sạp, Thụy dừng lại trong chốc lát. Anh mua được mấy cuốn sách , và một số tạp chí Sáng Tạo cũ. Thụy cứ đi hết con đường lên tới nhà hát thành phố. Và rồi, anh vòng qua bên đường đi ngược trở lại dọc theo hè phố, đến quán Mai Hương ghé vào gọi một ly cà phê đá

Người ngồi trong quán hút thuốc nhiều làm anh bị sặc khói. Nhưng, anh vẫn đốt thuốc để uống cà phê. Ngồi trong quán ai cũng nhìn ra con đường rất đông người đi dạo trên phố chính. Những tà áo dài của các cô gái đi ngang qua làm dịu mát buổi chiều. Những tà áo thật đẹp, đem cho mỗi người một niềm vui, và có cả sự buồn nhớ nữa. Trời sắp tối, Thụy ra về. Quán vẫn đông khách, và bắt đầu ồn lên cùng với tiếng nhạc, lời ca, vọng từ  dĩa hát.

            Về nhà dì Hồng, Thụy gặp Lăng. Hôm nay là ngày giỗ của mẹ dì Hồng. Thụy nói lời xin lỗi dì rồi đi dốt hương. Khi anh trở vào, cô Thúy nhìn anh với cặp mắt dò xét. Ngồi quanh chiếc bàn tròn có Lăng, dì Hồng, và Thúy, Thụy nói chuyện về những ngày nghỉ phép đã qua.

            Sau đó, bữa cỗ dọn lên. Chuyện trò vui, anh hăng hái nói chuyện về đời lính, về tương lai của một chuyên viên Không Quân mà anh tin tưởng là sẽ đem lại nguồn lớn trong cuộc sống của mình.

            Thúy nói:

-Anh đi lính rồi trông trẻ hẳn ra.

            Thụy cảm thấy nhẹ nhõm vì có được sự dịu bớt những mối nghi ngờ trong mắt Thúy.

-Anh khỏi lo chuyện quân dịch nữa.

-Rồi anh có đi học lại không ?

-Thong thả, qua năm tới.          

            Thụy hỏi qua Lăng:

-Tết này có về nhà không ?

-Không. Tuần đến tôi đi Đà Lạt.

-Đi chơi.

-Không. Tôi đi dạy

            Không hiểu sao, Thụy chợt có cảm giác mình đang bị thành phố bỏ rơi.

-Lên trên đó ở luôn.

-Không, sang năm tôi về. 

                                                                  VI
 

            Trước khi bắt đầu vào năm học, Oanh dành hai ngày đi theo Nguyên ra Quảng Trị thăm làng quê bên nội và bên ngoại của chàng. Hai người chỉ đem chung cái túi xách với vài bộ quần áo để thay, khăn mặt, bàn chải đánh răng, một ít thức ăn khô và trái cây trong hộp, đây là phần lương khô hàng tháng của Nguyên. Oanh cũng đem theo cọ, mực màu, giấy vẽ, đặc biệt là chiếc máy ảnh hiệu Canon. Nguyên vẫn thích mặc đồ lính cho tiện. Oanh không mặc áo dài, nàng chọn chiếc sơ mi sọc xanh, quần jean, đội nón vải và đeo kính mát. Nàng thật đẹp trong dáng dấp áo dài tím thướt tha, và cũng thật trẻ trung, nhanh nhẹn trong lối mặc áo quần của lớp thanh niên.

            Xe lửa rời ga lúc 8 giờ sáng. Trời dịu mát với quang cảnh đầu thu lãng đãng những bóng cây, ánh sáng buồn dịu dàng, và trên bầu trời có những cánh chim một mình bay xa.

            Với tốc độ rất đều, đoàn tàu chạy qua cầu, qua sông, rồi những cánh đồng ven miền quê. Oanh rất thích thú nhìn quang cảnh, nàng đang ở trong vòng tay ôm ấp của người yêu. Nguyên thích trò chuyện, anh có nhiều câu chuyện kể thật là thú vị.

            Oanh chợt hỏi:

-Tại sao anh bỏ Sài Gòn về ngoài này ?

-Anh ở trong đó lâu năm rồi.

-Thì ở Huế, không là nơi anh ở lâu à.

-Ở thành phố này rất là dễ chịu. Hơn nữa, giờ đây anh có em.

-Hôm chúng mình gặp nhau ở quán cà phê, tình tứ quá phải không.

            Nguyên hỏi:

-Trong hai người, theo em, ai biết mình được để ý trước.

            Oanh đáp lời ngay không suy nghĩ:

-Anh.

-Thật vậy sao ?

-Anh không tin.

-Ờ…

-Anh không tin em yêu anh sao ?

-Tin chứ. Nhưng em nói thật không ?

-Vậy chứ theo anh là ai được người ta chú ý.

-Em.

-Thật là cảm động.

-Anh ghi lại được ngay phút giây đó gương mặt em dịu hiền, mái tóc đẹp, và nụ cười thật dễ thương.

-Chết em mất.

            Nguyên tìm lời chỉ trong vài giây, anh lên tiếng:

-Bây giờ em cho anh nói thật không ?

-Anh nói đi.

-Anh cám ơn em, nhiều vô kể.

-Ít thôi, nhiều quá cất không hết.

-Để anh nói rõ thêm.

-Anh cứ nói.

-Vừa tan buổi văn nghệ, anh mong gặp em nhưng vì gặp người bạn có chuyện trao đổi lâu, lúc ra đến ngoài, anh tìm không thấy em đâu cả.

-Cuối cùng, ai cũng ngạc nhiên.

-Đêm hôm đó, trăng sáng lạ lùng.

-Đến khuya, trên con đường vắng chỉ có tiếng bước chân chúng mình.

-Anh nhớ mãi tên em, và mong được gọi đó là tên của thành phố.

-Lớn quá, gọi bằng tên của dòng sông nghe gần gũi hơn.

-Em đã bảo anh, em có tên Rose nữa, đúng không ?

-Em rất thích hoa hồng. Khi hoa tàn, em không nở vứt đi mà hái cánh hoa ngâm vào trong chậu nước.

-Em thực là con người nhân hậu.

-Anh nói sai rồi, phụ nữ có lúc rất cần phải dữ, rất cần la lối om sòm để cho kẻ khác sợ.

-Em nghĩ, nếu anh có làm điều gì lỗi với em, thì làm sao ?

-Anh đứng trước mặt em, vòng hai tay xin lỗi.

            Nguyên chợt dụi mắt vì bụi than. Những đám khói tàu ngược chiều gió cuồn cuộn bắn bụi than tung tóe bay vào các toa xe. Lúc ấy, Oanh rút chiếc khăn trong ví ra và Nguyên nhắm lại để nàng lau bụi bên khóe mắt.

            Sau ít giây, Nguyên mở mắt hơi khó chịu một chút. Bụi tan, Oanh lấy chai nước lọc rót vào cái ly nhựa đưa cho Nguyên uống. Nguyên uống thong thả từng ngụm đầy.

            Phía ngoài cánh đồng, một đàn bò đi dưới nắng. Oanh hỏi:

-Hồi xưa, ông ngoại anh làm quan lớn không ?

-Ông ngoại làm tri phủ. Anh là con trai đầu của mẹ, và cũng là đứa cháu được ông ngoại thương nhất.

-Thực không ?

-Ông ngoại làm tri huyện Nga Sơn.

-Hay nhỉ. Nghe như có tên em trong đó nữa.

            Nguyên bắt đầu kể rành mạch chuyện được theo mẹ lên tàu từ Đông Hà ra Thanh Hóa, được ở chơi cả tháng trời.

-Ngày anh về, ông ngoại nhớ lắm.

-Ông ngoại có đến hai bà vợ phải không anh ?

-Ai kể cho em nghe, chắc là mẹ.

            Oanh gật đầu. Nguyên nói:

-Bà ngoại đầu, tên Nga.

- Tên nghe hay. Hai bà của ông ngoại thương nhau không ?

-Hai chị em ruột.

-Lạ không .

-Ngày xưa, có chị thì phải có em. Ở đời ông cố anh cũng vậy.

-Vậy nữa sao .

-Anh rất thích cái tích xưa trong chuyện Trầu Cau.

-Em rất thích bài hát đó.

            Ngày xưa có hai anh em nhà kia cùng yêu thương một người.  Oanh cất tiếng hát, nàng vừa hát, đầu vừa ngả xuống cánh tay Nguyên với cả mái tóc mềm mại. Nguyên lắng nghe những câu cô gái đang hát.

            Khi cô ngưng lời ca, Nguyên hỏi:

-Bên trường Mỹ Thuật cũng phải học năm dự bị.

-Có chứ anh. Sinh viên phải học đủ bốn năm mới tốt nghiệp.

-Em có mơ cuộc triển lãm về những tác phẩm của mình.

-Đó là giấc mơ của em.

-Anh cũng có giấc mơ giống em.

-Không giống đâu.

            Nàng mỉm cười, và khi Nguyên có ý định cúi xuống hôn, nàng hé môi. Nguyên hôn xuống khuôn mặt, và trên cặp môi mọng ướt của nàng thật lâu. Một giọng đậm đà, còn thơm ướt nụ hôn, Nguyên nói:

-Hôm nay là một ngày vui. Ngày vui này còn mãi.

-Mùa hè đã qua nhanh, Vân Oanh nói.

            Tàu vừa ngừng. Nguyên không nhớ đây là ga nào. Nhà ga nằm bên kia đường, phía dưới cây cầu. Ngước mắt nhìn lên, hai người cùng trông thấy vài ngôi làng và con sông. Bên ngoài trời nắng đầy, nhưng ở phía ngôi làng hiện ra vẻ êm ả của những hàng tre xanh.

            Làng tôi xanh bóng tre, có tiếng chuông nhà thờ rung, Vân Oanh hát lên một câu rồi hỏi Nguyên:

-Anh nhớ tên bài hát không ?

-Không, nhạc của Văn Cao.

-Anh nhớ đúng.

            Chỉ ngừng năm phút, tàu chuyển bánh. Khi trông thấy bảng tên nhà ga, Nguyên nói:

-Còn một ga nữa thôi, mình xuống.

            Tàu bắt đầu chạy nhanh. Cánh đồng vẫn trống trải, như đang cố vươn mình theo. Luôn luôn, những cảnh vật không muốn dừng. Ở cảnh vật, người ta thích quan sát để nghe riêng niềm tâm sự. Đó là một thoáng buồn Oanh chợt nghĩ tới.

            Oanh vẫn ở trong vòng cánh tay êm dịu của Nguyên. Nàng có cảm giác tiếng Nguyên nói, ý tưởng trong đầu Nguyên, mỗi thứ ấy là những nét mới mẻ của mùa màng, thời tiết. Và, trong trí tưởng nàng, cả một bức tranh có thể vẽ ra được đang hình thành.

            Tàu chạy nhanh, nhưng không đến mười lăm phút, lại  trở về tốc độ chậm rồi từ từ tiến vào ga.

-Mình xuống ở đây.

            Hai người cùng đứng lên và lấy hành lý để trên kệ. Không có gì để quên sau khi kiểm soát, hai người rời khỏi toa.

            Hành khách xuống không đông. Nhưng ở ga này, tàu ngừng lâu đến mười lăm phút.

            Bóng nắng vạch một đường rất thẳng dọc theo lối đi bên đoàn tàu. Hành khách còn phải đi bộ một quãng xa mới đến cổng kiểm vé.

            Khi ra bên ngoài, hai người dừng bước nghỉ dưới mái hiên. Vân Oanh điều chỉnh máy ảnh xong, bảo Nguyên:

-Anh đứng bên này đi, em chụp cho anh một tấm ảnh.

            Nguyên đứng gần cửa sổ. Bên trong cánh cửa là căn phòng làm việc của trưởng ga.

-Nhìn đây, cười lên nhé.

            Hết phiên mình, Nguyên bảo Oanh chọn chỗ đứng để anh chụp ảnh cho nàng. Oanh rất là vui, luôn luôn cười. Nguyên chụp cho nàng ba tấm ảnh.

            Đoàn tàu đã rời ga. Hồi còi vang vọng, tiếng bánh sắt nặng nề , gió cuộng vòng những đám khói dâng lên cao.

-Mình phải kiếm một quán nào nghỉ chân.

            Nguyên nhìn tới phía xa, anh tiếp lời:

-Em nhìn phía đó thấy gì không ?

            Ít giây, rồi Oanh mới nói:

-Thì cũng là nhà ở, đường sá, có gì lạ đâu.

-Chỗ ngã ba, bên trong là chợ.

            Hai người xuống khỏi thêm tam cấp, vội băng nhanh qua bên kia đường. Phía bên trên, nhiều con đường đất băng qua các đồng ruộng. Ở một khu đất vắng, mọc lên một ngôi trường tiểu học. Ngôi trường, phía đầu hồi là lợp ngói, tiếp nối theo là những dãy phòng lợp tôn.

            Nguyên bỗng nói:

-Con bé Nhi rất là nhiều chuyện, nghe em.

-Con bé vui tính.

-Thụy  viết thư về có hỏi thăm em.

-Thụy  viết thư cho anh.

-Không, nó viết về cho mẹ và con Nhi.

-Không chừng, Nhi đã kể chuyện về em.

-Con bé nó thích ai rồi, tha hồ thêu dệt. Bây giờ cả nhà ai cũng mến em.

-Riêng anh, hơn hết phải không ?

-Vẫn nhiều lúc, anh băn khoăn.

            Sau một lúc suy nghĩ, giọng ngập ngừng Oanh nói:

-Má cứ lo cho em.

-Anh hiểu. Anh cũng chưa dám nghĩ quá xa. Nhưng mà thôi, thấy em vui là anh vui.

-Cứ nghĩ đến má, em thấy lo.

-Anh biết má rất là quan trọng.

-Ba em có vẻ thích anh.

-Anh cũng rất quí mến ba. Con người ba rất vô tư.

-Nói vậy là làm rể được rồi, phải không ?

-Hy vọng thôi. Với ba, anh chỉ thi viết, còn má là vào vấn đáp.

-Có một thời má đi dạy, nhưng rồi ít năm sau, xin nghỉ.

-Em thích dạy học không ?

-Thích lắm chứ.

-Tốt nghiệp xong, em xin đi dạy.

-Em cũng có ý nghĩ đó.

-Em dạy ở Đà Nẵng thì gần nhà, nhưng nếu ra ngoài đất Quảng trị này thì cả thành phố là dành hết cho em.

-Hân hạnh.

            Hai người vui chuyện và cùng tâm ý. Tới ngã ba, đường rẽ vào khu chợ chừng khoảng trăm mét. Không khí xôn xao, tiếng ồn trỗi dậy từ phía chợ và ngang qua các dãy quán hàng, cùng lúc, mùi vị thức ăn pha trộn bay ra từ các quán, nhưng cũng dễ phân biệt. Cô gái bắt đầu nhận ra tiếng nói nghe nặng của người vùng quê. Giọng có khác đôi chút với giọng của Nguyên. Nguyên sinh trưởng ở đây, nhưng anh đã theo gia đình ra thành phố, rồi đi vào Nam, rồi trở về Huế, bao nhiêu cuộc sống trong nhiều năm tháng ấy đã thay đổi tiếng nói và cả con người anh nữa.

            Giữa chợ đang buôn bán nhộn nhịp. Lối đi trở nên hẹp vì người đông và các quán hàng không chỉ cố định bên trong mà còn tràn lấn cả ra ngoài. Thế nhưng, bạn vẫn thấy có cảm giác dễ chịu đối sinh hoạt chợ vùng quê. Thực ra, đây còn là quận lỵ khá đông dân, có trường học, chùa chiền, nhà thờ, và đời sống rất gần với một thị trấn.

            Quán hàng ăn khá nhiều, và hai người cùng cảm thấy đói. Nguyên đưa mắt tìm, chỗ nào cũng đông chật, sau cùng hai người đi tới cuối chợ, ở đó có một quán ăn rộng rãi. Bên kia quán, một căn nhà mở rộng mái hiên để hai bàn bi da cho thuê. Có cả bàn bóng bàn, đang trống, chưa có người chơi. Có một đám thanh niên đang chơi bi da. Không khí lặng im, hồi hộp.

            Vừa thấy khách vào , chị bán quán cất tiếng mời chào. Hai người ngồi xuống ghế thấp trước cái bàn dài bày chén, tô và đũa muỗng, bên cạnh hai nồi cháo và bún đang nóng lên khói.

-Có gì ăn đây ?

-Dạ thưa nhiều thứ, cháo bánh canh, bún rêu, bánh lá, bánh ướt.

-Em ăn gì ?

-Ăn bánh trước đi.

-Rồi ăn thêm cháo hoặc bún nữa..

            Oanh gật đầu. Ơû phía trên có một quán cà phê mở nhạc, giọng ca sĩ Hoàng Oanh đang hát.

            Chị bán quán làm hai dĩa đầy vun, trông ngon mắt. Bánh ướt vùng quê với nước mắm ớt, với chả, và có thịt heo xắt lát mỏng. Vị cay rất dịu làm cho nước mắm pha thật ngon. Oanh rất vui ngay lúc  cầm đũa gắp miếng bánh đầu tiên. Bánh ướt ở vùng quê ngoài này hơi dày, nhưng thật dẽo. Loại bánh này có thể dùng làm bánh phở, hoặc pha màu thành mì Quảng. Có chả và thịt ăn ghém, mỗi thứ, Oanh gắp một ít. Hai người vui với bữa ăn, không nói chuyện nhiều, nhưng rất hiểu ý khi đưa mắt nhìn nhau. Nguyên và cô gái, ai cũng có nét đẹp riêng trên cặp mắt. Ở Nguyên, đôi mắt đẹp của anh gợi cho các thiếu nữ  nghe ra được tiếng hát của chim, và những tiếng nói trong tình bạn. Ở đôi mắt cô gái, nụ cười là ánh sáng tỏa niềm vui, và khi cô có một nỗi buồn xa xôi, bạn sẽ thấy một màu nhung xanh của chiếc áo hiện về trên cặp mắt của cô. Và đôi mắt ấy, mang mang hoài nỗi nhớ của thời gian.

            Hai người ăn hết dĩa bánh, đã thấy no. Nhưng rồi, thấy chị bán hàng mời mọc món cháo bánh canh cá, mỗi người ăn thêm tô nhỏ. Nguyên nhìn sang quán bên cạnh gọi nước giải khát.

            Bên ngoài, buổi họp chợ vẫn đông. Tiếng nói của người vùng quê, Oanh chỉ nghe lõm bõm, cô không hiểu được hết ý nghĩa của tiếng nói.

            Ngồi trong quán đã lâu, nhưng hai người chưa đứng dậy. Phải đợi, lúc cô gái nhìn đồng hồ đeo tay mới biết là lúc này trời đã trưa.

            Bến xe lam nằm phía đầu ngã ba, có sáu chiếc ở đó đậu dưới bóng im đang chờ khách.

            Cô gái mở ngăn ví lấy tiền trả. Khi hai người dời bước đi, có mấy người trong quán đưa mắt nhìn theo, ai cũng khen đôi lứa tình nhân xứng hợp.

            Vừa tới bến xe, Nguyên bỗng nghe có tiếng gọi:

-Chú Nguyên.

            Ngay lúc đó Nguyên nhận ra anh Quang, con người o ruột ở dưới làng. Nguyên giới thiệu cô gái với người anh. Anh Quang lấy làm vui, cười nói hả hê với mấy người bạn tài xế. Đột nhiên anh quay lại hỏi Nguyên:

-Chú và cô đi đâu đây ?

-Về thăm làng.

-Xe tôi sắp chạy.

            Anh Quang nhìn đồng hồ tay, xong ra phía sau đếm hành khách. Có một người nửa tới với hàng hóa, anh vội leo lên trần xe để chất hàng. Cô gái chú ý đến dáng vẻ bề ngoài của anh, chiếc quần tây đen, áo kaki nhà binh có cầu vai và hai túi, đầu đội nón lưỡi trai.

            Anh Quang cột hàng xong, từ trần xe bước xuống và dành hai ghế trước cho Nguyên và cô gái ngồi.

            Khi xe mới nổ máy, Nguyên hỏi:

-Mỗi ngày anh chạy mấy chuyến ?

-Bốn.

-Cũng được chứ anh.

-Ờ, tàm tạm thôi. Thường chuyến lên chợ buổi sớm, và chuyến cuối buổi chiều về đông khách hơn.

            Ngồi bên Nguyên cô gái vừa cảm thấy xa lạ, vừa thân quen với nơi mình đến. Từ lâu nay, cô quen với cuộc sống ở thành phố, và đây là lần đầu tiên cô đi về một làng quê của chàng. Tự dưng cô yêu mến, không hề có ý do dự, đòi hỏi.

            Xe lăn bánh bánh chạy một vòng cua quanh bến, ra đầu ngã ba, rẽ trái chạy trên con đường trồng cây thông , vượt lên dốc cầu, đổ xuống quận lỵ sau đó bắt đầu là con đường làng đất cứng, nhưng bằng phẳng, rộng rãi.

            Khung cảnh làng quê hiện ra thật yên bình, nắng mênh mông trải rộng qua những đồng lúa, bờ đê, và một con kinh đào rất sâu, rất dài, dẫn nước từ phía dòng sông đưa vào ruộng. Những nguồn nước dẫn ở sông vào chảy mạnh, dào dạt như dòng suối, và hình ảnh làm cô gái thấy lạ lùng, quan sát là những chiếc xe đạp nước.  Lúc này là giờ nghỉ trưa, nhiều chiếc ngừng hoạt động nhưng vẫn còn một vài chiếc có người đang đạp.

-Chú Nguyên còn viết báo không ?

-Cũng còn, nhưng không chuyên lắm. Tôi ra ngoài này rồi, không ở Sài Gòn nữa.

-Chú có gặp chị Số không ?

-Chị ở Biên Hòa. Tôi có đi thăm, lúc sau này, chị buôn bán cũng khá.

-Ở làng mình, người ta lần đi vào Nam hết.

-Đã lâu quá, nay tôi mới về.

-Bà vẫn còn mạnh.

-Tôi đưa cô bạn về thăm bà, thăm quê, ở một hôm nay ngày mai đi ra  Đông Hà về quê ngoại.

-Sao chú đi ít ngày vậy ?

-Không được nhiều ngày, cô còn trở vào đi học nữa.

-Cô người ở đâu ?

-Người Đà Nẵng.

-Hồi đi lính, tôi ở đơn vị tiếp vận trong đó.

-Anh được giải ngũ.

-Ờ, giải ngũ loại hai.

            Ruộng lúa hai bên nối nhau trải dài. Nhà ở các ngôi làng nằm sâu bên trong, có ít nhà ngói, nhiều nhà tranh, nhà nào cũng có sân phơi lúa, có vườn, và dọc con đường làng nơi nào cũng có trồng cây lấy bóng mát. Những ngôi làng kế cận nhau, nhưng cách vài cây số là có tên khác. Và mỗi nơi, cảnh vật cũng có chút đổi thay.

            Từ quận, con đường quan rộng chạy thẳng ra tới vùng biển Mỹ Thủy xa12 cây số. Nãy giờ, cô gái chẳng lên tiếng chuyện trò với Nguyên và ông anh họ tài xế, nhưng cô rất vui thích được nhìn cảnh đồng quê. Hàng cau, bụi chuối, giếng nước, những lớp màu ngói đỏ, ngói nâu, những ngôi nhà tranh, từng sự vật tưởng như đang sắp xếp thật  gọn một chuyến đi đường dù là ngắn, nhưng cô sẽ nhớ mãi về sau này.

            Hai chặng anh Quang ngừng xe cho khách hàng xuống. Con đường xe chạy cũng qua ba khúc quanh, hai đoạn dốc và bốn cây cầu gỗ.

            Xe dừng đầu chợ, Nguyên và cô gái xuống. Anh Quang xua tay khi Nguyên trả tiền nhưng Nguyên bắt anh lấy và tiền Nguyên đưa cũng rộng rãi.

            Anh Quang cám ơn và cho xe trở đầu. Thực sự, lộ trình xe chỉ dừng khách đầu ngã tư, nhưng vì là người trong gia đình anh đưa người em đến chợ để đi con đường vào làng cho gần.

            Nguyên nói với người yêu:

-Làng  anh ở đây.

-Mới là con đường thôi.

-Em nói đúng. Nhưng về tới làng, chỉ xa chừng trăm mét.

            Ngồi trong quán, một chị bán quán nhìn ra. Chị ta lên tiếng:

-Mua quà bánh đi anh.

            Nguyên liền đi vào quán mua hai ốp hương. Khi trở ra ngoài, vừa đi ít bước Nguyên nói:

-Làng quê anh rất nghèo.

-Anh làm em cảm động.

-Có em về thăm, bà nội chắc mừng lắm.

-Không phải đâu, anh đừng tưởng em không hiểu ý anh.

            Một giọng vui, Nguyên nói:

-Nhưng cảnh làng quê nghèo, nó được thi vị hóa cái đẹp, phải không Oanh?

-Vậy nên, đám nghệ sĩ, anh nào cũng nghèo.

-Họ là những người rất có tâm hồn.

-Bài hát nào về làng quê anh thích nhất ?

-Bài Quê nghèo.

-Cảnh quê giống như làng anh, đúng không ?

-Không, mà giống miền quê ngoại.

-Quê ngoại nghèo lắm sao ?

-Không, nhưng hồn bài nhạc làm anh nhớ đến quê ngoại nhiều hơn.

-Anh nhớ bài nhạc không ?

-Anh không nhớ hết.

            Con đường nhỏ hẹp, có bóng im, thật mịn màng khi bước chân đi trên lớp cát. Và, cô gái có được ngay cảm giác này khi cô tháo đôi dép xách tay để được bàn chân êm đi trên cát. Bên cạnh đường, dưới hàng nứa thấp là con mương nhỏ, nước rất trong.

-Oanh  ơi, tiếng Nguyên nghe lạ tai.

-Trời đất,  em đây mà, anh sợ em đi mất sao ?

-Không, anh muốn nói với em. Ngày Tết, ở miền quê ngoại rất vui.

-Ngày Tết, đâu mà không vui .

-Nhưng quê ngoại mới là niềm vui cho em. Anh vừa nhớ ra câu hát trong bài nhạc: Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời áo dài đùa trong tiếng cười.

            Oanh reo lên:

-Em hiểu ý anh. Đó là câu hát ca ngợi cảnh ngày xuân,  không ở nơi đâu hay bằng.

            Rồi một giọng xa vắng, nàng tiếp lời:

-Hồn quê như nắng mùa xuân. Hồn quê cũng đẹp như  một tấm áo dài.

 

 

 

                                                           VII

 

 

 

            Với túi xách nhẹ đeo vai và chiếc va li nhỏ đựng áo quần sách vở, Lăng từ giã Sài Gòn. Khi xe buýt ghé trạm ngừng ở lề đường bên ngoài bến xe Pétrus Ký, chỉ có mình Thụy và Lăng xuống.

            Thời gian còn sớm, hai bạn ghé vào quán ăn sáng nằm trong khu vực bến xe. Trời đã sang thu, buổi sáng dịu mát.

            Hai tô hủ tiếu lớn, ăn no. Rồi gọi tiếp hai ly cà phê sữa nóng. Đốt xong điếu thuốc, Thụy nói:

-Tôi sắp đi Nha Trang.

-Anh đổi ra làm việc ngoài đó ?

-Không, tôi đi học khóa chuyên môn.

-Lâu không ?

-Ba tháng. Tôi lại được về Sài Gòn .

            Nhìn lại Thụy qua một nụ cười, Lăng nói:

-Anh đi lính mà sướng hơn làm quan.

-Tôi học chuyên môn để lấy bằng ăn phụ cấp, xong tôi cũng không đi ngành này mà sẽ biệt phái trở lại làm cho báo Lý tưởng.

            Cà phê nóng ấm, ngon miệng. Nghĩ về chuyến đi, Thụy thấy Lăng không vui. Một giọng dè dặt, Thụy hỏi:

-Năm sau thi lại, chỉ vấn đáp thôi hay cả viết nữa.

-Tôi thi vấn đáp hai thôi.

-Rồi cũng nhanh, năm sau về lại Sài Gòn.

            Ngồi không lâu, xong bữa ăn sáng Thụy trả tiền và đi cùng Lăng tới chỗ xe đậu. Trên đường đi, Thụy nhắc tới anh Nguyên, và cũng tiện cho Lăng biết về cô bạn gái của anh Nguyên tên  là Vân Oanh ở Đà Nẵng.

-Anh đã có gặp rồi ?

-Chưa. Nhân kỳ nghỉ phép tôi nghe Nhi nói.

-Anh và cô Huê, hai người tới đâu rồi ?

-Không có gì cả.

            Nói xong, Thụy lại tiếp lời giải thích là Huê chưa thực sự có người yêu như nàng muốn. Thế nhưng, anh được ở bên nàng như một người bạn hiểu nàng, và nghe nàng nói những lời tâm sự. Vừa rồi, Huê thi đậu khóa hai, ý định sẽ ghi danh học ở Văn Khoa. Từ hôm Huê dọn nhà đến nay, thỉnh thoảng anh tới thăm, lúc trò chuyện ở nhà, lúc ra quán cà phê ngồi. Kể ra, vì chưa có gì với nhau cả, nên hai người rất thân mật một cách tự nhiên.

            Dừng lại bên dưới xe, Lăng lên trước xong nhận chiếc va li Thụy chuyền qua ô cửa. Sắp xếp chỗ để hành lý trên ngăn giá xong, Lăng ngồi xuống, trong lúc chờ xe khởi hành hai bạn tiếp nối câu chuyện cho qua giờ.

-Chừng nào anh ra Nha Trang ?

-Cuối tháng này.

-Lâu nay, anh có truyện nào đăng báo không ?

-Có. Tôi hay gởi truyện đăng ở báo ngày và tuần báo.

-Nhuận bút khá không ?

-Ít thôi, nhưng đăng ở mấy báo đó dễ dàng.

            Không đợi đến mười phút xe chạy. Thụy đọc thấy một nỗi buồn trên cặp mắt của Lăng, bỗng dưng cảm thấy đó là người bạn thân thiết nhất của mình.

            Nắng đã lên cao, và trải rộng dần trên khắp các khu phố.

            Hôm nay là thứ bảy. Sài Gòn cách Đà Lạt 300 cây số, xe đò hay rước khách dọc đường, thời gian cũng phải chạy mất hơn bảy tiếng đồng hồ mới đến nơi. Và dù vậy, Lăng cũng có được một tuần lễ nghỉ trước khi vào năm học mới.

            Xe buýt đỗ khách tại bến chính ở khu chợ Bến Thành. Giữa cảnh tượng ồn ào, huyên náo trên các ngả đường, Thụy chẳng biết mình đi đâu, và làm gì đây cho qua hết một ngày.

            Những quầy sách cũ, rạp hát, quán cà phê đã vội vàng biến mất khi anh vừa nghĩ đến. Nơi thành phố cũ ấy, áo trắng là hương thơm tinh khiết của mùa hoa lan. Vừa bước đi, Thụy muốn vẽ lại trong trí nhớ mình thành phố đó. Với những dòng sông, bao nhiêu cây cầu, và mùa thu đã trở lại. Thụy nghĩ đến giọng nói, đôi mắt của Liên An. Bây giờ đây, anh thật hết sức cố gắng tìm sao cho thấy được một bóng dáng Vân Oanh nguyên mẫu ngoài đời. Ký ức về nàng, dù là qua sự mường tượng nhưng vẫn có thể xây dựng nên một câu chuyện tình. Trong năm học ấy, nàng mới 17 tuổi. Trước khi tôi đến thành phố nàng ở và gặp nàng, tôi đã trải qua một mùa thi đầy ân hận, cay đắng. Về thời gian sau này, tôi học hành có tiến bộ, trở thành học sinh khá trong lớp. Vậy mà, không được cái vận may trong mấy ngày thi cử nên tôi bị rớt hai khóa liền. Thật chết người ở lần thi khóa nhì, tôi qua được loạt I, nhưng rớt loạt II, vì thiếu một điểm. Chiều hôm ấy, trời xứ Huế buồn dưới cơn mưa nặng hạt. Dưới mái hiên văn phòng trường Quốc Học, tôi và ba tôi đứng đợi thầy giám thị xem điểm giúp. Một lúc khá lâu, thầy trở ra, và lúc nhìn dáng thầy đi chậm bước mắt nhìn xuống tờ giấy, tôi linh cảm chuyện không may cho mình. Quả thực, tôi hỏng thi. Trên tờ giấy xanh, những môn thi của tôi được ghi điểm, rồi một giọng bình thản thầy hỏi tôi có điểm thi thể dục không ?, tôi đáp không, lặng người đứng chôn chân một chỗ. Sự hối tiếc và ân hận, đã muộn rồi. Tại sao tôi không nghĩ rằng, ở môn nhiệm ý này, chỉ cần có dự thi, dù không đạt tiêu chuẩn về nhảy rào, nhảy cao, nhảy dài, leo dây các huấn luyện viên cũng châm chước cho các thí sinh một vài điểm dư để cộng thêm vào kỳ thi. Hôm đó, thực sự tôi có đi theo các bạn cùng lớp từ trường Bình Linh xuống sân vận động trường Quốc Học, nhưng lúc sắp vào cuộc thi, tôi chợt nghĩ lại một lần chơi đá bóng bị té ngã gãy xương vai, nếu lần này, thi nhảy qua rào, nhảy cao và nhảy dài, lỡ té ngã, xương cũ tôi bị nứt khó chữa lành. Tôi có nỗi lo sợ, do dự một lúc, và không biết chuyện gì đã xui khiến tôi rời khỏi sân vận động ra về. Trên đường đi, tôi tự nhủ, không có điểm thêm của môn thể dục tôi cũng đủ khả năng thi đậu.

            Nhưng sự coi thường này, tôi đã trả một giá đắt, nặng nề, không chỉ mất một năm học lại mà còn nhìn thấy tương lai bấp bênh, còn nữa, một chuyện phải lo thêm giấy tờ xin hoãn dịch. Và, có một lối thoát dạo đó tôi không nghĩ ra, đó là việc đổi tên và làm giấy khai sinh sụt tuổi. Chuyện này không khó, vì ba tôi chỉ việc ra ngoài quê nói bác tôi là thôn trưởng làm cho một giấy khai sinh mới, rồi đem trình tòa án tỉnh xác nhận là xong, và qua được chuyện này, tôi sẽ cảm thấy yên tâm học hành.

            Thật tình tôi không nghĩ ra được cách giải quyết bài toán, là vấn đề quan trọng cho đời mình. Nhưng rồi, tôi vẫn tiếc rẻ cho cái bằng Thành Chung mình thi đậu, nhờ đó, tôi lên tinh thần và trở nên ham học. Tôi nghĩ tiếp, với bằng Thành Chung tôi có thể thi Sư phạm cấp tốc, sau một năm ra làm giáo viên tiểu học, đồng lương cũng không đến nổi quá kém, thiếu hụt. Rồi, nương cái nghề giáo làm chỗ dựa, lần hồi, tôi học thêm, trễ tràng lắm từ một đến ba năm tôi cũng lấy xong được bằng Tú Tài.

            Mùa thi ấy đã qua. Những cây phượng trên các ngả đường trong thành phố, hoa vẫn còn đỏ. Những ngày đợi mùa thu sắp về, tâm trạng những người học sinh rộn rã lắm, nhưng tôi cảm thấy mình chán nản gần như tuyệt vọng. Tôi muốn rời xa Huế, đi Sài Gòn. Tôi thèm trở lại thành phố này, và nếu được, tôi sẽ tìm kiếm một công việc làm có đồng lương rồi đi học lớp buổi tối. Tôi ngỏ lời tâm sự với ba tôi, nhưng ba tôi im lặng, không quyết đoán. Một ngày ấy, dì Bích Vân ở Đà Nẵng ra làng quê nhân tiện ghé thăm, nhân lúc đó mẹ tôi hỏi xin ý kiến dì, được dì bằng lòng chấp thuận.

            Dì Bích Vân về thăm quê một tuần mới trở lại. Rồi, tôi đi theo dì vào Đà Nẵng, đến nhà dì ở đường Trưng Nữ Vương. Một tuần lễ sau, tôi mới làm đơn xin nhập học trường Sao Mai.

            Trường Sao Mai là trường tư thục công giáo lớn nhất thành phố. Ngôi trường tọa lạc trên một diện tích đất khá lớn, các phòng học đều rộng, thoáng đãng, phần đằng sau gồm nhiều dãy nhà dành cho các lớp tiểu học và đệ nhất cấp. Nơi phần sau này, còn có sân chơi bóng chuyến, vũ cầu, và một trạm phát thanh. Ở phần trước, một tòa nhà lầu ba tầng, có hội trường, sân thượng, nơi này, cổng chính nhìn ra công viên và bến Cảng. Và toàn thể của tòa nhà được dành cho các lớp đệ nhị cấp.

            Trường Sao Mai bậc đệ nhị cấp có đủ các lớp Đệ Tam, Đệ Nhị và Đệ Nhất. Tôi nhập học trễ, thầy giám thị ghi tên tôi vào lớp Đệ Nhị B1, đây là lớp vào giờ ngoại ngữ được tách ra, nhập chung với lớp của ban A.

            Tôi không hay biết , đến buổi sáng thứ sáu sau hai giờ đầu, vừa nghe chuông ra chơi hơn một nửa lớp bên tôi đã vội ôm tập rời phòng. Tôi hỏi ra, mới hiểu, và ngồi lại yên chỗ để chờ giờ học môn tiếng Pháp.

            Giờ chơi mới bắt đầu. Sự đổi lớp ồn ào, lộn xông, nhưng tôi không bị chia trí. Tôi lấy tờ báo Tiếng Chuông mở ra đọc. Tôi đọc một truyện ngắn dự thi đăng ở trang tư. Bỗng dưng có sự linh cảm, tôi ngẩng đầu nhìn ra cửa thấy một cô gái xuất hiện. Hai người cùng ngạc nhiên, nhìn thấy tôi chú ý, cô liền dừng bước. Tôi có được một hình ảnh toàn diện về cô, trước tiên là dáng người thanh nhã qua chiếc áo dài nâu, mái tóc xõa xuống kín vai, sau đó, là vẻ đẹp của một đôi mắt nhỏ như hai vị sao dừng rất lâu trên một gương mặt tỏa ra ánh sáng. Lúc ấy, cô gái tỏ ra nghiêm trang, nhưng mắt cô vẫn nhìn tôi. Tôi thầm nói với cô về sự bối rối, nỗi ngại ngùng của mình. Ít giây thôi mà tưởng thật lâu, cô gái dời bước rẽ lối trái, đến dãy bàn thứ nhì, xong cô đặt chiếc cặp xuống. Sau đó, tôi không còn nghe rõ được tiếng cô nói với một người bạn ngồi cạnh bên cô.

            Tôi đang bâng khuâng, cố gắng trở lại sự bình thường. Tôi lại cúi xuống đọc báo, đến đoạn gần cuối truyện lúc đoàn tàu vừa chuyển bánh rời ga thì hồi chuông báo hết giờ ra chơi vang lên.

            Thầy giáo vào lớp, đặt chiếc cặp da lên bàn. Tôi nhìn người thầy, hỏi nhỏ anh bạn, được biết là thầy Huynh. Vị thầy có mái tóc muối tiêu, chải rẽ gọn gàng. Trên gương mặt sạm đen, hằn đọng nhiều dấu vết suy tư, và cặp mắt nhỏ của thầy ẩn bên trong chiếc kính trắng lớn.

            Hôm nay, chúng ta học bài mới. Thầy Huynh nói xong, mở rộng cuốn sách bìa xanh của tác giả Mauger, giới thiệu một đoạn trích giảng văn rút từ trong tiểu thuyết Courrier Sud của nhà văn Pháp, Antoine de Saint Exupéry.

            Phòng học của lớp khá rộng, có một bức tranh và chiếc đồng hồ treo tường. Từ phía những cửa sổ bên trái, không cần phải đứng lên, ngồi ở bàn học phía ngoài có thể trông thấy rõ hết quang cảnh đường phố, khu công viên và mọi sinh hoạt trên bến Cảng.

            Thầy Huynh đứng trên bục giảng đọc đoạn văn, tiếng đọc chậm, lời nghe du dương, cảm khái. Vừa đọc, thầy vừa dùng động tác bằng tay lúc đưa ra, lúc kéo vào để biểu thị những sắc nét hùng hồn hay êm ái của đoạn văn. Và chừng sau mười lăm phút, thầy đọc xong.

            Trước khi giảng, thầy nói qua về tiểu sử tác giả. Saint Exupéry là một nhà văn phi công. Bước vào nghiệp bay, ông làm phi công chở thư cho những chuyến bay đường dài, tới các xứ vùng Nam Mỹ. Có chiến tranh, ông nhập ngũ, là Đại úy phục vụ trong một phi đoàn tác chiến. Trong thế chiến thứ nhì, ông bay loại  phi cơ thám thính, trước một năm cuộc đại chiến kết thúc, ông bị mất tích trong một phi vụ tình báo trên vùng lãnh thổ nước Đức chiếm đóng. Có tin là ông bị địch bắn hạ, nhưng cũng có tin máy bay của ông bị hỏng máy rơi xuống biển. Người ta chỉ ghi nhận là ông bị mất tích, do máy bay lâm nạn.

            Ngoài nghiệp bay mà ông gắn bó, ông còn là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Những tác phẩm quan trọng của ông gồm có: Bay đêm (Vol de nuit), Chuyến thư miền Nam (Courrier Sud), Terre des homes (Cõi người ta) Pilote de guerre (Phi công thời chiến) Citadelle (Thành Trì) Le petit prince (Cậu hoàng con)

            Người thầy đã nói về cuộc đời một nhà văn phi công bằng một giọng thật cảm khái, hùng hồn. Riêng tôi, tôi cũng đã có một lần ước được trở thành phi công. Năm học vừa qua, nếu tôi lấy được bằng Tú Tài I, tôi đã tính chuyện gia nhập vào Không quân đi theo ngành phi hành.  Nhưng, ước mơ này đã vuột khỏi tầm tay, rồi nó cũng không còn làm tôi mong đợi nữa. Nhà văn Saint Exupéry làm tôi nhớ đến tác giả cuốn Đời Phi Công. Đây là một  tập tiểu thuyết gói ghém những lá thư bốn phương trời của một chàng  sinh viên nước Việt gởi về cho một cô em gái nơi quê nhà. Cô gái, tên Phượng, tên của một loài chim hiếm quý. Tôi đã đọc xong cuốn sách này trong một ngày chủ nhật trên căn gác. Đọc xong, tôi thật mến yêu và cảm động về tình đất nước của chàng trai. Còn với cô Phượng, không chỉ bao nhiêu hương sắc và nét đẹp của cô dành cho chàng trai thôi, mà có cả tôi trong đó nữa. Rồi như đâu, một lần ấy tương tư, cô hỏi tôi, đã tìm thấy được ai ngoài đời chưa. Tôi khẽ lắc đầu, chợt mỉm cười nghĩ đến một lứa đôi hạnh phúc đó là chàng trai của tác giả và cô gái đây thôi. Từ dạo đó, tôi thích đọc nhiều tiểu thuyết. Khi một nhân vật nữ xuất hiện cho mình một tình cảm rung động, tôi thường hay đem hình ảnh đó trong tiểu thuyết ra hiện diện trước cuộc đời. Nhà văn Nhất Linh viết cuốn Đôi Bạn thật là hay. Những chiếc lá bàng lay động, phất phơ trong ký ức của một người Hà Nội đang nhớ nghĩ về thành phố xưa của mình. Tôi rất thật lòng đối với cô Loan. Tôi cũng đã biết Dũng Nhất Linh rất yêu cô. Khi xa cô, Dũng chỉ gói ghém một mình cô trong tấm lòng áo trắng. Nhà văn Nhất Linh luôn gắn bó cuộc đời mình với những nhân vật ông đã sáng tạo ra tiểu thuyết. Tôi còn thích một cuốn truyện khác nữa của ông, đó là Bướm trắng. Khi đọc xong cuốn truyện, không một chút ngại ngần tôi nói ngay với tác giả rằng, tôi đã yêu cô Thu. Nhất Linh suy nghĩ, đôi mắt đen sâu, ông ngồi im như pho tượng. Ôi, cô ấy thật tuyệt vời. Nhìn cô trong dáng vẻ một thiếu nữ mặc áo xô tang, thật là đẹp buồn rất não nùng. Rồi lúc được gần bên nhau, cô để cho tôi say đám nhìn cô, và rất tự nhiên cô ngồi nghe tôi nói những lời tỏ tình.

            Tiếng giảng bài của thầy Huynh chậm đều, rất rõ, và lôi cuốn từ mỗi tác động hai bàn tay và trên đôi mắt. Tiếng Pháp thầy đọc, vang âm như nước dòng suối. Tôi vừa lắng nghe những lời giảng bài của thầy, nhưng vẫn chưa muốn rời khỏi tên các cô gái Geneviève, Phương, Loan, Thu, là những bóng hình rất đáng yêu trong tâm tưởng.

            Trên tấm bảng sơn xanh, người thầy khởi sự viết những dòng đầu tiên của đoạn văn trích giảng. Cả lớp yên lặng, ghi chép. Đoạn văn khá dài, dòng cuối kết thúc là lúc phi cơ cất cánh rời khỏi phi trường.

            Với dáng người cao, bước đi trầm lặng, cái bóng áo trắng của người thầy qua lại trong lúc học sinh chép bài.

            Không đợi lâu, chúng tôi chép bài xong, người thầy khởi sự ngay bài giảng, lúc này, phần chính yếu về văn phạm, rồi nghĩa chữ khó và các thành ngữ. Hết giờ đầu, có tiếng chuông ngắn đổi giờ, nhưng lớp học vẫn tiếp tục buổi học. Khi kết thúc xong bài giảng, thầy cho chúng tôi mười phút chuẩn bị phần bài dịch. Rồi, lần lượt thầy gọi một vài học sinh đứng lên dịch từng đoạn ngắn. Mỗi khi thầy gọi người nào, tôi đều chú ý, lắng nghe tên. Bỗng nhiên, tôi thấy tim mình đập mạnh lúc thầy gọi tên cô gái. Hướng mắt nhìn vê cô, tôi chờ đợi trong cảm giác nôn nao. Cô cất tiếng đọc đoạn văn, rồi bắt đầu dịch. Tôi nghe được tiếng cô rất trong trẻo, và đoạn dịch văn của cô thật suông sẻ. Tôi cũng thấy thầy Huynh lắng tai chú ý nghe những lời dịch của cô. Thầy gật đầu nhẹ, lúc cô vừa dịch xong, thầy quay về phía bảng gạch bên dưới những thành ngữ và giải thích thêm một số nghĩa mới.

            Từ bên này, mắt tôi không rời bóng dáng cô. Tôi tự nhiên cảm thấy vui trong lòng. Và thực sự, tôi yêu mến cô gái rất nhiều với những hình ảnh đầu tiên của cô mà tôi đang cố tìm cách lưu giữ. Vì rằng, cô đã xâm chiếm hồn tôi bằng màu nâu nhạt của chiếc áo dài,  bằng đôi mắt nhỏ bé, bằng tất cả sự duyên dáng của bước đi qua mái tóc mượt mà kín xõa hết xuống hai vai. Bao nhiêu nét ấy, còn gợi ra cho tôi mường tưởng một bức tranh vẽ chân dung rộng lớn, nó mang ấn tượng về cuộc đời bằng một sự trầm lặng, xưa cũ. Nhìn thật lâu, bạn sẽ còn thấy ở cô thêm nhiều nét lạ lùng , nổi bật là một khuôn mặt dịu dàng tỏa sáng, rồi trong cặp mắt nhỏ đẹp như hai vị sao những nụ cười xanh lấm tấm tưởng đấy là tiếng chân chim vui đang nhảy nhót . Sự yêu thương  dành cho cô gái biết bao nhiêu mới đủ, khi mà cô thực sự mong rằng, luôn luôn cô là nỗi nhớ trong lòng của bạn và tôi. Nỗi nhớ , không chỉ thoáng trong một phút, một giây, hoặc một ngày giờ gần như đáng kể, mà đấy là cả tháng năm ưu phiền, mỏi mệt, suốt đời như con nước trầm lặng chảy theo dòng sông.

            Thời gian còn chừng mười lăm phút nữa, tan buổi học. Thầy Huynh có một vài câu chuyện nói với cả lớp. Tôi nghe, nhưng không thể rời mắt khỏi cô gái, và rồi cô bắt gặp cái nhìn của tôi. Hiểu được lòng tôi nhỉ, nên cô đã nguyên vẹn cả một gương mặt cho tôi có được một sự yêu thương hết đời mình.

            Bất chợt, thầy Huynh gọi tôi đứng dậy. Cả lớp nhìn tôi, và có đôi mắt cô gái nữa.

-Em là học sinh mới ?

-Dạ.

-Em tên gì ?

-Em tên Thụy.

-Trước đây, em học ở đâu ?

-Dạ, ở Quảng Trị.

-Gia đình em từ ngoài đó, vào trong này ?

-Dạ, không. Em vào đây một mình.

            Tôi bắt đầu ái ngại, không dám nhìn đâu cả. Thầy Huynh nói:

-Tôi có một thời gian dạy học ngoài đó.

            Tôi đứng im. Lúc này, lòng tôi dịu lại và được đón nhận đôi mắt cô gái nhìn sang tôi, vừa giữ ý. Một giọng thân tình, thầy Huynh nói với lớp học về những kỷ niệm trong năm đất nước mới chia đôi, và ngôi trường đầu tiên thầy dạy học ở tỉnh Quảng Trị.

            Hồi chuông reo lên, kéo dài đã cắt  đứt hết câu chuyện và những kỷ niệm thân thiết của thầy đối với tỉnh Quảng Trị, nơi ấy là quê hương tôi. Sau này, tôi ít khi trở về thăm lại chốn củ.

            Thầy Huynh vừa ra khỏi lớp, chúng tôi cùng ra theo. Tiếng cười nói, đùa nghịch vang ồn bên ngoài cửa lớp. Nhưng một mình tôi vừa yên lặng, vừa bước nhanh xuống cầu thang, đến hội trường rẽ trái, rồi đi ra cổng chính. Và, tôi chỉ dừng trên vỉa hè một phút rồi băng qua đường, đứng lại dưới bóng cây im nắng trong khu công viên rộng rãi, mát mẻ, rải rác trên các ghế đá có người ngồi nghỉ chân, chuyện trò. Phía ngoài con sông mặt nước mênh mông, tràn ngập nắng, và đây là bến cảng trong thành phố. Có nhiều tàu lớn nhỏ đang neo đậu và rất đông thủy thủ đứng trên boong tàu.

            Trưa, nắng bắt đầu gắt. Từ nơi này, tôi có được cái nhìn bao quát các con đường mà học sinh đi ra phía cổng hay cổng trước đều trông thấy. Tôi mong tìm được cảm giác nhẹ nhõm, buông thả hết những mơ mộng về tình yêu gởi nàng. Tôi có hai năm học ở Đà Lạt, thành phố ấy là ánh nắng hồng của mùa hoa anh đào. Cũng ở đó, những ngày mưa, buồn rất da diết. Tôi đến nơi thành phố để đi học, rồi có cơ duyên, ở nơi đây tôi khởi sự viết câu chuyện tình của tôi và một cô bạn gái cùng trường. Nhưng mà thôi, đừng có chia trí, lan man, hãy ngóng đợi một hạnh phúc đẹp sắp mang đến cho mình.

            Bây giờ học sinh đang dồn ra đông. Trên cặp mắt, tôi chỉ ngóng tìm một bóng dáng áo nâu. Buổi học chung hai giờ cuối để lại trong lòng tôi hình ảnh cô gái, vừa xa lạ, nhưng cũng thân thiết vô cùng. Bỗng nhiên, tôi chợt buồn khi nghĩ đến số phận mình. Nhưng thôi, nàng cũng đã biết tên tôi, vậy tôi hãy cố thu hết sự can đảm nghĩ về một tình yêu có nàng, rồi một ngày của bao nhiêu năm sau, hai người trở thành bạn đời.                                    

            Cơn gió hất nhẹ thân chiếc áo dài nâu bay lên. Từ cổng trước đi ra, bên cạnh nàng  có ba cô bạn nữa, hai cô mặc áo trắng, một cô mặc áo màu lam. Bốn thiếu nữ thong thả bước. Nàng đi phía ngoài, lúc này, tôi để mắt theo dõi bóng nàng, lòng vừa nôn nao sợ, vừa thầm mong nàng bắt gặp mình đang đứng đợi chờ. Tới ngã ba bốn cô  cùng dừng bước, rồi ít phút sau chia tay. Lòng tôi thực sự vui khi thấy bóng chiếc áo nâu về một mình. Tôi bỗng muốn cất tiếng gọi Ninh Hà hoặc liều lĩnh chạy về phía nàng trong cảm tưởng như mình là một cậu bé đang xúc động được gặp lại người chị đã xa cách lâu ngày.

            Bên đây con đường, yên lặng tôi bước theo. Tôi nghĩ nàng đi bộ chắc nhà ở gần trường. Tôi hẳn còn ghi nhớ đôi mắt ngạc nhiên của nàng khi nhìn thấy tôi là học sinh mới, hôm nay là buổi đầu tiên biết nàng. Ở đây cũng như nhiều tỉnh khác, các trường học  khai giảng đã qua hai, hoặc ba tuần nay. Tôi xin nhập trường cũng như vào lớp muộn, vì nỗi buồn hỏng thi của tôi trong mùa hè qua vẫn chưa khỏa lấp nổi. Tôi đành học lại một năm để thi, và thay vì, chọn trường ngoài Huế tôi lẩn vào đây và đang ở trọ nhà dì Vân , chị em họ với mẹ tôi.

            Khi tới căn nhà sơn cửa xanh, đây vừa là cửa hiệu bán nước hoa nàng đi vào. Tôi chợt dừng bước, không đi nữa. Qua khỏi bức màn sáo, nàng khuất dạng. Nỗi buồn làm nóng ấm trên cặp mắt tôi. Tôi nhìn con đường Độc Lập trải dài qua những hàng cây bên đường. Tôi vẫn đứng yên chỗ, nhìn lại căn nhà của nàng bên kia có những cánh cửa sơn xanh, bức màn sáo nhiều màu, trong tủ kính những chai nước hoa lớn nhỏ sắp thành hàng, sau đó khi thấy một bóng người đi lên căn gác làm tôi mường tưởng không biết bao nhiêu kỷ niệm quyến luyến tôi về sau này, nếu rồi đây tôi sẽ được quen biết nàng.

            Sau một hồi còi ngắn, con tàu tách bến. Gió ngoài sông lùa qua mặt nước,  tràn vào những con đường trên khu phố một thứ hương vị muối ngây ngất, mát mẻ.

            Khi buổi trưa đã bắt đầu xuống thật yên tĩnh, tôi mới  theo cái bóng đơn độc của mình về nhà. Sự cô đơn khiến tôi nghĩ ngợi nhiều. Tôi cảm thấy  nỗi đau nhức chuyện hỏng thi chỉ vì thiếu một điểm. Tôi đâm ra giận mình, sao mà buổi sáng đó không chịu khó ở lại thi thể dục, nếu mà tôi có thi thì một điểm thiếu của tôi sẽ được đền bù thật may mắn. Nhưng không, số phận xui khiến tôi không dự thi thể dục buổi sáng đó. Hôm ấy vì lo ngại cánh tay trái đã một lần nhảy cao bị té gãy nên tôi bỏ cuộc thi trở về nhà, nhưng rồi chẳng biết đi đâu, sau đó nghĩ lại tôi đâm ra hối tiếc, lo lắng.

            Hình như, tôi linh cảm  bóng dáng chiếc áo nâu chợt thoáng hiện. Tôi lại nhớ, vừa cố gợi ra sự dịu dàng, bao dung đầy thương yêu trên cặp mắt nhỏ bé của nàng. Ngày xưa ấy, nơi tận chân trời quê cũ  tôi đã trông thấy buổi chiều in bóng áo  nâu của mẹ tôi trên con đường đê khi về tới đầu làng. Tôi đứng trước cổng nhà bà ngoại tôi chăm chú nhìn cái bóng dáng xa gần lay động  hình ảnh mẹ tôi. Và, lòng thương dào dạt xiết  bao nhiêu khi nhìn thấy chiếc đòn gánh trên vai mẹ tôi  trĩu nặng xuống. Tôi muốn mình chạy, muốn mình bay tới phía con đê để được đón mẹ về, và lúc gặp mẹ câu hỏi trước tiên là quà bánh mẹ mua có nhiều không ?...như thế đó, giấc mơ nghĩ đến mẹ trên cánh đồng ruộng ở vùng quê  giờ đây đã cho tôi được nhớ thương một cô gái, được trông thấy cô mà liên tưởng đến hình ảnh một người mẹ lúc còn trẻ. Chiếc đòn gánh nặng trĩu xuống vai, vì mẹ tôi mua nhiều hàng trên chợ tỉnh. Gió chiều thổi qua đồng ruộng, qua con sông, thời xưa ấy thật là yên bình. Bỗng dưng, tôi nghe ra một giọng nhỏ nhẻ với tiếng mừng vui, cô gái bảo tôi cứ rán chút nữa, đã sắp về gần tới nhà rồi.

            Mùa hè năm ấy, lần đầu tiên tôi đi xa khỏi tỉnh Quảng Trị. Tôi đi  với Huân, bạn thân học cùng lớp và ở cùng xóm quanh khu vực nhà ga. Nhà chúng tôi gần  ngay ga, nhưng đôi bạn thiếu niên thích đi bằng xe đò khởi hành lúc trưa,  tới Huế đầu buổi chiều. Tại bến ở đây, hai đứa mới mua vé xe suốt . Tôi vào tới Nha Trang, còn Huân sẽ xuống quận Ninh Hòa.

             Sau hai giờ đợi, lúc số ghế bán hết xe ca mới khởi hành. Huế-Đà Nẵng cách nhau khoảng 100 cây số, xe chạy nhanh, nhưng lên tới đỉnh đèo Hải Vân phải ngừng chờ nửa giờ để chuẩn bị đổ đèo. Tới Đà Nẵng, xe vào đậu bến chính và lúc đó trời đã bắt đầu tối. Xe vừa ngừng, trước khi hành khách xuống tìm quán ăn, quán giải khát,  cả người chủ xe và tài xế cùng loan báo cho mọi người biết là vì đường mất an ninh nên ở lại  tối, sáng mai xe sẽ rời bến sớm. Nhân dịp này, tôi và Huân rủ nhau dạo phố.

             Từ bến xe hai đứa đi bộ, mỗi quãng lại hỏi đường vào phố chính. Rồi chúng tôi dừng bước  bên một ngã tư , mắt  vui lên vì được  nhìn thấy dãy phố nào cũng trưng đèn sáng, các cửa hiệu buôn và tiệm ăn đều mở cửa đông người ra vào. Trên vỉa hè, tiếng giày dép, tiếng guốc khua dậy, và tiếng nói những người đi qua lại nghe khác hẳn với tiếng ngoài miền chúng tôi.

             Tôi và Huân rảo loanh quanh một vòng xong ghé vào tiệm cơm, mỗi đứa gọi một dĩa cơm gà, một chai bia 33 khổ lớn rót đầy hai ly. Ở trong một thành phố lạ, cùng với chuyến đi xa lần đầu  hai đứa tôi trò chuyện với nhau một cách thích thú như người lớn. Quảng Trị, tỉnh nhỏ bé thân thương giờ đây hãy để chúng tôi  quên, hãy cho mỗi đứa tôi một chút ước ao về chuyến ra đi, về một ngày mai đẹp của thời niên thiếu ắp  đầy cả giấc mộng phiêu lưu.

            Sau bữa ăn hai đứa  góp chung tiền trả, rồi tiếp tục dạo phố và lúc trông thấy có tiệm bi da vắng khách, chúng tôi vào đánh chơi ba cơ vừa đúng một giờ. Tôi đánh thắng Huân  cơ chung kết, hơn cách biệt bốn điểm, tuy vậy lúc trả tiền hai đứa lại cùng góp chung.

            Trời đêm  mát dịu nên chúng tôi còn đi chơi. Khi qua rạp hát Tân Tân  chúng tôi ghé vào xem biển quảng cáo, rồi mua vé để coi cuốn phim Le bal des maudits . Rạp hát rộng rãi, đông khán giả. Hai đứa tôi ngồi dãy ghế giữa hạng nhì, vừa tầm mắt. Niềm vui dậy dàng lên buổi sáng sớm với chuyến đi xa, tưởng như vang âm qua giọng nói của mình. Cả Huân nữa, nó cũng mang niềm hãnh diện như tôi. Ngày nào đó trở về, mỗi đứa sẽ kể lại bao nhiêu kỷ niệm vui thích trong chuyến đi xa này cho bạn bè nghe.

            Ánh đèn chìm tắt, một điệu nhạc trỗi lên dìu dặt và khi nghe âm điệu vang ngân, trải dài tôi chợt thoáng nghĩ đến một dòng sông đang trôi chảy miên man.

Le bal des maudits, tên cuốn  phim chạy hàng chữ lớn rồi dừng lại  ít giây trên màn ảnh rộng. Sau đó, tôi nghe tiếng nhạc nhỏ dần, mắt chú ý đọc tên các tài tử đóng phim.

            Vào phim, nhạc đệm cùng những tiếng động nghe dồn dập. Khi đoàn  xe quân đội Đức Quốc Xã dừng lại giữa con đường đèo bên trên là cánh  rừng, một viên Sĩ quan rời ghế bước xuống, gương mặt trẻ trung của tài tử Marlon Brando gây cho tôi một ấn tượng khó quên. Nơi ánh mắt, gương mặt và những nếp nhăn trên vầng trán anh ta như muốn biểu lộ một sự phi lý về chiến tranh. Ngay sau đó, có tiếng súng đạn nổ, những tốp lính  Đức cao lớn, nhanh nhẹn nhảy ào ra khỏi xe chạy  băng vào khu rừng thực hiện cuộc truy lùng, càn quét địch quân. Bỗng dưng, trong rạp hát mọi người cùng lo sợ, nín lặng theo dõi từng bước chân rình rập, từng gót giày đe dọa của chiến tranh.

            Khoảng nửa giờ sau, tôi mới nhận ra một cách lờ mờ về ý nghĩa cuộc chiến, nhưng có rất nhiều cảnh tượng mang những suy tưởng triết lý tôi không hiểu mấy. Chỉ còn hình ảnh Hope Lange, nữ tài tử trẻ đẹp là muốn dành riêng cho tôi một kỷ niệm thân thiết, hay đó là nỗi nhớ tưởng , tựa giấc mơ. Tôi bị rung động bởi tiếng nói của nàng với người yêu, và trong lặng yên cùng với bóng đêm trên đường phố mắt tôi cứ nhìn theo  đôi tình nhân đang chậm bước bên nhau lúc đến quảng trường có xe buýt đậu, họ mới rời nhau.

             Sau cùng, mọi người chợt nghe hai tiếng súng nổ, Marlon Brando, viên Sĩ quan kiêu dũng xuất hiện khi cuốn phim vừa mới bắt đầu, giờ anh ta bị trúng đạn do hai người lính Mỹ nhắm bắn, cái chết của anh trong tuyệt vọng, nhưng mà đẹp, vì khi ngã gục anh được ôm ấp lấy bờ đất, lấy cát và sỏi đá bên dòng suối. Thế rồi, chiến tranh kết thúc với tiếng chim hót ca bên rừng. Và, người lính Mỹ đi chinh chiến được trở về, nguyên vẹn trở về hạnh phúc bên người yêu.

            Cuốn phim dài đến  hai tiếng đồng hồ . Khi ra khỏi rạp hát, đường phố về đêm khuya vắng vẻ, tôi và người bạn có vẻ lạc lõng, ngơ ngác. Tôi còn cảm thấy nỗi buồn vẫn đọng lại, không muốn loãng tan. Và, tôi cũng đang  gom góp  những hình ảnh còn nhớ trong vài đoạn phim, đó là gương mặt của cô gái, đó là vẻ cuồng si của người  thiếu phụ khi yêu người bạn của chồng mình. Chúng tôi lẳng lặng đi bên nhau với bóng đêm của mình tợ như trong cảnh phim. Vào lúc này, thành phố lạ bỗng làm tôi nghĩ rằng cũng sẽ có một cuộc chiến tranh  đe dọa chúng tôi, thảng hoặc sẽ báo trước một điều gì đó về sau này, nhưng rồi, tôi chỉ đơn giản nghĩ rằng cuốn phim đã xem là sự ghi nhớ một kỷ niệm cho buổi đầu của thời niên thiếu. Không biết, bạn tôi  nghĩ gì ?, một chuyến xe sẽ khởi hành sáng sớm mai, hay niềm ước ao nơi Huân chỉ mong gặp lại chị Huyên  là người thân duy nhất kể từ ngày hai chị em rời bỏ miền Bắc di cư vào Nam.

            Ba giờ sáng, xe lên đường. Hành khách còn dật dờ, thấp thỏm nhưng rồi khi xe chạy họ lại ngủ tiếp. Trong lúc Huân ngủ say, tôi ngồi ghế ngoài mắt chăm chú soi rọi qua bóng đêm để nhìn quang cảnh dọc quốc lộ I . Từng đoạn đường xe lướt qua, cảnh vật đều cho tôi một cảm giác mới lạ, nao nức với chuyến  đi của mình, và đến mỗi nơi xe ngừng tôi cũng có ý nghĩ đây cũng là một chốn quê hương thân thiết giữa cuộc đời.

             Xe đò chạy rất mau trên đường còn vắng, chốc chốc ánh đèn lóa sáng mở một tầm nhìn xa, rồi thu ngắn lại, và lúc này ngoài tài xế cùng lơ xe ra, có thêm tôi nữa là không ngủ. Mỗi thứ sắc màu nổi chìm nơi những chớp sáng, tôi đều thu nhận hết. Xe qua thị xã Tam Kỳ trời còn mờ,  đến Quãng Ngãi  mới sáng hẳn. Tới đây, tài xế dừng xe ở trạm xăng đầu thị xã cho hành khách nghỉ mệt để rửa mặt, ăn điểm tâm. Tôi và Huân lúc xuống đi đến ngay chỗ xe bán  bánh mì mua mỗi đứa một ổ. Ăn xong còn thèm, hai đứa mua thêm một ổ cưa đôi, ăn vừa no bụng.

            Xe ngừng trong nửa tiếng. Sau khi hành khách lên đủ, tài xế cho xe lăn bánh và lúc ra khỏi thị xã là phóng nhanh tốc độ, vun vút lao đi  đến Qui Nhơn gần trưa. Không vào thành phố, xe ngừng trước một quán ăn bên ngã ba Diêu Trì. Hành khách lục tục xuống xe tìm chỗ tiểu tiện, rửa mặt, rồi cũng lo chuyện ăn uống cho xong bữa để tiếp tục lên đường. Tôi và Huân không thấy đói nên hai đứa chỉ mua nước uống, ngồi chơi dưới bóng cây trò chuyện với nhau.

             Bỗng dưng, từ nơi xa này tôi đâm ra nhớ nhà, hình ảnh ba mẹ và các em tôi cùng hiện lên một lúc trước mắt  khiến cho lòng tôi chợt vui lên nhưng rồi sau đó cảm thấy buồn trở lại.

            Đầu năm 48, khi trở về vùng quốc gia ba tôi  lên dạy ở Cam Lộ. Một năm sau, ông được thuyên chuyển về thị xã Đông Hà. Đông Hà nằm bên cạnh ngã ba đường số 1 và số 9. Ở đây, thị xã vừa mới xây dựng, không khí nhộn nhịp trong công việc làm ăn, buôn bán.

            Nhà ga xe lửa và phi trường quân sự nằm về phía Tây, còn phía Đông là sông Hiếu Giang. Quê làng mẹ tôi ở Xuân Thành, ngôi làng này nằm giữa đoạn sông Hiếu Giang. Từ quê mẹ tôi đến biển Cửa Việt xa chừng ba cây số đường sông.

            Khi gia đình tôi rời khỏi Cam Lộ dọn về Đông Hà, cuộc sống ổn định và  trở nên khá giả nhờ vào công việc buôn bán hàng vải của mẹ tôi. Nhưng rồi, hình ảnh thị xã mới xây dựng xong, thời gian giúp cho công việc làm ăn của người dân cũng chỉ đến trong vài năm sung túc. Giữa mùa hè 1953, một trận lửa cháy kinh hoàng đã thiêu rụi  thị xã Đông Hà đốt tất cả nhà cửa hàng trăm gia đình thành tro than. Trước cảnh tượng này, người dân trong thị xã cũng như gia đình tôi  thực sự sống trong cơn ác mộng .Về sau, lớn lên cùng với sự hiểu biết,  hình ảnh trận cháy ở Moscou trong tiểu thuyết lịch sử Chiến Tranh và Hòa Bình và trận cháy lửa rực trời ở Rome trong cuốn phim Quo Vadis làm tôi nhớ lại hết tuổi thơ của tôi và hình ảnh những người thân thuộc  trong gia đình đứng chết lặng  trên  bờ sông, những cặp mắt đau đớn của biết bao nhiêu người dân  nhìn vào khu  trung tâm thị xã đang ngùn ngụt cháy trong biển lửa.

            Vậy mà chưa hết, trận hỏa họan chưa hoàn hồn thì ba tôi lại có giấy thuyên chuyển đến nhiệm sở khác trong tỉnh Quảng Trị. Một lần nữa, gia đình tôi lại dọn đi.

            Tôi đã được 9 tuổi, mới học xong lớp Nhì. Buổi sáng ấy, một chiếc xe hàng ngừng đậu trước mặt nhà tôi. Khi thấy xe đến,   anh em chúng tôi chạy ra ngoài nhìn chiếc xe sơn màu xanh biển lấy làm vui vì sắp được lên xe đi. Người tài xế xuống xe đi vào nhà tôi qua lối cửa hông. Trong nhà, có ba mẹ tôi, cậu mợ Tuyên và người phụ giúp khuân vác đang uống trà nói chuyện.

            Một lúc sau, người tài xế trở ra xe. Ông ta nhanh nhẹn nhảy lên trần , đứng trên đó tay mở các cuộn dây thừng để cột đồ đạc và hành lý. Từ trong nhà, đồ đạc di chuyển chuẩn bị xong tối qua, lúc này lần lượt đưa lên xe.

            Buổi sáng sinh họat trong khu phố và khu chợ trước nhà tôi đã bắt đầu ồn ào như mọi ngày. Khi thấy gia đình tôi dọn đi, bên kia đường có nhiều người đứng  trông sang, chăm chú với vẻ mặt yên lặng. Ở đây, rất nhiều người kính mến ba tôi, vì ông là thầy giáo dạy học, và cả thị xã chỉ có mỗi một trường tiểu học duy nhất ở gần nhà ga.

            Người tài xế bước lui tới trên trần xe với cuộn dây thừng to dùng cột hàng hóa. Ông ta sắp xếp gọn gàng, sau khi chất đồ đạc xong, ông phủ trùm một tấm bạt rồi kéo hai vòng dây ở hai đầu móc trần xe.

            Nắng sáng lên làm rạng rỡ cả khu phố. Tiếng chuyện trò, cảnh tiễn đưa bỗng rơi vào yên lặng. Tôi nghe  tiếng nói thật trầm của cậu Tuyên với ba tôi, còn mợ Tuyên nắm tay mẹ tôi.

            Anh em tôi bước lên xe với mấy cái túi  nhỏ. Mẹ tôi, chị Lài ngồi sau với chúng tôi, còn ba tôi  lên ghế trước với tài xế.

            Khi xe lăn bánh, anh em chúng tôi cười nhìn nhau. Chỉ có hai người trong lòng đang buồn bã đó là chị Lài và mẹ tôi. Nhưng rồi bỗng chốc, tôi có cảm giác mình sắp sửa khóc. Về sau này, hình ảnh thị xã Đông Hà tôi giữ lại trong ký ức như là một cuộn phim.

            Quảng Trị nằm về phía Nam, cách Đông Hà bằng đọan đường mười hai cây số từ tỉnh lỵ đến quê nội tôi. Thành phố này đẹp hơn, có nhiều nhà ở, nhiều con đường im bóng mát, thơ mộng nhất là con đường ven theo dòng sông hai bên có trồng  những hàng cây phượng, cây bồ đề, cây sao nối nhau đến khu Cổ Thành Đinh Công Tráng.        

            Nhà tôi ở nằm bên dưới ga đối diện với tháp nước, nơi chỗ đó những chuyến tàu đi hay về cũng đều ngừng lại trong mười phút để lấy nước trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Vì quanh chốn này còn là vùng đất hoang , tràn đầy cỏ mọc nên nhà ở của gia đình tôi mới có được một diện tích đất khá rộng rãi, phía trước nhìn ra con đường từ cổng ga đổ về phố Trần Hưng Đạo, phía sau là vườn trồng cải, trồng hoa, cây lưu niên và đào hồ nuôi cá. Bên dãy nhà phụ, một mái hiên lợp tôn rộng mẹ tôi mở quán hàng hàng ăn, buổi sáng bán bún, cháo, trưa chiều là cơm.

             Nhà ga gần trại lính, mỗi ngày có đến bốn chuyến tàu ghé dừng nên quán hàng mẹ tôi mở luôn có khách vào ăn uống. Năm 1954, đồng bào miền Bắc di cư vào Nam khi hiệp định Genève ký kết. Khởi sự từ năm này, dân số trong tỉnh chúng tôi tăng lên và kế hoạch định cư được mở rộng ra các vùng ngọai ô. Với đồng lương giáo viên tiểu học của ba tôi, công việc bán quán của mẹ tôi, lợi tức hàng tháng góp lại cũng ổn định, bình yên cho cuộc sống gia đình. Ngoài những buổi học ở trường, tôi còn phụ giúp mẹ tôi trong việc chạy bàn mang bữa ăn, thức uống phục vụ cho khách.

            Vì học kém và chậm, đến năm 1956, tôi mới vô được trường công lập trung học.  Nhưng tôi chỉ lên lớp sau năm đầu Đệ Thất, đến hết năm Đệ Lục tôi không đủ điểm trong hai kỳ thi lục cá nguyệt phải ở lại, và trong năm học mới này tôi và Huân quen nhau, trở thành bạn thân và chúng tôi đã cùng đi xa trong mùa hè này.

            Bỗng tôi lên tiếng hỏi Huân:

-Mày ở với bà chị bao lâu ?

            Huân chợt cười bảo tôi:

-Sao mày hỏi ngớ ngẩn. Tao đi với mày, đến hết kỳ nghỉ hè thì về.

            Tôi ngập ngừng một chút, rồi nói:

-Tao nghĩ mày ở không lâu, ra lại sớm nên mới hỏi.

            Hiểu được ý tôi, Huân nói:

-Bác có nhờ tao khi nào về, thì đón mày.

-Nhớ nghe, không có mày tao phải đi một mình không có ai quen.

            Hết giờ nghỉ, tài xế gọi hành khách lên xe đi.  Từ đây, tài xế bắt đầu mở radio có chương trình nhạc vui cho hành khách nghe. Hai đứa tôi vẫn luôn cảm thấy nao nức với chuyến đi đường trường. Trong phút im lặng, hẳn Huân sẽ nghĩ đến căn nhà của chị Huyên, nó cũng có đứa cháu nay lên bốn tuổi rồi, còn tôi, thành phố biển Nha Trang đẹp như thế nào, lớn như thế nào, tôi đang hình dung vừa tưởng tượng nhìn thấy từng khung cảnh hiện ra trước mắt.

            Bất chợt, tiếng thằng lơ xe ở đằng sau hỏi vọng hành khách.

-Ninh Hòa đây, có ai xuống không ?

            Huân giật mình, tôi liền hỏi:

-Có xuống đây không ?

            Huân ngần ngừ, rồi đáp nhanh:

-Thôi, tao đi Nha Trang với mày. Bác đã nhờ, tao đưa mày đến nơi đến chốn.

            Tôi cảm thấy tin tưởng khi có người bạn bên mình. Xe tới Nha Trang đầu buổi chiều. Bến xe nằm trong thành phố. Những con đường rộng mở, vui trong ánh nắng hè và cảnh sinh hoạt thành phố thật là nhộn nhịp. Xuống bến, cùng với hành lý, Huân và tôi đón xích lô  đến nhà bác Định. Bác Định là bạn thân với ba tôi . Năm 1954, gia đình bác di cư vào Nam ở lại tỉnh Quảng Trị, bốn  năm sau mới vào Nha Trang. Ở xa, ba tôi và bác thư từ nhau luôn.Với tình thân còn gắn bó, nên ba tôi cho tôi đi nghỉ hè Nha Trang đến ở với gia đình bác. Chừng độ một tháng rưởi thôi, tôi lại trở về Quảng Trị, bắt đầu bước vào năm học mới cũng là năm chuẩn bị thi cử.

            Nhà bác Định ở khu Phước Hải, đầu đường Huỳnh Thúc Kháng. Ngoài phía ngã ba là đường Nguyễn Hoàng, dọc con đường dài này có nhiều dãy phố buôn bán, ngôi nhà thờ lớn ở trung tâm, từ nhà ga những chuyến tàu đi cũng như đến đều cũng phải chạy theo đường ray nằm sau lưng nhà thờ. Về tới nơi,  thực may hai đứa tôi gặp cả gia đình bác Định và được đón tiếp niềm nở. Tôi giới thiệu Huân với hai bác, còn Luân con  bác là bạn học cùng lớp với hai đứa tôi. Luân gặp lại hai đứa tôi thực vui, nhưng chỉ chuyện trò hơn nửa tiếng Huân vội xin kiếu từ để ra Ninh Hòa. Tôi cùng với Luân tiễn Huân ra bến xe, vì còn ham vui, cả ba đứa tôi vào quán chơi bi da hết một tiếng đồng hồ mới chia tay.

            Những ngày tháng hè đó thật là hạnh phúc. Tuần lễ đầu, tôi chưa vội ghi tên lớp hè để học mà cứ hưởng cái thú đi chơi. Hai chiếc xe đạp không rời tôi và Luân. Buổi sáng sớm, hai đứa đạp xe ra biển, tới bãi gởi xe xong là ào xuống tắm. Mùa hè, từ sáng sớm đến chiều tối, bãi biển lúc nào cũng đông vui, ấm áp với ánh nắng và mặc sức vẫy vùng, vượt sóng. Biển Nha Trang thật đẹp, bãi cát trắng, màu nước biển xanh vời vợi tạo một niềm hưng phấn làm chúng tôi càng muốn bơi ra xa. Sau hơn một giờ tắm  biển , chúng tôi lại đạp xe đi nơi khác. Tôi được Luân dẫn đi thăm các thắng cảnh Tháp Bà, Hòn Chồng, Hòn Vợ, Xóm Bóng, và còn ra tới những vùng ngoại ô xa đến lúc mặt trời lặn mới trở về nhà.

             Luân sành sỏi chơi đàn, tôi cũng học đàn với Luân. Khi đánh đàn, chúng tôi cùng hát những bản nhạc vui học ở trường, những bài hát về sinh hoạt hướng đạo hay trong những kỳ cắm trại. Nhưng mỗi tối, bác Định luôn bảo tôi và Luân vào bàn học lo luyện hai môn Toán, Lý Hóa. Sau tuần lễ đầu vui chơi thoải mái, cả tôi và Luân mới cùng ghi tên lớp hè ở trường Tương Lai. Hai đứa tôi, trình độ học ngang nhau, về môn Toán tôi trội hơn Luân nhưng Lý Hóa, Luân lại khá hơn, vào giờ học chúng tôi giúp nhau nên tiến bộ khá nhanh.

            Ra Ninh Hòa ở với bà chị được hai tuần, nhớ bọn tôi, Huân lại vào từ sáng thứ sáu đến chiều chủ nhật mới trở ra lại. Hội ngộ, chúng tôi kéo nhau đi phố, vào rạp hát coi phim cao bồi, sau khi vãn hát, lại đi lòng vòng quanh các phố, hay vào Câu lạc bộ thể thao chơi bóng bàn, bi da. Ba đứa tôi thi đấu đều ngang ngửa, luôn tạo nhiều pha bóng tấn công gay cấn hay những đường cơ bi da so kè, suýt soát từng điểm.

            Những ngày hè của tôi, thật là hạnh phúc và quí giá như mỗi điểm có được ở bài thi. Căn nhà bác Định, ngoài nơi chốn ở bình thường nó còn cho tôi hiểu cái đức hạnh chân chính về giá trị con người. Bác Định trai thương tôi là đứa học trò cũ của bác. Bác gái, luôn gọi tôi là thằng cu như  Luân và các anh con trai lớn của bác.

            Khi đã quen thuộc với một thành phố mình đến, với một gia đình người thân mình được ở, đó cũng là lúc (mùa hè sắp hết rồi) mình lại hồi nhớ về chính mình. Ngoài Luân và Huân ra,  tôi cũng còn có những gương mặt bạn bè ở quê nhà nữa. Ngày mai đây, hẳn rằng, tôi sẽ biết trân quí,  biết cất giấu  và sống hạnh phúc với kỷ niệm như tưởng mình đã có người yêu.

            Nha Trang cũng là thành phố lớn. Ga chính ở đây,  mỗi ngày có đến sáu chuyến tàu chạy đường ngắn, đường suốt. Những chuyến tàu đến hay đi, ngồi ở nhà vào lúc  chiều hay tối, tôi đều nghe rõ tiếng còi tàu. Và, nghe qua từng hồi còi dài ngắn, tôi biết chuyến tàu nào về, chuyến tàu nào sắp sửa ra đi. Tối hôm ấy, những ngọn đèn sáng, những tiếng bước chân người xa lạ và vui, rạp hát chiếu cuốn phim chiến tranh, hình ảnh một cô gái và chàng trai đi bên cạnh nhau nói những lời tâm tình, những lời từ biệt, thành phố Đà Nẵng bỗng dưng làm tôi xao động, dấu yêu một nỗi niềm. Và rồi, tôi mường tượng nhớ đến một buổi trưa hè khác có một người đàn ông và một cô bé trạc tuổi bằng em gái tôi vào quán hàng cơm của mẹ tôi. Tôi biết hai người này là khách đi tàu ở xa về, vì chuyến tàu về đến vừa mới đi, và lúc này ngoài con đường có nhiều chiếc xích lô đang chở khách xuống phố.

            Cô bé khuôn mặt dễ thương, nước da trắng, còn người đàn ông chắc là ba của cô có mái tóc chải tóc bóng láng, mắt đeo cặp kính trắng. Lúc ấy đã quá trưa, khách ăn giờ đầu xong đi gần hết nên ghế bàn còn lại để trống nhiều.

            Khi tôi mang cơm ra, đặt cái khay nhôm xuống bàn tôi thấy mắt cô bé nhìn tôi, nụ cười trên cặp mắt.

            Tôi trở vào đứng ở cửa bên quán, cầm ly nước trà đá uống. Tiếng còi ngắn cất lên, chiếc máng xối hứng nước được kéo ra sau đầu máy, rồi con tàu lăn bánh. Tôi hướng mắt nhìn con tàu với nhiều toa xe lần lượt chạy qua. Bỗng tôi chú ý lắng nghe  giọng nói của cô bé và người đàn ông. Khi nghe được, tôi biết là  cả hai không phải là người Quảng Trị ở đây mà là người miền Bắc. Thời kỳ đó, thời hạn cuộc di cư trong 300 ngày chưa chấm dứt. Ngang qua nhà ga nhỏ này, trước đây chỉ có hai chuyến tàu đi,  về giờ mỗi ngày có đến sáu chuyến, chưa kể là có tăng cường thêm xe nhà binh, xe chở hàng nhận công tác cứu trợ đi ra phía Bắc đến tỉnh Thanh Hóa chở đồng bào di cư vào miền Nam.

            Tôi bỗng có cảm tình với cô bé nên đưa mắt nhìn chú ý. Cô bé mặc chiếc quần tây xanh, áo sơ mi hồng, và có cặp mắt nhỏ thật đẹp. Hai người khách ăn cơm xong gọi tính tiền, tôi nghe vậy vội bước chân đến. Vì phải thối lại nên tôi trở vào quán lấy tiền lẻ nơi ngăn hộc , xong trở ra.

             Người khách cầm lấy tiền thối,  nói với tôi:

-Cám ơn cháu.

            Tôi cũng đáp lời cám ơn với ông khách.

            Cô gái nghe được tiếng tôi nói, ngước cặp mắt vui lên nhìn.

             Hai cha con  đứng dậy rời quán, trở ra đường chờ xe.

             Người đàn ông xách cái túi lớn, da nâu,  còn cô bé  quàng dây đeo chiếc túi nhỏ màu vàng bên vai.

 

 

 

 

 

                                                               VIII

 

 

 

            Hình ảnh Vân Oanh đã tạo ra trong trí Thụy một sự liên tưởng phối hợp, và bây giờ,  nàng như là một cô giáo đang dẫn đường, vừa dìu bước anh, dù rằng, đã có lúc nỗi tuyệt vọng khiến anh phải vươn dài cánh tay níu giữ nàng lại. Nàng chỉ mỉm cười, cho anh chút hạnh phúc thật êm ái, tâm hồn mát dịu như bóng cây, đó là hình ảnh nàng qua dáng áo tím, qua đôi mắt dịu hiền và qua bàn tay êm mát thế rồi, nàng nắm lấy tay anh bảo anh hãy gắng bước theo nàng. Anh cũng đã trở nên một cậu bé ngoan ngoãn, cảm thấy có nàng là sự an ủi, và lúc này, hơn ai hết nàng không hề có chút chi phiền muộn khi lắng nghe anh nói về tuổi trẻ bất hạnh của mình.

            Buổi sáng hôm ấy, ngồi trên chiếc xe khách đang chạy mà đầu óc  tôi như là kẻ vô hồn, không có một ý tưởng nào khác ngòai sự bơ vơ đối với con đường học vấn đã chấm dứt. Làm gì cho tương lai, điều này, tôi không dám có một chút tự tin nơi sức mình mà chỉ còn một nguyện cầu khao khát là mong ông Trời bù lại cho tôi một chút may cuộc đời trong ánh sáng thế gian.           

            Khi xe hàng đỗ bến, xuống xe tôi đi bộ về nhà. Trên đường đi nhìn hoa phượng nở đỏ, nhìn những dòng xe đạp của nam nữ học sinh dạo chơi cười nói rất vui, tự dưng tôi cảm thấy mình lạc lõng như thể là kẻ lạ đâu từ miền xa nơi một vùng biệt xứ nào về đây không có ai quen nhận ra mình. Hoa phượng đối với tôi trong giây phút đó là nỗi buồn của nước mắt. Huế, tuổi trẻ luôn ôm ấp cả một bầu trời thân thương có dòng sông xanh và những hàng cây phượng mỗi mùa hè đều mang đến nét thắm tươi, rực rỡ cho thành phố này.

            Về đến nhà, tôi dừng bước trên bực cửa. Nhìn vẻ mặt buồn bã của tôi, ba mẹ tôi không hỏi han gì nữa. Các em tôi cũng vậy. Rồi tôi bước vào nhà, lặng yên ngồi xuống như một người vừa mới ngã bệnh.

            Tiếng mẹ tôi nói rất nhỏ:

-Con cái mình không có được chút ân huệ khoa bảng.

            Tôi nhìn ra cửa, buổi chiều đang xuống bên ngoài . Trên đường, một chiếc xe búyt đi lên Long Thọ vừa chạy ngang qua. Tôi trông thấy con sông, ngôi trường Bình Linh bên kia nơi tôi vào học ở đó năm trước nữa, và sự yên lặng buổi chiều như muốn nói cho tôi biết rõ về chuyện gia đình của chúng tôi.  

            Sau tuần lễ về nhà với bao nhiêu nỗi buồn chán không nguôi được, vào một buổi tối trong bữa cơm gia đình, tôi nói với ba tôi cho tôi vào Sài Gòn tìm kiếm việc làm.

-Con làm được công việc gì ?, ba tôi hỏi.

-Con chưa biết. Nhưng vào trong đó, tìm kiếm công việc làm cũng dễ hơn.

-Con có bạn bè thân trong đó không ?

-Có.

-Con viết thư cho bạn con đi.

            Sau ít giây suy ngẫm, ba tôi tiếp lời:

-Ba biết con nản chí chuyện học hành. Thôi, thì cũng là cái số phận của mỗi người. Con kiếm việc làm để ra đời sớm. Rồi về sau, nếu được trời giúp cho con chút cơ may.

            Các em tôi khóc đưa mắt nhìn tôi. Tôi đọc được trên từng giọt nước mắt mỗi đứa em tôi hình ảnh sự đơn độc về cuộc đời của mình khi giã biệt gia đình ra đi. Vào Sài Gòn, đó là nơi đến dứt khóat rồi. Nhưng đến đây tôi làm công việc gì và sẽ nương tựa nơi đâu. Khi nghĩ đến chỗ nương tựa, tôi không dám tìm gia đình các cậu và các dì em ruột của mẹ tôi. Chẳng như, tôi thi cử đỗ đạt nghĩ đến chuyện nương nhờ còn may, chứ một thân xơ xác vào Sài Gòn mà tìm đến chỗ người thân là không được rồi.

            Sau cùng, đến lượt anh tôi cùng ra đi. Anh tôi cũng vừa mới rớt vấn đáp năm Dự bị Văn Khoa, thực cái số của gia đình tôi mạt đến như vậy đó. Nhưng anh tôi còn may là có được bằng Tú Tài II, và thêm khả năng viết báo. Từ quyết định của anh tôi, ba tôi cho hai anh em đi Sài Gòn.

            Một lời dứt khóat, tôi nói:

-Ba mẹ đừng lo. Con còn độc thân, kiếm được đồng lương con giúp ba mẹ và các em đi học.

            Chỉ còn ba tuần nữa là bắt đầu niên học mới. Kể từ nay, gia đình tôi lại một cảnh hai quê. Tôi và anh tôi đi xa mưu tìm cuộc sống. Tuổi trẻ của chúng tôi không còn có mộng ước ở ngưỡng cửa Đại Học như bao nhiêu bạn bè khác. Từ nay, hai anh em tôi dấn bước vào đời với chuyến đi xa khởi sự vào những ngày sắp tới.

            Về Huế không lâu, tôi trở vào lại Đà Nẵng. Tôi đi nội trong ba ngày. Tôi vào để thăm dì tôi, nói lời cảm tạ. Sau đó, tôi đến với gia đình Ninh Hà. Tôi nghĩ tới thành phố ấy với hình ảnh một người thân là dì tôi đã có sự bao dung, cho tôi được sống những ngày có ý nghĩa về cuộc đời và nơi ấy tôi còn có người bạn gái thực lòng là Ninh Hà.

            Chuyến xe hàng không đông khách nhưng ngừng nhiều trạm, mỗi nơi có khách xuống và khách lên, lên tới đỉnh đèo đã gần trưa. Xe nghỉ thường lệ nửa tiếng để chờ xuống đèo hai phía Nam Bắc, nhưng hôm nay, phía Nam, một quãng đường gần cây số đang được Công binh sửa chữa. Tôi thèm ly cà phê nên đi tìm quán. Đang đi, bỗng nghe có tiếng gọi tôi giật mình và thật bất ngờ khi trông thấy chú Hoàng của Lăng. Ông chú đang ngồi ở bàn phía ngòai hiên, uống bia một mình.

-Cháu uống gì ?

-Thưa chú, cà phê.

-Gọi đi.

            Tôi gọi một ly cà phê đá. Trong lúc chờ, tiếng chú Hoàng hỏi:

-Đi Đà Nẵng có việc gì vậy ?

-Cháu vào thăm dì Vân. Chú còn nhớ dì Vân con ông bác Huyện không ?

-Có. Bên ngoại con, chú biết hết.

            Nhìn lại chú, tôi nói:

-Con sắp đi Sài Gòn rồi chú.

-Học trong đó ?

-Dạ không. Con đi tìm kiếm việc làm.

            Cô gái mang ly cà phê ra. Tôi mở hủ đường cho thêm vài muỗng rồi khuấy uống. Cà phê không được ngon. Tôi cầm gói thuốc của chú Hoàng rút một điếu và xin phép hút. Một giọng khàn đục, tôi nói:

-Số phận con đen đủi quá.

-Nhưng sao mà cháu bỏ học ?

-Không thi đậu, làm sao học tiếp được nữa chú. Cái số của cháu không sáng dạ trong sách đèn, thôi cháu vào đời kiếm lấy cuộc sống mà lo cho bản thân.

-Vào trong đó cháu làm công việc gì ?

-Cháu chưa biết. Nhưng ở đô thành việc làm công nhân cũng dễ kiếm.

-Cháu đi một mình.

-Có anh Nguyên đi nữa chú. Anh theo nghề viết báo.

-Được lắm. Thằng Nguyên theo nghề báo là hay, chọn đúng đường đi.

            Tôi uống cà phê chậm từng hớp như cố lấy bình tĩnh. Một dòng đời trôi nhẹ qua ký ức tôi. Tưởng rằng bao nhiêu kỷ niệm cũ ở miền quê thời ấy, tôi đem ra bộc bạch với người chú, nhưng mà không, một giọng buồn tôi đã nói:

-Gia đình con không có nếp khoa cử, buồn quá chú.

-Chú rất hiểu.

            Chú Hoàng đặt ly bia xuống bàn. Như thể cố nén giọng buồn bực và chia xẻ với người khác, chú nói:

-Chú hiểu từ lâu rồi.

-Cháu biết, ba mẹ cháu buồn lắm nhưng số phận từng đứa con và cả gia đình luôn lận đận.

-Cháu đến tuổi quân dịch chưa ?

-Dạ rồi.

            Đã mười một giờ trưa, xe vẫn còn đợi sửa đường. Nắng lan rộng trên đỉnh đèo, sương mù đã tan hết nhưng khí lạnh từ núi, vang âm dòng suối tuôn chảy và sóng vỗ trên mặt biển dần dần tràn ra xa. Bỗng nhiên, thấy bóng dáng con tàu, tôi chợt nhớ một buổi sáng mùa đông trên bến Cảng, vào giờ đó, trước khi vào lớp học, bọn học trò chúng tôi đứng ở công viên vẫy tay chào một đòan thủy thủ mặc áo trắng đứng trên boong, họ cũng cười vui la hét vẫy tay chào lại chúng tôi khi con tàu từ từ tách bến.

            Hai người trở lại chuyện cũ về gia đình. Tôi bỗng hỏi:

-Ngày trước, chú ở Hội An phải không chú ?

-Chú làm việc ở đó ba năm mới ra ngòai này.

-Chú có mặt ngay lúc đầu Đại Học Huế mở.

            Chú Hoàng gật đầu. Tôi đốt thêm điếu thuốc. Những sợi khói mỏng trườn lên làm tôi nhớ đến Lăng. Lăng đang học Luật ở Sài Gòn, ở nhà cậu Nghiêm. Hội An, thành phố nhỏ ấy tôi đã đến thăm, đi chơi cùng với mấy người bạn. Nơi thành phố ấy, tôi nhớ biển Cửa Đại, nhớ một mùa hè thanh bình, và vào năm đậu xong Trung học Đệ Nhất Cấp, từ Quảng Trị  Lăng đi một mình vào Hội An thăm gia đình người chú. Lăng với tôi là anh em bạn dì. Lăng mồ côi năm lên ba tuổi. Dì Quyên mẹ Lăng lấy chồng có ba mặt con, ở góa bụa từ thời còn trẻ . Mẹ tôi, dì Quyên, cậu Nghiêm là chị em cùng một cha, một mẹ. Thực ra, ông bà ngọai tôi có sáu người con nhưng đã mất đi ba. Năm đó, cảnh tản cư chạy lọan những gia đình người thân trôi giạt về tạm trú ở quê ngọai tôi rồi tản mát. Hình ảnh chú Vinh ba của Lăng và chú  Hoàng đây tìm lại trong trí nhớ thuở đó, tôi chỉ nhớ ra được dáng người. Và, tôi gặp lại chú Hoàng sau này khi đã lớn, đó lần đầu tiên đến nhà chú vào mùa hè cách đây ba năm ở khi tôi rời Đà Lạt về Huế học. Ở Sài Gòn, thỉnh thỏang Lăng có viết thư cho tôi. Dịp Tết, có một năm Lăng gởi cho tôi ít sách truyện và báo Xuân để đọc. Luôn luôn chúng tôi sống có tình nghĩa với nhau. Trong các đứa cháu, Lăng được các cậu, các dì cả bà con xa gần bên ngọai nữa biểu lộ nhiều tình cảm vừa hãnh diện về sự học hành, đỗ đạt của Lăng hơn mấy anh em chúng tôi. Người ở bên ngòai nhìn thấy vậy nghĩ rằng, Lăng mồ côi cha tự thuở bé nên được nhiều tình thương của người thân. Có đúng một phần, nhưng không phải vậy đâu. Bên ngọai tôi rất bề thế về sự vinh hiển qua nhiều đời làm quan và khoa bảng, nhưng riêng mẹ tôi rất ít học, và ba tôi làm rể gia đình ông ngoại tôi, vốn học chỉ là giáo viên với mảnh bằng Tiểu học.  Vào thời gian gia đình tôi gặp họan nạn, sống nương nhờ người thân, cứ đến bữa ăn ngồi yên lặng tôi không dám chuyện trò, tôi luôn có cảm giác nôn nao trong cổ họng khi cố gắng ăn thật chậm rãi, khẽ khàng để nuốt từng miếng cơm vào cổ họng. Và ngồi ở đây, chốn này, đem những lời tâm sự ra nói với người chú của Lăng, mới hai mươi tuổi đầu, tôi biết mình nên đi tìm đến một vùng đất hứa. Và, tôi rất tin cậy ánh sáng, con người, cùng thiên nhiên ở miền Nam.

-Cháu có muốn xin việc làm ở Huế không ?

-Dạ không. Cháu không thể ở ngòai này được. Và bước đường cùng, cháu nhảy vào lính là xong chuyện.

-Cháu đi học Sĩ quan được không ?

-Không được, vì cháu không có bằng Tú Tài.

-Nếu cháu ở lại Huế, chú sẽ xin cho cháu một chân giáo viên dạy ở trường Tiểu học.

-Cháu không nghĩ tới trường học nữa. Cháu muốn làm công nhân, hoặc là đi lính thôi.

            Chú Hoàng rót phần bia còn lại trong chai vào ly. Tôi thấy chú uống từng ngụm trong sự cố gắng mà có lẽ bởi những điều thất vọng của đứa cháu vừa bày tỏ làm chú băn khoăn, suy nghĩ.

            Một giọng thản nhiên, chú nói:

-Con cháu, đứa nào chú cũng thương.

-Dạ, cháu biết.

            Nắng ấm áp, sáng sủa, tự dưng lòng tôi cởi mở.

-Bây giờ, chị Nguyệt sao rồi chú?

-Nó thi đậu vào trường Sư phạm Qui Nhơn.

-Chị Nguyệt đi dạy, cũng hay đó.

-Nó thi rớt lọat nhì, hai kỳ luôn.

-Cháu cũng bị hỏng lọat nhì.

            Có tiếng kẻng của người lính gác trên đèo đánh vang lên nghe giòn giã. Hành khách cười nói, vui chuyện, và họ trở lại những xe khách trong vội vàng.

            Chú Hoàng đi traction An Lợi, tôi đi xe Tiến Lực. Những tiếng còi hiệu vang lên. Rồi từng chiếc một, đoàn xe chuyển bánh rời trạm nghỉ trên đèo. Lúc này, lòng tôi tự nhiên hoang mang vương vấn một nỗi buồn. Tôi thoáng nghĩ đến Hân một mối tình thơ dại như hương gió thỏang qua.

            Bến xe Đà Nẵng nằm trên đường Hùng Vương. Khi rời đèo Hải Vân để về thành phố, các xe nhỏ chạy nhanh hơn nên tới bến trước. Tuy nhiên, các xe lớn cũng về đến nơi chỉ chậm sau chừng mươi, mười lăm phút.

            Vừa ra khỏi xe, tôi bỗng thấy chú Hoàng còn đứng chờ ai ở bến chưa vội đi. Thấy vậy tôi bước nhanh đến chào và hỏi:

-Chú đợi xe cơ quan ?

-À. Chú đợi cháu.

-Dạ.

            Tôi theo chú Hoàng vào quán ăn trưa ở bến xe. Tôi không biết chú nói gì với tôi nhưng tôi cứ đi theo chú. Ngồi trong quán nắng trưa hừng hực nên cần phải có nước giải khát. Tôi uống nước đá chanh, còn chú uống bia. Bữa cơm phần được gọi chờ mang ra. Tôi và chú đốt điếu thuốc trong lúc chờ bữa ăn.

-Chừng nào cháu đi ?

-Dạ tuần tới.

            Chú nhìn lại vẻ mặt tôi và tôi ước tưởng, trên gương mặt mình đã lộ thấy cả một đọan trường đầy chông gai, trắc trở.

            Khi bữa ăn mang ra, tôi cảm thấy đói vì cơm và thức ăn nóng hổi, lên khói.

- Ăn đi cháu.

-Dạ, mời chú.

            Hai người ăn thong thả. Chú Hoàng chắc đã nghĩ kỹ , rồi hỏi:

-Cháu muốn nghe lời chú không ?

-Dạ. Lúc nào cháu cũng coi chú như ruột thịt.

-Cháu ở lại Huế đi. Chú sẽ xin việc cho cháu. Tốt nhất, cháu xin dạy một trường tiểu học ngọai ô. Đi dạy còn có thì giờ cháu học thi lấy bằng Tú Tài.

            Tôi đang nuốt miếng cơm, nghe chú nói bỗng dưng có cảm giác trong cổ bị nghẹn. Lòng tốt của chú Hoàng, biết tôi sẽ nói ra sao để chú hiểu được tâm trạng của mình. Lặng im trong chốc lát, tôi mới mở lời:

-Gia đình cháu không có ai sáng dạ học hành. Anh cháu là người khai khoa cho cả họ hàng bên nội cháu với mảnh bằng Tú Tài. Về phía bên ngoại , anh em của cháu chẳng dám tơ tưởng để thừa một chút danh thơm của một dòng họ. Vậy nên, cháu không thiết nghĩ đến chuyện học làm chi. Đến chuyện nghề giáo cũng vậy, ba cháu cũng đã nhận ra nghề bạc  bẻo này trong đời mình. Cháu muốn đi xa, vào miền Nam kiếm sống giống như phu đồn điền thời trước bỏ xứ ngòai mà vào Nam tìm cuộc mưu sinh. Thà đi như vậy, cháu có đủ can đảm hơn, vươn mình hơn là an phận cuộc đời như ba của cháu. Cháu rất biết ở đây, với uy tín của chú việc gì chú giúp cũng thành. Chú rất tốt, cháu biết và cháu hiểu.

            Bữa cơm dọn ra nhiều món và tôi ăn thực tình. Khi đã hiểu tấm lòng tôi trống trải, chú Hoàng lặng im , suy  nghĩ về hòan cảnh của tôi như là con của chú phải đi xa vậy.

            Xong bữa ăn, chú và tôi tiếp tục câu chuyện đời. Sau đó, rời quán tôi nói lời chào chú rồi từ bến xe đi bộ về nhà người dì tôi.

            Một câu chân tình, dì hỏi:

-Vào Sài Gòn, cháu vẫn tiếp tục học ?

-Dạ không, cháu tìm việc làm.

            Trên gương mặt dì tôi, lộ vẻ buồn lo lắng. Tôi nói chuyện với hai người thân khá lâu, sau đó, qua phòng khách lớn nghe đàn dương cầm. Chị Bích Ái đang chơi dương cầm, tôi có nhớ một vài bản cổ điển và yêu cầu chị đánh cho nghe. Tiếng đàn ngân vang, trong sáng, tôi nghe mà như ôm giữ  cả dòng nhạc trong tâm hồn một nỗi buồn nhớ lạ lùng.

-Ít ngày nữa, con đi.

            Tôi đáp lời dì tôi hỏi lúc chào từ biệt. Và từ nhà người dì, tôi ra đường đón xe lam xuống  phố, ghé vào hiệu sách đọc báo, rồi về nhà Ninh Hà.

            Vừa thấy tôi xuất hiện, nàng rời ghế đứng dậy tay cầm một tập giấy. Nàng nói:

-Rất tiếc truyện không được đăng.

            Tôi chợt nghĩ đến một hạnh phúc. Nàng đã đem lại cho tôi hạnh phúc về một lá thư  của tôi mà chính tay nàng đã mở ra xem. Tôi rất vui với sự chân tình của nàng.

-Cả nhà đi vắng ?

-Cả nhà qua thăm bác Phúc.

            Tôi và nàng cùng ngồi xuống chỗ bàn khách.

-Tiếc quá, tôi nói.

-Sao mà tiếc ?

            Nàng hỏi tôi, không đưa mắt nhìn. Tôi nói:

-Nếu truyện được đăng là cả một niềm vui. Lúc gởi đi, cứ ước ao truyện được đăng để anh làm món quà tặng Ninh  Hà.

-Bày vẽ ra.

-Thực lòng đó.

-Không được đăng thì mình viết truyện người khác.

            Nàng đáp lời tôi, rồi cúi mắt chăm chú đọc. Tôi hỏi:

-Mà truyện viết được không ?

-Không được. Bịa đặt và tưởng tượng nhiều quá.

-Thì truyện viết phải tưởng tượng.

-Đồng ý, nhưng phải tôn trọng sự thật.

-Có nhiều sự thật trong đó, biết không ?

-Đâu, sự thật nào đâu ?

-Ninh Hà  đã đọc qua hết truyện rồi sẽ thấy.

-Có thấy, nhưng hôm đó chỉ chơi cờ ca rô thôi mà, làm gì có tóc nàng xõa kín gương mặt rồi để chàng vén mái tóc nàng lên cho hai người đưa mắt nhìn nhau.

            Ninh Hà có giọng nói thật hay. Nhớ lại một buổi trưa hôm đó trong giấc ngủ tôi thấy cảnh hai đứa tôi chơi cờ ca rô trong lớp học. Người ta thường nói chiêm bao là do ức chế, nhưng thực ra, hình ảnh nào đã gặp thì được nhìn thấy trở lại trong giấc mơ. Trong truyện, tôi thêm thắt đôi chút để hai người hiểu nhau. Trong giấc mơ, hình ảnh đó đã bày tỏ tình cảm thân mật của hai người.

            Truyện ngắn tôi viết 10 trang , Ninh Hà đọc hết không bỏ sót dòng nào. Đọc xong, nàng đưa qua cho tôi. Tôi cầm lấy, hơi bối rối không biết làm gì với một món quà tặng không còn dùng được nữa.

            Lặng lẽ, Ninh  Hà rót trà vào tách cho tôi.

-Anh uống nước đi.

-Còn ba tuần nữa thôi, Ninh  Hà đi học lại rồi.

-Em chưa  chuẩn bị gì cả.

-Năm cuối, các môn học đều khó. Mong làm sao, năm tới em vào Đại Học.

            Nàng mỉm cười nhìn lại tôi. Hai đứa tôi cùng vui chuyện, nhờ vậy, tôi quên được nỗi buồn về sự hỏng thi. Rồi, có những câu nói gần như vô nghĩa. Với nàng, cuộc sống rất là vô tư. Còn tôi, tôi cứ nhìn ngắm mãi vẻ đẹp trên gương mặt nàng. Trên ánh mắt nàng, tôi nhận ra tình yêu của thời gian có nhiều màu sắc ánh sáng. Và, tôi lại tự nhủ hạnh phúc cho Duy đã có được nàng. Tôi luôn nhận ra vẻ đẹp của nàng qua gương mặt và mái tóc. Nàng để lộ ánh sáng trắng sữa trên làn da và gương mặt, ở hai cánh tay và hình dáng cân đối của nàng.

            Đâu đó, mùa thu đang trở về. Và, thành phố này cây lá sẽ xanh tươi. Tôi biết lòng nàng không buồn nhưng cũng không vui.

-Ngày mai, anh  trở ra lại Huế.

-Anh đi Sài Gòn không ?

-Có. Đi, nhưng không bao giờ quên Ninh Hà đâu.

            Giọng tôi nói thật chân tình, cảm động. Ninh Hà ngước mắt nhìn tôi. Lúc ấy, hạnh phúc dành cho tôi là nụï cười trong cặp mắt sáng của nàng.

            Buổi trưa qua mau. Cả nhà về tới. Ông  Kha thấy tôi vào lại hỏi thăm sức khỏe ba mẹ tôi ngoài nhà và ông bắt tay tôi thật là nồng ấm.

-Cháu đã nhận được thư của một người bạn ở Sài Gòn.

-Chừng nào cậu đi ?

-Dạ, đầu tuần tới. Cháu vào đây thăm hai bác, ngày mai cháu trở ra Huế.

-Không ở chơi thêm ít ngày.

-Cháu ra, chuẩn bị chuyến đi để sớm gặp người bạn.

            Lúc nói chuyện với gia đình, tôi quên mất sự vắng mặt của Ninh  Hà. Một lúc sau, nàng xuất hiện ở lối cầu thang đi xuống. Lúc tôi ngước mắt nhìn thấy, nàng mỉm cười. Nàng có một vẻ đẹp khiến cho tôi cứ nhiều lần bối rối, bỡ ngỡ. Hơn một giờ qua, trong lúc nhà vắng vẻ chỉ có hai người chuyện trò với nhau mà những ý tưởng thực sự muốn bày tỏ còn ngập ngừng, lơ lửng, dù trong thâm tâm là có sự thương gọi của tình yêu mà với hai người, ai nói ra trước cũng được. Tôi cảm thấy sự thua kém này vì bản tính rụt rè, cộng sự không may mắn của tôi sau một năm học. Nhưng nàng chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện đó. Nàng rất tự nhiên, vẫn nghĩ về tôi là một người bạn thân, vẫn biết rõ hơn ai hết trong gia đình là tôi yêu nàng, dù một chút mong manh trong hy vọng nhưng nàng vẫn chấp nhận, và tự nói với chính mình là nàng cũng yêu tôi.

            Đến trưa, trong bữa ăn tôi có mặt với gia đình nàng.  Tôi dè dặt, nhưng với vẻ mặt thân thiện của các em nàng làm tôi hài lòng. Sau bữa ăn, ông bà nghỉ trưa còn tôi cùng mấy đứa em và nàng lên gác chơi bài. Vừa chơi bài, vừa trò chuyện. Huyền nói:

-Rạp Lido có chiếu phim hay lắm.

            Tôi đưa mắt nhìn qua Ninh Hà . Trong cái nhìn của tôi, Thủy bắt gặp là hiểu. Cô nói:

-Chị Hà bao ciné nghe ?

            Hà nhìn qua tôi, gật đầu. Rồi mấy anh em chơi bài tiếp. Lúc này, Hà là người chủ động dẫn dắt câu chuyện từ phim ảnh, đến bạn bè, và nói đến ngày hội Festival có tổ chức cuộc thi nữ sinh duyên dáng.

            Rất vui, tôi lên tiếng:

-Thu Huyền nên dự thi.

-Em cũng đồng ý như vậy, Hà tiếp lời.

-Không, em không đi đâu.

-Anh nghĩ là em  sẽ đoạt giải.

            Hà nói:

-Xong chưa, khui bài nhé.

            Tất cả chờ đợi. Khi Hà lật hai cây bài tôi lên, nàng cười nói:

-Cái tội dằn non.

            Lòng tôi quá vui trong giọng nói của nàng. Từ dạo tôi biết nàng cho tới nay, mỗi cử chỉ nhỏ nhặt trong ánh mắt, nụ cười của nàng đều có liên hệï đến tình yêu.

            Buổi chiều, chúng tôi cùng xuống phố chơi và coi chiếu phim. Sau khi vãn hát, Thu Huyền bước tới gần tôi, nói:

-Em có việc phải đi.

-Em đi đâu ?

-Em để anh lại một mình. Một mình để cho anh nói lời từ giã với chị Hà.

            Sáng hôm sau, tôi thức dậy sớm vì thường ngủ ít. Khoảng mười giờ, nhà dọn bữa ăn sáng, cà phê, nói chuyện với gia đình một lúc lâu tôi đứng lên xin kiếu từ. Giọng tôi hơi run khi nói lời từ giã. Ông bà Kha và các em chúc tôi đi đường bình an. Riêng Ninh Hà, nàng tặng cho tôi gói quà nhỏ bọc trong giấy hoa. Tôi nói rất nhiều lời từ biệt với nàng bằng đôi mắt của tôi.

-Anh nhớ viết thư cho em.

            Nói xong, nàng đưa tay cho tôi bắt. Đêm qua, nàng thức khuya. Tôi biết nàng thức khuya, vì thấy trên căn gác còn để sáng đèn đến một giờ khuya. Khi thấy tôi bối rối, nàng mỉm cười, như thế, chúng tôi sẽ còn nhớ đến nhau khi ở xa nhau. Thế rồi, ra đi. Tôi tới bến xe vừa kịp chuyến sắp khởi hành. Xe chạy nhanh, sau hai giờ đường là đến Huế. Về đến nhà đã quá trưa, tôi mệt đi nằm nghỉ. Trong giấc ngủ, hình bóng người yêu tôi đến, và rồi, một áng mây trắng bồng bềnh biến thành chiếc áo trắng nàng mặc. Nàng cũng đã theo tôi về Huế với áo trắng, như thể cho tôi nghe được tiếng nàng gợi nhắc đến một tấm lòng quê hương cũ.

            Khi tôi thức dậy, nhà vắng vẻ. Tôi thở nhẹ cho nỗi buồn tan đi, rồi mở túi xách lấy ra gói quà Ninh Hà tặng cho tôi. Một cuốn sách truyện bọc ngòai, ghép ở trong là một phong bì dày với lá thư, mấy tấm ảnh của nàng và có số tiền một ngàn.

            Lá thư, nàng viết:

Anh ra đi bình yên. Em rất thương anh, luôn nhớ đến anh. Những tấm ảnh này em gởi anh làm kỷ niệm. Em không ghi lời đề tặng gì cả. Em cũng rất biết hòan cảnh anh, đi xa như vậy sẽ thiếu thốn lúc ban đầu. Tiền Ba Mợ cho để dành, em cho anh để anh dùng đến lúc cần.

Em,

Ninh Hà

 

 

                                                             IX

 

           

            Vân Oanh đã dọn đến chỗ mới ở khu phố nhà ga. Một dãy nhà ngang gồm bốn căn có diện tích bằng nhau, căn đầu tiên gần lối cổng vào là của gia chủ, một cặp vợ chồng đã hưu trí, hai căn kế bên cửa đóng kín, bên trong là nơi thờ tự có chưng các món đồ cổ và đồ gia bảo, căn cuối hết vừa mới được mở cửa cho người thuê.

            Oanh thuê nơi chỗ ở này giá rẻ, nhà rộng rãi, thoáng mát, có vườn sau, sân trước nhìn ra thấy con đường lên vùng ngoại ô, thấy con sông nhỏ hẹp nước trong xanh, và bên kia sông là ngôi trường nhà dòng cổ giống như một tu viện.

            Oanh đã có năng khiếu vẽ trước khi thi đậu vào trường Mỹ Thuật. Những năm học ở trường Sao Mai, mỗi kỳ triển lãm Oanh luôn nhận được phần thưởng qua mấy bức tranh vẽ rất đẹp, sắc nét, giàu nghệ thuật sáng tạo. Với căn nhà thuê thật vừa ý, Oanh đã trang trí từ  phòng sinh hoạt ra phòng khách bằng các thứ  lọ hoa, tranh vẽ, tượng điêu khắc bằng gỗ,  thạch cao, trông giản dị, nhưng đầy ấn tượng.

            Bên trong phòng sinh hoạt, lớn nhất là chiếc giường ngủ trải nệm. Ở cạnh bàn học trông ra cửa sổ có một chiếc kệ ba ngăn, ngăn trên là sách hội họa, ngăn giữa để các loại thuyết, và ngăn dưới là sách giáo khoa chương trình thi Tú Tài phần hai. Nếu năm tới thi đậu, thì nàng sẽ theo học Luật, còn ở trường Mỹ Thuật là năm thi tốt nghiệp ra trường.

            Trường Mỹ Thuật nằm trong khu Đại Nội, nơi đó, trước đây là khuê phòng cung nữ  của nhiều đời vua triều nhà Nguyễn.

            Năm học mới đã bắt đầu được ba tuần lễ. Lớp của Oanh chỉ có hai nữ sinh viên, còn lại là nam, khoảng mười người. Chương trình học năm thứ hai khá nặng, rất nhiều môn về văn hóa, lịch sử , kịch liên quan đến hội họa và thẩm mỹ , những môn này được các giáo sư  ở bên Viện Hán Học và trường Văn Khoa, trường Kiến Trúc qua dạy.

            Thiên nhiên là người thầy nghệ thuật. Vì vậy, các sinh viên bạn nào cũng tìm kiếm những cảnh trí độc đáo ở bên ngoài để làm đề tài cho tranh vẽ. Vào những ngày đi dã ngoại, sinh viên lớp của Oanh theo các thầy hướng dẫn đi tới những nơi tụ hội nhiều thắng cảnh đẹp, trữ tình của sông nước, núi rừng. Vào những buổi học bình thường, khi tan lớp, Oanh đạp xe về nhà. Trên đường về, bóng dáng nàng qua phố lúc với hình ảnh áo dài trắng, lúc là áo dài tím, vàng hoặc màu thiên thanh. Vân Oanh là một thiếu nữ đẹp dịu dàng và đức hạnh. Nàng dành cho cuộc đời một khuôn mặt rất hạnh phúc, một đôi mắt mãi mãi sáng nụ cười, một giọng nói rất hồn nhiên và đầy tự tin. Khi cơn gió vô tình làm rơi rớt xuống trên vai áo nàng những bông hoa đỏ thắm của phượng, lúc ấy, hình ảnh nàng là cả một bức tranh. Oanh, tên nàng còn là tên thành phố của con tim. Oanh, tên ấy của nàng cũng dễ gây cho bạn sự liên tưởng về các thứ bông hoa và  màu sắc mỗi bông hoa ấy luôn được nhìn như là biểu tượng. Và một ngày kia, thành phố sẽ mang nhiều bông hoa khác nữa từ  cái tên và tâm hồn của cô gái để xây dựng nên thành một khu vườn, một công viên.

            Tối qua, gần tới giờ Oanh đi nghỉ thì Nguyên đến, trông anh có vẻ mỏi mệt vì làm việc căng thẳng. Nhưng, anh cảm thấy rất là vui khi được về bên người yêu. Oanh hỏi:

-Sao anh tới trễ vậy ?

            Nguyên chưa đáp lời, anh cầm bàn tay Oanh rồi hai người ngồi xuống ở bàn học.

-Em làm anh ly trà đá nghe ?

            Nguyên gật đầu. Oanh đứng lên, nàng đi xuống nhà dưới. Nguyên lật cuốn vở học của Oanh ghi chép những bài luận mẫu Pháp Văn nàng chọn trong sách viết ra, đây có thể là những đề thi. Khi Nguyên cầm cây bút sửa lại mấy lỗi viết sai, Oanh lên tới. Nàng đặt ly nước mát xuống bàn, xong ngồi bên cạnh Nguyên.

-Anh ăn uống gì chưa ?

-Có, anh ăn ở trại rồi.

-Anh ghé bên nhà chưa ?

-Anh về thẳng đây luôn, một tiếng nữa anh vào trại.

            Nguyên uống một hớp đầy xong đưa qua cho Oanh.

-Tuần tới, em vào nhà không ?

-Không, đến cuối tháng.

-Năm nay bài vở nhiều không ?

-Chắc chắn là nhiều hơn năm ngoái. Năm nay, học thêm môn họa hình và cơ thể học.

-Ngày mốt anh lên căn cứ hành quân.

-Đi lâu không ?

-Chừng một tuần, có thể hơn.

-Lâu nhỉ.

-Em biết chuyến đi lần này như thế nào không ?

-Thì vẫn là công tác dân sự vụ.

-Không, em đoán sai rồi.

            Oanh ngước mắt nhìn qua Nguyên, và lúc nào cũng vậy, trong mắt nàng luôn sáng dịu lên một nụ cười. Nguyên nói:

-Có đoàn văn nghệ Sài gòn ra hát cho lính ở tiền đồn. Anh phải hướng dẫn đi, buổi đầu tiên diễn ở trung đoàn sau đó đến các tiểu đoàn.

-Có diễn cho dân chúng coi không ?

-Tùy ý trưởng đoàn. Nhưng anh sẽ cố sắp xếp một đêm cho dân làng được xem.

-Anh cần để cho dân chúng được xem. Ở những vùng xa hẻo lánh, ít khi họ có được dịp như vậy.

-Em của anh lúc nào cũng đầy lòng nhân hậu.

-Những  người khác, em rất là dễ dãi, nhưng với anh phải khó và nghiêm khắc như cô giáo.

-Sao vậy ?

-Anh không hiểu ra tính tình của anh à.

-Anh vui tính, luôn biết chìu em.

-Không đúng. Anh rất là lông bông, liệu hồn đấy.

            Nguyên cầm bình trà rót thêm vào ly còn nước đá. Anh uống và cảm thấy đã khát.

-Anh ăn gì đi, không thì đói.

-Có gì ăn ?

-Mì gói.

-Chút nữa, ngồi bên em anh cảm thấy rất dễ chịu.

-Dễ chịu thực không ?

            Im lặng, Oanh hé môi để cho Nguyên hôn. Nguyên hôn thật lâu làm thân người nàng run  rẫy.

            Bên ngoài trăng sáng. Hai người đứng dậy đi lên nhà trên mở cửa trước ngồi xuống thềm hiên. Ở thành phố Huế, bạn luôn có cảm giác yên lặng và xa xôi. Về đêm, vào mùa trăng sáng, cảnh vật trở nên huyền nhiệm, mỗi cảnh lồng vào trong đó một thứ tiếng nói, rồi tất cả hòa vang thành nhạc khúc trên dòng sông đang chảy.

            Oanh khoác ngoài chiếc áo len hồng, nàng dựa đầu lên vai chiếc áo jacket dày của Nguyên. Bàn tay nàng trong tay người yêu.

-Đúng là cảnh trăng mùa thu.

            Oanh mỉm cười sau câu nói của Nguyên. Rồi nàng bảo:

-Anh có tâm hồn thi sĩ.

-Mỗi bài thơ anh sáng tác, luôn mang bóng hình em.

-Nhưng anh đâu có làm thơ nhiều.

-Anh sẽ viết riêng một tập thơ đề tên em.

-Ông Nguyên Sa, với tên người yêu ông chỉ làm thơ một chữ thôi.

-Em là hình ảnh Lara, anh sẽ viết riêng một tập thơ mang tên em.

-Có một tập thơ của anh, em sẽ vẽ bìa.

            Trên đường, có bóng một người đàn ông đạp xe đi ngang qua. Ông ta đội chiếc mũ nỉ, vừa đạp chậm rãi, vừa đưa mắt nhìn xuống dòng sông.

            Những cánh cửa sổ trên tầng ba của ngôi trường dòng bên kia đang mở. Ánh đèn từ căn phòng đó hắt ra bên ngoài yếu ớt rơi xuống dòng sông. Và, nhờ ánh trăng sáng, hai người nhìn thấy rõ nước dòng sông và cả hai phía bờ.

            Nguyên chợt hỏi:

-Em còn nhớ những ngày về thăm quê không ?

-Nhớ chứ.

-Mỗi nơi, cho em một tình cảm riêng phải không ?

-Quê nội nghèo, như anh nói.

-Ở đó thật hoang sơ, chỉ có biển và cát.

-Còn dòng sông thì về miền quê ngoại.

-Mẹ rất thương em.

-Em hiểu ý anh muốn nói.

            Rồi nàng tiếp lời:

-Quảng Trị, thành phố tuy nhỏ nhưng đẹp. Về các làng quê, nơi nào cũng có dòng sông chảy qua.

-Anh rất nhớ quê ngoại, qua ngôi nhà thờ, cảnh đồng ruộng và con đường đê.

-Ngày đó, mẹ anh đi chợ phiên cũng xa nhỉ.

-Con đường đê rất dài đó, buổi chiều là hình ảnh của mẹ.

-Chắc lúc nào anh cũng gần bên mẹ.

-Và, bên em nữa.

            Oanh vuốt mái tóc. Trăng mùa thu sáng dịu, sương đêm xuống lặng lẽ in bóng dáng những đám mây mỏng manh, lửng lơ bên kia bờ. Oanh ngước mắt nhìn lên trăng, hai tay để ra đằng sau vuốt sửa lại mái tóc. Bỗng nhiên, nàng có cảm giác như  một ai đó gọi tên nàng.

            Oanh chợt mỉm cười qua giấc mơ. Nguyên nhìn đồng hồ, anh hỏi:

-Em buồn ngủ chưa ?

-Chưa.

-Anh vào trại bây giờ .

-Anh lái xe một mình ?

-Không sao, đêm có trăng.

            Oanh đi bên Nguyên, bàn tay nhỏ bé của nàng trong tay anh. Xe đậu bên lề đường gần bờ sông ngoài cổng. Dừng bước bên xe, Oanh nói:

-Anh lái xe cẩn thận.

            Nguyên không đáp lời, anh nhìn đồng hồ tay, bỗng nói:

-Anh đưa em đi ăn.

-Khuya rồi.

-Em vào nhà đóng cửa, xong đi ăn với anh.

            Oanh quay trở vào. Không lâu lắm nàng trở ra và Nguyên đã cho xe nổ máy. Khi Oanh lên ghế ngồi, Nguyên cho xe chạy một đoạn tới bến cát rồi trở đầu đi về phía nhà ga. Anh chạy vòng quanh nhà ga tìm quán ăn, xong đổ về khu phố Morin và rẽ đường tới nhà Bưu Điện. Một quán ăn khuya vẫn còn mở và có khách ăn.

            Xe dừng ở bờ đường gần quán. Đêm thành phố lặng yên với bóng sáng của ánh trăng thật dịu dàng. Nguyên nhìn qua mái tóc Oanh, anh nói:

-Khi nào Mỵ Châu cần sách đọc, nhớ cho anh biết.

-Sách còn nhiều, Mỵ Châu chưa đọc hết.

-Anh bỗng nghĩ, có một tu viện, Mỵ Châu ở đó với các xơ, vừa làm việc vừa đọc sách.

            Oanh cười hơi lớn tiếng. Nàng hơi dừng bước hỏi Nguyên:

-Anh nghe em kể về Mỵ Châu lần nào chưa ?

            Nguyên nhắc lại một vài chuyện, nhưng Oanh cho là chưa đúng.

-Khi về nhà, em sẽ kể cho anh nghe.

            Hai người vào quán, ngồi bàn thấp ở phía ngoài. Có bún, cháo và cà phê.

-Ăn bún nghe.

            Oanh gật đầu. Khi đứa nhỏ chạy bàn đi vào, Nguyên nói với Oanh:

-Thụy mới viết thư về nhà, có gởi lời thăm em.

-Anh gởi thư, em có lời thăm.

-Thụy rất mong được gặp em. Nó bảo, anh gởi cho nó xem ảnh của em.

-Anh đừng gởi.

-Không gởi nó cứ nôn nao mong có kỳ nghỉ phép.

-Đến lúc về, sẽ gặp. Nếu em không ở đây, anh đưa Thụy vào Đà Nẵng chơi.

            Hai tô bún nóng để trên chiếc khay, đứa nhỏ mang ra cẩn thận đặt xuống bàn. Mỗi người, trước khi ăn lấy những lọn chả bỏ thêm vào tô bún.

-Tối mai anh về nhà không ?

-Chắc là không ?

-Được dẫn các cô ca sĩ đi hát tiền đồn, chắc là anh vui, trông đợi nữa phải không ?

-Những ca sĩ Sài Gòn anh quen hết ?

-Có cô nào anh bắt bồ không ?

-Không.

-Em không tin.

            Hai người bắt đầu ăn. Nguyên nói:

-Trước khi đi lính, anh làm nghề báo. Không chỉ viết tin, làm phóng sự, anh còn phụ trách trang tân nhạc hàng tuần. Có trang này, anh dễ làm quen với các cô ca sĩ, và cô nào cũng muốn nhờ anh viết giới thiệu để có cơ hội nổi tiếng. Khi làm trang này, anh cũng đã thực hiện một thiên phóng sự  Sài Gòn về đêm qua các phòng trà.

-Các nữ ca sĩ, cô nào cũng đẹp ?

-Không hẳn.

-Anh tình nguyện đi lính hay bị động viên.

            Nguyên kể chuyện về một vị Thiếu Tá anh quen làm việc ở Cục Tâm Lý Chiến. Và đúng như lời hứa hẹn của ông, Nguyên vào Thủ Đức khóa 21, mãn khóa học xong anh được về làm việc tại phòng truyền hình ở Cục Tâm Lý Chiến. Năm 1965, truyền hình bắt đầu có và rất mới mẻ. Nhiệm vụ của Nguyên là hướng dẫn người quay phim quay những cảnh thực ngoài chiến trường, phần anh, dựa vào mỗi cảnh phim quay viết lời bình và dẫn giải. Với công việc này, Nguyên còn tạo được tên tuổi cho mình qua những cuộc phỏng vấn trực tiếp với các vị Tướng Tư Lệnh Sư đoàn, các vị Tỉnh trưởng, và anh cũng hay có mặt trong những cuộc họp báo đặc biệt của các giới chức cao cấp cả về dân sự và quân sự.

-Nhưng sao anh bỏ Sài Gòn ra ngoài này ?

            Nhìn Oanh, Nguyên nói:

-Để được gặp em.

-Không đúng. Gặp nhau là sự tình cờ, không nói là chủ đích được.

            Quán ăn tới giờ đóng cửa. Khách ăn đứng dậy ra về. Nguyên vào quán trả tiền, bất ngờ gặp Lập là bạn trong nhóm sinh viên tranh đấu ngày xưa. Khi Nguyên làm Ủy viên báo chí Tổng hội anh kiêm luôn chủ bút tờ Sinh Viên Huế, còn Lập là Tổng Thư Ký. Tờ  báo khởi đầu từ sau biến cố đảo chánh 1/11/63 và kết thúc khi sứ mạng của Sinh viên đối với hiến chương Vũng Tàu hoàn thành. Thời sinh viên, Nguyên có được những tháng ngày hào hùng, lãng mạn. Oanh rất thích một bức ảnh anh mặc áo sơ mi màu rêu,  hai túi xẻ, đứng trên bậc thêm ở trường Đại Học Văn Khoa. Bức ảnh, rất ăn từng nét đẹp của Nguyên qua dáng người và cặp mắt.

            Khi Lập theo Nguyên ra ngoài, gặp Oanh anh bạn chào hỏi rất thân thiện. Và, khi được biết Oanh học ở trường Mỹ Thuật, anh ta rất mong được xem những tranh vẽ của nàng. Hai tuần lễ tới, Huế sẽ có một cuộc triễn lãm dành cho các họa sĩ trẻ.

            Nguyên lái xe chậm tốc độ trên đường. Oanh vào câu chuyện kể về Mỵ Châu, về một ý tưởng ngộ nghỉnh muốn bỏ nhà đi tu, ở chùa, hay nhà thờ  cũng được, miễn là được sống xa lánh cuộc đời. Ở cái tuổi còn nhỏ, nhưng được chọn đi tu cũng là niềm vui. Nguyên cười lớn tiếng hòa nhịp cùng tiếng cười của Oanh , anh ngả người dựa lưng ghế buông tay lái, sau đó, anh cầm bàn tay Oanh đưa qua bên  mình và đặt lên phía trái tim.

            Nguyên thật sung sướng, rồi anh nói với Oanh rằng, sự rời bỏ đô thành Sài Gòn để ra ngoài này đó là sự lựa chọn của một người lính, nhờ đó, tạo ra cơ duyên cho anh được gặp một người mình yêu thật sự trong ước mong.

            Sương mù đang trôi bao kín dòng sông. Ánh trăng thu lan tỏa ra hơi lạnh trong đêm vắng. Về đến nhà, Nguyên dừng xe lại trước cổng, anh nói:

-Chúc em ngủ ngon.

 

 

 

                                                              X

 

 

 

            Trước ngày đi ra Nha Trang để dự khóa học chuyên môn ba tháng, buổi chiều Thụy đến nhà dì Hồng nhận được cùng lúc ba lá thư. Đó là thư anh Nguyên, thư  Ninh Hà , thư còn lại của một người bạn hiện nay đang dạy học dưới Vĩnh Long.

            Thư anh Nguyên nhờ Thụy mua giúp anh cuốn Tìm Hiểu Hội Họa của tác giả Đoàn Thêm và nếu có sách thì gởi về địa chỉ ở bên nhà hoặc cho cô gái bạn anh. Thư Ninh Hà có hai tấm ảnh kèm theo thư, đó là ảnh nàng và ảnh đứa con trai. Ảnh đứa con trai mới sáu tháng tuổi có ghi lời tặng, còn của nàng, thì không. Từ ngày xa cách, Thụy có nhiều tấm ảnh của nàng mang theo, nhưng không một tấm nào có những dòng chữ của nàng ghi lời tặng.

            Sau khi đọc thư xong, Thụy đón xe buýt lên chợ Bến Thành. Sài Gòn, ngày nào cũng huyên náo, xô bồ, nhưng thật là dễ sống. Xuống bến xe, Thụy đi qua khu bùng binh Quách Thị Trang đến nhà sách Khai Trí, và đi sâu vào phía bên trong cùng để tìm kiếm các loại sách chuyên môn. Thật may mắn, Thụy tìm ra cuốn sách anh Nguyên nhờ, chỉ  còn một bản duy nhất bày trên kệ. Thụy vói người lấy cuốn sách xuống, giũ bụi, xong xem lại cẩn thận những trang in có bị sót không. Thụy không thể đọc được nhiều, nhưng với tác giả anh đã có biết, và nhìn qua cách viết anh thấy người biên soạn rất là cẩn trọng,  công phu. Trong sách còn có một số phụ bản tranh in màu của các họa sĩ danh tiếng Picasso, Gaughin, Renoir, Van Gogh, Claude Monet . Bức tranh Người gieo hạt của Van Gogh rất là ấn tượng, sống động, và lúc này, Thụy cảm thấy dễ chịu, yêu thích hơn hết là được xem bức tranh của người họa sĩ Pháp gốc Hòa Lan, Claude Monet. Bức tranh vẽ ở một công viên trông ra biển. Trên công viên bày ra những bàn ghế mây, có một người đàn ông đội nón nỉ phớt mắt nhìn ra biển xa, ngoài mặt biển xanh đẹp những làn sóng nước, có rất nhiều tàu và thuyền bè đang di chuyển. Bên lối hàng rào, có một người phụ nữ trông dáng vẻ quí phái đang chuyện trò với một người đàn ông đứng tuổi thật lịch lãm. Người phụ nữ dáng mảnh mai, che đầu chiếc dù trắng, còn người đàn ông mặc áo veste, một tay cầm cây can. Thụy cảm thấy ngay sức tưởng tưởng tượng của mình trong khi họa sĩ  phối hợp các màu tươi sáng trên bức tranh, đáng yêu nhất là màu của các bông hoa thắm nở bao quanh công viên. Khi ra đến quầy tính tiền, Thụy đưa cuốn sách cho cô bán hàng, cô coi giá bìa xong bớt giá 15%. Cô bỏ sách vào túi nylon đưa cho anh rồi thối tiền lẻ.

             Ra khỏi hiệu sách, Thụy đến quán Mai Hương ngồi uống một ly cà phê đá. Buổi chiều Sài Gòn thật ồn vui, dọc phố chính những tiếng động luôn khua dậy rất đều nhịp, dòng người, dòng xe qua lại không ngớt, và bóng dáng các cô gái thướt tha trong chiếc áo dài thật là đẹp. Thụy uống cà phê, vừa hút thuốc, và bây giờ đây anh chẳng có ai quen ngoài Huê ra. Huê rất mến anh, nên khi ở bên nàng anh cũng rất tự nhiên.

            Về nhà, Thụy viết một lá thư ngắn gởi cho cô Vân  Oanh nói chuyện về cuốn sách anh Nguyên gởi nhờ mua. Và, để có sự tin cậy, Thụy còn nói thêm một đôi điều để cô yên tâm khi cần đến những sách học ở trường Mỹ Thuật.

            Thụy hài lòng với lá thư mình viết ngắn gọn, suôn sẻ.

            Ngày hôm sau, Thụy lên đường đi học. Buổi sáng sớm, anh vào trạm tiếp liên, và lúc ra phi cơ, thật bất ngờ Thụy gặp lại anh Khanh. Anh đang trò chuyện với một người bạn cũng là phi công, thấy Thụy, anh vội ngừng chuyện tới gần bắt tay.

-Anh có đọc truyện ngắn em viết ở báo Lý Tưởng.

-Anh thấy được không ?

-Được lắm. Nhưng ai kể chuyện này cho em.

-Nhân vật trong truyện là Trung úy N. ở bên phi đoàn 217.

-Đúng rồi, N. là bạn anh. N. bay rực thăng bị trúng đạn, máy bay cháy và anh bị thương tích rất nặng. Nhưng, dù cho anh bị thương tích, cô Ngọc Hiền bạn gái vẫn yêu thương và hai người đã lấy nhau.

-Em biết câu chuyện thật hay, cảm động nên viết ra.

-Hôm nay em đi đâu ?

-Em ra Nha Trang học khóa chuyên môn.

-Về ngành gì ?

-Ngành điều không.

-Không phải em làm ở báo Lý Tưởng đi công tác.

-Không, em có chỉ số ngành điều không. Báo Lý tưởng kéo em về vì thấy em có khả năng viết báo.

-Rồi học xong, thì sao ?

-Chắc là về lại Lý Tưởng.  Đại úy Hùng sẽ kéo em về, vì tờ  báo cũng cần người. Em đi học chuyên môn là để lấy bằng hưởng lương phụ cấp.

            Anh Khanh gật đầu nghe Thụy giải thích. Khi đến giờ đến giờ lên máy bay, Thụy cùng hành khách vào chiếc C47, chiếc này anh Khanh là trưởng phi cơ.

            Sau một tiếng bốn lăm phút bay, phi cơ ra tới Nha Trang. Từ trạm tiếp liên Thụy đi bộ tới khu huấn luyện và sau khi làm xong thủ tục, anh về phòng khóa sinh sắp xếp  đồ đạc và dọn chỗ nằm.

            Ngày hôm sau, Thụy ra phố tới nhà Bưu điện gởi thư về Huế, địa chỉ nhà cô Oanh ở. Khi mua sách ở Sài gòn, anh không gởi ngay, mà muốn lấy địa chỉ KBC ngoài quân trường để trường hợp thất lạc, sách sẽ trả lại cho địa chỉ người gởi. Từ câu chuyện của Nhi kể về nàng, thật lạ lùng, trong trí tưởng anh luôn hình dung về nàng một khuôn mặt hiền hậu, một đôi mắt đẹp, và qua dáng bước đi trong chiếc áo dài tím thật nhẹ nhàng như  mỗi cánh hoa vừa hé nở. Thụy thật hạnh phúc khi biết anh Nguyên của mình có người yêu là nàng.

            Buổi chiều ấy, với sự mộng mơ, với lòng tơ tưởng, Thụy đi lang thang qua các phố , sau đó thả bộ  dọc con đường ven biển trở về trường. Tối đến, nằm trong phòng Thụy đọc truyện, vẫn cuốn truyện cũ Người Mỹ trầm lặng. Khi đọc cuốn này, Thụy bỗng nhớ đến Hạnh.

            Với tờ SVL cầm tay Thụy  đã ra dự khóa học đúng ngày, nhưng anh em khóa sinh cùng chỉ số là bốn mươi người chưa tới đủ, mới trình diện  được mười lăm người. Còn thiếu khá nhiều, nhưng thực sự, có đủ quân số, khóa học cũng chưa bắt đầu vì còn thiếu giảng viên.

            Tới kỳ lương lãnh tiền xong, Thụy chuồn đi Đà Lạt. Thụy phải đi hai chuyến xe lam mới đến bến xe. Hầu hết xe đi các tỉnh xa là của hãng Trung Việt. Có hai loại, xe dài, và xe cỡ trung. Xe dài được 80 chỗ ngồi, còn cỡ trung chỉ bốn mươi chỗ.

            Khi lên xe, Thụy thấy bên chỗ cô gái đang ngồi còn ghế trống. Thụy xin phép lấy chỗ ngồi, cô gái không nói gì. Đợi hai mươi phút nữa, xe mới khởi hành. Thụy đưa mắt nhìn ra ngoài vừa thoáng ngắm vẻ mặt cô gái. Thụy hơi cảm thấy mệt nhưng không buồn ngủ nhờ có uống cà phê. Tối hôm qua, trong ảo mộng cuộc đời Thụy nghe ra tiếng nói và thấy hình ảnh người yêu của anh đi lấy chồng. Ngày hôm ấy nàng đi, hiển hiện trong giấc mơ của anh cả một cuốn phim đen trắng, và có vẻ như anh nối kết lại những bông hoa ấy thành một bó hoa trông đợi nàng. Giờ đây, một ngày đã khác.

-Cô học ở Đà Lạt ?

            Cô gái mỉm cười lắc đầu.

-Không.

            Thụy nhìn giờ qua chiếc đồng hồ đeo ở tay cô. Bỗng Thụy hỏi ý cô gái muốn đươc đổi chỗ ngồi phía ngoài cho thuận tiện. Không đáp lời, cô gái đứng lên và hai người đổi chỗ. Thụy nhận ra một cảm giác êm ái khi chiếc áo dài của cô chạm nhẹ tay anh.

            Với một giọng thân tình, Thụy nói:

-Ngày trước, tôi học ở Đà Lạt.

            Cô gái mỉm cười biết chàng gợi chuyện làm quen. Bỗng cô gái lên tiếng:

-Tôi không phải là Sinh viên.

            Thụy đáp lời:

-Bây giờ đợi xe đi lên thành phố đó, tôi cảm thấy nhớ thời đi học của mình.

-Gia đình ông ở trên đó ?

-Không.

            Tới phiên xe rời bến, người tài xế vừa cất tiếng gọi hành khách còn đứng dưới, vừa mở cửa ghế phòng lái bước lên. Trong xe, ở hàng ghế sau có hai người đàn bà hơi lớn tiếng cãi vã nhau. Thằng lơ xe liền lên tiếng giải hòa, vừa vui với giọng đùa nghịch. Có người cười, bảo thằng nhỏ lém lỉnh. Khói thuốc lan tỏa trong xe. Người tài xế ngồi trước tay lái vẫn còn chờ ai đó, và rồi, có một người mang đến cho ông ta giấy tờ để xuất bến. Xe nổ máy, tự dưng lòng Thụy nôn nao. Nha Trang- Đà Lạt quãng đường dài hơn 200 cây số.

            Xe lăn bánh. Khi ra khỏi bến, xe còn chạy trên con phố chính đang ồn ào trong cảnh sinh hoạt đầu ngày.

-Gia đình cô ở Đà Lạt ?

-Không, ở đây. Tôi làm việc ở Ty Bưu Điện.

-Tôi có đến đó hai lần nhưng không gặp cô.

-Tôi làm hành chánh bên trong, không ngồi ở guichet.

            Không hỏi gì thêm, Thụy nhìn gương mặt cô gái. Cô không đẹp, nhưng nhìn kỹ thấy rất có duyên. Có vẻ cái nhìn trong mắt Thụy làm cô sợ, vội lên tiếng:

-Tôi có gia đình rồi.

-Tôi vẫn còn độc thân.

            Cô gái im lặng. Nắng lên cao, xe đã ra vùng ngoại ô thành phố. Ngồi ở bên ngoài Thụy đưa mắt nhìn đồng ruộng, quang cảnh vùng quê, tự dưng anh ước ao có một ngày đất nước thanh bình.

            Xe tới một trạm kiểm soát ngừng lại. Người Cảnh Sát đi dọc theo thành xe, mắt nhìn lên. Trên xe, ngoài Thụy ra có một vài thanh niên khác nữa. Viên Cảnh sát hỏi giấy tờ một người, anh ta rút trong ví ra một tấm thẻ và giấy tờ tùy thân. Người Cảnh Sát coi xong trả lại rồi cho xe đi. Đây là chuyến xe khách bình thường không có người đi buôn vì trên trần không có hàng hóa.

            Có những lúc trên đoạn đường xấu xe tránh ổ ga, nhồi xóc,  lắc lư, vai Thụy và cô gái chạm nhau.

-Ông học ở Đà Lạt bao nhiêu năm ?

-Hai năm. Tôi không sinh trưởng ở đó.

-Nghe giọng nói của ông là biết ?

-Cô nói tôi người ở đâu ?

-Huế.

-Không phải. Tôi ở ngoài Quảng Trị, cách Huế gần 60 cây số.

-Ba tôi là người Huế.

-Mẹ cô người Bắc.

-Ông thật tài.

            Hai người chuyện trò, và trong lúc xe chạy, những hành khách quen hay lạ nhau cũng có chuyện nói với nhau cho đỡ buồn.

            Xe tới Phan Rang gần trưa, ghé vào bến cho khách nghỉ uống nước nửa tiếng. Nhiều người xuống, và cũng có người ngồi một chỗ. Thụy và cô gái vẫn ngồi lại trên xe. Cô gái hỏi:

-Ông làm việc ở đâu ?

-Tôi đang ở trong quân đội.

-Tôi cũng nghĩ như thế.

-Tôi ở binh chủng Không Quân, ra ngoài này học khóa chuyên môn. Ít tháng nữa, hết khóa học tôi về Sài Gòn.

-Ồ, ông ở Sài Gòn.

-Vâng.

            Hai đứa nhỏ bán quà rong mời mua nước và trái cây. Thụy  hỏi ý cô gái, xong mua hai  ly nước mía.

            Giọng thân tình, Thụy hỏi:

-Cô được mấy cháu nhỏ rồi ?

            Cô gái cười, hai tay vội vàng đưa lên che miệng để dằn lại sợ cất lớn tiếng.

-Sao ?

-Lúc nãy, tôi nói đùa với ông.

-Tôi ngắm nét duyên của cô mà cô cũng sợ.

-Ông đừng tưởng các cô gái đi một mình là dễ dãi.

            Một cách thân mật tự nhiên Thụy nắm tay nàng rồi buông ra ngay.

-Cô có mang áo ấm theo không ?

-Không.

-Lên đèo trời lạnh lắm.

-Mùa này Đà Lạt mưa.

            Thụy bật que diêm đốt điếu thuốc. Tới giờ xe chạy, hành khách trở lại chỗ ngồi. Tỉnh lỵ Phan rang nằm sát ngay bên quốc lộ. Chừng năm cây số nữa là tới đường rẽ đi Đà Lạt. Lúc này, hành khách trong xe không mấy nghe tiếng ồn chuyện trò. Thụy cố gắng hồi tưởng lại những ngày tháng tuổi trẻ của thời đi học, trong sự gợi nhớ này, anh nhắc thầm tên và tìm đến những hình ảnh thân thương của các cô gái anh đã gặp, và tưởng như lúc này, người nào cũng dịu dàng mở rộng hai cánh tay đón chào anh.

            Thụy vẫn chưa nhìn thấy cuộc chiến tranh. Tin tức trên báo chí qua những bài phóng sự, tường thuật, những sự kiện đó chỉ làm nóng lên trong con người anh sự bồng bột của trí tưởng tượng, xong rồi dịu hẳn. Bây giờ đây, trên đường trở lại Đà Lạt, anh mong được thấy thành phố cao nguyên với hoa đào, đồi thông, sương mù, thành phố thời đi học trước khi  đến một ngày tận mắt anh nhìn ra thấy cuộc chiến.

            Xe đang hướng con đướng đi lên Đà Lạt. Ngồi ở ngoài với từng đợt gió thổi qua, lúc mát, lúc lạnh, bỗng dưng cơn buồn ngủ tới làm mắt Thụy nặng trĩu. Thụy thiếp ngủ, thân người như có ai nhấc bổng.

            Một lúc, tiếng cô gái làm anh choàng tỉnh.

-Ông đừng có cố ý lợi dụng, giả vờ ngủ quên.

            Thụy kịp đưa tay che miệng ngáp và quay mặt thở nhẹ ra ngoài.

-Xin lỗi.

-Ông ngồi thẳng người lại đi.

            Giọng mệt mỏi, Thụy nói :

-Hôm qua, tôi mất ngủ.

            Nói xong, Thụy tựa đầu lên ghế tìm lại giấc ngủ. Thụy ngủ ngon giấc không mộng mị. Và rồi, một cảm giác mềm mại, dịu êm thấm vào tâm hồn anh. Khi anh thức giấc, cô gái nhìn anh mỉm cười, và nụ cười cô gái khiến anh thèm tựa đầu mình lên  chiếc vai nhỏ bé của cô lâu hơn nữa.

-Tới đâu rồi cô ?

-Một cây số nữa, xe lên đèo.

            Thụy ngẩng đầu dậy. Để rửa mặt, anh thò đầu ra ngoài hứng gió. Gió mát đến lạnh và Thụy tỉnh người hoàn toàn.

-Cô đi Đà Lạt mấy ngày ?

-Tôi nghỉ phép hai tuần .

-Nhà cô ở ngay phố.

-Nhà tôi ở gần Bưu Điện.

-Tôi cũng đi phép, lên Đà Lạt thăm lại trường cũ.

-Ông cũng lãng mạn nhỉ.

-Tôi cảm thấy nhẹ nhõm sau giấc ngủ ngon.

-Ông tựa đầu lên vai tôi nặng quá.

-Nhưng tôi chẳng cố ý, phải không ?

-Sao, không.

            Thụy nhìn nàng thật đằm thắm, và mắt anh  đọc được một hàng chữ nhỏ trên cặp mắt của nàng. Cô gái thật có chút từ tâm, dễ mến. Và, Thụy vừa qua một giấc ngủ mềm mại trên vai cô.

            Xe đang chạy trên từng khúc quanh qua đèo Ngoạn Mục. Bên dưới đèo là nhà ga Dran. Sương mù buông trôi, tiếng dòng suối chảy như xa vắng. Từ mỗi quãng dốc, Thụy trông thấy những đám khói từ ống khói ở nhà ga dâng lên. Vừa đón cái lạnh, vừa ngửi hương thơm từ những bông hoa, từ những cây lá quanh núi rừng, Thụy có cảm tưởng mình như là người lữ khách.

            Rồi ánh nắng bừng lên trải rộng một màu vàng lụa bên dưới lưng đèo. Lúc này, xe gần tới Đà Lạt, đang chạy qua đèo Prenn.  Bên đây, đường đèo chạy men theo vách tường núi, bên dưới kia dòng suối là rừng thông. Ai cũng lắng im nghe tiếng hòa nhạc của thiên nhiên qua khung cảnh nắng chiều. Sương mù giăng mắc, và bạn nghe ra được hơi thở của những người từ đâu xa đến đây, hay là kẻ trở về lại nơi miền cao nguyên vẫn là một chốn cũ.

            Bỗng dưng, trong mắt Thụy hiện lên hình bóng Vân Oanh. Nàng thầm hẹn với anh, một ngày đó anh sẽ gặp nàng như ước nguyện.

 

 

 

                                                                XI

 

 

            Những ngày vắng Nguyên, buổi tối Oanh chăm chỉ học bài thi với hai môn quan trọng là Pháp Văn và Triết. Ở môn tiếng Pháp, nàng học rất kỹ các bài luận mẫu trong sách, và cứ mỗi tuần, lấy theo đề hướng dẫn nàng làm riêng một bài luận theo cách viết của mình. Mỗi câu, nàng sử dụng văn phạm bằng các thì thông thường để diễn đạt ý tưởng rõ ràng, không sợ nhầm lẫn. Về Triết, ban C học đủ các môn Tâm Lý, Đạo Đức, Luận Lý, Siêu Hình, Triết Đông, nhưng chính yếu vẫn là môn Tâm Lý cho cả hai phần giáo khoa và luận. Oanh có đi học thêm lớp tối hai buổi ở trường Bán Công, và khi có Nguyên,  đến giờ học nàng chăm chú nghe anh giảng những phần khó trong sách giáo khoa và hướng dẫn nàng làm bài luận. Có nhiều tác giả soạn sách Triết, nhưng Oanh chỉ học sách của hai giáo sư Vĩnh Đễ và Trần Bích Lan. Giáo sư Trần Bích Lan học ở Pháp, về nước năm 1955, ông là nhà giáo vừa là nhà thơ. Nguyên có tặng cho Oanh tập thơ của Nguyên Sa. Đọc hết tập này,  bài nào nàng cũng thích, và thích hơn hết là bài thơ có tên Nga. Khi nghe Nguyên kể bài thơ này được tác giả in trong thiệp đám cưới gởi cho bạn bè, Oanh reo lên tiếng cười nói rộn ràng như đó cũng là ngày vui của nàng.

            Tuy sống một mình trong căn nhà thuê rộng rãi, nhưng Oanh luôn cảm thấy thật dễ chịu. Sau hai giờ học thường lệ như là ở lớp, Oanh để sách lại trên bàn lặng lẽ đứng lên đến mở chiếc tủ lạnh nhỏ tìm một quả chuối và lấy ra chai nước uống.

            Nàng ngồi ăn, trong tâm trí cũng nghĩ ngợi nhiều. Khi nhớ về cô em gái, nàng có cảm giác hai bàn tay nàng mở rộng như một chiếc khăn lớn, và lúc đó, nàng tìm thấy từng món đồ chơi bày biện đấy là những kỷ niệm quí giá trong thời bé dại của  Mỵ Châu. Ngồi bên cạnh cô em gái trong hồi tưởng, hai chị em chuyện trò, và thời gian bên nhau này, hai người cùng nghe tiếng quả lắc đồng hồ treo tường đếm nhịp.

            Rồi, từ hơn một năm qua, hình ảnh của Nguyên tràn ngập tâm hồn nàng. Khi nào có gặp nhau, bên nhau, là hai người cùng mừng vui. Tình yêu làm cho những tiếng nói và niềm vui sáng lên bằng những nụ cười. Có Nguyên, Oanh được thêm một người anh giúp sức che chở Mỵ Châu. Có Oanh, Nguyên tìm ra được ý tưởng thành phố này là nơi chốn thanh bình riêng biệt của hai người. Tình yêu, mình đem ra cho và rồi nhận lấy là hạnh phúc thật tốt đẹp của thời gian. Nguyên luôn nhận ra mình đến với Oanh bằng ánh mắt của nàng. Oanh có đôi mắt rất đẹp, rất buồn, như là màu ánh sáng êm dịu nhất trong buổi chiều. Và, sự xuất hiện của Nguyên, anh thường đến tìm người yêu với bóng dáng một người ở xa trở về dưới cơn mưa tầm tã. Về đêm, mối tình trở nên huyền nhiệm, bao la. Buổi đầu tiên gặp gỡ, hai người ngồi trên ghế đá nhìn ánh trăng đêm tỏa xuống dòng sông. Từ đó, mỗi mùa trăng, hai người luôn có một câu chuyện tình thật là thơ mộng. Và, từ hôm Oanh dọn đến chỗ mới này, những đêm có trăng, Nguyên và người yêu thường đi bộ chuyện trò bằng những tiếng và những lời của ánh trăng sáng, đến tối khuya về nhà, họ ngồi bên nhau một lúc nơi bậc thềm tam cấp trước cửa nhà trước khi rời nhau.

            Ngày lễ trong tháng mười một này rơi vào thứ sáu, như vậy, cộng thêm hai ngày cuối tuần học sinh các trường có được ba ngày nghỉ thoải mái. Vào dịp này, học sinh, sinh viên ở các tỉnh xa thường về thăm nhà. Buổi sáng, Kim đến tìm Oanh với tin buồn là cô sẽ từ giã Huế  theo gia đình vào Sài Gòn. Kim sẽ bắt đầu nghỉ học sau kỳ lễ này, cô hứa với Oanh , sẽ có thư từ liên lạc với nhau.

            Oanh mời bạn đi uống cà phê. Hai người lên xe buýt xuống phố. Có một quán cà phê nhạc gần bờ sông. Cà phê ở quán này rất ngon, không khí thân tình, và giá một ly cà phê rất vừa túi tiền cho học sinh, sinh viên.

            Bên dưới dòng sông, thuyền bè qua lại thong thả. Ở một góc bàn phía ngoài, chỉ có hai cô gái ngồi. Ly cà phê, dĩa bánh bày trên bàn. Oanh lấy một chiếc bánh mời bạn, xong đến nàng. Oanh ân cần hỏi cô bạn về chuyến đi, về nơi chốn ở sẽ đến. Kể ra, đôi bạn cũng khá thân khi gặp nhau từ năm đầu tiên ở trường Mỹ Thuật. Lớp học chỉ có hai mươi sinh viên, và chỉ có hai cô gái, nên chi, họ cần đến sự thân thiện để giúp đỡ nhau. Năm dự bị , môn học chính là vẽ tượng, giờ học môn này mỗi sinh viên lần lượt thay nhau lên đứng làm người mẫu trong nửa giờø để cho các bạn khác được nhìn, quan sát, và vẽ lên giấy. Ít ngày sau trong tuần lễ nhập học, Oanh đã là tên gọi thân thương, và trở nên một bức tranh quí hiếm của trường Mỹ Thuật mà từ trước cũng như về sau này, nơi đây, vẫn chỉ có nàng thôi.

            Ngôi trường và kinh thành cũ quanh đây, khi nàng xuất hiện đã làm thay đổi hẳn. Nàng in dấu lên từng viên gạch những bước chân của nàng. Và, bạn cũng thấy, nàng cho bạn những ý tưởng mới mẻ về sự hòa hợp giữa quá khứ và cuộc sống hiện tại. Những buổi ở lớp học, dáng bước đi của nàng luôn tạo nên một sự yên bình. Vẫn gương mặt đẹp ấy, nhưng mỗi mùa bạn sẽ nhìn thấy khác đi. Trên đôi mắt nhung lụa của nàng, bạn nhớ ra từng chiếc áo dài nàng đã mặc, màu hoa cúc mùa xuân, lan trắng mùa hạ, mây tím mùa thu, và xanh rêu là vào lúc mùa đông về.

            Kim cũng có một đôi nhận xét về Nguyên làm Oanh hài lòng. Và, cô bạn cho rằng, đối với Oanh tình yêu nàng tìm kiếm phải đẹp hoàn hảo như nghệ thuật trong hội họa. Vân Oanh cũng có nói với cô bạn thân về Nguyên, những đặc điểm ở chàng mà nàng yêu thích.

            Ngồi chuyện trò một lúc, hai người rời quán đi dạo phố. Thành phố thật vui vào ngày lễ, dọc phố Trần Hưng Đạo, đông người đi bộ và người ta dựng xe đạp, xe gắn máy sát bên bờ đường. Dọc phố, những cửa hiệu buôn bán nằm sát liền nhau. Kim đề nghị Oanh tới tiệm ảnh để chụp vài tấm hình làm kỷ niệm. Oanh đồng ý đi theo Kim vào trong sudio, hai nàng chụp chung bốn kiểu ảnh.

            Khoảng gần trưa, hai người chia tay. Về nhà, sau bữa ăn qua loa với gói mì nấu Oanh lên giường nằm nghỉ đọc tờ báo Kịch Ảnh. Trên tờ báo này, có rất nhiều bài điểm phim, và phim ảnh là một món giải trí của nghệ thuật Oanh yêu thích nhất. Năm đầu tiên ra Huế, hai cuốn phim để lại cho nàng một nỗi nhớ khó quên, đó là phim Valse dans  l’ombre và Autant en emporte le vent, cả hai phim cùng một nữ tài tử nổi tiếng người Anh Vivian Leidge. Và, bạn biết không nàng tiểu thư Vân Oanh không chỉ có năng khiếu về vẽ, mà còn ở môn Kịch. Nàng diễn rất thành công vai nàng Tây Thi, trong vở kịch Tây Thi gái nước Việt.

            Oanh buông tờ báo thiếp ngủ đi lúc nào không hay. Khi thức dậy, đã hơn một giờ, Oanh thong thả rời giường đi ra nhà sau ngồi xuống bể nước rửa mặt, xong trở lên nhà thu xếp quần áo bỏ vào túi xách. Đi xa, Oanh rất ít mặc áo dài, nàng thường mặc áo sơ mi, quần tây cho tiện việc di chuyển trên xe tàu.        

            Mới đó, đã hai tháng Oanh vắng nhà. Huế –Đà Nẵng, xa cách hơn một trăm cây số, chỉ mất ba giờ xe nên đi về trong ngày rất dễ dàng. Nhưng bạn sẽ luôn có cảm tưởng là hai nơi thật xa nhau, khác biệt nhau khi nhìn thấy biển và những con đèo xuôi về phía Nam.

            Oanh đến Huế một mình. Và, dù biết nàng không sinh trưởng ở đây, nhưng thành phố này đã là người bạn rất thân thương của nàng. Huế, dành cho Oanh mỗi ngày một phong cảnh. Ở từng phong cảnh đó, bạn luôn tìm thấy nàng nổi bật qua bóng dáng chiếc áo dài. Với nàng qua áo tím, mái tóc mượt mà yêu thương ôm ấp trên lưng áo là hình ảnh của những đám mây trở về trong mùa gió. Khi hình ảnh nàng hiện lên trong chiếc áo trắng, bạn như trông thấy rõ trên  con đường nàng đi một mình lung linh bông hoa phượng nở đỏ rợp khung trời. Vân Oanh là tình khúc Hạ trắng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn,  và nàng cũng là của mùa thu với hương vị mùi hoa lan thơm ngào ngạt. Oanh đã góp lại những hình ảnh đẹp của mình rất nhiều. Những hình ảnh này mãi mãi là thời thiếu nữ hạnh phúc của nàng. Bên cạnh mỗi tấm ảnh xếp trong cuốn album , nàng ép một cánh hoa pensée. Nàng mong đợi, tìm ai, yêu ai, bạn chưa hề rõ. Nhưng với Huế, bất cứ  là dòng sông, chiếc cầu, mái nhà, trường học, từng sự vật ấy luôn nhận ra có sự hiện nhữu của nàng.        

            Oanh chỉnh lại sợi dây đồng hồ đeo tay rồi đứng lên. Nàng đóng cửa sau, một thoáng nhìn lướt qua phòng sinh hoạt của mình, nàng đến giường kéo sửa lại chiếc gối để ngay ngắn xong đi ra phòng khách. Vừa mở cánh cửa, nàng trông thấy cả dòng sông đang ngập nắng, phía bên kia ngôi trường, những cửa sổ các lớp đều mở, nhưng bên trên tầng lầu hai các phòng học đều trống vắng. Hôm nay là ngày nghỉ lễ của học sinh.

            Với cái túi nhỏ đeo vai, túi xách cầm bên tay trái, Oanh chậm bước đi ra phía cổng. Nàng dừng lại dưới bóng cây chờ xe. Vừa lúc ấy, từ dưới bến sông có một người đàn bà trẻ ôm thau quần áo giặt đi lên. Nàng biết người đàn bà đó là ai, nhưng không quen thân nên không cất tiếng hỏi chào. Tuy vậy, trong một thoáng, mắt hai người nhìn nhau.

            Có một lần gặp người đàn bà này, Nguyên nói với Oanh :

-Chị ấy là xướng ngôn viên.

-Giọng Bắc hay Huế.

-Giọng Bắc. Những bài anh viết hồi đó, đều là giọng đọc của chị ấy.

            Oanh cười hỏi:

-Khi nghe giọng cô xướng ngôn viên này đọc, anh cảm động không ?

-Anh rất cảm động khi được nghe bài viết đầu tiên của mình.

-Thời anh làm việc cho Đài lâu không ?

-Năm anh còn học ở đây. Thời đó thi tuyển phóng viên, chỉ mình anh đậu.

-Giỏi quá hả.

            Nguyên kể lại hôm dự thi tuyển có mười bạn, đề thi là  tin thời sự về biến cố cuộc đảo chánh 1/11/63 được đọc trong 5 phút, anh  là người viết đầy đủ, vừa các sự kiện cho bản tin, vừa sống động như một bài phóng sự.

            Từ xa, người xích lô thấy một cô gái đứng dưới bóng cây, anh biết nàng đợi xe nên đã tắp vào bên đường khi tới gần. Anh hỏi ngay:

-Đi bến xe nào cô ?

-Bến Đông Ba.

            Khi yên chỗ ngồi, Oanh để túi xách ngay dưới chân. Anh xích lô chợt hỏi:

-Cô về thăm nhà ?

            Oanh cũng hỏi lại khi nghe giọng nói:

-Anh cũng người Quảng ?

-Dạ phải.

-Gia đình anh ở ngoài này ?

-Dạ phải.

            Lên phía cầu, xe rẽ trái và anh xích lô bắt đầu đạp nhanh. Oanh vẫn thong thả để mắt nhìn quang cảnh hai bên đường, bên phải là các công sở, trường học, bên trái là công viên và dòng sông. Trên con đường, những hàng cây nối dài , thẳng tắp. Những lúc sau này, nghĩ nhiều đến Nguyên nên mỗi chuyến về thăm nhà rồi trở ra lại mùa học, Oanh không còn có một ý tưởng của một người biết mình sắp đi xa hay đang trở về nữa. Nguyên đang là một khung cảnh trong ký ức nàng.

            Vừa tới bến, Oanh là hành khách chót lên xe. Và chỉ ít phút sau, xe rời bến. Ngồi bên cửa, Oanh lại nhìn thành phố qua những con đường bên này và bên kia sông Hương. Với hai năm học vừa qua, Oanh đã quen Huế và rất yêu Huế. Nhưng lúc này, Oanh chợt mang nỗi buồn xa cách một người bạn. Lớp học năm thứ hai mười bốn người, chỉ có Oanh và Kim là con gái. Bây giờ Kim đi, chỉ còn mình Oanh và sự thiếu vắng làm Oanh lo ngại. Nàng luôn có cảm giác sợ, dù rằng, trong lớp anh em nam sinh viên tỏ ra rất thiện cảm với nàng. Người nào cũng nhìn nàng với cặp mắt trìu mến, và rất muốn được có sự săn sóc , giúp đỡ nàng. Những buổi học trong lớp, cũng như các buổi học vẽ ngoài trời, khi đi xa, đám coi trai hết sức là lăng xăng ai cũng thích xách giá vẽ và cầm hộ cho nàng các thứ dụng cụ khác để nàng được đi thảnh thơi, được chuyện trò một cách thoải mái. Cố nhiên, vẻ đẹp của nàng, anh nào cũng mong có một chỗ ẩn núp trong cặp mắt, trong con tim của nàng. Và bạn đừng có tưởng cô Vân Oanh chỉ là một cô gái dịu dàng, e thẹn đâu, cô cũng có sự đùa giỡn , chuyện trò rất thông minh, và thật dí dỏm trong những câu trả lời với bọn con trai yêu thích, tán tỉnh mình. Đến các ông thầy trẻ, cũng yêu mến nàng, và khi vẽ tranh chân dung, các vị này luôn vay mượn người mẫu là nàng để vẽ. Nhưng ai cũng biết, người yêu của nàng là Nguyên. Những người thầy dạy vẽ ở trường Mỹ Thuật đều là những người bạn thân của Nguyên. Và, họ cũng nhận ra rằng, cặp tình nhân Oanh và Nguyên rất đẹp đôi. Huế, thành phố của giới trí thức khoa bảng,  nhưng không hẳn rằng các cô gái của thế hệ mới ở đây, dễ bằng lòng đón nhận cuộc hôn nhân với những người có bằng cấp, hay giàu có của cải, vật chất. Nguyên không có bằng cấp Đại Học, nhưng trong quân đội anh là Sĩ quan trẻ rất xông xáo, nhanh nhẹn, trước khi nhập ngũ anh tạo được tên tuổi mình là một ký giả có tài năng và nhiều kinh nghiệm.

            Trên chuyến xe đang chạy, ngồi bên cửa nhìn ra mỗi cảnh vật hai bên đường, Oanh cảm thấy như qua từng phút giây cuộc đời của nàng có những đổi thay lạ lùng, lúc nó đến như một phép thần tiên, lúc nó chợt hiện lên một bóng đen kỳ lạ gây cho nàng nỗi lo âu về ngày mai.

            Oanh vẫn lo âu khi nghĩ về Nguyên. Nỗi lo ấy, đầu tiên là về mẹ nàng. Người mẹ nào cũng hết lòng lo lắng cho con, muốn rằng, con mình được chỗ nương nhờ tốt đẹp. Người mẹ nàng từ lâu nay, đã gặp nhiều người đến mai mối, dạm hỏi con gái của bà cho những người con hoặc bà con của họ. Những người trẻ này về học vấn và công danh thực sự thành đạt , đó là Bác sĩ, Kỹ sư, Dược sĩ, Giám đốc ngân hàng,  không có ai trong đó là quân nhân cả. Nhưng đấy  là về danh vọng và vật chất, về tình yêu, hẳn quan niệm của bà khác hẳn cô con gái. Oanh biết mình có nhan sắc, nàng có thể lấy chồng giàu sang và được sống, được chiều chuộng  như bà hoàng, nhưng nàng không mong, cũng chẳng màng một hạnh phúc quá dễ dàng như vậy. Nàng và Nguyên quen nhau trong một sự tình cờ ngộ nghĩnh ở quán cà phê, và anh đã yêu nàng, bằng tình yêu thật đơn sơ , chân thật. Và, những ngày tháng đã qua rồi, Nguyên dành cho Oanh được một tình cảm vừa là của một người tình, vừa là sự gói ghém một quê hương trong đó nữa.

            Oanh chợt có cảm giác khí lạnh thấm vào người nàng khi xe lên đèo. Và chuyến xe nàng đi là qua cổng trạm dưới đèo sau cùng nên khi lên tới đỉnh đèo, chỉ sau 5 phút ngừng đơi, các chuyến xe lên chót theo đoàn xe lên trước cùng lúc khởi sự đổ đèo.

            Xe đổ xuống từng đoạn dốc đèo thật êm và ngon trớn. Trong xe, hành khách quen lạ cùng lúc nổi lên tiếng chuyện trò râm ran. Và, ngước nhìn qua vùng sáng của mây và nắng giữa bầu trời, phía nơi đó, mọi người đều biết đó là thành phố Đà Nẵng. Rồi tiếng nhạc trong radio vang dậy nghe thúc dục, rộn rã niềm hân hoan, riêng với Oanh, lúc này lòng nàng vui và tưởng như bao nhiêu người thân của gia đình đang ngồi ở quanh nàng.

            Rồi con đường chính của thành phố hiện ra, xe bắt đầu giảm bớt tốc độ. Xe ngừng hẳn ở bến đậu. Bên ngoài bến xe, nắng chiều đang lan rộng, tiếng ồn ào trên bến, tiếng máy xe nổ va chạm nhau, lúc vang xa, lúc nhỏ lại.

            Sự tình cờ Oanh gặp anh Kiêm.  Anh lái xe nhà binh đưa một người bạn đi chuyến xe về Sài Gòn. Gặp Oanh, anh rất ngạc nhiên, và rồi sau khi chia tay với người bạn, anh bảo  Oanh lên xe đưa về nhà. Anh Kiêm là người con bà dì Thuận, chị đầu của mẹ nàng.

            Từ bến xe về nhà Oanh nằm trên phố chính đường Hùng Vương không đến mười phút. Khi xuống xe, Oanh mời ông anh họ vào nhà chơi, nhưng anh Kiêm có việc phải trở lại đơn vị.

            Bên trong nhà, Mỵ Châu đang nghe bản nhạc tình cổ điển bỗng vui lên khi nghe tiếng chịVân Oanh , cô biết ngay, người chị yêu dấu của cô đã về thăm nhà. Bà mẹ nói:

-Má tưởng mai con mới vào ?

-Hôm nay là ngày lễ nên con vào sớm.

            Vân Oanh đi với mẹ vào thăm Mỵ Châu. Vừa trông thấy chị và mẹ, đôi mắt Mỵ Châu mở tròn xoe. Mời bạn tới đây gặp Mỵ Châu, nhìn cô gái đôi mắt mở to, gương mặt dịu hiền, bạn cứ ngỡ cô bé là thiên thần.

            Vui và cảm động khi gặp lại cô em gái, Oanh khóc. Mỵ Châu cười:

-Chị Vân Oanh về nhà là em vui. Chị đừng khóc.

            Với nụ cười còn thấm ướt nước mắt, Oanh tới gần ngồi xuống bên Mỵ Châu.

-Em nghe nhạc ?

-Em mới nghe được bản Chiều tà thật hay.

-Chị rất thích bản này.

            Rồi Oanh mở túi xách, lấy ra những thứ quà mua ở Huế.

-Ngày mai chị có đi đâu không ?

-Không, chị luôn ở bên em .

-Ngày mai em ngồi xem chị vẽ tranh.

            Oanh gật đầu, nàng vội đứng lên kéo bức màn nhìn qua phòng vẽ của nàng. Tất cả đều được giữ nguyên. Căn phòng này dành riêng cho Mỵ Châu vàVân Oanh . Hai chị em bên nhau để có những lời tâm tình. Và, mỗi ngày, Mỵ Châu đều có mẹ vào thăm.

            Ngồi với em một lúc, Oanh lên nhà trên gặp ba nàng đang chơi cờ tướng với một người bạn. Nàng lên tiếng chào, sau đó đi về phòng mình.

            Bữa ăn tối, có Oanh về cả nhà rất vui, trò chuyện râm ran. Rồi tiếng bà mẹ hỏi:

-Cậu Nguyên lúc này ra sao ?

-Dạ, anh đi công tác. Có đoàn văn nghệ ở Sài Gòn ra trình diễn cho lính tiền đồn.

-Cậu  có hay về thăm con không ?

-Dạ có, anh về luôn, đang giúp con học luyện thi.

-Học cả hai bên có thì giờ không ?

-Có. Những tối không trực, anh Nguyên về giúp con học bài.

            Ngừng một lát, Oanh tiếp lời:

-Anh rất muốn con lên Đại Học để lấy chứng chỉ. Khi ra trường đi dạy, ngoài môn vẽ ra, con có thể dạy thêm những môn khác nữa.

            Bên kia bàn, hai cô em của Oanh đang chuyện trò sôi nổi về một cuốn phim vừa xem ở rạp Thanh Hoa. Đó là phim chưởng Tiếu Ngạc Giang Hồ phỏng theo tiểu thuyết Kim Dung. Loại tiểu thuyết này, Oanh và Nguyên đều không đọc. Vốn yêu thích tiểu thuyết nhẹ nhàng, Oanh là độc giả trung thành của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Hai nhân vật Oanh yêu thích là Loan ở cuốn Đôi Bạn và Thu trong BướmTrắng. Nhưng hay nhất, với Oanh, vẫn là cuốn Hồn Mướm Mơ Tiên.

            Sau bữa ăn tối , trong nhà đi nghỉ, chỉ mình Oanh ngồi nói chuyện riêng với bà mẹ. Một cách nhẹ nhàng, bà mẹ thông báo :

-Ông bà Hiếu tới đây chiều hôm qua.

            Oanh đáp lời ngay:

-Ông bà Hiếu đến thăm gia đình là hảo ý của họ. Nhưng chuyện của con, má đừng để họ bàn tới.

-Đó là gia đình bề thế mà con.

            Oanh nói:

-Con biết. Anh Nghĩa con trai của ông bà Hiếu là Bác sĩ. Rồi bà Châu, lại cho người mai mối với mẹ xin con cho ông Dược Sĩ. Đâu phải có địa vị và bằng cấp đem lại hạnh phúc cho con.

-Nhưng cuộc sống con sẽ được đảm bảo, bà mẹ nói.

-Rồi đây, con cũng phải đi làm để sống chứ đâu nhờ vả ai được.

-Oanh, má rất muốn con nghe lời má.

-Không bao giờ con dám cãi lời má. Nhưng cho cùng, con vẫn thấy anh Nguyên và con rất hợp tính tình với nhau. Với lại, con đang học, đến năm sau mới ra trường.

            Người mẹ nhìn con gái của mình. Hình ảnh cô con gái yêu đã làm bà nhớ lại nhiều, rất nhiều kỷ niệm giữa bà và người chồng bây giờ. Ngày xa ấy, ở một ngôi trường trung học thành phố Hội An, ông Tri, từ miền Nam ra đến trường bà đang dạy nhận nhiệm sở. Và, trong buổi đầu tiên gặp ở văn phòng giáo sư, ông Tri đã bị tiếng sé tình ái trước một vẻ đẹp duyên dáng của bà Thu. Ngồi ở bàn khách trò chuyện, ông Tri uống chén nước trà của bà Thu  mời. Cử chỉ lịch thiệp và vẻ đoan trang của bà làm ông Tri cảm mến. Ly nước trà, lúc đưa lên miệng uống mắt nhìn qua bà Thu, ông cảm thấy hương vị trà thật thơm.

            Đã khuya, hai mẹ con chia tay về phòng nghỉ. Oanh còn đọc sách trong đêm khuya đến hai giờ sáng.

            Về với gia đình, không khí thật ấm cúng, nhất là những gì Oanh làm em Mỵ Châu vui bên mình. Nhưng ngày nghỉ rồi cũng qua nhanh.

            Trưa chủ nhật, sau bữa ăn Quỳnh lấy xe gắn máy đưa chị Vân Oanh ra bến xe đi Huế.

            Nàng trở lại căn nhà trọ của mình, xa lạ một chút, nhưng rồi trở nên quen như mọi ngày.

            Nguyên rất nhớ đến Oanh, anh đang mong ngày về. Năm đêm trình diễn của đoàn hát Sài Gòn rất thành công, tạo được ấn tượng tốt. Mỗi Tiểu đoàn được xem một đêm trình diễn đủ các thể loại ca nhạc kịch, rất vui, sống động, và anh em văn nghệ rất sung sướng cảm động trước tình nghĩa của vị Tiểu đoàn trưởng và binh lính. Những cái bắt tay ấm áp, những bức ảnh chụp với của một vài người lính với các ca sĩ mến mộ, những câu chuyện về chiến trường, những bài nhạc và tiếng đàn cùng hòa nhịp, bao nhiêu đó, đoàn hát chất đầy kỷ niệm tình yêu thương của những người lính ngoài chiến trường. Sau các buổi dành cho lính, đoàn cũng dành một buổi hát cho dân làng, và tập trung ở một địa điểm sân vận động nằm trung tâm các làng Hải Phượng, Phong Hoa, và Yên Hồ. Từ trẻ em đến các cô gái, những người mẹ, cả những người già đều cảm thấy vui, hạnh phúc được một đêm nghe hát. Mỗi bài hát kết thúc, tiếng vỗ tay vang dội cả góc trời, và rồi từ rừng núi bao quanh, gió thổi những âm vang ấy trôi giạt về gây một nỗi nhớ thật thương yêu, đậm đà. Và, đến những màn kịch vui, ai cũng cười chết bỏ.

            Nguyên luôn là người ra đứng trước máy vi âm nói lời giới thiệu trước khi đoàn hát khởi sự cho chương trình với đề tài Hát cho những người lính và những người dân vùng hỏa tuyến. Những lời mở và khép của Nguyên rất là cảm khái, tất cả  khán giả đều lắng nghe. Ở đêm chót hát cho dân làng nghe, đứng ở bên ngoài, nhìn bóng dáng, những khuôn mặt người dân hạnh phúc với đêm vui trong giá rét, Nguyên chợt nghĩ đến Oanh và cảm thấy yêu nàng, nhớ nàng hơn lúc nào hết. Oanh là hình ảnh của một tiểu thư, đã quen sống với thành phố, nhưng Oanh là một cô gái có tấm lòng rất là nhân hậu. Nguyên không những yêu thích vẻ đẹp duyên dáng của Oanh qua hình ảnh dịu dàng của một thiếu nữ, mà anh yêu thích hơn hết là cái vẻ buồn vui hòa dịu thật đẹp trên cặp mắt của Oanh. Oanh cũng có một giọng nói nhẹ, rất êm ái, và qua cách diễn tả một câu chuyện, giọng nói của nàng nghe như đó là sự dỗ dành, sự ràng buộc các mối liên hệ trong cuộc sống. Và rồi Nguyên tự nhủ, ngày về, Nguyên sẽ kể lại hết cho người yêu mình nghe về một chuyến đi theo đoàn hát.

            Từ tiền đồn, có bốn chuyến bay trực thăng đón phái đoàn nhưng hầu hết anh em nam nữ nghệ sĩ  muốn được đi bằng xe nhà binh trở về Huế theo đường bộ. Anh em cùng nói, họ muốn được nhìn thấy quang cảnh những đường đèo, những núi đồi nơi các đơn vị đóng quân lính,  và các làng mạc nằm ven những vùng chiến trận.

            Vì là đi xe, thời gian mất khá lâu kể cả có những lúc dừng lại cho đoàn ngắm cảnh và chụp hình lưu niệm. Về đến Huế đã chiều, Nguyên thay mặt đơn vị mời cả đoàn đi ăn cơm Huế, giải trí một đêm vui,  rốt cùng, thật nặng lòng với Huế , và nhớ Huế đau thương trong cuộc chiến tết Mậu Thân, nên đoàn đồng ý ở lại thành phố lưu diễn một đêm ca kịch ở nhà hát Hưng Đạo, sau buổi diễn này, đoàn thực sự kết thúc chuyến đi.

            Khi nhận được hảo ý của đoàn, đài phát thanh Huế cho loan tin, rồi những biển  quảng cáo treo đầy trên các đường phố và giá vé vào cửa được bán chia làm ba hạng, hạng danh dự, hạng nhất, và hạng bình dân.

            Nguyên đã trở về nhà. Anh trích số tiền lương đưa cho mẹ, và cho mấy đứa em vé đi coi hát.    

            Tối hôm ấy, Oanh trang điểm thật kỹ, trong lúc ngồi đợi, Nguyên mở những tập vở và sách học của Oanh ra xem. Vừa trang điểm, vừa nhìn khuôn mặt mình hiện bên trong tấm gương Oanh mỉm cười thích thú. Nàng biết mình đẹp, và nàng cũng đã có một người yêu xứng đôi với mình. Những bức ảnh chụp hai người bên nhau, bạn bè xem, ai cũng khen là rất hạnh phúc. Nguyên chợt lên tiếng:

-Anh có nhờ Thụy mua cho em cuốn Tìm hiểu hội họa.

-Em mới nhận được sách sáng nay.

-Vậy à.

            Cuốn sách để trên kệ, Nguyên với tay lấy xem và anh thấy có lá thư của Thụy gởi cho Oanh nữa.

-Để em gởi tiền lại cho Thụy .

-Em đừng gởi. Coi như  nó mua tặng cho em.

-Có thư  Thụy gởi đó, anh đọc đi.

            Thư viết ngắn, chỉ vài dòng. Nguyên đọc xong thư , nói:

-Em anh, bề ngoài tuy khô khan nhưng rất có tâm hồn.

            Oanh quay lại nhìn Nguyên. Trong thoáng ấy, nàng mường tượng người em cũng giống Nguyên, cùng lúc, nàng đang muốn chọn lựa màu áo nào thích hợp với đêm nay đi dự buổi ca nhạc.

            Oanh trang điểm xong rồi đi thay quần áo. Nàng mặc áo dài tím, khoác ngoài chiếc áo vareuse nhung màu hạt dẻ.

            Nguyên ngắm nhìn khuôn mặt kiều diễm của Oanh, trong lặng yên, đôi mắt anh như là ánh sáng buổi chiều trên dòng sông.

 

 

 

 

                                                               XII

 

 

           

            Thụy ở chơi Đà Lạt đúng một tuần lễ. Anh trở lại thành phố này, trong niềm nhớ và sự xúc động anh tìm thấy lại bóng dáng mình và những kỷ niệm cũ thật là đẹp, dễ thương. Trong tháng ngày lãng mạn ấy, anh nhớ đến Thùy, nàng đưa anh trở lại khu phố cũ có căn nhà của nàng. Rồi hôm ấy, một buổi chiều thứ năm học sinh chia nhau vé đi bán coi xuất phim Toute la ville dance để gây quĩ cho trường. Trên đường Hai Bà Trưng dài và xa lên tới tu viện  Domaine de Marie, từng nhóm học sinh mỗi lớp cùng đi trên đường này, vừa chuyện trò, đùa giỡn rất là ồn vui. Bỗng nhiên, nhìn tới phía trước xa có đám nữ sinh đang đi, Thụy bỗng nhận ra Thùy qua chiếc áo dài tím. Nàng đi giữa, và cùng các cô bạn của nàng nắm tay dang rộng choán hết cả mặt đường. Trời mưa bụi, áo tím của Thùy trong mưa mỗi lúc nhòa mờ đi, nhưng đó cũng là lúc Thụynhận ra dáng đẹp của Thùy. Về đây, Thụy cũng tìm trở lại căn gác học sinh nằm ở tầng gác ba, nơi đó, anh ở cùng với nhiều bạn lưu học sinh từ  các nơi xa đến. Mỗi một thứ có trong kỷ niệm thuở ấy, giờ gợi nhắc, bỗng dưng Thụy có chút se lòng, nhớ thương cho một niềm an ủi.

             Lăng và Thụy vượt ra mối liên hệ anh em bạn dì, còn là đôi bạn thân. Anh Nguyên, Lăng và Thụy ba anh em chỉ chênh lệch nhau một tuổi. Nhưng vì đã sống cùng chung những ngày thơ ấu ở quê ngoại nên ba người có sự gắn bó rất lâu dài. Lăng chăm học, trầm lặng, ít biểu lộ  tình cảm, nhưng sẽ có một ngày, Lăng nói ra hết những chuyện riêng tư của mình. Về phần Thụy đôi lúc có sự bồng bột, vụng về, nhưng bản tính chân thật, nên anh luôn có sự tự tin về con người của mình. Thụy  đã kể nhiều chuyện cho Lăng nghe, và Lăng rất hiểu bạn qua mỗi câu chuyệnriêng của mình.        

            Trên đường Duy Tân, hai người đi bên trái vỉa hè đang vượt quãng dốc. Và, con đường này lại nhắc nhở Thụy nhớ đến Thùy. Buổi sáng, vào những giờ học muộn từ trường Thụy đi bộ lên tới khu thương xá chợ Hòa Bình, đứng đó đợi không lâu thấy Thùy xuất hiện, rồi hai người bên nhau cùng đến trường. Thật là ân tình trong nắng ấm, trong màu cây lá xanh tươi, ảnh hình đó đã giúp cho đôi lứa tìm ra được những câu chuyện vui, những lời tỏ tình thật ý nhị, dễ thương.

-Ở xứ người có trồng cây phượng tím, Thùy biết không ?

-Không.

-Ngày nào đó, ở một nơi xa của xứ người, nhìn thấy cây này Thùy sẽ nhớ đến người bạn cũ.

-Không chắc đâu, nàng cười nhẹ và đôi mắt nhìn xa hơn.

            Mỗi ngày luôn có hai buổi học, và trước khi đến giờ học chiều một tiếng, từ trường Thụy lại đi bộ lên chỗ hẹn đón Thùy, rồi đôi bạn vẫn bên nhau, cho đến khi cảm thấy sự yêu thương và thân thiết đã thấm vào lòng , thì giọng nói như đang bước chập chững, ngập ngừng, tưởng chỉ còn nghe nhịp tim đang qua trong hơi thở.

            Bên dưới con dốc, nhìn về phía bên trái là ngôi trường có một dãy nhà dài và sân chơi rất rộng. Xa hơn nữa, bên kia chiếc cầu là sân vận động của trường, khu sân này nằm bên cạnh đường Hai Bà Trưng vừa  trông ra con đường Calmette đi lên khu đồi bệnh viện, nơi ấy, nổi bật sáng lên một tòa nhà màu ngói đỏ.

            Thụy vui chuyện kể lại cho Lăng nghe, người bạn cười hiền hậu. Một lúc sau, với những suy nghĩ về cuộc đời, Thụy nói:

-Tôi chưa viết ra được những kinh nghiệm của con người về cuộc đời. Tôi chỉ mới viết những rung động của mình trong cuộc sống từ thời niên thiếu đến lúc này, nhưng đây là sự rung động chân thật, với những mầm hạt này một ngày kia tôi tin rằng nó sẽ mau lớn. Đường đời hay dòng đời tự nó sẽ chuyển biến, thay đổi cuộc sống ngay từ khi mình khởi sự cất bước. Qua ý nghĩ đó, tôi nhận ra sự hiện hữu về đời lính của mình.

            Rồi, anh lại tiếp lời:

-Ít ra, tôi cũng ở trong quân đội đến mười năm.

-Anh không xin đi học Sĩ quan.

-Cũng có ý định đó. Tôi vẫn mong đậu được bằng toàn phần rồi xin đi học ngành kỹ thuật.

-Năm tới, anh có thi không ?

-Có. Thời gian học của tôi ít quá, và không ổn định.

            Bến xe nằm bên trên thương xá Hòa Bình, từ chỗ đó, nhìn bao quát thấy cảnh sinh hoạt chợ, các khu phố xa gần, và nhìn về phía rừng trông thấy mặt hồ nước và những hàng cây trồng quanh hồ. Hai năm ấy Thụy  ở Đà Lạt, năm nào, ở quanh hồ cũng có những ngày lễ hội và tổ chức cuộc đua xe đạp.

            Bến xe còn trống vắng, chưa đông khách tới bến. Nhìn lướt qua rồi cả Thụy và Lăng tìm quán ăn sáng gần đó. Hai bạn vào quán, gọi bánh cuốn và cà phê.

            Quán ăn bình dân bày những bàn ghế thấp. Ngồi ở chiếc bàn ngoài gần lối đường đi, trong một vài giây im lặng, Thụy cảm thấy một nỗi buồn vô cớ cho mình. Với nỗi buồn ấy, Thụy  chợt nghĩ đến một bóng hình thiếu nữ.

            Người chạy bàn mang bánh cuốn và cà phê ra cùng một lúc đặt trên chiếc khay và bỏ xuống bàn.

            Khi cầm đũa ăn, Thụy hỏi:

-Lăng dạy bao nhiêu giờ một tuần ?

-Mười sáu giờ ?

-Mấy môn.

-Hai môn. Việt Văn và Công dân.

-Năm tới, xong Cử nhân có đi học tiếp không ?

-Tôi chưa biết. Có thể tôi qua thi bên hành chánh.

-Chọn ngành này là đúng. Làm luật sư, có tiếng nhưng cũng khó khăn.

-Tôi không ra Luật sư. Tập sư ba năm, lâu dài lắm.

            Bữa ăn sáng ngon miệng, một dĩa bánh vừa đủ no. Thụy  ăn nhanh, cầm thìa khuấy sữa trong cà phê và uống một hớp trước khi đốt điếu thuốc. Một giọng vui, Thụy  nói:

-Hồi đi học, tôi bị một trận đòn vì hút thuốc.

-Ở trường, bây giờ vẫn cấm học sinh hút thuốc.

-Tại sao Lăng không tập hút thuốc.

-Tôi có thử một lần, bị sặc khói, sợ quá nên thôi. Với lại, tôi yếu phổi.

            Khói thuốc nhẹ nhàng tan. Nhìn Lăng, Thụy có một ý tưởng thầm kín. Giọng thân tình, anh hỏi:

-Cô Bạch Lê tặng sách là bạn học cũ ?

            Lăng nhìn lại Thụy dò xét, rồi nói:

-Bạch Lê dạy học ở đây, trường Bùi Thị Xuân.

-Tôi có đọc cuốn thơ Tâm Tình Hiến Dâng.

-Cô tặng cho tôi. Bạch Lê bạn học cùng lớp ở Quốc Học.

            Vừa gợi nhớ, Lăng vừa kể cho Thụy nghe lần đầu tiên gặp cô bạn học cũ ở thành phố này.

-Quà kỷ niệm của tuổi trẻ, lúc nào cũng là những cuốn sách, tập nhạc.

-Bạch Lê hát rất hay, giọng hát ngọt như Hà Thanh.

-Cô cũng người Huế.

            Lăng gật đầu. Ít nhiều trong câu chuyện Lăng kể, Thụy hiểu. Ngồi không lâu, hai bạn rời quán, đi xuống bậc cấp con đường dốc tới bến xe. Bến xe đông người, và có nhiều tuyến đường. Khi Thụy lên xe, Lăng còn đứng ở dưới nói chuyện với anh. Bỗng nhiên, cả hai cùng hẹn một kỳ nghỉ hè về thăm gia đình. Và, qua ý tưởng đó, Thụy nhớ nghĩ nhiều đến anh Nguyên, và cũng vừa cách đây chừng tuần lễ anh đã gởi một lá thư cùng cuốn sách cho Vân Oanh.

            Với những giây phút còn lại dành cho mình hạnh phúc về thành phố có một thời mình đã sống, Thụy bỗng nhận ra rằng, mỗi thành phố là một câu chuyện tình . Thế nhưng, anh không hề mang tâm trạng của một nhân vật tiểu thuyết.

            Có tiếng còi xe của người tài xế và thằng lơ xe vừa cất tiếng báo cho hành khách.

-Anh Thụy đi nghe.

-Ờ, đến hè gặp lại ở Sài Gòn.

            Xe vừa lăn bánh. Sau cái bắt tay, hai bạn còn đưa tay vẫy chào tạm biệt. Từ bến, xe chạy xuống phía bờ hồ rồi đổi đường chính đi ra ngoại ô.

            Đến quá trưa, xe về tới Nha Trang. Thụy  ghé quán ở trong khu chợ  Đầm ăn cơm trưa,  xong đi bộ về quân trường.

            Khi Thụy trở lại , số khóa sinh đến học đã khá đông nhưng chưa đủ. Vừa gặp lại các bạn tân binh cũ, lòng Thụy rất vui, anh em ngồi tụm năm tụm ba chuyện trò, kể lại những ngày những tháng đi ra đơn vị làm việc. Mỗi đứa mỗi chuyện, chuyện nào cũng thú vị. Và, nếu như đem góp lại những chuyện này mà viết nên hồi ký, bạn đọc sẽ nhận ra đó là cuộc sống thật tầm thường, nhưng vui và chân thực của những người lính trong thời kỳ chiến tranh.

            Thượng sĩ Trạch là người phụ trách nội vụ khóa sinh. Mỗi ngày, ông đều đến để điểm danh và kiểm tra vệ sinh doanh trại. Ông rất hài lòng vì anh em giữ gìn sạch sẽ trong và ngoài. Tối đến, có thể bừa bộn chỗ ăn ở, nhưng buổi sáng và trưa, nơi mỗi giường các chăn màn đều gấp nếp để ngay hàng thẳng lối.  Thường khi đến, viên Thượng sĩ trò chuyện với anh em, cho họ biết về lịch sử của quân trường, của binh chủng Không quân qua mỗi đời Tư lệnh, và những ngành nghề kỹ thuật ở Không quân. Một vài anh em hỏi về chỉ số ngành trong khóa học của mình, ông trả lời vắn tắt đây là ngành điều không ngoài mặt trận, và cho biết thêm, học xong ở đây, anh em sẽ về hết Sài Gòn và học thêm một khóa hai tuần nữa về các loại máy truyền tin. Như vậy, thời gian hoàn tất khóa học chuyên môn sẽ là bốn tháng.

-Bằng chuyên môn, phụ cấp được bao nhiêu Thượng Sĩ ?

-Bằng các anh, phụ cấp 400.

-Sure không Thượng Sĩ.

-Tôi nói mà các anh không tin à?

-Hoàn toàn tin tưởng.

-Chúng mày có biết lính không quân còn sướng hơn là quan nữa. Chữ thọ 100%.

-Nhưng mà nghèo, chẳng khá gì.

-Đừng có ham nghe các con.

            Với cái tuổi đi lính còn non choẹt, đám trẻ ăn nói văng mạng, nhưng vẫn còn là hình ảnh của những ngày tháng thơ ngây. Thượng Sĩ Trạch cũng đã có con trai lớn học ở trường trung học , nên chi trò chuyện với lính ông hay gọi thân mật là mày tao, có khi gọi chúng là các con của bố, và những lúc vui chuyện hả hê ông cười hết sức thoải mái. Ngày nào ông cũng đến, nên tình thân anh em khóa sinh với ông, bao gồm nhiều ý nghĩa. Khi ông đến, tụi trẻ mời thuốc ông hút, có lúc ông mời lại anh em, và khi có báo Lý tưởng về, ông mang tới chừng chục cuốn tha hồ chia nhau đọc.

            Một hôm, đem báo đến, ông Trạch tìm Thụy hỏi:

-Truyện ngắn đăng trong này có phải là mày không ?

-Đúng, thượng sĩ.

-Mày  có viết văn ?

            Thụy  kể lược qua thời gian được cộng tác và làm việc ở báo Lý tưởng. Thụy nhắc đến anh em trong tòa soạn, và cho ông Thượng sĩ hay, hết khóa học ở đây, rất có thể Tòa Soạn kéo anh về làm việc như cũ.

            Nhìn Thụy, ông nói:

-Hôm nào, tao  kể chuyện về đời quân ngũ của tao  rồi mày viết lại nghe.

-Vâng. Có dịp, Thượng sĩ kề chuyện cho nghe.

-Hay hơn hết là một buổi chiều vắng vẻ ngồi trong quán cà phê.

-Bên ngoài trời có mưa không ?

-Có mưa, chuyện càng hay.

-Vậy thì đợi một ngày mưa, buổi chiều bắt đầu với vẻ buồn nhớ và đẹp.

-Mày thật có tâm hồn nghệ sĩ .

            Một giọng vui, Thụy hỏi:

-Thượng sĩ có con gái không ?

-Có, nhưng còn nhỏ.

-Cô bé học lớp mấy ?

-Đệ Thất .

-Xinh không ?

-Mày thấy tao được trai không ?

-Rất là phong độ.

-Mày không biết, tao có dính một em đầm bên tây.

-Thượng sĩ đã qua Pháp học ?

-Mày tưởng tao là ổ mì hả. Bố đi qua Tây hồi năm 51, con ạ.

-Bố học ngành gì ?

-Cơ khí.

-Ở trường nào ?

-Trường Rochefort.

-Tôi nghe tiếng trường Salon.

-Trường đó là của Sĩ quan.

-Ờ, ờ của Sĩ quan. Nhưng đã nhảy chuyện hơi lung tung, hỏi thăm cô bé .

-Sao, mày muốn sao ?

-Ra nhà Thượng sĩ thăm.

-Dễ dàng con ơi. Nhưng mày cũng nên gắng lấy cái bằng Tú tài.

-Em có Tú Tài I rồi, được không ?

-Cố lên.

-Vậy là chờ cô bé lớn là được phải không ?

-Ông già mày đây.

            Thụy cất tiếng cười thật lớn. Ngày hôm sau, có niềm vui khôn tả đến với anh, đó là lá thư của nàng Vân Oanh gởi đến

            Huế , những ngày thu

            Thụy thân mến,

            Có ngạc nhiên lắm không khi nhận được thư này?  Chắc là không, vì khi Thụy đã gởi cuốn sách Tìm Hiểu Hội Họa đến cho tôi, thì hẳn nghĩ rằng, thế nào tôi cũng phúc đáp thư củaThụy .

            Cám ơn Thụy đã tìm ra được cuốn sách mà mình vẫn mong. Theo gói bưu kiện sách tới tuần trước, nhưng bận chuyện học nên đến hôm nay mới có được buổi rảnh viết thư này để cám ơn người bạn rất dễ mến ở xa.

            Anh Nguyên nhắc đến Thụy luôn. Anh ấy thật là yêu thương, nồng ấm khi nói cho mình nghe về người em trai của anh. Anh tả Thụy qua hình dáng và nói đến tính tình, nói về tâm hồn  làm mình cảm thấy mến, có thể hình dung ra Thụy , một người lính Không quân hào hoa, luôn có được nhiều thì giờ nhàn rỗi để đi dạo phố buổi chiều sau giờ làm việc, và một người cũng đào hoa, quen rất nhiều cô gái. Và, hễ quen được cô nào, thì cô ấy trở thành nhận vật trong truyện của Thụy. Anh Nguyên có vẻ rất hãnh diện về Thụy.

            Ngày đó Thụy về phép hai tuần lễ, thật là tiếc mình không ở Huế vào thời gian đó để được anh Nguyên giới thiệu cho gặp một văn sĩ trẻ, bút hiệu TL.

            Dù chưa gặp Thụy, nhưng một số truyện ngắn Thụy viết ra, mình có đọc. Truyện Thụy viết thật nhẹ nhàng mình rất thích, và qua lối kết cấu cùng văn phong mình nhận thấy truyện Thụy viết có sức truyền cảm người đọc. Lời khen thực tình đó nghe, không phải vì bạn tặng cho cuốn sách mà mình đáp lễ bằng lá thư hân hoan này để làm quà đâu.

            Hẳn chẳng cần nên  phải giải thích nhiều, nhưng chắc Thụy cũng biết mình và anh Nguyên quen nhau và hai người đã  có một thứ tình cảm đặc biệt trong sự cho và nhận một cách rất chân thành.

            Hôm ấy mình trở ra Huế, nghe anh Nguyên cho hay Thụy có về thăm nhà. Kỳ nghỉ phép vừa qua chắc vui lắm phải  khôngThụy, rất tiếc mình và bạn không gặp nhau, nhưng ở phong cách người lính hào hoa trong binh chủng Không quân thì thế nào Thụy cũng gặp các cô gái Huế, mà chỉ cần gặp bằng mắt, nói bằng mắt thôi là nhà văn yêu mến của tôi dựng nên thành truyện rồi. Đó chính là cuộc sống lãng mạn của người nghệ sĩ.

            Mùa thu đang làm cho cảnh vật trở nên buồn, nhưng rất đẹp. Huế trong mùa thu, những buổi sáng sớm trời lành lạnh và có sương mù bao phủ trên sông. Với địa chỉ anh Nguyên cho mà Thụy gởi sách, đó là căn nhà mình mới thuê ở trong năm nay, năm trước chỗ ở  của mình rất gần nhà của gia đìnhThụy . Tình cờ, một buổi tối đi xem văn nghệ sinh viên, trong buổi hát ai cũng mặc đồ dân sự chỉ có anh Nguyên mặc đồ lính, trông là lạ, hay hay. Vậy rồi, tan buổi diễn về đến nhà, thì không ngờ nhà của anh Nguyên lại cạnh ngay bên nhà mình và cùng một lối cổng vào nữa mới chết chứ. Vậy rồi, ngay tối đó chàng và nàng quen nhau, hợp ý nhau, gắn bó với nhau. Và, nói cho Thụy biết, nhờ có mình nên anh Nguyên hay về nhà, chứ không ở lì trong trại lính như thể là lúc nào cũng nghe anh nói chuyện cắm trại 100% cả. Kể  ra, mình làm một người bạn gái được anh nghe theo những lời khuyên nhủ và những lời tâm sự.

            Trong  lá thư  của Thụy, nơi gởi là một địa chỉ KBC ở thành phố Nha Trang. Như vậy, Thụy không ở Sài Gòn mà đổi ra ngoài đó hay là sao ? Anh Nguyên cũng ngạc nhiên, và ở nhà ngoài này, chưa có ai nhận thư Thụy cả. Nên viết thư nói rõ cuộc sống hiện tại của Thụy để gia đình yên tâm.

            Lúc này, Thụy có viết thêm được nhiều truyện không ? Ở ngoài này, các tuần báo chỉ có ít không nhiều. Hàng tuần, mình có mua báo Kịch Ảnh để xem những bài điểm phim, vì mình rất là ghiền nghe nhạc và xem phim. Sở thích của mình, đã lôi cuốn anh Nguyên theo luôn.

            Nói qua cho Thụy biết một chút về mình nghe. Tên mình thì Thụy đã biết rồi khỏi giới thiệu, gia đình mình ở Đà Nẵng, trên khu phố chính đường Hùng Vương, nhà ở gần chợ Cồn trông qua bên kia là rạp hát Thanh Hoa. Rạp hát này, một nửa cổ phần trong đó là của gia đình.

            Những năm ở Đà Nẵng mình học ờ trường Sao Mai, rồi hết trung học mình ra Huế vào trường Mỹ Thuật, năm nay là năm thứ hai. Vậy là mình đã có hai năm học ở Huế, năm đầu lớp dự bị, năm kế năm thứ nhất và giờ là năm thứ hai.

            Huế, thành phố thật dễ thương và hiếu khách. Những năm học ở Huế của Thụy chắc cũng thấy là Huế đẹp, thơ mộng, và biết bao nhiêu tà áo trắng thành phố này hẳn cũng làm Thụy ghi nhớ nhiều.

            Thời gian Thụy về thăm nhà, lúc ấy, mình cũng vào Đà  Nẵng sống với gia đình vui mấy tháng hè. Những ngày hè thật rộng rãi nên mình để nhiều thời gian vẽ tranh sáng tác. Kể ra mình chưa phải là họa sĩ, nhưng mình rất đam mê hội họa, cũng như Thụy yêu thích thú viết văn vậy mà.

            Một hôm đó, nhân được nghỉ ít ngày sau chuyến công tác dân sự vụ, anh Nguyên vào Đà Nẵng tìm đến nhà mình. Anh vào đúng lúc mình chuẩn bị ra Huế học, nên anh ở lại chơi và đợi mình cùng đi luôn. Ngày đi, thay vì bằng phương tiện xe đò cho nhanh, anh Nguyên lại đề nghị với mình là đi xe lửa để thong thả ngắm quang cảnh, và những cảnh vật gợi cảm hứng, ngồi trên con tàu đang chạy mình đã vẽ tranh. Thật là lý thú quá Thụy ạ.

            Ra Huế được ít hôm, vì trường chưa khai giảng nên anh Nguyên và mình hai người đi ra thăm làng quê bên nội cùng bên ngoại củaThụy. Quê nội của Thụy tuy nghèo nhưng có cảnh đẹp của biển vắng, của những đồi cát mênh mông trải dài, xa, rất xa về phía biển.

            Ở quê nội một ngày, mình lại theo anh Nguyên thăm quê ngoại. Quê ngoại xa hơn, từ Diên Sanh lên xe lửa ra Đông Hà, lúc xuống ga đón xe lam về thị xã xa chừng hai cây số.  Đông Hà là nơi anh Nguyên và Thụy trải qua nhiều năm thời thơ ấu. Anh Nguyên dẫn mình đến thăm lại căn nhà cũ của gia đình, ở căn nhà này, trong một truyện ngắn Thụy có nói đến và mình có đọc. Nhà cũ vẫn còn, người thuê nhà là người cậu bà con bên ngoại củaThụy . Anh Nguyên vào thăm cậu mợ Tuyên giới thiệu mình với hai ông bà, rồi anh xin phép người cậu cho anh đưa mình đi thăm lại ở bên trong và ngoài căn nhà cũ.

            Khi hai người trên con đường ra bến đò dọc, anh Nguyên kể cho mình nghe về  trận cháy kinh hoàng thiêu đốt hết cả thị xã vào năm 1953, trước một năm đất nước bị chia cắt. Giọng nói xúc động làm anh khóc khiến mình thấy chạnh lòng. Anh nói căn nhà khi chưa bị cháy đẹp lắm, ngói  mới đỏ rực, và trong nhà có nhiều phòng, có căn gác phía trước và ở đằng sau nữa. Thời kỳ đó, mẹ anh buôn bán hàng vải, gia đình thực sự có  cuộc sống sung túc hơn gấp mấy lần bây giờ.

            Từ nhà ra bến đò không xa lắm.. Vừa đúng lúc tan phiên chợ, đò dọc nhổ sào rời bến. Đây là lần đầu tiên mình đi đường sông và đi đò. Thật là vui Thụy ạ. Đúng là mình cô tiểu thư thành thị về thăm quê nên nhìn quang cảnh những làng quê qua dáng màu khói lam, và ẩn đằng sau lũy tre xanh,  thật là êm đềm như bài hát. Ngồi bên anh Nguyên trên mạn thuyền, tay đặt lên vai anh làm điểm tựa, bên dưới dòng nước con đò lướt trôi, sao mình có cảm giác cuộc đời quá nhẹ nhàng Và trong cảm giác ấy,khiến mình bỗng nhớ đến những câu thơ hay của nhà thơ Huy Cận. Nơi đây, cảnh làng quê hai bên sông, có những bãi cát, những cánh chim trời, có không khí ồn ào buổi họp  chợ, rất là tương hợp với từng câu trong bài thơ Tràng giang của thi sĩ.

            Thỉnh thoảng, sóng nước vỗ mạnh làm con đò chòng chành, nhưng mình không sợ đâu, vì mình bơi rất giỏi, những ngày hè đi tắm biển mình bơi rất xa, không chắc bạn bơi đuổi kịp mình đâu.

            Cũng hơn một giờ đồng hồ thì đò cập đến bến làng quê. Khi theo hành khách xuống đò, chỉ có mình và anh Nguyên là dân ở tỉnh còn những khách khác là người trong các làng quê lân cận. Từ bến, những người khách kia vượt qua bãi dứa lên làng trên,  còn mình và anh Nguyên theo con đường mòn đi qua đình làng, qua cánh đồng ruộng, và khi thấy ngôi nhà ngói đầu tiên xuất hiện, Nguyên nói đó là căn nhà của ông bà ngoại. Tự dưng, mình thấy nôn nao lạ thường. Tới gần cổng nhà, bàn tay mình ở trong tay anh Nguyên. Rồi bất ngờ quay đầu lại, đứng trước cổng hai người hướng mắt nhìn qua những đồng ruộng và nhìn về phê con đê, trên con đê ấy, anh Nguyên nhớ tới những ngày xưa của người mẹ,  những ngày ấy vào mỗi buổi chiều anh trông thấy mẹ xuất hiện trên đường đê với gánh hàng nặng trĩu trên vai đang trở về nhà. Về quê nội, cũng như là quê ngooại, mình thấy trong truyện Thụy viết luôn  có nhắc đến , giờ đã tìm đến nơi đây, lòng thật quá đỗi yêu thương.

            Xuân Thành là tên làng ngoại. Quê ngoại của Thụy thực sự giàu có, không chỉ nhà ông bà ngoại thôi mà ở các nhà bà con và nhà dân cư trong làng nữa. Cậu Bính  là con nuôi của ông ngoại. Khi anh Nguyên giới thiệu mình, cậu khen quá làm mình cũng thẹn thùng, thế nhưng mình nhận ra đó tình thân quí mến rất thực.

            Nhà ông ngoại quá lớn và còn để lại nhiều thứ quí giá, trong đó, có bàn ghế xưa, tủ chè đựng chén bát, trướng liễn và những kỷ niệm, bút tích của ông ngoại thời đi làm quan. Có một tấm ảnh nhỏ chụp mấy anh em có anh Nguyên, Thụy, Lăng và các con cô Quyên.

            Bữa ăn với gia đình cậu Bính  làm mình cảm động. Sau bữa ăn, anh Nguyên đưa mình ra giếng nước rửa mặt, rồi đi thăm vườn, anh đã hái cho mình đủ thứ trái cây thơm ngọt, đầy cả một túi.

            Ngồi nghỉ ở nhà ông bà ngoại cũng đến hai tiếng , sau đó, anh Nguyên dẫn mình đi thăm những người bà con trong làng.

            Khi mắt trời sắp lặn, anh Nguyên và mình về lại nhà chào gia đình cậu Bính xong đi bộ qua làng Giáo Liêm, ở đó có bến xe lam rước khách, và đưa thẳng vào đến tỉnh Quảng Trị. Vì quãng đường không xa, nên từ ngoài đó vào tới Huế chỉ mất gần hai giờ đường.

            Tối hôm đó, anh Nguyên và mình không ăn cơm nhà, tìm đến tiệm phở ăn một bữa rối rất ngon.

            Thư viết cho Thụy đọc, mình kể nhiều chuyện linh tinh quá phải không ? Với tình thân, mình viết dài để Thụy đọc cho vui. Chưa gặp gỡ, nhưng có thấy trong ảnh chụp gia đình, mình đã hình dung được và hiểu rằng Thụy là một con người thật dễ mến. Hơn vậy nữa, bạn là một nhà văn, trong đó truyện bạn viết mình rất thích.

            Khi nào đến kỳ nghỉ phép về thăm nhà, tin cho mình hay.

Thân mến,

Vân Oanh

 

                                                                XIII

 

 

 

 

            Thời gian học bắt đầu qua nhanh , vừa mới xong ba tuần lễ. Giống như quân nhân cơ hữu, hai ngày cuối tuần anh em khóa sinh đều được nghỉ, và có giấy phép xuất trại của Đại úy Giám đốc đã ký sẵn cho từng người. Nhưng,  cũng không mấy ai muốn đi ra ngoài nhiều. Một lý do dễ hiểu nhất là đồng lương lính mỗi tháng hơn hai ngàn rưỡi thực là quá ít. Khóa học sẽ kéo dài ba tháng, có kỳ thi mãn khóa và sẽ được chấm đậu rớt hẳn hoi. Ai đậu được cấp chứng chỉ, giấy này đem nạp phòng tài chính để ăn thêm phụ cấp.

            Khu trại khóa sinh gồm là hai căn nhà tôn dài , mỗi căn đặt 50 cái giường sắt. Trong thời gian này, chỉ có một khóa duy nhất là khóa của Thụy đang học nên sinh hoạt trở nên yên vắng, bình lặng. Vào buổi chiều trên sân bóng chuyền, thường có hai đội bóng giao đấu, ở ngoài khán giả đứng xem những pha bóng hay được cổ vũ gây sự huyên náo trong quân trường. Bên kia tượng đài Thần Ưng là khu Sinh viên Sĩ quan, có bốn khóa đang thụ huấn vừa học Anh ngữ, vừa quân sự. Bên đó quân số  đông hơn , khoảng gần hai trăm người.

            Thượng sĩ  Trạch vẫn trông coi phần nội vụ cho khóa sinh. Vào hai giờ ăn trưa và chiều ở phạn xá, ông thường có mặt để xem cách nhà thầu cho ăn uống, và luôn ghi nhận những lời khiếu nại của anh em. Những lúc khóa sinh về trại, thỉnh thoảng vào buổi tối ông đến chuyện trò cùng anh em, có thuốc lá mời nhau hút, và những nhật báo cũ ông còn giữ cũng đem vào cho anh em mượn đọc. Những giờ nghỉ ở doanh trại, anh em thường tụ năm, tụ ba chuyện vãn, hoặc chơi domino, cờ tướng, cờ ca rô, và đến cả kể chuyện chưởng của Kim Dung rất lý thú. Thỉnh thoảng cũng có vài cá nhân xích mích, gây gổ, nhưng rồi anh em can gián, hòa nhau trở lại.

            Trong túi xách của Thụy có mang theo một ít cuốn tiểu thuyết và sách học. Mỗi tối, anh dành thì giờ học bài các môn Vạn Vật, Sử địa, và Triết là môn chính yếu vì anh chọn thi ban C. Những cuốn tiểu thuyết Thụy có hầu hết là truyện dịch, vì không chỉ đọc thôi, mà anh còn học thêm qua những cuốn này về kỹ thuật viết văn. Vào hai ngày cuối tuần, lúc cảm thấy trống vắng, Thụy mới đi ra phố chơi. Thụy đi một mình, ra phố có phim hay thì mua vé vào xem, không có , đi qua các nhà sách đứng ở hiên ngoài đọc báo cọp, sau đó ghé quán cà phê làm một ly, hút ít điếu thuốc lẻ xong quay về trại. Trên đường về, Thụy hay đi dọc theo con đường bờ biển. Biển Nha Trang rất đẹp, ở đây, cảnh buổi sáng và cảnh buổi chiều trông rất là thơ mộng, trữ tình. Ngày chủ nhật biển đông vui, trên bờ cát có nhiều cặp tình nhân ngồi bên nhau chuyện trò. Những cô gái ở thành phố này cũng rất yêu thích các chàng SVSQ. Ở đây có ba quân trường, một quân trường Hạ sĩ quan Đồng Đề, hai quân trường đào tạo Sĩ quan là Không Quân và Hải Quân. Khóa sinh như anh là đám lính  trơn, ít khi được mấy cô em nữ sinh con nhà lành quan tâm. Thụy đang cố gắng học nốt cho xong cái nợ mảnh bằng Tú Tài II, để đi Sĩ quan Kỹ thuật, và chẳng hề mong là cầm mảnh bằng đó để đi cặp bồ với một em gái nào trong thành phố này cả.

            Lá thư cô Vân Oanh nhận đã lâu, Thụy đang cất giữ, đọc lại đã mấy lần, vậy mà, chưa biết cách làm sao để viết một lá thư thăm hỏi, vừa có ý bày tỏ những mối đồng cảm của mình. Và, cứ mỗi lần đọc thư, anh lại hình dung, nghĩ nhiều đến nàng, rồi ước mong một ngày được gặp. Ở Nha Trang, có một gian hàng chuyên bán những mặt hàng lưu niệm, nhưng Thụy  không tìm ra được một một món quà tặng vừa ý để gởi cho người bạn gái của anh mình. Và rồi, Thụy nghĩ thêm, hết khóa học về Sài Gòn, anh sẽ tìm những tranh vẽ , những thắng cảnh chụp in trong carte postale gởi làm quà, vừa có ý hay, vừa gây được tình thân cho nàng và anh trong mối liên hệ gia đình.

            Lúc này, thêm biết bao nhiêu giây phút mộng mơ nên Thụy đang mong tìm những ý tưởng lạ, vừa chân tình để viết ra một cảm xúc thực lòng của anh trong lá thư gởi thăm cô Vân Oanh. Rồi buổi chiều, trong vang âm tiếng sóng biển anh nghe nỗi nhớ trôi giạt, xa dần.

            Về tới trại, vừa đúng giờ ăn nên Thụy cùng theo những bạn ở lại đến phạn xá ăn cơm.

            Hôm nay nhà bếp cho ăn món thịt hem và món đậu hầm  rất ngon. Nhưng món canh cải quá nhạt thếch. Những đồ ăn dành cho lính ăn thường ít khi có đồ tươi mà toàn đồ hộp được lấy từ các khẩu phần dã chiến. Theo đúng quyền lợi, mỗi tháng binh lính đều có nhu yếu phẩm gồm gạo sấy, thuốc lá, đồ hộp. Những thứ này về tay ai, họ không biết nơi khiếu nại rõ ràng nên đành thua thiệt.

            Thụy đói nên ăn nhiều cơm. Ăn xong, anh còn dằn một cà mên đầy mang về phòng, trù bị cho buổi tối đói. Cơm này, anh ăn với nước tương.

            Về phòng nghỉ, giờ này lại có một số bạn ưa đi ra phố chơi đêm. Cũng gần thôi, xóm chị em ta ở đường Hàm Nghi cách cổng trại của căn cứ chừng non cây số. Khi anh em đi khỏi, căn phòng trở nên trống trải vì ít người.

            Thụy đem để cà mên cơm trên giá đựng đồ xong trở ra ngoài sân, tản bộ hóng mát. Từ hôm ra ngoài này, Thụy chưa đến thăm hai bà dì bên họ ngoại. Nhưng luôn luôn anh  nhớ nghĩ về người thân của mình. Ngày mãn khóa học tân binh về Sài Gòn, Thụy có viết thư thăm dì Kiều và Hường Chi. Hai tuần sau, anh nhận được thư dì Kiều. Dì Kiều còn trẻ chưa có gia đình. Một tối  hôm đó hai dì cháu chuyện trò như hai người bạn. Người đầu tiên được nói tới là ông ngoại bác. Sau đó, là chuyện những người trong gia đình di vào khoảng thời gian bốn năm lưu lạc sống nhiều nơi. Thế rồi, bằng một sự sắp xếp chuyện của mình, dì Kiều kể cho Thụy nghe  những tháng năm dì ở nhà dòng, trong bóng tối trầm lặng, lòng thành kính, khuôn mặt các bà xơ còn trẻ là những người bạn quí của dì. Ai cũng nghĩ rằng, những cô gái bỏ đời vào nhà tu thường có những nguyên nhân thầm kín liên hệ đến bản thân trong đó hầu hết là tâm sự gia đình hay chuyện tình ái. Ở dì Kiều, không có nguyên cớ đó. Riêng tư của dì, đó là ý nghĩ cao đẹp muốn được dâng mình lên Đức Chúa Kito.

            Có một chiếc phi cơ vừa cất cánh, sau đó, bay vượt qua triền núi. Và, đâu đây nghe tiếng chim kêu, một lúc sau, Thụy chợt tưởng vang âm vọng đến là từ phía phi trường, nhưng không phải, đó là tiếng dội của sóng biển.

            Trời bắt đầu tối dần, Thụy đi bộ đã xa nên quay bước trở lại nhưng không về phòng. Có ánh đèn sáng trong hội quán,  Thụy đến đó, rồi đẩy cửa vào.

            Bốn bàn bi da đang có người chơi, những trái bi chạm nhau chạy trên bàn. Thụy vào bàn trong cùng coi hai người đang chơi. Đây là cơ chung kết. Người đánh bi trắng có chấm đang dẫn trước 5 điểm. Cách đánh anh ta nhẹ nhàng, điêu luyện. Trên tường chiếc đồng hồ quả lắc chao động nhẹ nhàng.

            Thụy đứng yên chỗ coi hai người chơi cho đến khi kết thúc. Có vẻ hai người là bạn thân với nhau. Sau khi để cơ lại trên bàn, người đánh thắng gọi chủ bàn tính tiền giờ và tiền nước. Rồi cả hai cùng ra về.

            Thấy Thụy một mình, anh chủ hỏi:

-Bạn  không có tay chơi ?

-Không.

-Chơi với tôi đi.

            Thụy ngần ngừ rồi hỏi:

-Nếu thua, ông cho ghi sổ không ?

            Với cái khoác tay bất cần, anh chủ bàn nói:

-Khỏi. Anh chơi với tôi cho đỡ buồn. Anh thức khuya được không ?

-Dễ dàng.

-Anh gọi nước uống đi.

-Cho tôi ly trà đá.

            Hai người chưa bắt đầu còn hỏi chuyện nhau. Anh chủ bàn người Qui Nhơn vào Nha Trang đã lâu, nhưng giọng nói vẫn nguyên âm sắc. Cô con gái mang khay nước ra, hai người cầm ly uống một hớp rồi bắt đầu.

-Anh đi trước, chủ bàn nói.

            Thụy chọn bi không có chấm. Cú départ của anh rất đẹp, ba trái bi chạy tán loạn trên mặt bàn xong nằm thế giò gà lúc đứng yên. Thụy tiếp tục đánh cố gom ba bi về lỗ giậu. Khi Thụy đánh, anh chủ chú ý từng đường cơ của anh. Anh ta gật đầu, vừa cho rằng Thụy đánh hay. Và khi buông cơ, Thụy được 8 điểm. Đến lượt anh chủ đi, Thụy cũng nhận ra đường cơ của anh ta rất sắc nét.

            Hai người thay phiên nhau đánh. Số điểm mức là 50. Khi biết cách đánh của nhau, hai người không còn lấy điểm dễ dàng như trước nữa.

-Anh là khóa sinh phải không ?

-Đúng rồi anh .

-Học ngành gì ?

-ALO/FAC

            Anh chủ vừa đi một đường cơ rất đẹp, Thụy khen hay. Hai bên hơn kém nhau một điểm. Và rồi cú xổ gom bi lợi hại giúp Thụy dẫn điểm và tới đích. Qua cơ thứ nhì, Thụy rất muốn nhường anh chủ, nhưng anh ái ngại sợ thua cơ thứ ba khó mà từ chối chuyện trả tiền giờ, nên  Thụy đánh rất kỹ, tuy rất khó nhưng rồi cũng giành được thêm ván thắng nữa.

            Cuộc chơi ngừng vì đã khuya Hai người uống nước, chuyện trò mấy câu xong chia tay. Vừa về tới phòng, Thụy chợt dừng bước lại khi thấy anh em đang tụ tập chơi bài.

Một người bảo:

-Nhảy vào mầy.

-Thôi, không có tiền.

-Tao cho mượn.

-Khỏi.

            Thụy về chỗ mình, giăng màn xong lấy một cuốn sách  ra đọc để dỗ giấc ngủ. Rồi anh buông màn, lặng im . Thụy bỗng cảm thấy bồn chồn một chuyện gì đó không rõ. Khoảnh khắc ấy rơi vào lãng quên, Thụy biết mình đang ngủ say và nằm mơ thấy lại thành phố thời thơ dại của mình.

            Nửa đêm, mưa rớt xuống mái tôn. Tiếng mưa làm Thụy thức giấc. Căn phòng tối hẳn, Thụy ngồi dậy chốc lát sau lại nằm. Tiếng mưa nghe rõ, tự dưng gây nỗi nhớ muộn màng. Thụy mở to cặp mắt tìm kiếm hình ảnh Ninh Hà. Một lúc rất lâu, nàng mới xuất hiện. Và từ lúc đó, anh nghe rõ hết rõ một câu chuyện kể của nàng.

            Ở tuổi hai mươi, dù thất bại một đôi lần trong thi cử nhưng nó chưa hẳn muốn bạn ngừng để sớm ra đời. Thụy cũng đã có viết thư khuyên nàng nên học lại, cố gắng hoàn tất năm cuối cùng để lên Đại Học.

            Thời gian nghỉ học, giúp việc trong nhà chỉ là tạm thời khuây khỏa, sự mong đợi của nàng ở nơi Duy là hơn hết. Thế nhưng, chuyện thi cử của Duy cũng hỏng. Hai năm liền, Duy vẫn không lấy nổi chứng chỉ dự bị khoa học. Mỗi tuần Duy lên nhà người yêu hai lần, còn nàng không mấy thích xuống nhà Duy, vì ở đó, không khí trong nhà ngột ngạt với tiếng cãi vã  ăn thua nhau trong bài bạc. Từ nhà ngoài vào đến nhà trong, ngày nào cũng có mở hội. Người trong nhà đánh ăn thua với nhau, và Duy cũng ngồi đánh bạc khi vắng Ninh Hà.

            Căn nhà Duy khá lớn, rộng rãi. Ở Đà Nẵng trước đây ba của chàng là một trong những doanh gia giàu có nhất thành phố. Một dãy nhà phố năm căn trên đường Hùng Vương cho thuê ba căn, còn hai căn làm đại lý xuất nhập cảng. Một rạp hát ở đường Hùng Vương, ông cũng có hùn vốn với người bạn. Gia đình Duy gốc gác người Triều châu. Nhưng bốn năm trở lại đây công việc làm ăn thất bại, và trong năm qua, ông lâm trọng bệnh. Ông vào bệnh viện rồi về nhà, rồi trở lại bệnh viện. Mọi việc, vợ và các con ông quản lý. Duy là con út trong nhà nên rất được nuông chiều. Chàng được gởi vào học ở Sài Gòn rồi trở ra lại ngoài này.

            Thực ra, Duy học hành không đến nổi tệ., nhưng vì yêu sớm, từ khi quen Ninh Hà, anh chỉ ước mơ được lấy nàng làm vợ. Ninh Hà cũng yêu Duy, nhưng nàng chưa muốn lập gia đình. Nàng sống với tình yêu bằng sự cởi mở, không nhất thiết nàng chỉ có một mình Duy mà hai năm qua, gặp lại những người xưa cũ nàng vẫn vui đón tiếp, chuyện trò, có lúc đi chơi phố. Đôi khi, giữa Duy và nàng có sự xích mích, nhưng với Ninh Hà cho rằng đó là sự bồng bột của tuổi trẻ. Tuổi trẻ không thích ràng buộc. Nàng muốn mình sống theo ý muốn, dù biết rằng, trong các chàng trai thì Duy là người nàng vừa ý hơn hết. Luôn luôn nàng vui, thoải mái, vì thế Duy nghĩ rằng nàng là một cô gái sống cởi mở, không muốn khép kín, không bày vẽ sự thủy chung.

            Một ngày hôm đó nàng ra Huế thăm Mai, người bạn thuở nhỏ. Nhà Mai ở đầu vùng ngoại ô, quay mặt với con lộ chính.  Khi tới lối rẽ vào sân, con sông trước mặt nhà xuất hiện. Ở dưới, cạnh bến đá có trồng cây du thật cao phủ xanh bóng im xuống mặt nước. Và, từ  khoảng sân cũng nhìn thấy những bậc thềm tam cấp xây bằng gạch dưới một mái hiên ngói trải dài. Hôm ấy chủ nhật, Ninh Hà được cả gia đình Mai đón tiếp, coi cô như ngườiù con thân yêu đi xa về. Tiếng trò chuyện thật vui, nồng ấm, rất tự nhiên khiến cho Ninh Hà cứ tưởng như đây chính là nhà của mình. Một giờ sau, bữa ăn được dọn ra với tất cả các món Huế do mẹ của Mai làm lấy. Món nào Ninh Hà ăn cũng ngon, cảm thấy mê người, nhất là vị ớt trong nước mắm dậy lên thứ chất cay khiến cô cảm giác như mình đã để lộ vẻ đẹp trên gương mặt quá rõ. Vừa ăn, các em của Mai luôn tươi cười nhìn ngắm Ninh Hà nghe giọng cô nói tiếng Bắc thật mềm ngọt, trong vui như tiếng mưa vào buổi sáng sớm.

              Đến tối, hai cậu con trai chơi cờ, còn mấy cô gái cùng ra vườn ngồi trên những chiếc ghế thấp trò chuyện, vừa ngắm trăng. Đêm, vùng ngoại ô thật thanh vắng. Mỗi lần nghe tiếng nói, hay tiếng động những chiếc xe đi qua ngoài con đường, bạn có cảm tưởng như bao nhiêu vang âm đều trở thành cơn gió làm lung lay ánh sáng những ngọn đèn đường. Câu chuyện thật gần gũi, giọng trầm ấm, vừa vui, Ninh Hà làm mấy chị em Mai bị lôi cuốn, rất thích nghe. Ngày hôm sau, có Liên Khuê lên nhà chơi. Tuy mới gặp lần đầu nhưng Khuê tỏ ra thân thiện, mến Ninh Hà ngay. Nàng khen Ninh Hà đẹp, duyên dáng nhất là cặp mắt nhỏ bé sáng như hai vị sao. Liên Khuê với dáng người cao lớn, mái tóc dài phủ kín vai. Hôm sau, buổi sáng Mai, Liên Khuê và Ninh Hà đi chơi phố, ghé tiệm phở ăn trưa, xong vào rạp hát Châu Tinh xem cuốn phim Mirage de la vie. Tan buổi hát, ba người tản bộ dạo chơi một quãng trên con đường dọc theo  bờ sông, sau đó đón xe buýt về nhà. Buổi chiều tới, nắng thật ấm, vừa nồng dậy mùi thơm cây trái chín nơi khu vườn tỏa ra. Ba người nghỉ mệt chốc lát, rồi đi tắm. Con sông bắt đầu vui nhộn, tiếng bọn trẻ vừa bơi vừa la hét. Hai cô em của Mai cùng ba chị bạn tắm ở quãng trên, nước trong, năm người cùng bơi ra xa một cách thư thả, tận hưởng tất cả hương vị nước mát trên dòng sông.

            Những ngày ấy rất vui, nên mùa hè còn mãi. Nhưng chỉ ở với bạn một tuần vừa đủ hạnh phúc của chuyến đi, Ninh Hà trở về nhà. Nàng đi chuyến xe lửa khởi hành vào lúc buổi trưa. Đoàn tàu chạy không nhanh, ngồi bên cửa toa tàu cô gái có sự an nhàn thưởng thức những cảnh trí, nhà ở, đồi núi, sông biển xuất hiện hai bên đường. Trong mỗi cảnh đó, có những cảnh gây nên sự liên tưởng về quá khứ, về những nơi chốn mà tưởng chừng nàng đã đến đó qua giấc mơ.

            Tàu ngừng lại khi tới ga Đà Nẵng. Tàu sẽ  đỗ lâu để thay đầu máy lớn, đồng thời  đón thêm khách đi vào những ga phía Nam. Những tiếng rao hàng quà, cảnh những người đi buôn đưa hàng hoá lên tàu gây sự  huyên náo trên sân ga ngay lúc tàu vừa mới ngừng , giờ đã lặng yên. Len lỏi trên lối đi, Ninh Hà đeo túi xách bên vai, cô mặc chiếc áo sơ mi trắng, quần tây xanh trông thật dễ thương. Vừa đi, cô đưa mắt nhìn con tàu đang đậu, ngửi mùi vị ẩm khô trong khung cảnh chật hẹp của nhà ga, và cô như vẫn còn lưu luyến, ước mong có ngày trở lại Huế.

           Bỗng nhiên cô gái giật mình dừng bước. Tiếng ai cất lên gọi cô, rồi mất hút. Sau đó, tiếng ấy lại cất lên, nghe quen thuộc. Cô gái đưa mắt nhìn quanh, nhưng cô chẳng nhận ra ai cả. Ngay phút đó, cái bóng người lính bước rất mau tiến lại gần làm cô gái chú ý. Và, người lính ngừng bước nhìn cô hỏi:

-Ninh Hà phải không ?

-Vâng.

           Người lính mỉm cười, nói:

-Anh Thụ đây, em nhớ không ?

           Cô gái nhìn lại người kia, ít giây sau mới  gật đầu, nói:

-Vâng, anh Thụ. Ngày trước anh ở Quảng Trị phải không ?

           Người lính xuất hiện trước mắt cô gái là SVSQ trường Võ Bị Đà Lạt. Thụ đi mười lăm ngày phép về thăm gia đình. Hôm nay, đã hết hạn phép, anh trở lại trường và không ngờ đi trên chuyến tàu này anh gặp lại người xưa.

          Thụ mời Ninh Hà vào quán nước ở trong ga. Cô gái không từ chối, và cô cũng rất muốn được nghe chuyện của chàng trai trước đây đã quen mình.

           Lúc kéo ghế ngồi, cả Thụ và cô gái đều rất tự nhiên. Người chạy bàn đến, Thụ hỏi:

-Em uống gì ?

-Cho em ly nước chanh.

-Còn tôi, một ly cà phê.

           Thụ đưa mắt nhìn Ninh Hà thật trầm lặng. Anh có ý muốn kể lại cuộc đời của anh nhưng chưa  biết mở lời bằng cách nào.

-Em rời xa Quảng Trị lâu chưa ?

            Cô gái đáp:

-Gia đình em vào đây đã bốn năm rồi.

            Người chạy bàn mang nước ra, đặt chiếc khay nhôm xuống bàn tròn.  Thụ đẩy nhẹ ly nước về phía cô gái. Còn cà phê, anh cho mấy muỗng đường vào xong khuấy nhẹ. Cô gái bỗng cười nói:

-Anh còn nhận ra được em hay thật.

            Không nhìn lại cô gái, vừa để chiếc muỗng xuống dĩa nhỏ, Thụ nói:

-Lúc thấy bóng em xuất hiện, ngồi trên toa anh nhận ra ngay.

            Cô gái uống hớp nước, hỏi:

-Lúc này anh ra sao ?

-Anh đã đi lính. Anh đang học ở Võ Bị Đà Lạt, năm tới đây ra trường.

             Cô gái cố giữ vẻ mặt nghiêm trang khi nhìn lại người quen ngày xưa. Lúc này, cả hai đều cùng hiểu buổi gặp nhau nó muốn cho mỗi người mong nói ra được những điều mình muốn nói.

-Gia đình anh vẫn ở Quảng Trị ?

            Thụ gật đầu, rồi nói thêm:

-Anh vừa đi phép về thăm nhà.

             Không cần hỏi ý cô gái, Thụ bật diêm đốt điếu thuốc. Những sợi khói dâng lên in ra hình bóng trước gương mặt người lính. Cô gái cũng đang chờ đợi điều anh ta sẽ nói. Và rồi, anh ta lên tiếng:

-Không ngờ, xa nhiều năm nay chúng ta gặp lại.

             Ninh Hà không đáp lời. Nàng vẫn đưa mắt nhìn anh một cách nghiêm trang, thẳng thắn. Và dù rằng, nàng đã thấy trên ve áo của anh có gắn alpha nhưng đối với nàng không quan trọng. Anh ta hỏi nàng:

-Em thấy, anh đã thay đổi nhiều phải không ?

-Vâng.

             Ninh Hà cảm thấy không tiện nói gì thêm, nên nàng im lặng. Từ trong nhà ga, tiếng người nữ nhân viên phát thanh báo hiệu giờ tàu khởi hành. Thụ có vẻ bối rối, không kịp uống nốt phần cà phê vội đứng dậy đi vào quầy trả tiền .

            Ninh Hà đứng yên chỗ chờ anh. Lúc trở ra, Thụ nhìn vào mắt cô gái rất lâu. Thế mà, anh chỉ nói:

-Cho anh gởi lời thăm gia đình em.

-Cám ơn anh. Chúc anh đi mạnh khoẻ.

            Ninh Hà đưa tay cho anh bắt. Không vội, Thụ nói:

-Anh mong nhận được thư của em .

            Ninh Hà nhìn Thụ, lặng im. Rồi có tiếng còi tàu báo hiệu.

-Thôi. Anh đi mạnh khoẻ.

            Thụ quay gót chạy nhanh. Ninh Hà nhìn theo Thụ bước lên toa, và lúc tàu lăn bánh quay đầu nhìn lại, anh vẫn thấy Ninh Hà còn đứng đó. Anh vẫy tay chào, cô gái đáp lại.

            Nhà xa,  Ninh Hà đón xích lô về. Người đạp xích lô còn trẻ, anh ta không hỏi han, chuyện trò với cô gái. Mới đi có mấy ngày, nhưng trở về, Ninh Hà tự dưng thấy lạ, trên đường xe chạy mắt nàng nhìn thấy phố xá với vẻ rụt rè, bỡ ngỡ.

            Vào lúc trưa, mẹ của Duy và cô Thi đến. Vừa bước chân vào nhà, hai người tỏ vẻ nôn nóng.  Không khí lặng đi trong giây lát. Trên chiếc bàn bốn cái tách đã bày sẵn, ông Kha ngồi yên, còn bà Uyên rót nước trà mời khách.

-Mời bà và cô xơi nước.

              Bà Uyên vừa ngồi xuống, mẹ Duy mở lời ngay:

-Ông nhà tôi mới ở bệnh viện về. Bác sĩ đã bó tay, cho biết nhà tôi chỉ còn sống ít ngày nữa thôi. Tôi và cháu Thi vội vàng lên đây để thưa với ông bà về chuyện hai cháu. Nhà tôi, rất ước mong được thấy ngày vui của hai cháu trước khi nhắm mắt.

               Bà mẹ Duy nói những câu sau cùng, nước mắt ứa ra. Bà lấy khăn mùi xoa trong ví ra lau. Cô Thi ngồi bất động. Cô để mắt chú ý đến màu nước đậm trong tách trà. Rồi cô cầm tách lên uống một hớp.

               Bà Uyên đã hiểu ý định của mẹ Duy, trong ít giây cố tìm một đôi lời an ủi, vừa có ý giải thích, nhưng rồi bà không thể nói ngay được. Bỗng bà cất tiếng gọi Huyền. Nghe tiếng gọi, Huyền đáp dạ và đi từ nhà dưới lên. Có mặt Huyền, người mẹ hỏi:

-Chị Hà nói hôm nào vào con ?

-Hình như hôm nay chị vào, mợ.

                 Quay sang mẹ Duy và cô Thi, bà Uyên nói:

-Cháu Hà ra Huế thăm người bạn.

                 Mẹ Duy nói:

-Sự việc bất ngờ quá. Theo mong ước của chồng, tôi lên đây xin ý của ông bà chấp thuận cho hai cháu được phép làm đám cưới để chạy tang.

                  Lúc này, ông Kha  lên tiếng:

-Hai cháu mới làm lễ hỏi chưa đầy hai tháng. Tôi nghĩ, nếu phải tổ chức đám cưới ngay thì hơi vội vàng, dù hiểu rằng, đó là ước mong của ông bà. Bên gia đình chúng tôi, các bác ở Sài Gòn vừa viết thư cho hay là khi nào có đám cưới của cháu Hà các bác sẽ ra dự, vì thế, xin bà và cô đây hiểu cho rằng chuyện một đời của hai cháu rất là quan trọng và ngày đó chính là ngày vui cho cả hai gia đình. Thế nên, chúng tôi rất sẵn lòng đợi sau một hay hai năm, mãn kỳ tang của ông, sẽ chọn ngày tháng tốt để làm hôn lễ cho hai cháu.

-Thưa ông bà, tôi rất hiểu chuyện một đời riêng của hai cháu hết sức quan trọng. Nhưng với cháu Hà nhà tôi rất thương quí, đặt niềm tin về cháu rất nhiều, vậy nên, ông rất ước ao được nhìn thấy cháu Hà là con dâu của gia đình mình để nhắm mắt cho toại nguyện.

               Mẹ của Duy lại khóc. Ông Kha và bà Uyên trước tình cảnh này không muốn làm cho không khí trong nhà trở nên ngột ngạt, nghĩ ngợi ít giây, hai ông bà cùng nói:

-Hôm nay cháu Hà đi Huế chưa vào.

               Rồi bà Uyên tiếp lời:

-Thôi. Có gì, tôi hỏi lại cháu rồi thưa chuyện với ông bà sau.

-Vâng, dù sao cũng có ý kiến của cháu. Được như thế nào, xin ông bà thông báo cho biết.

                Hai người khách đến gặp trong nửa giờ, vội ra về ngay. Xuống xe, trả tiền xong Ninh Hà bước nhẹ băng qua đường, lúc vào nhà nàng chợt có cảm giác hụt hẫng vì một sự trống vắng lạ lùng. Ông bà Kha ngồi bên chiếc giường đang lặng im, suy nghĩ. Hai người đã ngừng nói chuyện khi thấy bóng cô con gái trở về.

-Có chuyện gì không mợ ?

                Người mẹ bảo:

-Con về mệt, nghỉ đi, đến tối mợ nói chuyện.

-Nhà có khách phải không mợ.

-Có.

-Các em đi đâu mợ ?

-Đi biển từ lúc sáng. Mình Huyền ở nhà.

                Ninh Hà bước qua lối hẹp đi lên gác. Đây là căn gác dành riêng cho nàng. Trở về đây, không khí căn gác đã bao trùm lấy ngay gương mặt của nàng và cho nàng nhận ra cái tình cảm thân thiện của riêng mình. Nàng dừng chân ở chỗ bậc thang, đưa mắt ngắm khung ảnh. Bên cạnh tấm ảnh của nàng là ảnh của Duy. Duy đang là Sinh viên Đại Học Khoa Học Huế. Duy còn rất trẻ, gương mặt đẹp, dáng vẻ tao nhã, là con người mà Ninh Hà yêu nhất. Với nàng, nàng cũng biết mình đẹp, và trước khi Duy quen nàng, đính hôn với nàng, nàng đã gặp rất nhiều chàng trai say mê, ngưỡng mộ nàng, từ những năm nàng ở Nha Trang, rồi Quảng Trị, rồi Huế, và ở thành phố này nữa. Nàng đang ở tuổi mười chín, đẹp, nét quyến rũ của nàng có từ đôi mắt nhỏ, giọng nói thật dịu, vừa trong sáng.

                  Huyền ngừng đọc sách, lên tiếng:

-Chị mới về.

                  Ninh Hà hỏi:

-Khách là ai vậy ?

-Bà Lương.

-Có chuyện gì không ?

-Em không rõ lắm.

                  Ninh Hà mở túi xách lấy ra một ít thứ quà để trên bàn. Huyền mỉm cười rời khỏi giường, đứng dậy đi tới bàn cầm gói mè xửng mở ra lấy một miếng.

-Đi vui không chị ?

-Vui.

-Bao giờ chị Mai xuất ngoại ?

-Tháng tới.

                     Ninh Hà đi vào bên trong bức màn kéo kín lại. Nàng thay quần áo, mặc vào người bộ đồ thường ở nhà. Trên cổ áo vuông rộng để hở, khuôn ngực nàng trắng nõn. Nàng trở ra ngồi xuống giường trò chuyện với Huyền. Huyền nói những chuyện vui trong mấy ngày nàng đi vắng, và ăn kẹo, cô cảm thấy rất ngon.

                  Ba anh em Vũ, Hằng và Huy đi biển về.  Trong lúc ba anh em lên tiếng ồn ào về buổi đi chơi biển, trên gác, hai chị em Hà vẫn thì thầm kể tiếp câu chuyện. Huyền nghe chị Hà nói về anh Thụ, người con trai ngày xưa ở Quảng Trị đã hết sức yêu nàng. Khác với vẻ thư sinh của Duy, trên gương mặt Thụ khắc rõ những nét lạnh lùng, cương quyết. Lúc hai người gặp lại nhau, Ninh Hà nhận ra sự xúc động lẫn vẻ bối rối của Thụ trong giọng nói, nhưng không vì thế mà chàng tỏ ra yếu đuối vì tình yêu khi chàng đã trở thành một người lính. Cái bóng của Thụ chạy nhanh về phiá con tàu vụt qua trí nhớ Ninh Hà. Giây phút đó, nàng muốn cho anh ta biết, nàng và anh đã phải xa cách thêm một lần này nữa.

                    Bữa cơm tối, cả nhà ngồi ăn chung trên chiếc bàn khách dài dưới ánh sáng ngọn đèn néon. Bữa ăn vẫn mang không khí thân mật của gia đình như mọi ngày. Nhưng, trong bữa ăn, Ninh Hà đã không kể lại chuyến đi vui của mình, vì nàng nhận ra nó sẽ không xoá tan nỗi buồn lo của ba mẹ nàng.

                      Sau bữa ăn, vào lúc 9 giờ tối, ở bàn khách Ninh Hà ngồi hầu chuyện với ba mẹ. Nước trà tuy nguội, nhưng vẫn còn đậm. Ninh Hà cầm tách nước xoay nhẹ, dáng nghĩ ngợi. Người mẹ mở lời:

-Bà Lương và cô Thi đến đây lúc con chưa về.

-Có chuyện gì không mợ ?

-Ông Lương đang hấp hối, mới đưa từ bệnh viện về nhà lúc trưa. Bên đó, muốn xin làm đám cưới chạy tang.

-Ba mợ trả lời sao ?

                        Bằng một giọng thân thiết, ông Kha lên tiếng:

-Con và Duy đã yêu nhau, điều đó ba mợ rất bằng lòng. Nhưng chuyện cưới hỏi ngay lúc này không có sự chuẩn bị là không tốt cho con, cả gia đình nữa. Ở Sài Gòn, các bác rất mong ra dự đám cưới của con, còn ở đây, gia đình mình bà con cũng đông đều muốn được thấy ngày đám cưới của con là ngày vui thực sự, chứ không thể là một ngày vui, sau đó phải buồn vì chuyện tang chế trong gia đình. Ba nghĩ, dù ông Lương mất, đợi một hoặc hai năm mãn tang để tổ chức lễ cưới, cũng không mất lâu thời gian. Nhiều lứa đôi thương yêu nhau, đợi nhau đến năm sáu năm, mười năm  mới lấy nhau cũng là thường, và riêng con hẳn còn quá trẻ, còn đang tuổi đi học, chuyện này con nghĩ sao ?

                           Không do dự, Ninh Hà đáp:

-Con tuỳ theo ý của ba mợ.

-Không, ba mợ để tùy con. Nếu con nghĩ, khoảng thời gian hai năm đợi là lâu, thì con có quyết định của con. Ba mợ rất thương con, muốn theo ý mong muốn của con.

-Vâng, con hiểu lòng của ba mợ.

                       Nàng đáp, tự nhiên trong câu nói khiến nàng bật khóc.

 

 

 

 

                                                             XIV

 

 

 

            Giảng viên dạy khóa học điều không gồm sáu người, bốn là Hạ sĩ quan cùng cấp bậc Trung sĩ nhất, hai Sĩ quan có Đại úy Thuận Giám đốc và Thiếu úy Huỳnh, phi công lái máy bay khu trục. Không như  lúc mới tân binh chỉ học về căn bản quân sự, bây giờ qua chuyên môn, các khóa sinh đều cùng thấy những môn mình học như Khí tượng, Không lưu, Truyền tin, Quân báo, Chiến tranh tâm lý đòi hỏi đến kiến thức ở bậc trung học đệ nhị cấp.

            Năm ngày trong tuần, hai buổi học mỗi ngày, mỗi buổi bốn tiếng. Trường hợp có giảng viên đau ốm, bận họp, hay công tác giờ học đó anh em được nghỉ tại lớp tự động chia các nhóm sinh hoạt học tập. Nhờ các buổi này, anh em cùng ôn bài, giúp ý kiến đỡ thời gian buổi tối phải học bài vở. Thụy rất thích hai môn Không lưu và Khí tượng. Hai môn này, giúp anh hiểu thêm về không gian và phi cơ. Ở trên trời, nhìn thấy mây bay là mình chỉ biết mây, học về khí tượng, mới phân biệt ra được có 9 loại mây khác nhau. Những người phi công khi bay nhìn qua những hình dáng đám mây họ biết được ngay tên gọi của từng loại mây. Về môn Không lưu, học môn này khá thú vị, viên Thiếu úy phi công giảng cho khóa sinh hiểu về cách sử dụng địa bàn, về cơ khí, và về những đường bay của phi cơ trong không gian. Bao giờ trên đường bay, phi cơ cũng bay theo góc độ của hướng gió. Khi phi cơ cất cánh, hay đáp, đều ở trong tình thế gió ngược. Và, cắt nghĩa sự kiện này, ông giảng cho khóa sinh biết về môn cơ học. Mỗi tuần, cũng có hai giờ học tiếng Anh. Nhưng môn này, không học theo cách nhà trường, mà chỉ cần biết những từ chuyên môn cộng với một số câu được diễn giải qua phương tiện truyền tin. Vì rồi đây, khi trở ra đơn vị, các khóa sinh trở thành hiệu thính viên, qua máy truyền tin không chỉ liên lạc với quân bạn  bằng tiếng Việt mà còn với quân đồng minh bằng tiếng Anh. Riêng Thụy, học Anh ngữ anh có được thêm cái lợi dành cho môn thi tiếng Anh  ở kỳ thi Tú Tài. Viên Trung sĩ dạy môn tiếng Anh, anh ta cũng đã tốt nghiệp một khóa Anh ngữ ở trường Không quân Lackland bên tiểu bang Texas. Tới giờ học, Thụy có mang theo sách học cuốn Khảo sát Anh ngữ, lâu lâu, nhờ anh giảng bài giúp, nhờ vậy, Thụy dần hiểu khá thêm về cách dùng văn phạm và các thành ngữ.

            Ngày hôm đó ở Đà Lạt, một buổi sáng đi ngang qua căn nhà cũ của Thùy ở trên đường đất đỏ Phan Bội Châu Thụy cố mong tìm gặp lại Thùy, nhưng không thấy. Sự tình cờ, buổi sáng chủ nhật tuần rồi đi phố chơi, anh lại gặp nàng. Và, khác hẳn lần trước, lần này nàng đưa anh về đến nhà, giữ lại ăn cơm, chuyện trò, và đặc biệt được xem cuốn album của nàng thời còn đi học. Có những tấm ảnh chụp ngày đi cắm trại ở Suối tiên, và trong số các bạn cùng chụp chung trước căn lều vải bên dòng suối, có Thụy nữa. Hai người bạn ngồi gần nhau ở phòng khách, và cùng phá lên cười khi xem chung mấy tấm ảnh thời đi học. Thụy mở lời xin tấm ảnh, nàng gật đầu lấy trong cuốn album ra và để vào phong bì thư.

            Nhà Thùy ở khu Phước Hải, trên đường Huỳnh Thúc Kháng, và chỉ cách căn nhà bác Định ngày xưa bốn căn. Nhà làm nền cao, có bốn bậc cấp đi lên, đằng sau có sân rộng và căn vườn trồng cây ăn trái. Với tình bạn cũ thân thiết, Thùy đưa Thụy đi xem bên trong và ngoài nhà. Thụy rất là muốn hỏi chuyện riêng của Thùy, nhưng rồi cứ ái ngại.

            Sau bữa ăn, không nghỉ trưa hai người vẫn ngồi ở phòng khách chuyện trò. Những cô bạn học của Thùy, có một số du học, và hầu hết đều đi lấy chồng. Những bạn của Thùy có Linh là Thụy  biết rõ hơn cả, vì dạo đó, Thùy và Linh rất thân nhau. Khác ngày xưa là học trò, giờ hai người đã lớn, và nàng đã có gia đình, dù rằng cuộc sống có lẽ không mấy vui. Thụy lặng im ngước mắt nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường. Lúc ấy, Thụy cũng bắt gặp cái nhìn của Thùy hướng về mình.

            Khi đã đến giờ , Thụy đứng dậy xin kiếu từ. Ngay lúc ấy, Thùy bảo anh  đợi, rồi nàng quay bước đi vào nhà trong. Cũng khá lâu, nàng trở ra và đưa cho Thụy một chiếc phong bì dày cộm màu vàng được dán kín.

            Nàng nói:

-Đây là kỷ niệm năm xưa của anh, em gởi lại để anh cất giữ.

            Thụy nhìn Thùy, cảm thấy bâng khuâng. Rồi, anh nói:

-Cám ơn Thùy.

            Trên tay Thụy, giờ là một kỷ niệm trở về, và anh biết mình đang nắm giữ một vật gì. Thụy chợt hỏi:

-Em vẫn còn buồn lắm ..., phải không ?

-Không, không có gì cả

-Tại sao ?, em nói cho anh hiểu đi.

-Không, không có gì cả.

-Em không hiểu anh sao ?

-Hiểu chứ. Không hiểu, sao mà em còn cất giữ được kỷ niệm của tập lưu bút này.

            Về trại, Thụy nôn nao mở chiếc phong bì và lật từng trang của xấp truyện ngắn cũ chăm chú đọc. Miền sương mù, trong từng giòng nắn nót Thụy đã viết, hình ảnh Thùy hiện ra và biết bao nhiêu kỷ niệm của nàng rất là thân thiết, cảm động. Anh chợt nhớ câu nàng nói, không, không có gì cả, em hiểu anh.

            Ít ngày sau, Thụy lấy truyện ngắn này chép sang một bản mới, xong qua hộp thư  KBC 4721 của Trung tâm huấn luyện, anh gởi bài về cho Tòa Soạn Tiểu thuyết Thứ Năm.

            Khi rời xa Huế vào Sài Gòn, lòng Thụy nặng trĩu biết bao nhiêu nỗi lo buồn, về nỗi khó khăn gia đình, về tình yêu đơn độc, về tuổi trẻ không tìm thấy tương lai vì học hành dang dở, và đến nơi thành phố này tìm kiếm việc làm cũng thật khó khăn. Sự thể chọn con đường nhập ngũ đi lính, nó như đã là một hồ sơ làm sẵn cả rồi tùy thuộc thời gian đến nhanh hay chậm mà thôi. Nỗi buồn thường hay khiến tuổi trẻ muốn nói ra lời tâm sự, viết mấy câu thơ, vài dòng nhật ký, hoặc viết nên được một câu chuyện bày tỏ cuộc đời mình. Đó, hầu như là tâm trạng chung của những kẻ bất hạnh, thất  chí, và anh cũng là một trong bao nhiêu con người đó, nên chi, đã nghĩ tới một lối thoát mặc cảm, và bắt đầu bước chập chững, cố gắng theo con đường này. Tối hôm ấy, Thụy thức khuya lấy tập giấy ra ngồi viết, và không ngờ anh viết xong được một truyện ngắn đầu tay.

            Sau bữa ăn sáng, Thụy rời khỏi nhà đi bộ trên đường Phạm Ngũ Lão. Ở khu chợ Thái Bình, bên này trông sang anh thấy tòa soạn báo Văn, nhưng không dám nghĩ đến. Nơi tờ báo này, nhắc Thụy nhớ đến một lá thư, nghĩ đến một món nợ với người yêu thương của mình mà chưa làm sao mua được một món quà kỷ niệm quí giá dành cho nàng. Nhưng thế nào, anh cũng cố gắng một ngày kia sẽ có truyện ngắn đăng ở đây để tặng nàng. Và, bỏ lại đằng sau những mơ ước có vẻ lớn ấy, một mình, Thụy lại bước đi. Buổi sáng ở Sài Gòn, luôn luôn những tiếng động xe cộ vang lên khắp thành phố tạo sự  huyên náo, cảnh xô bồ, lúc làm bạn trở nên vui vẻ, phấn khích, lúc bỗng cảm thấy xa lạ, bâng khuâng. Ai đó, đã vén màn trong tâm tưởng, một mình đứng nhìn Thụy rất lâu.

            Cách đây hai ngày, tôi nhận được thư của Ninh Hà. Lá thư  nàng đọc thật cảm cảm động, tôi hết sức vui sướng như có được những phút giây bên cạnh  nàng. Gói sách tôi gởi đi qua Bưu điện nàng đã nhận được, và bây giờ trong những cuốn sách đó ắt cũng thấy bóng hình của tôi in lên trang giấy vào mỗi đêm dưới ánh sáng ngọn đèn khi nàng ngồi học. Tôi muốn quên tất cả, trừ nàng ra. Sau đó, tôi cũng nhận thức dù rằng nàng đã có người yêu, nàng sẽ lấy Duy làm chồng, nhưng riêng một góc con tim, nàng cũng là người yêu của tôi,  để từ nay, tôi luôn luôn nhận được thư nàng. Từ buổi xa cách, bao nhiêu lần tôi thấu hiểu được lòng nàng thương mến tôi qua tấm ảnh nhỏ bé  mang theo bên mình. Trong gói sách gởi theo Bưu điện, tôi có kèm lá thư. Nhữnggiòng thư đầu tôi nói cho nàng biết về Sài Gòn, thành phố tôi mới đến và một vài ý định của tôi về cuộc sống. Sau đó, là những giòng tâm tình. Tôi nói cho nàng biết, lúc rời Đà Nẵng trở ra Huế để chuẩn bị chuyến đi, ngồi trên chuyến xe khách, lòng tôi cứ mãi nghĩ đến nàng, nhớ khôn nguôi gương mặt của nàng, và khi cố gắng tìm lại những kỷ niệm trong một năm học qua, tự dưng tôi khóc và nước mắt ấm hẳn lên như có được sự hòa lẫn giọng nói của nàng trong đó. Tôi khóc một mình, nhớ bóng nàng  yên lặng cúi đầu dưới mái tóc bao phủ, nàng cũng buồn khi xa tôi, và cũng hiểu rằng mối tình của tôi và nàng thật lẻ loi. Và, tôi đã cứ ngồi im như vậy khi xe ra đến Huế, thành phố của nơi chốn mình trở về mới giải khuây.

            Buổi sáng hôm ấy, Thụy cũng có ý định đi Quang Trung thăm anh Quý, con trai thứ nhì của bác anh bị gọi quân dịch. Thụy mới nhận được thư của anh hôm thứ hai đầu tuần. Mới đó, anh vào Sài Gòn gần hai tháng, và những thư từ ở địa chỉ mới đều nhận được. Thường lệ, vào giờ trưa người phát thư đi ngang, và rất dễ biết ông đến bằng tiếng chuông xe đạp rung leng keng trước nhà.

            Hết đường Phạm Ngũ Lão, Thụy tới bến xe đi ngoại thành. Xe đi Quang Trung còn đậu ở bến, mới có vài người khách, nên anh chưa lên xe mà đứng chờ.

 Một lúc sau, Thụy  vào quán cà phê kế bên tòa soạn tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Trong quán chỉ vài người khách, bàn trống để nhiều, anh bỗng chú ý một người đàn ông đeo kính trắng, dáng vẻ hiền từ, đang chăm chú đọc bài báo, trên tay cầm bút nguyên tử đỏ. Khi bắt gặp anh nhìn ông, ông nở một nụ cười chào như thể muốn gặp. Thụy liền bạo dạn bước tới gần, lúc ấy, ông ngừng đọc,  vừa lấy tay kéo tập giấy và bỏ ly cà phê uống dở qua một bên.

-Em đi đâu đó ?

-Em chờ xe đi Quang Trung ?

-Thăm người bà con ?

-Dạ. Em có người anh đi quân dịch.

            Thụy gọi ly cà phê. Bây giờ, anh thấy rõ hơn tập giấy ông để trong kẹp và bài báo ông đang đọc. Thụy ngần ngại hỏi:

-Ông làm nhà báo ?

-Tôi là nhà văn, ông nói. Tôi làm Chủ bút tờ tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm.

            Thụy nhìn ông với sự ngưỡng mộ muốn bày tỏ. Cà phê mang ra, anh cầm thià nhỏ khuấy nhẹ xong uống một hớp đầy.

-Em rất thích đọc tiểu thuyết.

-Em có viết văn không ?

            Thụy cười nhìn ông. Một chút sau, anh cảm nhận được tình thân giữa hai người nên nói:

-Em mới viết được một truyện ngắn.

-Vậy à.

-Em có mang theo đây.

-Đâu, cho tôi xem.

            Thụy mở tuí xách lấy tập giấy viết đêm qua đưa cho ông. Ông nhìn lướt, nói với tôi:

-Chà, viết chữ đẹp ghê.

            Thụy cảm thấy hồi hộp, bối rối. Rồi anh yên lặng nhìn ông bắt đầu đọc truyện anh viết. Khi ông đọc, Thụy  theo dõi dáng điệu, cử chỉ, nhất là đôi mắt dò xét suy nghĩ của ông. Rồi anh thấy, ông cầm bút sửa lỗi hỏi ngã anh viết sai, và bỏ bớt đi một đôi chữ thừa, hoặc thay bằng một từ khác. Truyện Thụy viết tối qua dài tám  trang, anh cứ nhìn ông đọc, lòng mừng thầm mỗi khi tay ông lật qua trang khác. Thụy vẫn lặng im không hỏi han gì,  ngồi bên ông cho đến khi ông đọc hết truyện.

-Em viết được lắm, ông nói.

-Em cám ơn ông, tôi đáp lời.

-Tôi sẽ cho đăng truyện này vào số tới.

-Em mừng lắm, thưa ông.

-Tôi hiểu, em viết được lắm. Hãy viết thêm một vài truyện nữa đưa tôi.

            Tiếng nói của Thụy trong xúc động trở nên vấp váp. Nhưng, thực sự anh rất mừng buổi sáng nay được gặp một con  người tốt bụng, một nhà văn với cái dáng vẻ hiền từ, hồn hậu như một thầy giáo. Thụy cũng thấy từ trên vẻ mặt ông đến những lời nói đều điềm đạm, không kiểu cách.

            Thế là truyện ngắn đầu tay củaThụy sẽ được đăng. Kim đồng hồ treo tường đã chỉ mười giờ. Thụy nửa muốn đứng dậy, nửa muốn được ngồi lâu bên nhà văn để trò chuyện. Sau bản thảo của anh, ông Thanh Thủy lại đọc tiếp bản thảo đã đọc dở lúc nãy.

            Rồi Thụy đứng dậy, nói:

-Em xin phép ông đi thăm người anh.

            Và lúc anh gọi trả tiền cà phê, ông ngăn lại.

-Em để tôi trả cho.

            Thụy nhìn ông, nói nhỏ tiếng cám ơn. Ông bắt tay làm Thụy thêm vững tin.

-Lúc nào rảnh, em ghé Toà soạn chơi.

            Thụy đáp dạ, rồi rời bước. Bến xe nằm trước mặt, và chiếc xe đi Quang Trung vẫn còn đang chờ khách cho đủ chuyến. Thụy vào ngồi băng ghế ngoài chờ đợi, mắt nhìn lại quán cà phê nơi anh vừa ngồi với một nhà văn tên tuổi. Thụy cảm thấy mình có chút hãnh diện. Một lúc sau, có người khách bước vào quán và anh thấy ông nhà văn đứng dậy xong hai người rời bước. Thụy chú ý theo dõi thấy ông và người khách đi qua tòa nhà kế bên, đó là toà soạn báo Tiểu Thuyết Thứ Năm.

            Tự dưng, anh có ý muốn mua tờ báo để đọc đi đường, rồi đến Quang Trung, anh sẽ đưa cho anh Qúy đọc. Lòng vui lên, Thụy xuống xe bước nhanh chân vào toà soạn. Vừa thấy Thụy, ông Thanh Thủy hỏi:

-Em chưa đi ?

-Em muốn mua tờ báo.

-Được, để tôi biếu em ít tờ.

            Ngay lúc đó, ông gọi qua cô thư ký bảo cô lấy cho Thụy vài số báo ra gần nhất. Không khí toà soạn đông vui làm Thụy thêm nôn nao. Nhận được ba số báo biếu, Thụy nói lời cám ơn cô thư ký, rồi vội vàng bước trở ra xe khi nghe có tiếng người tài xế nhấn còi báo giờ chạy.

            Hạnh phúc văn chương  cho Thụy trong một buổi sáng nay đã hoà nhịp cùng với không khí sinh hoạt của thành phố Sài Gòn. Xe lăn bánh, thong thả chạy qua từng dãy phố. Ngồi trong xe, Thụy để mắt đọc tên những con đường. Không lâu, xe bỏ thành phố đi ra vùng ngọai ô và tốc độ bắt đầu chạy nhanh. Thụy nghĩ nhiều đến anh Quý. Thụy còn nhớ rõ gương mặt anh, trong hình ảnh đó, anh vẫn còn nhớ khung cảnh vùng quê nội của mình. Đó là một ngôi làng cát trắng, nằm ven biển, xa tỉnh lỵ Quảng Trị đến mười hai cây số. Những năm tháng ấy còn nhỏ, mùa hè trở về quê Thụy có được sống vui của thời bình yên. Đến lúc này, tuổi đã lớn, dù chưa đi lính nhưng đôi lúc, anh có cảm giác bị chiến tranh đe dọa, sẽ thay đổi cuộc đời mình.

            Ra ngọai ô là nhìn thấy nhiều khung cảnh giống vùng quê. Thụy chưa đi qua con đường này, chưa hề nhìn thấy mọi cảnh vật, sinh họat ở nơi đây, rồi tất cả lùi lại, xa dần để anh đừng bận tâm nghĩ nhiều nữa.

            Xe đang chạy vào bến, rồi ngừng. Thụy xuống xe, ngơ ngác nhìn khung cảnh thị trấn. Sau đó, anh hỏi mấy người quanh đó đường đi vào quân trường. Thụy  lên xe lam, ngồi đợi chừng mười lăm phút xe mới chạy.

Lúc xuống xe, người tài xế chỉ cho Thụy hướng đi tới cổng gác. Thụy cảm thấy yên tâm, và đến đó anh được gặp người hạ sĩ quan  trực liền đưa tờ giấy ghi địa chỉ anh Quý nhờ ông tìm . Trong lúc ông ta lật cuốn sổ , Thụy đọc bảng tên ông viết trên áo.

Liên lạc qua điện thọai xong, ông Thạnh bảo Thụy:

-Anh qua ngồi bên kia chờ.

            Thụy ngồi đợi ở nhà tiếp tân. Anh bỗng có ý nghĩ, chắc rồi mình cũng phải vào đây, bắt đầu cuộc đời quân ngũ không một chút gì sáng sủa. Không đợi lâu lắm, Thụy chợt trông thấy một người lính đội nón lưỡi trai đang bước nhanh như chạy. Khi anh ta đến gần, Thụy nhận ra anh Quý và gọi tên anh. Anh cười, mừng vui vì có người thân đến thăm. Anh Quý đặt bàn tay nắm  vai Thụy thật chặt, Thụy rất mừng nhìn thấy người anh  khoẻ mạnh trong bộ quần áo lính. Rồi anh dẫn Thụy đi tới một quán ăn ở gần Câu lạc bộ.

            Thụy mở túi xách lấy gói quà và mấy tờ báo biếu đưa anh trước khi vào chuyện. Anh cầm lấy và nhìn Thụy. Thụy hỏi:

-Anh còn bao lâu nữa mới ra trường ?

-Chừng hai tháng nữa.

-Rồi anh có ra Nha Trang không ?

-Không. Anh ra đơn vị luôn.

-Anh đã viết thư về ngoài nhà chưa ?

-Có, anh viết rồi. Còn em vào đây học  à ?

-Không, em kiếm việc làm.

-Em làm ở đâu ?

-Em mới vào được ít tuần, tìm việc chưa có.

-Sao em không học nữa ?

-Em thi rớt, chắc học không được nữa vì không có giấy hoãn dịch. Chẳng biết sao, chắc em cũng vào đây như anh hoặc ra Nha Trang.

            Anh Qúy đưa mắt nhìn Thụy, aí ngại. Có lẽ trong cái nhìn của anh, Thụy đọc được những ý tưởng về liên hệ đến gia đình, giòng họ, về một nỗi bất hạnh luôn đè nặng xuống những người thân họ hàng bên  nội anh. Thụy tự hỏi, trong khi bên ngoại anh là giòng khoa bảng, sao bên nội tôi từ đời ông cố, ông nội, đời cha và các chú các bác, đến anh em nhà mình không một ai học hành đỗ đạt. Có một nỗi oan khiên nào đó chăng ?

            Hai anh em uống nước, trò chuyện về người thân, và có lúc im lặng. Bất chợt nghe mùi thức ăn đang nấu dậy lên, anh Quý hỏi Thụy:

-Em ăn gì chưa ?

-Em có ăn rồi.

-Đây có món bò kho, anh gọi em ăn nghe.

            Thụy ngần ngại, cũng muốn ăn nhưng sợ bắt anh trả tiền.

-Aên nghe, anh gọi.

-Anh ăn đi, em không đói.

-Aên đi, anh gọi.

            Anh Quý cất tiếng gọi hai phần, nhưngThụy nhìn chị chủ quán ra dấu là một thôi. Người kia hỏi lại:

-Hai hay một.

-Chị cho một phần, hai bánh mì.

            Trong lúc này đợi, Thụy muốn nói cho người anh họ biết về tương lai của mình khi đặt chân về đến Sài Gòn. Trong những điều Thụy nói ra, nó vừa uất nghẹn, vừa cố ngoi lên một hy vọng. Anh Quý ngồi im, một lúc cũng với tiếng thở dài nhẹ, anh nói:

-Không biết con cháu mình ra sao ?

            Bữa ăn mang ra. Hai anh em ăn chung một phần và cảm thấy bao nhiêu năm vắng xa giờ gần gũi hơn lúc nào hết.

-Anh có được đi phép cuối tuần không ?

-Có.

            Thụy cầm viết ghi địa chỉ và mảnh giấy, đưa anh nói.

-Em đang ở trọ nhà dì em.

-Tuần tới đi phép, anh ghé thăm.

            Bữa ăn xong rất mau, anh Quý rót trà vào hai cái ly. Vẫn những chuyện người thân trong họ hàng hỏi đi, nói lại, mỗi lần vậy, hai anh em Thụy như cùng theo trí nhớ trở lại với quang cảnh đồng quê thật là tươi sáng, ấm áp. Nắng hè làm cho nỗi  bâng khuâng trong lòng anh trở thành một thứ màu sắc rất dịu dàng khi hòa vào cảnh vật. Anh có cảm giác ngửi được mùi đất, mùi gió, cặp mắt vui với đồng lúa trải dài hai bên, và cùng lúc nghe rào rạt  tiếng nước chảy dưới bờ kênh. Dọc bờ kênh, thỉnh thỏang anh gặp những chiếc xe đạp nước. Có xe còn trống không.  Có xe hai người đang đạp nước dẫn  vào ruộng.

             Thụy đang hình dung mình chạy xe trên con đường này, đến quê nội không xa lắm  nhưng mà  quê ngọai thì xa đến gấp ba lần. Ngày trước, lúc gia đình  còn ở Đông Hà anh thường về thăm quê ngọai trong mỗi kỳ hè. Người hay đem anh về là me của Lăng. Khi về ( thường vào lúc buổi chiều tan chợ ) Lăng, Thụy, anh Nguyên đi theo dì ra bến đò. Bến đò đông vui, với nhiều chuyến chở khách hàng buôn xuôi ngược. Khi đò tách bến ra giữa dòng, mái chèo bắt đầu nhẹ lướt và rồi, mỗi lúc con đò trôi nhanh hơn. Thị xã mờ dần khi chúng tôi nhìn trở lại thấy bóng chiếc cầu bắc qua con sông gần bến chợ đã khuất dạng, và khi đến ngã ba sông là thấp thóang hình ảnh quen thuộc làng quê của mình.

            Bãi Sa, quanh bến này có bãi đất trồng dưa nhưng thưa vắng nhà ở. Đò ghé bến nhưng không neo đậu, chỉ có mấy khách buôn và chúng tôi xuống. Mặt trời chiều vừa lặn. Từ đầu bến, chúng tôi đi theo con đường đất rộng dẫn vào làng khỏang chừng gần hai cây số. Con đường đi qua một ngôi đình, khu nghĩa địa có cây ngô đồng, và khi đến gặp trạm thông tin là tới nhà. Ngôi nhà của ông bà ngọai tôi nằm về phía đầu làng. Ngôi nhà lợp ngói xưa, xây trên một nền cao có nhiều bậc cấp bằng gạch, sân trước rộng có thể chơi đá bóng, nhìn ra con đường bên dưới là đồng ruộng, và xa chừng vài trăm thước là con sông nhỏ chảy qua làng, còn phía bên trái và đằng sau nhà là vườn tược rộng rãi trồng nhiều thư cây lưu niên, mỗi mùa, hoa trái sum suê. Bên trong nhà ở, những lọai bàn ghế, đồ vật xưa lưu giữ nay vẫn còn.

            Quê ngọai Thụy giàu  và có nhiều họ hàng đỗ đạt, làm quan. Ông cố ngọai anh đỗ Tiến Sĩ đời Thành Thái. Bà cố anh người làng An Cư, là  em gái  ông Nguyễn Văn Tường.  Sau đời ông cố đậu Tiến Sĩ, đến ông bác ngọai anh đậu Phó Bảng và ông ngọai anh đậu Cử Nhân, làm quan tri phủ Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông ngọai anh có hai bà vợ là hai chị em ruột và  5 người con. Các cậu, các dì em mẹ anh ai cũng học hành, đỗ đạt, chỉ trừ mẹ anh chỉ biết đọc, biết viết. Khi các cậu, các dì rời khỏi làng quê đi học xa, mẹ anh ở nhà trong coi công việc ruộng nương cho ông bà ngọai . Mẹ anh ít học, nhưng giỏi buôn bán. Buổi chiều,  là hình ảnh của người mẹ. Ngày xưa ấy, Thụy trông thấy hình bóng mẹ mình trong chiếc áo dài nâu đang gánh hàng buôn ở chợ phiên trở về trên con đường đê. Chỉ qua hình ảnh đó, về sau này  lớn lên, Thụy tin chắc rằng anh sẽ viết được cho mình những câu văn chân thật.

            Nhân duyên  ba mẹ anh me của Lăng là dì Quyên kể lại. Vì còn nặng tình thương mẹ nên ba anh rời khỏi chùa Huyền Vân, sau ba năm tu học tại đó về  lại đời. Ba anh có được bằng Tiểu học, khi lớn tuổi xin đi dạy. Trường  ba anh dạy đầu tiên là Gia Độ. Đây là ngôi trường làng có đủ 5 lớp. Làng Gia Độ đông dân, rộng gần bằng một quận. Xuân Thành,  quê mẹ anh ở phía dưới cách xa đấy chừng bốn cây số. Từ vùng ngoài này đi vào quê nội anh rất xa, mỗi năm dịp Tết hay hè ba anh mới về thăm gia đình. Còn độc thân,  ba anh sống chung với các bạn đồng nghiệp ở một căn nhà thuê gần trường. Ngôi trường nằm ven sông, quanh đó có một đồn lính gác giữ an ninh.

            Bác Hai anh và ông Xuân người chú họ của mẹ anh là anh em cột chèo. Qua tình thông gia, ba anh thường ghé thăm ông Xuân, nhiều lúc ở lại chơi cờ tướng hoặc vui vài hội tài bàn. Ông Xuân thấy ba anh người lanh lợi, họat bát, nên giới thiệu với ông bà ngọai anh. Ngày trước cũng như sau này, nhân duyên vợ chồng thường là có mai mối, quen biết.

            Khi ba mẹ anh lấy nhau, ông bà ngọai anh cho một chút của cải và một khoảnh đất rộng bên vườn để làm nhà. Ông ngọai rất thương con gái đầu là mẹ anh. Ông ngọai cũng rất quí ba anh. Khi mẹ sinh anh Nguyên  đầu lòng, hết cả nhà cưng chiều. Lúc bấy giờ, đang làm tri phủ Nga Sơn được hay tin ông  gởi thư về bảo mẹ anh mang cháu ra thăm. Vậy là mẹ anh được đi một chuyến xe lửa từ Đông Hà ra Thanh Hóa ở chơi mấy tuần sau đó đi Hà Nội.

            Khi trở về tìm lại, nhớ lại những ngày tháng của tuổi thơ, Thụy nhớ đến mẹ và quê ngọai nhiều hơn hết. Thụy và anh Nguyên sinh ra ở nơi đó. Ngày xa xưa, tôi có được tình cảm bao dung của mẹ và nỗi mừng vui hơn hết trong tôi là mỗi buổi chiều ra đứng trước ngõ cổng nhìn về phía con đê trông đợi bóng dáng mẹ  về. Và, đúng vào lúc mặt trời sắp lặn là hình ảnh mẹ tôi xuất hiện. Ngày nào cũng vậy, đi chợ buổi sáng sớm, buôn hàng rồi lên thị xã mua hàng đến chiều về, dưới rổ mẹ tôi bao giờ cũng có hàng quà cho anh em tôi và mấy cháu. Những xâu bánh vòng, bánh ram, kẹo đậu, kẹo gừng đó là những thứ quà chúng tôi được mẹ phân phát. Bây giờ đây với bóng dáng thân thuộc của làng quê, tôi có cảm tưởng đang làm một bài luận văn với những kỷ niệm về gia đình tôi đang chất đầy lên tâm trí.

            Chiếc xe đạp mang hình bóng của tôi cứ chạy đều tốc độ. Rồi, quê nội dần dần hiện rõ. Tôi sắp sửa về tới rồi, chỉ còn hơn một cây số  nữa thôi. Có tiếng động xa gần của những chiếc xe lam, xe gắn máy chạy. Những người đàn bà, những cô gái buôn hàng hay đi chợ mới về họ kéo nhau từng tốp,  và trên đường lúc gặp là vang tiếng ồn ào chào hỏi. Tôi nghe được những câu chuyện họ nói khi đạp xe  vượt qua. 

            Tới trạm cưa bên ngã tư, tôi rẽ trái. Nếu đi thẳng, từ nơi này đến biển còn cách xa khỏang bảy cây số.

            Làng Đông Nghi nằm kế làng tôi, chỉ cách nhau chiếc cầu bắc qua con suối cạn. Tôi vào con đường có bóng im trải dài. Khu chợ  nằm đối diện với ngôi trường tiểu học. Tôi ngửi được mùi vị cát quen thuộc của chính làng quê mình. Tới chiếc cầu nhỏ, nước dưới con mương chảy róc rách. Căn nhà bà nội tôi lợp ngói, phía trước là sân gạch, gần lối cổng vào có giếng nước. Quê tôi là vùng cát, giếng chỉ đào độ chừng hai thước là có nước dùng. Tôi bỗng cảm thấy trong sự mừng vui thầm lặng, có bóng dáng người yêu đang bước đi bên mình, hay ở một nơi xa nhớ đến mình.

             Nơi đây, xa rất xa. Nơi đây, tôi thoáng nghĩ đến mình vào những ngày đầu tiên đặt chân đến Đà Lạt. Ngày đầu tiên ấy là một ngày mưa, một ngày buồn lặng khi tôi đứng ở bến xe lam nhìn những cơn mưa chìm nổi trong bầu trời sương mù bao phủ kín hết các ngọn đồi.

            Hôm ấy, Thụy đến thăm anh Quý, ngồi được hai tiếng đồng hồ rồi đứng dậy từ  giã.  Năm ấy, Thụy chưa hề gặp Liên An. Năm ấy, nếu trong lòng Thụy có hình ảnh Liên An, thì bao nhiêu nhung nhớ  sẽ nhắc nhở anh luôn  viết thư cho nàng.

 

 

 

                                                                 XVI

 

 

            Chỉ còn một tuần lễ nữa là Tết. Sau mùa đông giá lạnh và mưa kéo dài suốt tháng, thời tiết đã trở lại với những ngày ráo khô và tràn ngập nắng. Trong lúc này, Nguyên rất là bận rộn. Buổi sáng, ngày nào anh cũng có hướng dẫn các đoàn thể trong tổ chức tôn giáo, từ thiện , sinh viên học sinh đi thăm binh lính ngoài tiền đồn, đến chiều lại đưa họ trở về thành phố và đến quân y viện thăm và ủy lạo các thương bệnh binh. Nơi tiền đồn hay hậu phương, lính tráng, thương binh đều được các đoàn thể tặng quà và tiền để trong phong bì thư.

            Khoảng tám giờ đêm từ đơn vị Nguyên lái xe về, ghé nhà hỏi thăm sức khỏe của mẹ, chuyện học hành mấy em, sau đó anh đi qua nhà người yêu. Khi thấy Nguyên về, mọi việc riêng tư, kể cả chuyện học Vân Oanh đều ngừng ngay lúc đó. Và, niềm vui cho thấy, trên đôi mắt hai người luôn sáng dịu một nụ cười như thể đó là mấy nét bút phác họa đầu tiên trên bức tranh vẽ.

            Dưới ánh đèn ấm cúng trong căn phòng riêng, hai người trò chuyện, nay thì đâu còn những phút ngập ngừng để nói ra ít lời tỏ tình thương yêu, cuộc sống tự nhiên hơn, và câu chuyện chỉ là những sinh hoạt thường ngày. Nguyên luôn thích kể chuyện về đơn vị, về những người lính, và thành tích của Trung đoàn vừa mới gặt hái được, trong đó bao giờ cũng có sự góp công của anh.  Vân Oanh rất là vui, nàng cũng thích những chuyện kể ấy, chân thực, sống động, đầy tình người.

            Ngồi không lâu, hai người rời nhà. Những ngày hè, những ngày thu , đôi tình nhân đi dạo chơi, trời có trăng, kỷ niệm lãng mạn để ghi nhớ là  một hình bóng chung đôi đang khua nhẹ tiếng bước chân trên những con đường của thành phố nằm ven theo dòng sông. Những ngày mùa đông, giá  lạnh như đêm nay, hai người đi bộ bên nhau, chuyện trò thích thú, hơi lửa ấm nằm trong tiếng nói, chiếu sáng từ nụ cười, họ tìm đến những quán cà phê ít khách, nhưng cũng hay có nhiều đêm bỏ trống cuộc tự tình lang thang giữa đường phố vắng, Nguyên lái xe đưa người yêu đi  ra các vùng ngoại ô hẻo lánh tìm một quán ăn khuya rất bình dân, nhưng thật ngon. Ăn xong, còn trò chuyện khá lâu mới lên xe trở về, đến nhà, hai người vẫn chưa thể rời nhau, và Nguyên luôn luôn dành cho người yêu những nụ hôn âu yếm trước khi nàng đi ngủ. Một mình trong đêm,  từ thành phố Nguyên lái xe vượt qua những con đường chạy dài theo cánh đồng, theo triền núi để trở lại đơn vị.

            Huế cũng đang tổ chức lễ hội chào đón mừng Xuân mới tại hai nơi, khu Morin và khu Đại Nội. Ở hai nơi này, ban văn hóa tỉnh sẽ có tổ chức nhiều đêm ca nhạc tân cổ và hai cuộc triễn lãm về nghệ thuật.  Khu Đại Nội, phòng triển lãm trưng bày những ấn tích cổ xưa của các đời chúa, đời vua  triều nhà Nguyễn. Khu Morin, dành cho hội họa, đó là những tranh sáng tác của nhiều họa sĩ  trong thành phố và sinh viên trường Mỹ Thuật.  Vân Oanh hoàn tất được bốn bức sơn dầu và lụa rất ấn tượng, nàng sẽ dành bốn bức này tham dự cuộc triển lãm. Khởi từ  đầu tháng chạp và chấm dứt tuần rồi, những tranh thiệp của Vân Oanh vẽ cho mùa Giáng Sinh và lễ Tết bán rất chạy ở các hiệu sách, và nàng đã thu được một số tiền rất khá. Đây, đúng  là món tiền đầu tiên tưởng thưởng cho công trình nghệ thuật của nàng. Ít ngày nữa, với số tiền này Vân Oanh sẽ đi mua sắm quà Tết, cho Nguyên, gia đình Nguyên và gia đình mình. Vân Oanh sẽ vào Đà Nẳng sáng ngày ba mươi. Trưa 28 , nàng buổi dự liên hoan ở lớp,  đến chiều Nguyên sẽ đón nàng đưa lên Trung đoàn tham dự một tiệc tất niên với các gia đình anh em binh sĩ. Sau Tết, Nguyên sẽ vào Đà Nẳng thăm Oanh và chúc Tết ba mẹ nàng cùng mấy cô em trong gia đình. Chắc chắn, Nguyên ở lại bên Oanh một ngày để chơi xuân và thăm bạn bè.

            Những ngày còn lại đến trường lớp, học sinh, sinh viên không học hành nhiều. Ai cũng vui, chờ Tết. Và, nắng xuân đã làm cho cuộc sống manh nha, nẩy mầm. Lớp của Oanh hai giờ đầu có vẻ nghiêm túc, sau đó trở nên hoạt náo, cả đám đùa giỡn, phá phách, rồi kéo nhau ra quán cà phê ông Tôn bên ngoài cổng Thọ Nhơn, vào đây, cả đám cũng quậy phá , làm ồn ào, nhưng thực sự vui.

            Oanh ngồi bình thản với ly cà phê , nàng rất cảm thấy vui, dễ chịu trước cảnh vui nhộn của các bạn cùng lớp.

            Có một người từ bàn bên kia, đứng dậy, giọng chững chạc nói:

-Chúng ta hãy đề nghị với các thầy cùng  ban Giám đốc trường xin dành riêng một cuộc triễn lãm cho Vân Oanh.

-Đồng ý.

            Nhiều bạn vừa đáp lời, vừa đứng dậy hoan hô, tay  anh nào cầm ly cà phê đưa lên cao. Rồi một lát sau, một bạn ngồi chung bàn với Oanh, nói:

-Năm tới nữa tốt nghiệp, Oanh ra trường rời xa Huế, ngôi trường này, thành phố này không còn bóng dáng của Oanh nữa.

            Cô gái chỉ mím môi cười. Với một cử chỉ đó thôi mà nàng làm cả bọn ngẩn ngơ nhìn ngắm. Giọng người kia, lại tiếp:

-Rồi những năm sau, ngôi trường này, kỷ niệm đáng ghi nhớ là hình ảnh Vân Oanh thôi. Vâng,  không còn một bóng hồng nào thay thế nữa.

            Lập tức, Oanh lên tiếng:

-Bộ sinh viên học vẽ không có con gái sao ?

            Câu chuyện ồn lên, người bàn bên kia nói:

-Đồng ý là sẽ có, nhưng chỉ một Dương Quý Phi là Vân Oanh, là của trường Mỹ Thuật thôi. Không, sẽ không còn một ai, mà nếu có, cũng không một ai thay thế được nàng tiên Vân Oanh hết. Vân Oanh xa Huế, rồi thành phố này cũng sẽ buồn vì thiếu vắng người đẹp, thiếu vắng bóng thiên thần.

-Thôi đi , đừng có ca cải lương nữa.

            Oanh cố chống chế, nhưng nàng cười, lòng cũng rất vui. Cả bọn lại ồn lên, ngay lúc ấy, anh chàng vừa đưa ra những lời tán tụng, bỗng bắt chước giọng người miền Nam cất lên một bài hát cải lương . Dứt bài hát, Oanh cùng các bạn vỗ tay tán thưởng thật giòn giã.     

            Trưa hôm nay, sau buổi học về Oanh ghé vào chợ Đông Ba mua thức ăn. Khi nàng đi ngang các gian hàng chợ, ai cũng chú ý, cười vui nói ra lời ngợi khen sắc đẹp của nàng. Họ không thể biết, nàng đã có người yêu. Nhưng với khuôn mặt trái soan, mái tóc trên vai áo như một khúc sông hiền hòa, nàng đã thể hiện những nét đặc sắc của một thiếu nữ, mà các cô gái ở thành phố này hầu như xa lạ hẳn. Vân Oanh không chỉ có năng khiếu về họa, mà đan áo, nấu ăn cũng là sở trường của nàng. Vân Oanh rất rành nấu món mì Quảng, và đó cũng là món Nguyên rất  thích. Nguyên thích ăn món này, không phải để chiều ý người yêu, nhưng đó là món bình dân anh ăn rất ngon hơn cả phở và bún nữa.

            Cách đây đúng một năm, cây cầu Mới khánh thành. Chiếc xà lan qua sông Hương, dấu tích của chiến tranh đã dẹp cất. Tuy nhiên, công trình xây lại cầu Trường Tiền vẫn được xúc tiến, nhưng còn chờ , còn cần thời gian để thực hiện nguyên hình dạng như trong bản vẽ cũ.

            Người phát thư xuất hiện đầu lối cổng vào, anh ta xuống xe đạp dắt bộ hướng về căn nhà cuối dãy. Vừa lúc ấy, Oanh tới nhà. Nàng từ đằng sau lên tiếng:

-Có thư phải không anh ?

            Người phát thư quay đầu lại, thấy nàng liền đáp lời:

-Dạ có.

            Anh ta cầm gói ấn phẩm và thư đưa liền cho Oanh. Nhìn anh ta, nàng nói:

-Cám ơn anh nhiều.

-Dạ, không có chi.

            Oanh nhìn xuống tên người gởi nơi gói ấn phẩm, bỗng ngạc nhiên, vừa cảm thấy vui.  Còn lá thư là của Kim, bạn học cũ ở trường Mỹ Thuật.

-Cám ơn anh nhiều lắm.

-Không có gì đâu cô,  ngày nào cũng đi đưa thư mà.

-Dạ, chào anh.

            Người phát thư ra cổng rồi lên xe đạp đi về hướng cây cầu.

            Oanh dựng xe đạp dưới bóng im cây trứng gà bên hông nhà, nàng quay trở bước, rồi đi lên bậc thềm, dừng lại một chút  tra chìa khóa mở cửa. Vào nhà trong, Oanh để ấn phẩm và thư ở bàn khách còn túi thức ăn thì đem vào nhà trong đưa xuống bếp đặt lên mặt bàn có để rổ chén bát.

            Oanh thay quần áo nhẹ màu cam xong trở lên nhà. Nàng ngồi xuống phòng khách, mở thư  cô bạn ra đọc trước. Kim và gia đình đang ở Sài Gòn. Sài Gòn quá ồn ào, Kim rất là nhớ Huế.  Rồi, qua những lời tâm sự, Kim nói tới người bạn trai là Trình một Sinh viên Luật đang theo đuổi nàng. Nàng chưa quyết định, nhưng đã có những lúc phân vân, bối rối. Thư  Kim viết hai trang giấy pelure, đọc xong Oanh gấp lại. Thong thả, Oanh cẩn thận mở gói ấn phẩm , nàng cũng đang nghĩ nhiều đến người em của Nguyên.

            Số tiền nhuận bút 700 đồng và thêm hai tờ báo Xuân Tòa soạn gởi Thụy đã nhận được qua thư bảo đảm. Thụy nghĩ ngay lúc ấy đến hai người mình sẽ tặng quà là Ninh Hà và Vân Oanh. Đây cũng là dịp, Thụy tìm ra được một số ý để viết vào lá thư gởi cho người bạn gái của anh mình.

            Còn đến ba tuần lễ nữa mới Tết Nguyên Đán. Năm nay, kẹt trong thời gian còn khóa học nên Thụy cùng các bạn đang học phải đón Tết ở quân trường. Nhưng dù vậy, việc tổ chức Tết dành cho tân binh, khóa sinh, SVSQ cũng sẽ được vị Chỉ huy trưởng lưu tâm. Vào tuần lễ rồi, bên đoàn SVSQ có hai mươi người được  gọi về Bộ Tư Lệnh để làm thủ tục xuất ngoại. Tối hôm ấy, ở hội quán Câu lạc bộ Sinh viên rất ồn ào, náo nhiệt. Thành, một bạn học cùng lớp với Thụy đang ở đây, chờ ngày đi Mỹ.

            Buổi chiều, đến năm giờ lớp học tan, Thụy ghé phạn xá ăn cơm xong liền  trở về phòng nghỉ. Ngày nào, Thụy cũng có lấy cơm không để ăn thêm buổi tối vì anh rất mau đói. Khi đến kỳ lãnh lương, anh hay mua một ít kẹo bánh, đồ khô, và cơ bản là một chai nước tương để ăn với cơm. Ở phạn xá, thức ăn ít, nhưng cơm nấu nhiều, dư dả, thường chỉ có Thụy và vài ba khóa sinh hay lấy thêm mang về ăn tối. Đây là cơm loại gạo hạt tròn  có bỏ thuốc vitamin nên ăn ngon, nhờ vậy, Thụy rất là khỏe.

            Sau khi cất sách vở, cà men cơm ở trên giá chỗ giường nằm,  Thụy trở ra ngoài sân, làm một vòng đi bộ cho dễ tiêu cơm, vừa  một hình thức đi thể dục. Hôm nay là thứ sáu, ngày mai cuối tuần được phép ra phố. Đó là nguyên tắc, kỷ luật quân trường, chứ thực ra bọn anh coi như là lính cơ hữu, sau giờ làm việc ra vào cổng lúc nào cũng được. Ở trạm gác trong, SVSQ chỉ chú ý đến các khóa trong đoàn Sinh viên, không mấy ai quan tâm về khóa sinh và cũng chẳng khi nào gây khó dễ.  Ở cổng gác ngoài cũng vậy, lính gác đều biết rõ lớp của Thụy là khóa sinh. Tối nào, trong đám bọn anh cũng có người đi, nhất là vào mùa trăng, ra biển ngồi ngắm cảnh sóng nước, núi non cũng thích thú, lãng mạn. Nói chung, đám binh sĩ như anh, người nào cũng có bằng Thành Chung, cũng học đến chương trình Tú Tài, thi không đậu đạt thôi, chứ kiến thức so với SVSQ không quá chênh lệch.

            Khoảng tám giờ tối, Thụy lên phòng đọc sách báo ngồi viết thư. Đúng là với món quà tặng là tờ báo Xuân giúp anh  dễ dàng viết nên được lá thư tự nhiên để gởi cho chị Vân Oanh. Thụy nghe rõ trong lòng mình, gọi Vân Oanh bằng chị thật là chân tình, quyến luyến. Mới lúc đầu, Thụy có sự đắn đo, nhưng nghĩ nàng là bạn gái anh mình, anh xin gọi là chị, vừa tiện, vừa thân. Thụy viết khá nhanh, dồi dào ý, xong lá thư một cách thật nhẹ nhàng. Thụy muốn viết thư  viết cho Ninh Hà vào những ngày sau, có thể là gần Tết, lúc đó kể cho nàng nghe những vui buồn của anh trong thời gian ăn Tết ở một nơi xa. Ninh Hà , tên nàng có lúc nhớ, Thụy bỗng gọi tên Nha Trang là thành phố dấu yêu của anh và nàng. Còn Vân Oanh, trong cái tên ấy, Thụy đang mong tìm kiếm một xứ sở, một thành phố làm thủ đô, và thành phố ấy  nằm trong trái tim hồng đỏ của xứ sở nước Nga, nơi đất nước ấy, anh mến yêu biết bao chừng khi nhớ nghĩ đến nhà văn Antoine Tchékhov, và ông, cũng như bây giờ có cả Vân Oanh nữa cho anh cả một giấc mơ trên những cánh đồng cỏ, những khu vườn anh đào, và những mùa chim hải âu thiên di. Xong một buổi tối, Thụy ôm tập giấy đứng lên, rời phòng đọc sách.

            Khi về đến phòng, có cuộc đấu cờ tướng của hai bạn cao thủ, cả hai đánh rất hay, đông anh em xúm xít đứng coi, Thụy cũng  ghé mắt vào, được thấy mỗi con cờ có những nước đi thật sắc sảo, thông minh.

            Về đêm, đến giờ kẻng báo ngủ Thụy lên giường nằm yên lặng. Một lúc, trời có mưa. Thụy kéo tấm chăn đắp lên ngực nằm nghe mưa. Trong cơn mưa, anh vừa hình dung và nghe ra được những tiếng nói thân thiết, cảm động. Ở Nha Trang, tuy cũng đang thời tiết của mùa đông nhưng không có những ngày lạnh giá, và trời mưa dai dẳng như là ở miền Trung phía Bắc, nhất là ở Huế và Quảng Trị quê của anh.

            Ngày hôm sau, Thụy chưng bộ quần áo vàng đi phố. Không có lon lá đeo lên cầu vai, nhưng bộ quần áo vải kaki trông đẹp, khỏe mạnh, và đội chiếc nón cát kết xanh dây viền đen, nhận thấy mình trẻ hẳn ra, nào thua kém ai. Rồi đây, Thụy lấy xong bằng Tú Tài đôi, đi SVSQ kỹ thuật, rồi  tìm ra một em xinh đẹp ở thành phố này, đấy là nguồn vui, phải không bạn.

            Trên đường phố chính hẳn còn vắng, một số cửa hiệu buôn bán chưa mở cửa. Thụy ghé vào tiệm ăn sáng làm một tô phở lớn, rồi ly cà phê sữa. Ngồi trong quán, sau bữa ăn, Thụy đốt thuốc hút, nhấm nháp từng hớp cà phê, mắt vừa nhìn ra đường, còn tâm trí cố thể hiện một nhận thức về cuộc sống, Thụy thấy rằng, mình được như thế này là đủ. Tôi sẽ ở lính Không quân đến khi đất nước thanh bình, thống nhất, rồi được giải ngũ. Tôi sẽ viết văn, và tin rằng ngòi bút mình ngày càng vững vàng, và tôi sẽ viết khá, sẽ trở thành nhà văn, và sẽ lần lượt cho in nhiều tác phẩm truyện dài, truyện ngắn, rồi sẽ nổi tiếng, độc giả hoan nghênh, rồi  sẽ hái được nhiều tiền nhờ vào những cuốn sách in ra bán được. Nhưng mà thôi, hãy để bao nhiêu giấc mộng ấy qua mau, và nãy giờ, cứ miên man vậy mà tôi không ước mơ chuyện mình sẽ lấy vợ. Đó là vì, tuổi tôi còn trẻ, tôi vẫn phải sống thật lãng mạn để viết văn.

            Một giờ sau, khu phố chính thức dậy, ồn ào với người và xe cộ đi qua lại trên vỉa hè, trên mặt đường, rồi đâu vào đấy, mọi thứ sẽ bắt đầu theo sinh hoạt thường lệ rất sống động vào hai ngày cuối tuần. Các cửa hiệu buôn bán đã mở cửa. Rạp hát chính cũng khởi sự buổi chiếu phim đầu ngày.

            Thụy trả tiền tô phở, ly cà phê sữa, mua thêm gói thuốc xong rời quán. Từ quán ăn, anh đi bộ tới hiệu sách xa chừng lối trăm mét. Vào trong cửa hiệu, anh tìm mua ngay mấy tờ báo Xuân, ảnh chụp thắng cảnh, và một tờ giấy màu để gói, một bao thư lớn để gởi, xong trở ra quầy tính tiền.

            Hôm nay thứ bảy, nhà Bưu điện mở cửa đến ba giờ chiều. Khi tới đó, Thụy qua chỗ bục đá có sẵn bàn dành cho khách cần viết thư. Thụy chiếm lấy một ô, rồi bắt đầu gói quà tặng xong bỏ vào bao thư lớn màu vàng. Chỉ mất thời gian nửa tiếng là xong, sau đó, anh đứng sắp hàng chờ đến phiên.

            Từ nãy giờ, Vân Oanh im lặng với những cảm giác của nàng như hương sắc trong cây lá mùa xuân được chan hòa, cất giấu. Nàng coi đây là những giây phút hạnh phúc quí giá, và để nhớ tới người em của Nguyên nàng muốn có thời gian lúc này, từng thứ một trong gói quà như thể là tiếng nói, khuôn mặt người đó đang ở bên nàng.

            Báo Xuân in rất đẹp, nhiều phụ bản. Mỗi tờ cầm trên tay, Oanh lật nhẹ từng trang, đọc qua tựa bài, tên tác giả, và luôn luôn nàng gật đầu cho rằng em của Nguyên đã chọn mua những tờ báo có bài vở rất hay, gây thích thú người đọc. Tờ báo Xuân sau hết là Tiểu Thuyết Thứ Năm. Vừa mở ra, thấy có chữ Kính biếu son đỏ, Oanh đoán biết ngay là có truyện của Thụy  viết đăng trong số báo này. Nàng vội lật qua trang, đọc phần mục lục, và khi tìm thấy có tên của Thụy lòng nàng hết sức vui. Lập tức, Oanh tìm ngay đến trang có đăng truyện, thấy dòng chữ in, thấy tên tác giả và bên cạnh truyện có tranh vẽ, nàng thật hãnh diện muốn nhắn gởi niềm vui chia sẻ với em của Nguyên.

            Thật chăm chú, Oanh đọc. Nàng không bỏ sót một câu, một dòng. Và sau khi đọc xong, lòng Oanh cảm thấy rất vui.  Nàng vẫn ngồi đó xem những bức ảnh thắng cảnh ở Nha Trang, những bức ảnh màu có nền vàng và xanh biển rất là đẹp.

            Sau cùng, Oanh mở lá thư  của Thụy.

 

            Chị Vân Oanh thân mến,

            Nhân dịp đón Xuân về, Thụy gởi tặng chị món quà Tết và cùng với lá thư này viết ít lời gởi thăm sức khỏe chị cùng gia đình hai bác.

            Thụy đang ở Nha Trang, học lớp chuyên môn ngành điều không, còn chừng hơn tháng nữa là mãn khóa học, sau đó về đơn vị ở Sài Gòn làm việc như trước kia.

            Như mấy năm trước, Thụy vẫn ăn Tết xa nhà, nhưng bao giờ mỗi cái Tết cũng làm mình nhớ đến những người thân rất nhiều, năm nay trong những người thân quen thuộc ấy, có thêm hình ảnh của chị nữa.

            Những tờ báo Xuân gởi chị làm quà Tết, trong đó có một truyện ngắn của Thụy được đăng ở tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Khi viết xong truyện gởi đi, Thụy cũng chỉ mong đăng số báo thường thôi là vui rồi, đâu ngờ được tòa soạn chọn vào số báo Xuân. Một mầm non văn nghệ mới tập tễnh viết, mà truyện được lên báo Xuân thì le lắm chị Vân Oanh ạ. Không chỉ cho đăng thôi, Tòa soạn còn gởi một mandat tiền nhuận bút thật hậu hĩnh, 700 đồng, bằng một phần ba tháng lương lính của Thụy đó.

            Rất hy vọng món quà Tết với ít tờ báo Xuân và ảnh thắng cảnh làm chị vui, và rồi thế nào cũng có một ngày về phép thăm nhà, Thụy sẽ được gặp chị. Vào ngày hôm đó, nhận được thư anh Nguyên, anh có nhờ Thụy mua cuốn sách Tìm hiểu hội họa của tác giả Đoàn Thêm gời cho chị, Thụy đã tìm mua được, nhưng không gởi ngay từ Sài gòn mà phải ra Nha Trang vì ngày đi học đã cận kề , với lại có địa chỉ Nha Trang, nếu chị đáp thư cho biết tin nhận được thấy an tâm hơn, phòng thêm nữa, bưu kiện có bị trả lại mình vẫn nhận được.

            Thật là rất vui, cảm động khi đọc thư của chị. Những chuyện nho nhỏ trong gia đình, trong cuộc sống,  chị kể lại cho nghe qua thư thật là thân tình, và rất ghi nhớ. Buổi tối ấy, anh Nguyên gặp chị ở quán cà phê, rồi quen nhau khi về đến nhà, đó là một mối tình thật dễ thương và đẹp. Rồi hai người hiểu nhau, anh Nguyên đã vào Đà Nẵng thăm chị và gia đình hai bác, rồi ít ngày sau, hai người cùng lên một chuyến tàu trở raHuế cho kịp mùa học, rồi cũng có một hôm,  anh Nguyên và chị rất là vui vẻ với chuyến đi ra Quảng Trị, Đông Hà để thăm hai làng quê nội và ngoại của anh. Một chuyến đi như vậy thực là cả một tấm lòng, hạnh phúc dành cho chị , mang đến cho chị là nguồn cảm hứng về quê hương, và chị đã sáng tác được những bức tranh quí giá, còn về  Thụy thì  những hình ảnh làng quê cũ được sống lại trong một nỗi nhớ quá dịu dàng, thật thân thiết, qua những dòng thư  rất chân tình chị đã viết và gởi cho đọc.

            Rất mong đến kỳ hè năm tới đây, Thụy lại được hưởng kỳ nghỉ phép thường niên, lúc ấy, thu xếp một chuyến đi về Huế thăm nhà để  gặp chị ở thành phố này, và nếu chị về nghỉ hè ở Đà Nẵng, Thụy cũng sẽ đi theo anh Nguyên hoặc một mình vào đó thăm chị. Ở Đà Nẵng, mấy năm trước, Thụy có ở trọ nhà dì Vân và học ở trường Sao Mai. Năm học đó, Thụy cũng có quen một người bạn gái khá thân, giờ thì nàng vẫn ở nơi chốn cũ ấy, nhưng đã có chồng con rồi.

            Chắc chị Vân Oanh còn đợi thêm một năm cuối nữa sẽ ra trường, phải không. Sau này, tốt nghiệp chị sẽ chuyên sáng tác để triển lãm tranh, hay ra trường chị sẽ chọn làm cô giáo dạy môn Vẽ. Chà, cô giáo Vân Oanh với bóng dáng chiếc áo dài mà đứng trên bục gỗ ở lớp, thì đã là bức tranh thể hiện cuộc sống thực ngoài đời, đâu còn tưởng tượng ra gì thêm những nét vẽ khác nữa, phải không ?

            Rất là mến chị, dù chưa gặp. Và, một ngày nào đó qua hình ảnh cô giáo, bỗng dưng với cả tấm lòng mến yêu, anh Nguyên hay là Thụy sẽ đem được chị tới một nơi nghèo khó, và chị sẽ ờ  nơi chốn này với tất cả những tháng năm trong cuộc đời làm cô giáo của mình.

            Đó là một ngôi trường ở tỉnh  Quảng trị. Hình dung lại thành phố nhỏ ngày xưa, có một ngôi trường anh Nguyên, Lăng và Thụy đã học, và hình dung vào ngày đầu thu chị Vân Oanh xuất hiện làm cô giáo của trường, chừng bao nhiêu  sự cảm nhận ấy kết hợp lại, mãi mãi thành phố Quảng Trị sẽ là quê hương yêu dấu , và sẽ thuộc về tất cả chúng ta.

            Sự đi thăm một lần đầu của chị ra thành phố Quảng Trị, ra thị trấn Đông Hà, với anh Nguyên,  với khung cảng làng quê nội, quê ngoại  có phải  đó là một hạnh phúc được báo trước và chúng ta đang đợi chờ không nhỉ. Với Thụy, thì chị Vân Oanh người mẫu, là khung trời xanh, lúc nào cũng trải rộng cuộc sống của mình khắp nơi trong thiên nhiên, và rồi, đời của chị là ký ức một thành phố nằm bên những con sông êm đềm . Ở Quảng Trị có nhiều con sông và hai cửa biển. Rồi đây, có một ngày đưa chị đến dạy học ở nơi này, sông và biển, cả hai đều thủy chung một tấm lòng đối với chị.

            Cám ơn nhiều lắm lá thư của chị gởi cho Thụy đọc.  Không biết, thư và bưu kiện gởi quà cho chị sẽ đến với vào dịp trước Tết hay là sau đó.

            Trước hay sau, đối với Thụy, từ đây luôn giữ lâu  hình ảnh chị trong tâm trí để mong có một ngày về thăm gia đình và được gặp chị.

Nhớ đến anh chị rất nhiều khi ở xa,

Thụy.

            Mãi đến quá trưa, Vân Oanh vẫn ngồi một mình rất lâu ở phòng khách, sau khi đọc xong lá thư.                                                              

 

 

                                            Phần Thứ  Hai

 

 

                                                             I

 

 

            Khi chuyến xe ca rời khỏi trạm một lúc khá lâu, Thụy mới đi ra lối cổng đón xe buýt về nhà. Buổi sáng nắng lên cao, và lúc nhìn cảnh sinh hoạt vào giờ này trong thành phố, bạn luôn có cảm tưởng như  mình từ đâu xa vừa mới trở về. Về lại Sài Gòn sau mấy tháng ra Nha Trang học,  nay Thụy mới thực sự ổn định về công việc,  về một đơn vị có tính cách lâu dài,  và anh cũng sẽ không còn vướng bận thêm chuyện gì nữa. Vào hôm thứ sáu  trình diện ở Bộ Tư Lệnh,  sau khi bốc thăm, Thụy trúng tỉnh Cần Thơ, nhưng ước muốn được gần Sài Gòn nên Thụy đổi chỗ  Biên Hòa với Sang, cả hai bạn cùng đồng ý không mặc cả hay bù trừ thêm một khoản nhỏ nào hết. Sang xuống Cần Thơ là được ở gần gia đình, còn Thụy, lên Biên Hòa, nơi này chỉ cách Sài Gòn 30 cây số, đi về trong ngày hay trong tuần thực dễ dàng.

            Lăng vừa mới thi đậu vào trường Hành chánh, ban Cao học. Trước kỳ nhập học, Lăng về Huế thăm gia đình, bà dì Quyên me Lăng vẫn ở căn nhà trên đường Phan đình Phùng trông xuống bờ sông. Căn nhà này có vẻ bình dị, nhưng mát mẻ, sân trước khá rộng để có thể đặt một bàn bóng bàn hoặc chơi vũ cầu. Cũng còn hai năm nữa, dì Quyên đến tuổi nghỉ hưu. Hồi nhớ lại bao nhiêu năm tháng cũ, hình ảnh dì một góa phụ còn trẻ đã để lại trong tâm trí những đứa cháu gần gũi như  Thụy và anh Nguyên cả một tấm lòng nhân hậu với nhiều kỷ niệm rất là nhớ, thương yêu. Một năm đó, về quê ngoại không đi đò dọc mà bằng đường bộ, dì Quyên dắt Lăng và hai đứa cháu là anh Nguyên và Thụy vượt cạn qua một con sông khá rộng. Thụy cũng còn nhớ nữa, những năm đầu ở lớp tiểu học, anh lắng tai nghe tiếng dì đọc bài tập đọc để viết chính tả, và mỗi bài tập làm văn anh được dì hướng dẫn cho cách đặt câu. Mẹ anh và người dì, tính tình khác nhau, học vấn cách biệt nhau, nhưng hai chị em rất thương nhau và ngoài đó, lui tới cũng chỉ còn hai chị em. Ở xa, các cậu và các dì em do công việc làm, do sinh kế, đã lâu rồi chưa có dịp trở về Quảng Trị để thăm làng quê.

            Bây giờ đây, có thể nói dì Quyên đã nhẹ gánh. Trinh tốt nghiệp Sư phạm Qui Nhơn ra trường, dạy học được hai năm. Kim vừa thi đậu Tú Tài II, còn Lăng cũng đã xong Cử nhân Luật. Sau hai năm bên ban Cao học hành chánh, ra trường Lăng sẽ có chức vụ từ Trưởng ty trở lên. Vài hôm trước khi về Huế, Lăng tâm tình với Thụy là ít năm nữa ổn định việc làm Lăng sẽ đưa cả gia đình vào Nam xuống miền Tây định cư. Thụy hết sức đồng ý với dự định của Lăng. Thụy cũng rất yêu thích miền Nam, anh cảm nhận nơi quê hương này luôn có sự bao dung đối với những người tha phương, lưu lạc và ước mong họ lập nghiệp với cuộc sống yên bình.  Tuy nhiên, không chắc lắm dì Quyên muốn xa khung cảnh trầm lặng ở Huế, nhất là đi quá xa Quảng Trị, quê hương ruột thịt của đời mình.

            Mười giờ sáng rời Sài Gòn, sau gần hai giờ bay phi cơ hạ cánh xuống Phú Bài. Từ phi trường, luôn có nhiều chuyến xe ca đưa khách về thành phố.

            Mùa hè đã tới, Huế lại rộn ràng trong không khí giữa mùa thi. Thụy chợt nhớ Liên An, nhớ một đôi nét tin yêu trên gương mặt của nàng. Trong buổi chiều ấy từ biệt, đứng ở bậc thềm sân nhà ga anh nhìn theo bóng dáng một cô gái áo trắng trên đường về nhà. Và ý tưởng ấy, từ một thành phố không cần đem cho tên gọi nhưng anh vẫn gói ghém được sự dịu dàng của tình yêu trong tiếng nói.

            Trưa, nắng gắt. Lăng xuống xe xách va li bước qua sân, cả nhà vừa trông thấy cùng ùa reo lên nỗi  mừng vui. Dì Quyên đứng một mình bên cửa, cặp mắt lặng nhìn,  bóng dáng đứa con trai đã trở về rất thân thuộc. Lăng mặc chiếc áo sơ mi kẽ sọc xanh, chiếc quần tergal, nơi cổ tay đeo cái đồng hồ Movado.

            Bên ngoài con đường vắng bóng người, nhưng gió từ dưới sông thổi dậy lùa bay bụi đường trông như thể thấy mái tóc quấn dày của một cô gái đang bị xổ tung.

            Phương hỏi:

-Anh về nghỉ được lâu không ?

-Một tháng.

            Một lát sau, vợ chồng Tri và Trinh về tới nhà, bữa ăn được dọn lên. Rồi bỗng dưng vội vàng, Tri quay trở ra ngoài, ngồi lên xe Honda nổ máy xong vèo đi ngay , chừng mười lăm phút sau trở lại với một két bia Hòa Lan.

            Phương ngạc nhiên hỏi:

-Ở quán , có ai núp mưa không anh Tri ?

            Tri đáp lời ngay:

-Anh Lăng ở xa về, cả nhà phải chào mừng anh.

            Gia đình họp mặt đông đủ. Bữa ăn dọn lên nhiều món, bày biện đẹp mắt. Tri ngồi cạnh Lăng, vừa cười, vừa nói rằng món bánh tráng cuốn với các thứ rau, thịt heo, cá, tôm quá hấp dẫn, thiếu ly bia là không thể được.

            Hai anh em cụng ly,  rồi nốc cạn. Khi Tri rót thêm bia, Lăng hỏi:

-Tri có xin cải ngạch không ?

-Không, em dạy ở Tiểu học cho khỏe, ham chi chức giáo sư.

            Bữa ăn bắt đầu, cả nhà cùng vui tiếng chuyện trò. Nắng hè thoang thoảng hương vị thơm, và dòng sông thật êm ả.

            Tri có học thêm trên trường Văn Khoa, đã xong hai chứng chỉ. Tri không bị đi lính vì là con trai độc nhất  trong gia đình. Tri và Trinh học cùng khóa Sư phạm Qui Nhơn, hai bạn quen nhau ở trường ngay năm đầu mới nhập học. Ra trường, được ít tháng thì xin lễ hỏi, rồi một năm sau là đám cưới. Nhưng hai vợ chồng còn thư thả , vì chưa có nhóc tì nào cả.

            Bữa ăn rất ngon miệng. Có ly bia, Lăng uống từ từ , và trên mặt đã thấy hừng đỏ. Nãy giờ, dì Quyên rất vui trong lòng nhưng không nói gì cả, mỗi khi ngừng đũa, dì đưa mắt nhìn đứa con trai. Lòng dì dễ bị xúc động, trên ánh mắt thật muốn nói rất nhiều.

            Bỗng Lăng nghe tiếng của Phương:

-Em muốn vào Sài Gòn.

-Sao không học ở đây ?

            Phương cười:

-Em chán ở Huế rồi.

            Lăng hỏi:

-Nhưng vào Sài Gòn, Phương tính ở đâu ?

-Thì ở  nơi nhà cậu với anh .

            Một giọng dè dặt, cân nhắc, Lăng đáp lời:

-Anh nghĩ Phương nên học ở đây ít năm đầu. Anh ra trường rồi, sẽ cố gắng đưa me và các em vào miền Nam.

            Rồi với chút băn khoăn, Lăng nói thêm:

-Anh Thụy ở Sài  Gòn, mà cũng về trong trại lính.

            Tri khui một chai bia nữa, rót đầy thêm vào ly của Lăng.

            Dì Quyên nói:

-Thôi, uống chi nhiều vậy.

            Tri cười nói:

-Anh Lăng ở xa về, me cho anh say sưa một bữa.

            Với gương mặt dễ thương, nụ cười rất hảo cảm Tri muốn làm dịu đi sự lo lắng của người anh, và tuy là em rể, nhưng trong nhà, cảnh huống mỗi người Tri hiểu rõ hơn ai hết.

            Lăng nói:

-Anh Thụy đi lính rồi, cũng thấy khỏe.

            Trinh hỏi:

-Anh Thụy được chức chi rồi ?

-Không chức chi hết. Lính trơn thôi, nhưng anh sống tà tà.

-Anh có bằng Tú Tài mà lính thôi sao ?

-Ờ, anh thích vậy. Ở lính nhàn hạ, có thì giờ học thêm.

-Em rất đồng ý với anh Thụy. Rồi đây, có lấy được bằng Đại học, em vẫn cứ dạy ở dưới này cho khỏe thân. Và, rảnh thì giờ, mình dạy trường tư.

            Trinh hỏi:

-Bên hành chánh, anh học bao nhiêu năm mới xong ?

-Hai năm thôi. Ra trường, anh được bổ nhiệm ngay. Anh cũng rất muốn đưa cả gia đình vào miền Nam sinh sống.

            Bữa ăn trưa thư thả, kéo dài trong sự ấm áp của tiếng chuyện trò.  Khi mọi người ăn xong, cơm và thức ăn còn dư nhiều. Tri hỏi Lăng:

-Anh Lăng uống cà phê không ?

            Lăng gật đầu. Dì Quyên và Trinh dọn dẹp gom thức ăn dư vào dĩa, và đem chén bát xuống nhà. Tri đi đun nước sôi để pha cà phê. Phương và Lăng ngồi lại bàn.

            Phương hỏi:

-Anh ở nhà cậu mợ , khó khăn không ?

-Không, nhưng đến lúc mình phải tự lập.

-Me rất muốn anh đi làm việc sớm.

-Anh cần phải đi làm nên học ngành này. Anh đã tính rồi, có muốn ra Luật sư thời gian tập sự đã lâu mà tìm việc cũng khó. Với lại , anh không thích việc Tòa án.

-Em rất muốn vào Sài Gòn.

-Trường Đại học đây cũng tốt.

-Không, em chỉ muốn xa Huế.

-Anh muốn em hiểu về me và gia đình những người thân.

-Em hiểu chứ.

-Sao em không xin đi du học.

            Phương cười:

-Em hỏi rồi. Phải đậu hạng Bình trở lên.

            Tri đem nước đá và cà phê lên. Phương cười bảo:

-Hôm nay anh Tri quá giỏi.

-Đừng có khen anh.

            Cà phê được pha trong một cái phin lớn, sau đó sớt làm ba ly. Mỗi người nhận lấy phần mình, tùy theo lượng đường, nước đá tự động bỏ lấy.

-Chiều nay có tới trường không ?

-Không, em chỉ có mặt buổi sáng.

-Anh Tri đang làm Hiệu trưởng.

-Vậy à. Đã có giấy bổ nhiệm ?

-Em làm bốn tháng nay rồi.

-Vậy là ngày nào em cũng phải đeo cà vạt, ngồi bureau ký giấy tờ.

            Tri cười đắc ý.

-Trinh dạy trường nào ?

-Vỹ Dạ.

-Me dạy gần hay xa ?

-Trên Nguyệt Biều.

            Ba anh em uống cà phê, chuyện trò thân mật. Chỉ có mình Tri hút thuốc. Tri hỏi:

-Anh Thụy còn viết văn không ?

-Còn. Ông là thứ lính hạng nhất.

-Anh có bồ bịch gì chưa ?

-Ông thì lung tung.

-Anh viết truyện tình ra rít lắm. Không biết ngoài đời ra sao ?

-Ông đâu có người thật. Nhân vật các cô là tưởng tượng thôi.

-Vậy mà có truyện anh viết tưởng như là thật.

            Buổi chiều, Tri chở Lăng xuống phố chơi. Xe đưa vào bãi gởi, sau đó, hai anh em lang thang trên phố Trần Hưng Đạo. Huế không thay đổi nhiều, nhưng mỗi lần trở lại, Lăng vẫn cảm thấy ngỡ ngàng. Lăng đã quen cuộc sống miền Nam, và Sài gòn là thành phố Lăng đã có sự gắn bó về cuộc sống, về tuổi trẻ của mình hơn đâu hết.

            Ngày hôm sau, giỗ chú Vinh chồng dì Quyên. Ông Hoàng em chú Vinh cùng vợ đến dự mang theo một mâm trái cây. Khách mời đông, cỗ dọn cả nhà trong và ở ngoài dưới mái hiên.

            Đến chiều vãn khách, giờ đó anh Nguyên mới đưa Vân Oanh tới. Cà nhà vui, hạnh phúc lúc thấy  lên khi đôi tình nhân xuất hiện, và ai cũng khen Vân Oanh quá đẹp. Đợi anh Nguyên giới thiệu xong, Oanh mới hỏi chuyện Lăng. Giọng nói nhẹ nhàng của thiếu nữ đem lại một ý nghĩa một sự giao tiếp thân tình, mà nàng cũng đã thể hiện bản tính của mình tươi sáng như bông hoa.

            Trong lúc chờ ăn cỗ, mấy anh em ngồi quanh chiếc bàn tròn với nước trà, bánh ngọt.

-Anh Lăng mới gặp chị Oanh lần đầu phải không ?

            Phương hỏi, Lăng gật đầu. Với nụ cười luôn có trên đôi mắt, Vân Oanh nhìn qua Lăng và nàng cố gợi nhớ đến những chuyện Nguyên đã kể về giòng họ bên ngoại anh cho nàng nghe. Không cần hỏi nhiều thêm, Oanh cũng đã biết Lăng là em bạn dì với 

Nguyên. Và, nàng lại rất thân với  Phương, lại còn được dì Quyên quí mến coi nàng như là cô cháu thân thương nhất trong nhà.

-Anh Lăng có hay gặp  Thụy không ?

            Phương bật cười, nhắc:

-Hai người sắp lễ hỏi rồi, đổi cách gọi trước đi.

            Vân Oanh chỉ mỉm cười nghe Lăng nói:

-Có gặp luôn, chị. Anh Thụy đi Nha Trang học xong nay về Sài Gòn.

-Hôm gần Tết, Thụy có gởi cho tôi mấy tờ báo Xuân.

-Lúc này, anh viết truyện cũng khá nhiều.

-Được nổi tiếng chưa ?

-Chưa. Nhưng cũng kiếm ra chút ít tiền.

            Bữa cỗ dọn lên. Ngồi quanh mâm cỗ hết là những người thân trong gia đình nên Vân Oanh rất tự nhiên, với lại, nàng sắp là cô dâu mới trong gia đình Nguyên. Nguyên ngồi bên cạnh dì Quyên, hai dì cháu vui chuyện về những tháng năm thanh bình cũng như chiến tranh ở làng quê.

            Mọi người đang cùng nghe tiếng Nguyên chuyện trò với bà dì,Trinh bỗng cắt lời:

-Anh Nguyên có trí nhớ hay thật.  Sau này, anh phải viết nên cuốn gia phả.

            Phương hỏi:

-Năm nay chị Oanh ra trường phải không ?

-Không, năm tới.

-Không phải bên Mỹ Thuật học ba năm.

-Bốn năm chứ. Có năm dự bị nữa.

-Năm nay chị có thi không ?

-Có, nhưng rớt loạt nhì.

-Vậy thì coi như đậu khóa hai.

            Lăng ít nói, nhìn Vân  Oanh với một cái nhìn thiện cảm, trong ý tưởng đó, sự hiện diện hôm nay của cô là hạnh phúc cho bao nhiêu người.

            Bỗng Oanh hỏi:

-Liên An, bạn của Phương đâu ?

-Đi Sài Gòn rồi.

-Liên An đậu không ?

-Đậu cao nữa. Vào Sài Gòn nạp đơn xin du học.

-Liên An học giỏi nhỉ.

            Nguyên vẫn hứng thú trong câu chuyện nói về những người bà con, làng nước. Hai dì cháu thật tâm đắc. Với dì Quyên, không chỉ có Lăng thôi, mà đến cả hai thằng cháu trai cưng của dì nữa được coi như là con đẻ vậy. Nguyên có khoa ăn nói, kể chuyện về cuộc sống, tính cách từng người. Ở trong quân đội, Nguyên làm việc xông xáo, đạt nhanh kết quả được Trung đoàn trưởng tin cậy, nhờ thế, anh rời đơn vị đi đâu cũng là một chuyến công tác. Những chuyến công tác từ đơn vị về thành phố, Nguyên dành được chút ít thì giờ rảnh để đến thăm Oanh. Và, nếu Nguyên theo con đường viết văn, anh sẽ viết nên được nhiều tác phẩm hay, gây ấn tượng với độc giả.

            Chiều nay, buổi họp mặt anh em trong gia đình làm ai cũng vui và Lăng thực sự đã về nhà, quen lại không khí ở Huế như ngày nào. Lễ hỏi của Nguyên và Oanh sẽ tổ chức vào ngày 24 tháng 10 ở Đà Nẵng.  Tuần lễ trước sau khi thi xong, Oanh đã về thăm nhà, bây giờ, nàng sẽ ở ngoài này học thi khóa hai. Trong khóa I, những buổi Oanh thi Nguyên đều về nhà, xem bài vở của Oanh làm qua giấy nháp. Anh ước tính điểm từng môn dựa qua bài làm của Oanh , và anh tin Oanh sẽ qua được loạt đầu. Trong bài thi loạt II chỉ có môn Vạn Vật Oanh được điểm khá, Sử Địa trung bình, Anh văn, Toán và Lý Hóa còn yếu nên rớt. Từ đây đến ngày thi lại, còn hơn ba tuần, Nguyên sẽ kèm cho Oanh hai môn Toán và Lý Hóa.

            Trời đêm có trăng. Sau bữa ăn, cả nhà đem bàn ghế ra sân ngồi hóng mát, chuyện trò vui vẻ. Rồi Nguyên khởi xướng chương trình ca nhạc sống, anh cầm đàn đánh nhạc đệm để  mọi người cùng vui hát những bài nhạc dân ca.

            Phương lên tiếng bảo Nguyên đệm bài Tà áo xanh của Đoàn Chuẩn cho Phương hát. Nguyên cố nhớ nhạc điệu, xong anh vào bài nhạc qua một nhịp đàn dạo, rồi Phương liền cất giọng. Tiếng Phương hát ngân vang, nhẹ nhàng, lúc thật lắng đọng, lúc nghe mơ hồ tản mác bay nhẹ như  những làn sương mỏng. Phương hát xong, mọi người vỗ tay, hứng thú. Rồi Phương  hát thêm bản Giọt mưa trên lá. Khi Phương hát lên bài này, Oanh cũng hát theo.

            Sài Gòn đang trở lại mùa mưa. Thụy xuống ca lúc sáu giờ sáng, về đến nhà trọ ở Thị Nghè đánh một giấc xong xuống phố chơi. Thụy tìm đến nhà Huê, không gặp nàng. Nhưng lúc ra khỏi con ngõ, bất ngờ nghe tiếng ai gọi, quay đầu nhìn anh bỗng thấy nàng ngồi trong quán nước.

            Với bước đi nhanh, Thụy vào quán. Vừa kéo ghế ngồi, Thụy nói:

-Anh mới ở nhà em ra .

-Tìm em có chuyện chi không ?

-Không, ghé chơi thôi.

-Anh uống gì, gọi đi.

            Thụy gọi cà phê đá.

-Em ngồi một mình ?

-Không, với bạn trai.

-Anh ta đâu ?

-Đi học rồi.

-Bạn em bên Văn Khoa ?

-Không, anh ta học ngành Dược.

-Em có bạn mới mà anh không hay.

            Huê nhìn lại Thụy. Đứa nhỏ mang cà phê đá ra. Thụy uống một ngụm xong đốt điếu thuốc.

-Anh ta có trở lại không ?

-Không, đi học rồi.

-Em quen lâu chưa ?

-Mới ít tháng.

            Cà phê làm Thụy tỉnh táo. Thụy uống thêm hớp đầy và ngậm cục đá nhỏ cho mát cổ họng.

-Chiều nay em không có giờ học?

-Không. Công việc anh lúc này sao ?

-Bình thường. Anh làm ở Biên Hòa, làm ca, một ngày 24 tiếng, hai ngày sau nghỉ. Anh mới xuống ca sáng nay.

-Sao anh không ở dưới đó luôn ?

-Biên Hòa đâu xa Sài Gòn. Có xe đơn vị đưa đón.

-Em thấy anh thật là vô tư.

-Anh đang buồn đây em .

-Sao mà buồn ?

-Nghe em có bạn trai, anh buồn.

-Thì em cũng phải có bạn trai chứ.

-Đã hẳn, em cần có. Nhưng em có, thì anh và em không còn vui như xưa.

-Bình thường thôi anh ạ.

-Không bình thường đâu.

-Anh và em  là bạn, vui chuyện với nhau thôi.

-Không có vui chuyện nhẹ nhàng được.

-Anh hiểu lầm rồi. Em khác anh nhiều lắm.

            Thụy đốt thêm điếu thuốc.

-Anh Chương có gởi thư về không ?

-Có. Anh gởi cho chị Yến chứ không cho em.

-Tuần rồi em có coi phim không ?

-Không. Em đi chơi với bạn trai. Hôm chủ nhật, hai đứa đi ra ngoại thành ăn chim mía.

            Thụy mỉm cười.

-Anh cười gì ?

-Em lúc nào cũng làm anh cảm thấy vui.

-Em nói thực không xạo đâu. Ngày nghỉ đi chơi với bồ , em thấy thích thú.

-Bạn em sắp ra trường chưa ?

-Học tới năm thư tư rồi.

-Hai năm nữa thôi, phải không ?

-Anh có hay ghé nhà cô Hồng không ?

-Có.

-Lâu quá, em không gặp Thúy.

-Rồi lần hồi em quên hết, trừ bạn trai của em.

-Anh nói rất đúng. Người bạn vừa đi, ngồi đây em nhớ nên không về nhà.

-Và, anh xuất hiện thật đúng lúc em cần có một người để nói lời tâm sự.

-Em rất là ghét những lời tâm sự.

-Anh cũng như em. Với anh, tìm cảm cũng như cuộc sống, luôn nhanh gọn, điều ước mong là sự may mắn.

            Huê cầm gói thuốc lá Thụy để trên bàn đưa lên xem, nàng lật quanh và đọc những hàng chữ.

-Anh hút một ngày mấy gói ?

-Hai ngày, ba gói.

-Hút nhiều quá vậy. Ít thôi.

-Em muốn anh hút mỗi ngày bao nhiêu điếu.

-Năm điếu. Không nên hút nhiều, hút thuốc nhiều sẽ bị ung thư.

-Anh không sợ chết. Em biết không, thuốc Bastos xanh này nặng nhưng hút rất là ngon.

            Huê rút một điếu thuốc ra ngoài bao. Nàng nhìn lâu điếu thuốc rồi nói:

-Em mà hít một khói, chắc chết quá.

-Không. Em nhớ đàn bà tây phương, họ hút thuốc ghê lắm.

-Em là người Việt Nam.

-Người Việt, hay người gì, các cô, các bà đều hút thuốc được.

-Nhưng mà em, không.

-Má anh ngoài nhà, hút cẩm lệ, răng nhuộm đen.

-Ủa, má anh  có nhuộm răng đen hả.

-Má anh nhuộm răng thời con gái. Răng được nhuộm thuốc rồi, chắc lắm không sợ gì đến sâu ăn cả.

-Em mà nhuộm  răng chắc kỳ lắm hả.

-Em nhuộm răng, có cách đẹp khác.

-Rồi sao nữa ông ?

-Không nhuộm răng , em đẹp rất là dễ thương.

-Ngày mai anh đi làm ?

-Ngày mốt.

-Từ hôm đi lính đến giờ, anh chỉ ở trong thành phố thôi.

-Anh không ra ngoài tiền tuyến được.

-Sao vậy?

-Vì anh là lính thành phố.

-Anh đi làm, công việc bận rộn không ?

-Ghê gớm lắm.

-Vậy hả. Bộ lên ca là lu bu lắm hả.

            Huê giương tròn cặp mắt nhìn một người lính ngồi đối diện. Trông vẻ ngây thơ của cô thật dễ thương. Người lính vui chuyện, vừa mong trời có mưa buổi chiều, và bắt đầu kể cho Huê nghe việc anh đang làm ở Trung tâm không trợ đặt cạnh Bộ Tư Lệnh Quân đoàn III. Thụy là hiệu thính viên, mỗi ngày ngồi ở cái bàn trong phòng làm việc với hai chiếc máy PRC 25 và PRC 47. Ở máy PRC 47, anh theo dõi những phi vụ  đánh bom của các phi công khu trục. Khi lên vùng, phi công khu trục và quan sát viên (ngồi trong chiếc L 19)   liên lạc hành quân với nhau để cùng vào mục tiêu. Khi đến mục tiêu, xác định lại đúng tọa độ, quan sát viên bắn khói màu, sau đó, các phi tuần khu trục bắt đầu đánh bom.  Với từng đợt đánh bom, quan sát viên sẽ điều chỉnh và cho biết kết quả. Khi ở trên vùng trời, khu trục theo hướng dẫn của quan sát viên để oanh kích, thì ở bên dưới, quân bạn đang hành quân cũng liên lạc và báo cáo thêm kết quả. Thời gian của trận chiến diễn ra trên vùng hành quân thật vừa hiểm nghèo, vừa lãng mạn, và bạn nghe những cuộc đối thoại của các phi công thật sôi nổi, hào hứng như  một trận túc cầu. Thông thường, các trận đánh bom diễn ra chớp nhoáng, thời gian chỉ trong vòng nửa giờ.  Ở máy PRC 25, hiệu thính viên thường xuyên liên lạc với phi cơ quan sát, theo dõi phi cơ này khi lên vùng và khi trở về, ngoài cuộc hành quân với khu trục phi cơ quan sát còn hướng dẫn đoàn xe, bay bao vùng, và an ninh thiết lộ.

            Khi đến ngày làm, Thụy lên đổi ca lúc sáu giờ sáng. Nhận ca xong, anh đi kiếm bánh ngọt ăn sáng và   cà phê để uống. Quầy căng tin phục vụ là của đơn vị biệt phái Mỹ, nhưng phía lính VN được ăn theo thoải mái. Cũng nhờ làm việc ở đây, ngày nào Thụy cũng học nói tiếng Anh với các lính Mỹ. Tối đến, ít có phi vụ bay đêm anh đọc sách, viết truyện, học bài. Vậy mà, hai năm rồi, mỗi cái bằng Tú Tài đôi, anh thi không đậu nổi.

            Huê ngạc nhiên hỏi:

-Ủa,  anh chỉ làm dưới đất chứ không đi theo máy bay.

-Không. Nhưng công tác, hay hành quân với bộ binh thì mình đi máy bay lên tiền đồn.

-Tiền đồn xa thành phố không anh ?

-Xa lắm. Nằm trên rừng, trên núi.

-Anh thường đi công tác ngoài tiền đồn lâu không ?

-Cũng lâu, khi một tuần, khi nửa tháng.

-Anh đi một mình ?

-Không. Anh đi với ông Sĩ quan. Anh mang máy, còn ông đi tay không . À, có. Ông có đeo súng colt cho le.

            Huê nhìn Thụy. Thấy cô gái im lặng,  anh hỏi:

-Sao, em thấy công việc anh như vậy là phục vụ đất nước hẳn hoi, phải không ?

-Ờ anh làm được như thế là tốt. Em cứ tưởng lính thành phố chỉ đi dạo lòng vòng thôi.

-Trời, em nghĩ sao mà lãng mạn quá  vậy. Bộ quân đội phát lương mình chỉ dạo phố chơi thôi sao ?

-Em thấy anh quá lè phè.

-Nghĩ vậy là tội anh. Xếp anh mà biết là cho anh cả mười củ.

-Mười củ là sao ?

-Là mười ngày bị phạt đó.

-Vậy hả. Anh đã bị phạt bao giờ chưa ?

-Chưa, nhưng em nên dè dặt trong những nhận xét về người lính.

            Huê gật đầu. Và rồi, bây giờ người lính và cô gái có muốn rời quán để về nhà cũng chưa được, vì trời đang bắt đầu mưa.

 

                                          

                                                         II    

                                                      

                                                      

 

            Về đến nhà, bị ướt mưa nên Thụy vội lấy áo quần đi tắm. Tắm xong, anh giặt đồ luôn. Bà chủ thấy anh giặt đồ ngoài bể nước có vẻ chăm chú theo dõi làm anh khó chịu. Không thể nín nhịn, Thụy nói:

-Tháng tới, tôi không thuê ở nữa ?

-Sao vậy cậu ?

-Bà khó quá.

-Tôi khó gì đâu ?

-Tại sao mỗi lần tôi giặt quần áo bà cứ đứng canh bên bể nước.

-Tôi thấy cậu xài nhiều nước quá.

-Thật vậy sao ?

-Đúng là sự thật.

-Vậy thì báo với bà hết tháng này, tôi dọn đi.

-Ờ, cậu muốn đi thì đi.

-Tốt, bây giờ bà lên nhà đi. Để cho tôi giặt đồ.

            Bà chủ vẫn không dời bước. Thụy rất bực mình nhưng không muốn  gây gổ, đang cố giặt nhanh cho xong. Thực sự bà chủ quá keo kiệt về điện nước, chứ từ ngày đến đây thuê ở, Thụy dùng nước không nhiều. Mỗi tháng, anh đi làm ca trực tại đơn vị là mười hai ngày rồi. Đến hai ngày cuối tuần anh cũng ít khi về nhà. Tối đến, mười một giờ anh không đọc báo, đọc sách gì nữa mà lên giường, đi ngủ sớm. Cũng may, thói quen dễ ngủ nên anh ngủ rất mau.

            Buổi chiều qua thật lẹ. Khi Thụy  đem quần áo ra dây kẽm ở sân sau để phơi thì bà chủ bỏ lên nhà. Thụy nghĩ là bà thấy có sự vô lý, và đã suy đi nghĩ lại đôi chút.

            Thụy đi lên gác thay quần áo, rồi xuống nhà. Bà ta bảo anh dừng lại và nói đôi lời phân trần. Ngay lúc đó, Thụy giải thích cho bà ta biết, anh là người đàng hoàng, ở đây, anh cũng hay đi luôn, nơi làm việc ở đơn vị xa, rồi thường hay tìm đến nhà người quen, bạn bè.

            Bà chủ rót nước mời Thụy uống. Nước trà nóng, anh uống một ly cho ấm bụng rồi đi.

            Khu phố Thụy thuê ở nằm gần chợ Thị Nghè. Thụy kiểm lại tiền trong ví và túi trên. Tối hôm qua, chơi đánh phé Thụy ăn được hai ngàn. Về nhà, anh ngủ li bì, tới quán cà phê ngồi với Huê , khi đứng dậy nàng trả tiền.

            Đèn điện thắp sáng, cảnh sinh hoạt đêm ồn ào. Thụy đi bộ ra phía chợ và tìm một quán cơm bình dân để ăn. Vào quán, Thụy ngồi phía bàn ngoài nhưng từ đó trông rõ các thức ăn bày hàng. Thụy gọi cơm phần ba món và một chai bia cao.

            Sau khi tắm xong, Thụy cảm thấy nhẹ người. Bữa ăn mang ra, Thụy lau đũa muỗng,  chén rồi xới cơm ăn. Từ ngày rời xa gia đình, Thụy có cuộc sống bất thường. Thụy quen được với mùi vị mồ hôi và sự nghèo khó, hai năm qua anh đã thấm vào cổ họng mùi vị cơm thuốc ở quân trường , ở phạn xá của trại lính. Anh cũng thấm vị thuốc đó khi đến quán cơm xã hội ngồi ăn, tuy nhiên, anh chẳng hề muốn ray rứt nỗi buồn khổ của mình. Thụy luôn cảm thấy tự do, bao nhiêu cái tốt, cái xấu, sự may, điều rủi là lẽ thường giữa cuộc đời nên anh chẳng phiền muộn, hoặc mong được sung sướng. Nhưng Thụy cũng không an phận, làm người ấy là nhận lãnh trách nhiệm như câu nói của một nhà văn Pháp anh rất tâm ý. Tuy là lính, anh làm việc đúng đắn và thật đàng hoàng, tư cách. Thụy hưởng thời gian nghỉ và quyền lợi người lính một cách bình thường. Và, anh vẫn xây đắp ước vọng của người viết văn, sẽ đến một ngày, anh có được những tác phẩm xứng đáng để người đọc tin cậy. Thụy viết văn, không hề mong trở nên hoặc được làm nhà văn để hãnh tiến, khoa trương. Anh viết văn, nỗi đam mê viết như là máu và thức ăn nuôi dưỡng sự sống con người. Vào kỳ lãnh lương tháng, hoặc có chút tiền dư kiếm thêm được bằng tiền nhuận bút với những truyện ngắn đăng báo, hay canh bạc đỏ được ăn, thì anh cũng chè chén một đôi ngày cho đã bữa.

            Vào lúc chiều trời mưa, anh và Huê ngồi trong quán cũng khá lâu. Khi nàng hỏi một câu đùa, anh yêu em thực không, Thụy đáp tỉnh bơ là không. Nhưng anh đã không làm nàng ngạc nhiên. Rồi, nàng nói:

-Có anh, em vui. Vắng anh, em nhớ, thực sự là nhớ.

            Thụy nói:

-Em biết uống ly cà phê là anh vui rồi.

-Em bắt đầu ghiền rồi anh.

-Anh là người khô khan, nhưng lại có mùi vị của cà phê.

-Anh là người đem lại cho em cái thú uống cà phê.

-Còn em, đẹp, ửng đỏ như trái chín trên cây.

            Nàng cười rất nhẹ, lộ những nét duyên tuyệt vời.

            Lúc này, Thụy đang nhớ nghĩ đến Huê , anh ăn chậm, vừa cảm thấy đói và ngon. Thụy sẽ ăn hết cả cơm và thức ăn không để thừa. Rượu bia ngấm dần làm mặt anh  hừng đỏ. Nhưng đó là thói quen về máu, chứ anh không hề say. Phần cơm để trong tô khoảng ba chén, thức ăn không nhiều lắm bày trên dĩa nhỏ. Thụy ăn xong sạch, bắt đầu thấy no.

            Ly bia còn một nửa, anh uống chậm. Khu phố chợ càng đông, giờ này, thêm một vài gánh hàng quà dọn bán trên vỉa hè. Thụy uống bia, rồi đầu óc suy nghĩ. Anh đang muốn tìm một câu chuyện để gợi hứng tối nay về viết. Thụy viết đã quen, nhưng chưa thể là nhà văn. Những truyện ngắn của anh chẳng qua như chiếc cần câu hạng nhẹ để ghé vào các tiệm ăn bình dân. Anh biết có rất nhiều nhà văn, nhà báo ở Sài Gòn họ sống bằng ngòi bút. Vào buổi sáng sớm, lúc thợ sắp chữ  làm trang nhất, thì ở ngoài quán cà phê những nhà văn này vừa uống cà phê, đốt thuốc hút, vừa viết feuilleton. Họ không chỉ viết cho một tờ, mà hai ba tờ, cứ mỗi kỳ chừng ba trang viết tay. Ngồi trong buổi sáng chừng vài tiếng đồng hồ họ viết mỗi đoạn truyện dài chạy trong ngày trên các báo. Xong việc, họ rời quán cà phê bình dân đến cà phê tiệm hoặc đi ăn sáng. Bây giờ anh Nguyên đã ra ngoài Huế, chứ thời Sài Gòn, một mình, anh cũng chạy show mấy tờ báo, cuộc sống tương đối thoải mái, lúc có tiền dư, anh cho Thụy một ít tiêu thêm. Nói vậy thôi, tiền anh cho, Thụy hay để dành gởi về cho mấy đứa em ngoài nhà.

            Bên kia đường, một dãy quầy bán vé số đối diện với khu chợ. Thụy cố nhớ mình còn tấm vé cũ nào chưa dò không. Thụy vẫn luôn mong chờ tới vận may. Vào kỳ lương hàng tháng, anh hay mua chừng năm đến mười tấm vé số. Thụy thường lựa hai con số cuối, tính  số nút, thấy số nào chẵn, vừa đẹp ý là mua. Thụy trúng được mấy lần, nhưng không nhiều. Số trúng chỉ bốn con. Thụy vẫn ước mơ trúng lớn để được thoải mái với đồng tiền, và bây giờ anh không mong chuyện gặp cuộc tình duyên vừa ý, mà làm sao có được một căn nhà để ở. Có nhà, anh sẽ đưa hết mẹ và các em vào đây sinh sống, xa lánh hẳn những khung cảnh quá quen thuộc với sự nghèo khó ở miền Trung. Về miền Trung, để yêu thương và cảm động như một khúc hát tình ca, thì hãy về với kỷ niệm và nỗi buồn nhớ cho đầy trọn tình cảm, nhưng sống ở ngoài đó, thực là khó khăn không dễ chịu như là đất miền Nam.

            Thụy uống hết ly bia, gọi người chạy bàn đến tính tiền. Rời quán, anh băng qua đường đến dãy bán vé số, qua mỗi nơi, anh chọn một hai tấm, mua xong hết mười tấm anh cẩn thận cho vào ví.

            Trước khi về nhà, Thụy còn ghé hiệu sách mua tờ báo mới hôm nay. Hồi ở trọ nhà dì Hồng, Thụy hay đọc báo thuê cả hàng ngày và hàng tuần.

            Thụy cảm thấy thật là dễ chịu trong ngày được nghỉ làm việc. Khi anh về đến nhà, bà chủ nhà đang nói chuyện với một bà khách trong xóm. Anh không để ý nghe chuyện và đi thẳng ra phía sau lên gác. Ngọn đèn dậy sáng khi Thụy bật núm công tắc, và mất ít giây anh mới nhìn lại căn phòng bình thường.

            Căn phòng này rộng rãi, vừa ý anh một phần nó khuất vắng, yên tĩnh dễ làm việc. Một hôm bạn Hoài  cho Thụy quá giang từ phố về nhà bằng xe Honda, nhân tiện anh mời Hoài lên gác chơi, Hoài nhìn nơi Thụy ở  quá thích liền ngỏ ý muốn đến ở chung, sẽ chia đôi tiền thuê nhưng Thụy nói không vì anh muốn một mình. Hoài nhìn lại Thụy dò xét, khiến Thụy phải giải thích với Hoài anh  không thích ở chung vì sợ dễ mất lòng nhau khi có chuyện không vừa ý, bạn bè lui tới thăm, có lỡ  qua đêm một vài hôm dễ dàng, chứ ở lâu, rất là bất tiện. Với lại Thụy đi làm ca, luôn phải dậy sớm trong những ngày đi làm.

            Thụy cầm chai nước lọc rót một ly đầy. Căn phòng bày biện ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng cũng mấy tuần qua rồi, Thụy chẳng hề cầm lấy một cuốn sách để đọc hay là học. Thật là quá sức mỏi mệt về chuyện thi cử, học hành, nhiều lần Thụy quyết định thôi hẳn, nhưng rồi cứ dây dưa, đến bây giờ là qua năm thi thứ ba rồi, mà anh vẫn còn lận đận.

            Lên giường, Thụy nằm đọc báo. Khi mở qua trang tin tức thể thao, anh đọc, rồi dừng lại nhẩm đếm xem vào ngày chủ nhật hai tuần tới nữa anh có được xuống ca nghỉ để coi trận đá bóng giữa đội tuyển Sài Gòn và đội Nam Hoa. Có thể ngày hôm đó, Thụy có được ngày nghỉ.

            Tình hình chính trị miền Nam vẫn chưa ổn định. Sau cuộc cách mạng đảo chánh, không khí tự do đem lại cho người dân,  nhưng rồi, trong thành phần lãnh đạo luôn có nhiều sự đố kỵ, bè phái, và chỉ mới trong vòng ba năm mà liên tiếp với nhiều biến cố chỉnh lý, đảo chánh.

            Chỉ là anh lính trơn, nhưngThụy  còn có nhận thức, suy xét về cảnh xáo trộn đất nước, nói gì đến, những cấp sĩ quan, những người trí thức, chính trị gia.

            Mưa đêm. Thụy nghe mưa bất thình lình đổ ào xuống mái tôn. Từ chỗ nằm nhìn qua cửa sổ anh thấy một vùng đèn sáng đang lênh đênh qua những vùng bóng tối trên các con đường dẫn ra ngoại ô. Trời mưa đều hạt . Thụy tắt đèn, đi ngủ. Thụy có cảm giác ngủ ngon, bên ngoài  lắng sâu, rồi trời tạnh mưa.

            Bỗng nhiên Thụy giật mình hoàn hồn với tiếng sấm sét, sau đó mưa lớn đổ ập xuống. Thụy vùng dậy bật đèn nhìn quanh phòng, nhìn lên trần và nhìn ra ngoài cửa thấy trời mưa mù mịt. Thụy chợt nghĩ, đã qua giấc ngủ rồi, không ngủ trở lại nữa nên vừa nằm nghe mưa, anh  cố gợi nhớ những ngày tháng đã qua về cuộc sống của chính mình.

            Hôm ấy, lúc xuống trạm xe buýt bên đường Cô Giang anh đi tìm nhà Khánh. Phượng đứng ở cửa, cô mặc bộ quần áo nhẹ có chấm bông màu đỏ đậm. Phượng nở nụ cười trên gương mặt trái soan đầy đặn.

-Anh vào nhà chơi.

            Phòng khách đặt ngay lối cửa vào, bày biện rất ngăn nắp dưới hai ngọn néon sáng dịu. Thụy ngồi xuống ghế, một mình với cảm giác nhẹ nhõm, vừa để mắt nhìn theo dáng bước của Phượng đi vào nhà trong. Không lâu, Phượng trở ra với hai ly nước đầy để trên chiếc khay nhôm.

            Đốt xong điếu thuốc, Thụy hỏi:

-Em còn đi học không ?

-Không, anh. Em đã đi làm.

-Em làm cô giáo ?

-Anh đoán sai rồi.

            Thụy mỉm cười nhìn Phượng. Nụ cười trìu mến trên cặp mắt anh nói thêm sự chân thật của anh đối với cô em gái. Phượng nhắc:

-Anh uống nước đi.

            Thụy nghe lời Phượng cầm ly nước lên uống. Nước ngọt dịu, mát cổ họng. Thụy hỏi:

-Anh Khánh có nói chừng nào về không ?

-Không.

            Thụy nhìn lại Phượng. Thụy đang ngắm một cô gái Sài Gòn qua hình ảnh Phượng. Khi được ở bên cô, anh như thể có ý tưởng mình đang sống trong một thành phố tuổi trẻ. Thụy bắt đầu chú tâm nghe một giọng nói Sài Gòn, khuôn mặt đầy đặn của cô gái khiến anh cảm nhận được một thứ hạnh phúc cây trái trong cái hồn nhân hậu miền Nam.

-Trời, anh không biết sao, anh Khánh có nhiều cô bồ lắm.

-Còn em?

            Phượng nhún vai. Những cái nhỏ nhặt của Phượng qua dáng điệu làm Thụy nghĩ mình nên ngồi lâu thêm chút nữa.

-Anh Khánh về.

            Thụy vụt đứng lên, nhưng vẫn đợi. Một lúc sau Khánh mới vào nhà sau khi chia tay với ai đó ở bên ngoài.

-Ủa, mầy vào hồi nào ?

            Sau cái bắt tay, Khánh thả túi xách xuống cạnh chân. Phượng vẫn ngồi yên chỗ nghe hai người anh chuyện trò. Mới đầu, Khánh nghĩ là Thụy vào Sài Gòn học Đại Học. Nhưng rồi, với sự lặng yên, cảm thông, Khánh lắng nghe những lời Thụy tâm sự về duyên phận thi cử và cả nỗi khó khăn trong cuộc sống hiện tại của mình.

-Mầy đang ở đâu ?      

-Tao ở trọ nhà người dì.

            Một lúc lâu suy nghĩ, với giọng chân tình  Khánh hỏi:

-Tao có thằng em học Đệ Tứ. Mày dạy kèm nó được không ?

-Sẵn sàng.

-Ông già tao đã nghỉ hưu. Nhưng để coi, tao sẽ hỏi giúp công việc cho mầy.

            Tối hôm đó, Thụy ở lại nhà Khánh ăn cơm. Sau bữa ăn, Khánh đưa Thụy ra quán nước gần nhà. Không có Phượng, vui miệng Thụy khen cô em gái của bạn mình. Khánh bảo:

-Mầy thương nó thì cứ nhảy vô.

-Không dám.

            Trời đêm dịu mát. Ngồi trong quán nước, hai người nhắc tới những bạn lưu học sinh, gợi nhớ bao kỷ niệm thân thương của thời gian ba năm trước ở Đà Lạt. Và, trong số các bạn cũ, chỉ mình Thụy là mang số phận hẩm hiu.

            Hai người rời quán đi bộ rồi dừng bước dưới ánh đèn đường bên trạm ngừng xe buýt. Gió đêm chợt làm Thụy nhớ nghĩ đến sự đợi chờ và nghe những tiếng bước chân. Thụy lên xe sau cái bắt tay từ giã người bạn. Khánh chắc cũng nghĩ rằng, Thụy sẽ trở lại, nhưng không, ít ngày sau đọc thông báo tuyển mộ chuyên viên Không quân, Thụy nghĩ ngay, tốt hơn hết nên đăng lính như một cách tìm kiếm ra việc làm.

            Thụy lên cổng Phi Long, hỏi anh hạ sĩ quân cảnh gác cổng, anh ta chỉ vào văn phòng có người đang phát đơn tuyển mộ, Thụy liền vào đó xin đơn làm ngay và cùng với giấy tờ mang theo sẵn, anh nạp luôn. Nhận đơn Thụy xong, anh phụ trách cho Thụy giấy biên nhận và chỉ sau có hai tuần lễ Thụy được giấy của Phòng tuyển mộ gọi đi khám sức khỏe liên tục trong ba ngày. Sức khỏe tốt, những thanh niên đăng lính được tuyển Ban Tuyển Mộ cấp cho giấy chứng nhận, vậy là Thụy yên tâm, cảm thấy nhẹ nhõm. Ngày lên đường không xa, thời gian còn lại, Thụy hì hục sáng tác truyện, mỗi truyện viết chừng năm sáu trang viết tay, viết xong, anh đến các tòa soạn nhật báo, tuần báo gởi bài và truyện nào được đăng là ngày hôm sau anh  có nhuận bút. Số tiền nhuận bút Thụy tiêu dè xẻn, cốt  giữ cất cho ngày đi.

            Ngày thứ bảy, Thụy ở nhà đợi Lăng. Vào lúc trưa, Thụy ngủ một giấc ngon. Khi thức dậy cảnh vắng im trong nhà làm anh nghĩ mọi người đã đi hết. Không nghe tiếng cười đùa và những trò chơi ồn vui của đám trẻ trong nhà. Nhưng không, còn có dì Hồng đang ở dưới nhà.

            Lối cầu thang hẹp, xuống nhà rửa mặt xong Thụy qua chiếc bàn tròn ngồi nói chuyện với dì. Lâu lắm, hai dì cháu mới có được những lời tâm sự. Bây giờ, ngoài quê ở Quảng Trị, bên nội cũng như ngoại, người thân không còn mấy, ai cũng đi phương xa tìm cuộc mưu sinh. Dì Hồng và mẹ Thụy là chị em cô cậu ruột, hai người rất thân như Thụy và Lăng sau này. Hai người đàn bà lớn tuổi có cùng cảnh ngộ, rất hiểu nhau. Vào năm đó một chuyến đi Sài Gòn, mẹ Thụy và dì có dịp chuyện trò gợi lại bao nhiêu kỷ niệm đẹp của thời con gái. Ngày xa đó, ở tuổi mười ba, mười bốn, quê  ngoại là một khúc hát thanh bình.

            Năm 1945, VM cướp chính quyền. Qua năm sau, chiến tranh Pháp Việt bùng nổ, từ đó làng quê trở nên điêu tàn, vắng bóng, lần lượt những người thân trong gia đình cả hai bên nội ngoại của Thụy đều rời bỏ quê nhà ra đi. Nơi đến, Đông Hà, Quảng Trị, Huế, rồi lần lượt về phía Nam. Những người ra đi không còn ai ước mong trở về lại quê nhà nữa. Tất cả, như  nối gót theo tổ tiên của mình. Vào thời chúa Nguyễn có rất nhiều dòng họ ngoài miền Bắc theo Chúa vào Nam. Họ Lê, gốc Hải Dương, họ Đặng từ Thanh Hóa. Vào miền Nam, cuộc di dân theo đường biển, họ Đặng trôi giạt đến Mỹ Thủy, họ Lê đến Thuận An. Đời thứ nhất của họ Đặng giữ nguyên, qua đời nhì đổi là Nguyễn khi lập nghiệp, xây dựng ở làng Cổ Lũy, quận Hải Lăng. Phía họ Lê, từ đời thứ nhất đến thứ ba định cư tại Tiên Thành. Bà Trần Thị Khánh, vợ ngài Lê Hữu Thành của đời thứ ba, sau khi chồng mất, một mẹ, một con lênh đênh trên thuyền nhỏ làm nghề kéo ngao trôi nổi đến sông Việt Yên, quận Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Trên vùng đất Việt Yên, bà cụ Khánh chính là tổ mẫu gầy dựng họ Lê. Khi bà Khánh qua đời, con bà Lê Hữu Diệu lập gia thất, sinh hạ đông con, người con đầu tìm đến Xuân Thành, Triệu Phong lập nên phái nhất của đời thứ năm. Từ  đời thứ năm đến ngày nay, họ Lê chính thống là ở làng Xuân Thành. Ông nội của mẹ Thụy tên Lê Hữu Phát, đậu Tiến Sĩ khoa Ất Mùi, năm thứ bảy Thành Thái, ông có hai bà vợ sinh hạ bốn người con, ba trai một gái. Dì Hồng,  con bà cô út sớm mồ côi mẹ được mấy người cậu thương yêu, đùm bọc từ thuở bé.

            Bỗng dưng, một giây khắc vô cớ làm cho câu chuyện ngừng trong yên lặng. Thụy cảm thấy nước bọt đang ứa ra trong cổ họng. Thụy nhìn dì Hồng têm trầu, và đợi dì ăn xong miếng trầu ngon mới thốt lời:

-Chú dì đã cho cháu được sống nhờ trong thời gian qua. Cháu luôn nhớ ơn chú dì.

            Với nụ cười bao dung, dì Hồng nói:

-Ít ai hiểu được chú. Chú ít nói, nhưng rất là tốt bụng.

-Cháu biết.

-Ở xa, cháu nên viết thư gởi thăm chú.

-Dạ.

            Sự yên lặng đang ngừng như thể quả lắc chiếc đồng hồ sau một lúc đun đưa theo nhịp nhạc chuông đánh lên. Thụy bâng khuâng đưa mắt nhìn gương mặt dì Hồng. Dì lấy chiếc khăn tay thấm nước mắt.

            Có người bấm chuông ngoài cửa. Thụy vội đứng lên nhanh chân bước. Cô Năm bạn dì Hồng ở nhà kế bên qua chơi, Thụy đứng lên chào, giọng vui cô Năm hỏi:

-Cô nghe mầy đi lính phải không ?

-Dạ phải.

-Chừng nào mầy đi ?

-Ngày mai.

-Tốt đó mầy. Đi lính như mầy là sướng hơn người ta.

            Thụy hiểu lời cô Năm nói. Cô coi bói bài rất hay, cách đây ba tuần, cô coi cho Thụy một quẻ bài và nói anh sắp đi xa, nhưng mà tốt. Thú vị nhất là con đầm cơ, cô cho hay là có người ở xa đang nhớ nghĩ đến anh.

            Thụy đưa cô Năm vào gặp dì Hồng xong qua lối cầu thang đi lên gác. Những bước chân vang nhẹ trên bậc cầu thang nghe như là nỗi trăn trở về cuộc đời. Căn gác nhận ra Thụy qua ánh nắng buổi chiều còn chiếu dọi và những sự vật vẫn quen thuộc. Thụy có cảm giác như vừa mới bắt tay một người bạn và nói đến chuyện ra đi.

             Thụy ngồi xuống sàn cạnh chiếc kệ để sách. Những cuốn sách xếp hàng ngay ngắn trên hai tầng kệ. Lúc này, Thụy chuẩn bị một ít đồ cần thiết bỏ vào túi xách. Thụy soạn quần áo và đem theo sách học, nếu ra quân trường có thì giờ rảnh thì anh ôn bài. Có mấy cuốn truyện dịch anh cũng đem theo, nghĩ rằng, tiểu thuyết có thể đọc dễ dàng. Sự ra đi, có định hướng với cuộc đời hay không, lúc nào cũng là một cảm xúc thật phấn chấn, nhưng cũng có sự nuối tiếc cái gì đó làm cho bạn cảm nhận được qua nỗi buồn. Ai ?,  muốn nhắn gửi đến Thụy một lời. Thụy nghĩ ngay đến Ninh Hà, anh tìm cuốn album đặt ở một góc tầng kệ trên. Thụy mở cuốn album, tìm những tấm ảnh nàng gởi tặng. Thời gian làm rõ nét cho anh nhớ ra những kỷ niệm của mình, của người bạn gái.

-Em không xa anh đâu, nàng nói.

-Anh luôn mong có những ngày trở về. Tới một ngày đó , cũng sẽ cho anh hạnh phúc khi gặp lại em.

-Em không sao, chúng ta tuy không có được duyên nợ sống với nhau , nhưng vẫn luôn nhớ đến nhau.

-Em là một đối tượng, một hình ảnh.

-Hãy nhớ rằng, hình ảnh anh trong tim em.

-Anh đi đến nơi đâu cũng có em hết. Em là tên gọi của mỗi thành phố.

            Có tiếng chuông vang lên, tiếp đó là tiếng dì Hồng gọi Thụy. Vội vàng đứng lên, Thụy đi nhanh xuống nhà và ra mở cửa.

            Lăng đưacho Thụy cái túi quà nhỏ. Cài chốt cửa xong, hai người đi lên gác.

-Tháng sau, tôi ra Huế.

-Về nghỉ hè.

-Cũng dịp này, nhưng đi chừng một tháng.

            Vừa chuyện trò thêm mấy câu, Thụy để Lăng một mình đi xuống nhà để pha cà phê. Nước sôi luôn có sẵn trong bình thủy. Thụy cho đường vào hai cái ly nhỏ, xong đặt hai chiếc phin lên ly, mỗi phin đầy bốn muỗng cà phê nhỏ. Sau đó, Thụy đổ nước sôi đầy mỗi phin, xong đậy nắp. Không đứng chờ, Thụy đem hai ly cà phê đang pha lên gác. Nước sôi còn bốc hơi từ mỗi chiếc phin.

            Lên tới cửa, Thụy thấy Lăng đang coi ảnh trong cuốn album.

            Câu chuyện sẽ hứng thú khi có cà phê. Buổi chiều trên căn gác thật nhẹ nhàng. Nếu trời mưa, căn gác sẽ trở nên tối. Nhưng cách đây hai ngày, Thụy nhớ trời mưa lớn buổi chiều, có một canh bạc, có Huê ngồi nhìn mưa chuyện trò với anh về sự thú vị của cách uống cà phê và mùi cà phê.

            Bây giờ ngồi với Lăng, Thụy nghĩ thêm:

-Trong giọt cà phê luôn có sự thân tình dù là chỉ uống một mình. Vắng người bạn, nhưng nhờ có cà phê nên mình sẽ gợi nhớ.

            Lăng nói:

-Anh còn một lô ảnh ở ngoài nhà me tôi.

-Những tấm ảnh ở đây là thời ở Đà Lạt. Cũng có một ít chụp sau này.

            Cà phê đã đầy hai ly cùng một lúc. Thụy và Lăng cất chiếc phin qua một bên rồi cầm chiếc muỗng nhựa trắng khuấy đường.

-Ngày mai anh đi buổi sáng hay trưa?

-Sáng sớm. Tám giờ có mặt ở điểm tập trung.

-Đông không ?

-Đông. Có cả số SVSQ phi hành đi nữa.

            Cà phê uống ngon. Rồi, Thụy hút điếu thuốc. Bên ngoài, trời nắng ấm. Nếu trời mưa, căn gác sẽ tối, sẽ có những kỷ niệm muốn xuất hiện để chúng ta cùng nhau chuyện trò. Thụy đặt điếu thuốc xuống gạt tàn rồi cầm cuốn album. Thụy lật qua mấy trang nhìn lại những tấm ảnh của người yêu. Rồi , anh đưa qua cho Lăng.

            Sự yên lặng rất cần thiết giúp Thụy nghĩ đến nàng. Lăng nhìn từng bức ảnh, bỗng hỏi:

-Anh đã cho cô ta biết anh đi lính chưa ?

-Chưa. Ra ngoài đó, có địa chỉ tôi sẽ viết thư.

-Cô đang ở đâu ?

-Đà Nẵng.

            Thụy tiếp lời:

-Cô đã có người đi hỏi rồi. Nhưng với tôi, cô vẫn còn thương.

            Buổi chiều xuống vội vàng, nắng tắt nhanh ngoài cửa sổ. Mây trôi xa, ánh sáng cuối ngày chùng xuống, buông rũ. Vừa lúc đó, mấy đứa cháu và con của dì Hồng về tới nhà. Cửa được mở sẵn, Thụy nghe tiếng dì Hồng chào cô Năm khi tiễn ra cửa. Cùng lúc, tiếng ồn vui của đám nhỏ, chúng vẫn còn ồn ào sau buổi đi chơi trong ngày cuối tuần.

            Bữa ăn tối đông vui với mọi người trong nhà.  Sau bữa ăn, Thụy và Lăng chơi cờ tướng. Đám nhỏ chơi domino. Có chuyện gì đó cần bàn bạc, chú dì Hồng ở nhà trong.

            Khi nghe tiếng chuông, Thúy đứng dậy mở cửa. Thúy vừa lên tiếng chào, nhìn ra, vừa trông thấy cậu Nghiêm và bà ngoại cả Thụy và Lăng cùng lên tiếng chào. Chỉ đáp ờ một tiếng, bà và cậu đi vào nhà trong.

            Một lúc sau, cậu Nghiêm gọi Thụy vào. Thụy và Lăng cùng bỏ dở ván cờ đi vào nhà trong.

            Thụy  lên tiếng chào, ông cậu hỏi:

-Mầy đi học bao lâu ?

-Dạ ba tháng.

-Rồi có được đi học ngành nghề gì không ?

-Dạ có.

            Nhìn lại Thụy, vẻ mặt nghiêm ông cậu nói:

-Tụi bay không chịu học hành gì cả. Đứa nào cũng lông bông.

            Thụy hơi cúi đầu, vẻ mặt ủ dột. Ông hiểu, chẳng trách mắng gì thêm rồi tiếp lời.

-Ra ngoài đó, cần gì viết thư cho tao.

-Dạ.

            Bà ngoại nói điều gì với cậu Nghiêm, Thụy không nghe rõ. Ông cậu hơi lớn tiếng:

-Nó không chịu học hành, con làm sao bây giờ .

            Thụy định rút lui. Bà ngoại đã cầm sẵn tiền đưa cho Thụy. Thụy cầm lấy, nói nhỏ hai tiếng cám ơn. Một giọng dịu hiền, ông cậu nói:

-Rồi cố gắng chịu khó học, đi thi lại.

-Dạ.

            Chuông đổ mười giờø, cậu Nghiêm và bà ngoại ra về. Thụy đi theo hai người ra đến cửa. Thụy lên tiếng chào lần nữa rồi cài chốt. Mấy đứa nhỏ vẫn tiếp tục chơi domino, còn Thụy và Lăng trở lên gác.

            Đèn sáng, hai bạn trải chiếu. Chốc lát, hình như có âm thanh của cơn mưa nhỏ hạt. Rồi cơn mưa cũng đến. Hai bạn nằm nghe mưa, nói chuyện. Trong mưa, lòng Thụy rất buồn, mỗi một chút suy nghĩ đắn đo, dè dặt đều mang một cảm giác nặng nề như thể có lời ai ngăn cản anh đừng ra đi. Huế, với một lời từ biệt quá khô khan. Anh Nguyên đã vào Sài Gòn trước ba ngày. Vào buổi sáng thứ sáu là ngày tôi đi. Tôi chỉ có cái túi xách nhỏ và chiếc va li đựng quần áo, cùng một ít sách vở học đã cũ. Khanh, em thứ năm theo tôi xuống con đường trước mặt nhà đợi xe buýt. Hai anh em đứng ở trên bờ dốc. Em tôi quá nhỏ trong bộ quần áo kaki. Tôi rất thương em tôi, nhưng không biết nói thế nào. Sự ra đi của tôi, đành phải vậy. Nếu vào trong đó, tôi kiếm được việc làm, ba mẹ tôi sẽ đỡ khổ hơn. Tôi biết gia đình tôi rất khó khăn. Ba tôi làm công chức, đồng lương eo hẹp mà phải nuôi đến bảy người con nhỏ đến lớn. Nếu như, hai anh em tôi học hành đỗ đạt, thì đấy là nguồn vui gia đình, dù khó khăn mấy, ba mẹ tôi cũng cố gắng. Đã mười năm rồi, từ trận cháy khủng khiếp ở thị xã Đông Hà, gia đình tôi gặp quá nhiều rủi ro, không làm sao khá lên được.

Tôi vào Sài Gòn với một nỗi lo âu mà chỉ có tôi, và ba mẹ tôi hiểu. Ở Sài Gòn, có cậu tôi và hai người dì tôi. Tôi có thể ở nhờ được, nhưng tôi vốn biết, bên gia đình tôi không mấy được lòng  của các cậu, các dì  . Chỉ có me của Lăng ở gần, mới hiểu nhau thôi. Từ ngày ba tôi lấy mẹ tôi, trở thành con rể ông ngoại tôi, ba tôi đã hiểu tình cảnh của các cậu, các dì đối với ông như thế nào. Ngày trước khi mới hồi cư, lúc các cậu các dì chưa vào Sài Gòn thời gian ấy có sự gần gũi, nhưng về sau đi xa , ý nghĩa một cuộc đời đã khác đi nhiều.

            Chiếc xe buýt vừa ghé vào trạm, ngừng lại. Tôi đợi hai người khách xuống trước, xong nói với em tôi câu từ giã. Tôi hôn nhẹ bên má nó, nó mỉm cười vô tư làm tôi khóc. Xe chỉ dừng trong ít phút, rồi chạy. Tôi thấy em tôi còn đứng lại trên bờ dốc chưa trở lên nhà.

            Xe chạy chậm qua chiếc cầu nhỏ, sau đó, bắt đầu tăng tốc độ chạy nhanh hơn. Con đường Lê Lợi là con đường đẹp nhất bên khu hữu ngạn. Trên con đường này, những hàng cây phượng và cây sao trồng thẳng tắp, trên vỉa hè lát đá, hai bên là những nhà các công sở, trường học. Khi xe chạy ngang qua trường Quốc Học, Đồng Khánh, tôi thấy bóng nhiều học sinh trước cổng trường. Mùa thi đã qua, nhưng bảng niêm yết kết quả còn treo trong khung lưới, và lúc này vẫn còn học sinh lảng vảng chờ đợi ngày tựu trường.

            Xe buýt qua chợ, vào bến chính. Tôi quàng túi xách nhỏ đeo vai và xách tay chiếc va li đi bộ tới trạm hàng không. Hành khách hầu như có đông đủ và đang chờ đợi xe ca lên phi trường. Tôi đi một mình, và tôi cũng nghĩ rằng những hành khách cùng chuyến đi này không có ai quen tôi. Vì dễ hiểu, họ toàn là người lớn cả.

            Không đợi lâu, chừng mười phút sau xe ca đến và lần lượt hành khách trật tự vào xe để lên phi trường. Nắng đã tràn ngập cả khu phố chính. Xe lăn bánh rời trạm, ngồi bên cửa, tôi cảm thấy nôn nao nhìn lại thành phố Huế lần cuối cùng. Phố Trần Hưng Đạo nhộn nhịp trong sinh hoạt ngày thường đông đúc người qua lại, bóng dáng những chiếc xe đò chạy trên đường, những  chuyến xe buýt vào bến và cùng lúc rời bến, dọc hai bên đường những cửa hiệu buôn bán sát liền nhau. Chiếc cầu Trường Tiền biểu tượng của thành phố Huế ánh lên một màu sáng bạc in dưới nắng. Xe đang chạy chậm trên đường nên tôi để mắt nhìn thong thả. Tôi có ý nghĩ, tôi đã ra đi lần này sẽ không bao giờ trở về lại thành phố này nữa. Tôi có thể về đây để thăm gia đình tôi, gặp lại bạn bè cũ, nhưng sau đó, lại ra đi. Hình như, tôi chẳng bao giờ có sự hiện diện ở nơi đây, mà ở một phương trời khác. Huế, thành phố này không phải của tôi, một lẽ dễ hiểu, tôi không sinh trưởng ở nơi này. Tôi có thể ở Huế một năm, hai năm, hay mười năm đi nữa, nhưng thành phố này không phải là của tôi, thế nên giữa tôi và thành phố không một ai cho ai sự ràng buộc để luyến nhớ. Nhưng, trong giờ phút này đây ra đi, lòng tôi bỗng ngậm ngùi.

            Khi xe chạy qua cầu, nhìn xuống con sông màu nước xanh dịu mát đột nhiên nó làm tôi mơ nghĩ đến gương mặt các cô thiếu nữ trong thành phố này. Ngày hôm qua, tôi ở nhà vui chơi trò chuyện với mấy em tôi. Từng câu chuyện và nghe qua tiếng nói, hạnh phúc vô chừng. Đôi khi, nỗi bất hạnh khổ đau làm cho mình có cảm giác nước mắt đầy vị ngọt. Tôi nói với các em tôi, anh đi xa tìm kiếm việc làm, có tiền anh sẽ dành dụm gởi cho ba mẹ và các em. Anh và anh Nguyên rất nhớ các em, các em cố gắng học để khá lên sau này. Sau bữa ăn tối, tôi lấy xe đạp thong thả dạo chơi. Trời có trăng, tôi đi thăm những con đường quen thuộc trong thành phố. Mỗi con đường làm tôi nhớ tới những người bạn gần cũng như xa. Tôi đi ngang qua những căn nhà có ánh đèn sáng, với mỗi ánh đèn làm tôi nghĩ rằng, nỗi nhớ đến từ hư vô.

Con đường Nguyễn Hòang dẫn ra ngọai ô và xe ca bắt đầu chạy nhanh. Tôi mở túi xách lấy gói thuốc đốt một điếu. Khói thuốc loãng tan và lòng tôi thực sự thanh thản. Sư ra đi của tôi không có điều chi đáng trách cả. Ra đi, nỗi buồn lúc đầy quá, nó sẽ vơi cho lòng thấy nhẹ nhõm. Những đồng ruộng, nhà ở, cảnh làng quê, bóng dáng người trong nắng tất cả lùi lại rất nhanh, rồi hầu như biến mất.

            Khi xe ca đỗ hành khách xuống phi trường Phú Bài, tự dưng tôi có chút bỡ ngỡ lạ lùng. Lần đầu tiên tôi được đi máy bay. Không gian và cảnh trí phi trường như thể dẫn dắt tôi đặt chân đến thành phố khác trong một ngày đầu tiên.

            Vì xe tới sớm, nên hành khách vào phòng đợi ngồi yên đó để chờ. Ở đây có cả quán ăn và giải khát. Tôi mua ly cà phê đá đem ra bàn ngồi uống và hút thuốc. Dần dần trong thóang nhìn bao quát, tôi có cảm giác quen thuộc với mọi người. Ly cà phê làm tôi tỉnh táo. Trong lúc chờ, tôi lấy một cuốn truyện dịch mở ra đọc. Tuy chẳng thể nào bị lôi cuốn, nhưng mỗi trang sách vẫn hiện lên trong trí tưởng tôi về những ý nghĩa của tiếng nói. Người ta có thể bắt đầu cuộc đời mình bằng một sự tình cờ trong lúc đang có mặt ở một nơi chốn nào đó. Về sau này, tôi dấn mình vào công việc viết văn mỗi giai đọan tôi có một nhận thức rằng con người phải hiểu thấu hòan cảnh của mình.

            Bỗng một hồi chuông dài nghe lạ tai tưởng chừng như giờ ra chơi ở trường học. Sau đó, vừa nghe thông báo của nhân viên phi trường hành khách, tôi vừa rời ghế đứng lên rồi sắp hàng hướng về lối cửa ra phi cơ.

            Chiếc phi cơ đậu cách đó khoảng trăm mét. Trên chiếc cầu thang, bên cửa phi cơ có hai cô tiếp viên mặc áo dài thiên thanh. Tôi đã gởi hành lý túi xách lớn, còn túi nhỏ cầm tay. Vé máy bay còn kiểm sóat nên người nào cũng cầm sẵn vé trên tay.

            Tôi bước chậm lên thang máy bay theo những người đi trước. Hai cô tiếp viên người miền Nam đón hành khách với nụ cười và những lời chào niềm nở. Khi vào bên trong, tôi nhờ một cô tiếp viên chỉ cho chỗ ghế ngồi. Tôi đi theo cô đến dãy ghế giữa và ngồi ở phía ô cửa kính tròn. Những tiếng chân bước hành khách đi vào các hàng ghế như được khép kín lại, điều chỉnh bằng sự yên lặng.

            Phi cơ sắp sửa khởi sự chuyến bay. Cánh cửa ở cầu thang đã đóng. Đèn trong phi cơ bật sáng. Một giọng nói thanh thóat vang lên từ trong phòng vi âm, tôi lắng nghe, sau đó giọng nói trở nên nhanh khi chuyển ngữ bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Chuyến đi này có bốn hành khách nước ngòai.

            Trên cặp mắt tôi có sự máy động làm tôi vui với niềm vui của mình. Và, hết sức chú ý đến chuyến đi , ngồi trên phi cơ tôi nhìn qua cửa kính xuống sân bay ghi nhận từng sự vật, quang cảnh, và cố gắng hình dung nó như vẽ lên một tấm bản đồ.

            Tiếng động máy phi cơ đang nổ, rồi bắt đầu lăn bánh di chuyển. Bên ngòai cảnh trí lướt qua như là một khái niệm về không gian. Rồi, trong chốc lát cảnh vật lùi lại đằng sau.

            Phi cơ vào phi đạo chính chạy một quãng rồi dừng lại. Nơi xa là ngôi làng trong bóng nắng. Nơi gần , chỉ thấy cánh đồng bỏ hoang. Sự chú ý của tôi làm tăng mạnh thêm cảm giác khi thân phi cơ càng lúc càng rung mạnh. Rồi từ cuối đường băng, chiếc phi cơ lao đi cất cánh.

            Tôi đo được bằng mắt khi tìm thấy một vùng không gian quanh chiếc phi cơ như thể vừa vẽ xong một bài tóan hình học. Ngồi bên cửa nhìn ra, những giây phút đầu tiên này tôi có sự thu nhận từ ý nghĩa bên ngòai không gian và dưới mặt đất. Khi mà sự vật bên dưới lại mất đi, thì vùng không gian bao quanh phi cơ trở nên rộng lớn, mênh mông. Mây trắng xóa, phi cơ đang bay bình yên.

            Sau ít phút bay, các cô tiếp viên phụ vụ bữa ăn nhẹ có thức uống, trái cây, bánh ngọt và cà phê. Tôi xin cô tiếp viên một ly cà phê sữa và chiếc bánh croissante.

            Huế-Sài Gòn xa cách khỏang trên ngàn cây số. Đi xe đò, xe lửa chạy suốt đêm cũng hơn một ngày, nhưng máy bay chỉ mất gần hai tiếng đồng hồ.

            Chừng độ qua nửa giờ bay, bữa ăn trưa dọn lên. Tôi không cảm thấy đói, nhưng cố ăn xong bữa. Ăn xong, tôi không dùng trái cây tráng miệng mà uống hết phần cà phê của mình, xong xin thêm một ly nữa.

            Cà phê thơm ngon. Tôi cảm thấy thỏai mái sau bữa ăn được ngồi dựa lưng ghế hút thuốc. Lúc này, tôi không muốn mình lo lắng bi quan về chuyến đi. Tới Sài Gòn, mình sẽ có một cuộc đời khác, tôi nghĩ vậy.

Thời gian tựa giấc mơ. Bỗng nhiên, tiếng cô nữ tiếp viên phi hành thông báo cho hành khách biết  còn mười lăm phút nữa phi cơ về đến Sài Gòn hạ cánh xuống

phi trường Tân Sơn Nhất. Ngay lúc bắt đầu nghe tiếng nói của cô tiếp viên , tôi đã cảm nhận được những gì trong hồi tưởng vừa nhẹ nhàng rơi xuống trong một khoảng không rồi tan biến. Tôi không còn muốn trở lại nơi chốn cũ, cũng như không mơ mộng gì đến tương lai cả.  Tôi lặng im chờ đợi chuyến đi đến một thành phố xa lạ, và tôi cũng phải nghĩ đến những ngày tới đây trong nỗi lo âu.

            Sau những dòng hồi tưởng, trong đêm sâu, Thụy đang nghe mình khóc.

 

 

                                                              III

 

 

 

            Kim đồng hồ báo thức đã chỉ 5 giờ sáng. Vừa lúc tiếng chuông reo lên, Thụy vùng dậy bấm nút tắt, sau đó, chuẩn bị cho buổi đi làm. Thật nhanh gọn, Thụy gấp tấm chăn, sửa lại chiếc gối và tấm nệm giường nằm xong xuống nhà dưới ra ngồi chỗ bể nước đánh răng, rửa mặt. Chỗ này Thụy thuê ở là căn phòng của phía nhà sau, thuận tiện nhờ có lối đi riêng. Thường ngày, lúc về anh hay qua lối cửa trước nhà bà chủ, còn vào buổi sớm đi làm, anh dùng lối đi riêng để tránh gây tiếng  động.

            Trời vẫn còn tối , chưa sáng rõ. Nhìn qua vùng đất trống, Thụy  trông thấy xa lộ, và giờ này, đèn sáng khi có xe di chuyển trên đường. Thụy hơi cảm thấy mệt vì ít ngủ, nhưng lúc này đã tỉnh táo hẳn.

            Mưa trở lại. Cái bóng Thụy  mất trong vùng tối, sau đó, từ lối cầu thang anh trở  lên phòng, rồi vội vàng thay quần áo đi làm.

            Lúc nào Thụy cũng khóa phòng cẩn thận trước khi đi. Con hẻm phía sau trơn ướt, Thụy đi nhanh ra đường cái, tới gặp ngả ba rẽ trái, anh theo con đường qua chợ Thị Nghè và tới đứng chờ ở trạm đón xe trước khu nhà thờ.

            Đường Hồng Thập Tự vắng vẻ. Thụy hướng mắt nhìn về phía cây cầu, lúc này, trời cứ mưa đều hạt. Một chập sau, có hai người lính nữa đến chờ, rồi thêm hai người nữa. Vừa lúc ấy, một chiếc xe GMC xuất hiện ở phía cầu, rồi đổ dốc với tốc độ chậm sau đó ghé vào trạm.

            Năm người lặng lẽ leo lên xe. Trên xe có khá đông người ngồi và xe  có bạt trùm kín nên không bị ướt. Trong khoang xe tối không nhìn rõ mặt nhau, nhưng nghe ra tiếng nói. Một bàn tay đập mạnh lên thành xe báo cho tài xế biết mọi người đã lên đủ.

            Xe lăn bánh. Trong xe, có ánh lửa điếu thuốc. Tới ngã tư xa lộ, xe rẽ phải, rồi phóng nhanh tốc độ. Thụy lặng im nghe những người lính nói chuyện. Và rồi, Thụy bỗng nhớ ra điều họ nói liên quan đến bản tin trên tờ báo Tiền Tuyến về việc cải tổ lương bổng cho quân nhân. Trên bản tin này, có hai điều Thụy nhớ là rõ tiền thâm niên công vụ sẽ tăng, và từ nay, tiền gạo và nhu yếu phẩm của quân nhân được tính luôn vào đồng lương thay vì cấp phát bằng hiện vật.

            Trời sáng hẳn khi xe lên tới thị trấn Tam Hiệp. Xe không còn chạy nhanh trên con đường vào thị trấn. Nhưng rồi không lâu, xe tới  Quân đoàn đi vào cổng và ngừng đỗ bên bãi đậu gần khu gia binh.

            Khi xe ngừng hẳn tài xế tắt máy, mọi người xuống. Từ bãi đậu, Thụy đi tới chỗ làm việc. Ngay lối vào hầm, Thụy gặp hai người lính Mỹ mang súng M16, họ cùng tốp làm với Thụy, hôm nay cũng lên đổi ca.

            Vào bên trong, không khí ấm hẳn , đèn sáng trưng các phòng làm việc. Thụy  tới quầy phục vụ kiếm cái bánh ngọt xong lấy ly giấy rót cà phê. Thụy tập thói quen uống cà phê Mỹ với crème không bỏ đường, vì đã có cái bánh ngọt kèm theo. Thụy ăn và uống tại chỗ, xong một chiếc bánh, xong một ly cà phê Thụy lại rót đầy ly nữa đế uống thêm. Từ quầy,  Thụy đến  phòng làm việc của ban ALO nằm ở cuối dãy.

            Phước đang trực nghe máy khi Thụy vào.

-Sao, có gì lạ không ?

-Vô sự.

-Hồi đêm không có phi vụ nào cả.

-Có phi vụ tản thương.

            Ở phòng làm việc này, Sĩ quan trực ca ít khi có mặt. Với hai máy truyền tin, hiệu thính viên ngồi nghe, có chuyện gì quan trọng mới báo cho ông ta biết. Thường Sĩ quan trực có mặt ở phòng hành quân.

-Thôi, chuẩn bị về đi.

-Ờ.

            Phước nhường ghế cho Thụy, đứng dậy đốt điếu thuốc. Thụy coi lại sổ trực ngày hôm trước để biết các sự kiện, sau đó, anh ghi ngày , tên Sĩ quan trực và hiệu thính viên nghe máy. Trên sổ trực này, khi có  sự kiện, hiệu thính viên phải ghi vào với ngày giờ bên lề. Cứ từng giờ, không có sự kiện nào, ghi là vô sự.

            Bỗng nhiên Phước hỏi Thụy:

-Sao, mày có tính đi Sĩ quan không ?

-Đi Thủ Đức hả.

-Không, bên Không quân.

-Đâu có đủû điều kiện đi Kỹ thuật.

-Đang tuyển ngành phi hành.

-Khó lắm. Tao không đủ sức khỏe.

-Bên văn thư mới có thông báo của Phòng tuyển mộ gởi.

-Ờ, để tao coi lại.

            Hút xong điếu thuốc, Phước chưa về còn chuyện vãn với Thụy.

-Mày đi đi. Có cơ hội nên đi.

-Tao muốn đi Kỹ thuật, dễ ra trường hơn.

-Đi Pilot qua Mỹ học mày.

            Thụy mỉm cười, một lúc sau nói:

-Mấy ông Sĩ quan ALO ở đây, ông nào cũng bị gãy cánh hết.

-Sao mày biết.

-Mày có thấy ông nào có đeo cánh bay có ngôi sao ở giữa không ?

            Phước có vẻ trầm ngâm . Lúc này trong máy vô tuyến đang hoạt động giữa quân bạn và một phi cơ trực thăng với phi vụ tiếp tế đang trên  đường bay.

-Sao hôm nay có đi Mỹ Tho không ?

-Không, tuần tới.

-Mầy đi xe đò hay Honda.

-Honda.

-Sao mày không chịu học lại.

-Học không zôâ mầy ơi.

-Tao cũng vậy. Không có hứng thú gì chuyện học.

-Nhưng mày ngon rồi. Trong anh em, mầy có được bằng Tú Tài.

-Ở Không quân này, lính, Hạ Sĩ quan, bằng cấp Tú Tài, Đại Học thiếu gì người. Ở tòa soạn Lý tương, có đến ba ông Đại học mày biết không ?

            Trung úy Thái đến, ông luôn mặc đồ bay mặc dù không phải là phi công. Với Thụy, ông khá thân thiện, vì anh cũng có máu văn nghệ như ông.

            Khi Trung úy Thái đến, Phước mới ra về. Viên Trung úy kéo ghế lấy gói thuốc mời Thụy một điếu hút và trên tay ông cũng có ly cà phê.

-Sao mầy thi cử sao ?

-Thôi, em thi kỳ nhì.

-Kỳ đầu rớt.

-Không, em chưa thi. Mà, học không vô Trung úy ơi.

-Ráng đi chứ mày. Có được cái Tú Tài đôi, đi kỹ thuật.

-Em biết. Nhưng khó quá. Em thi hai năm năm rồi, không đậu nổi.

-Hay là mày đi phi hành.

-Khỏe như Trung úy mà không thành Pilot nổi, gì đến em.

-Mày phải tự tin. Biết đâu, rồi mày thành tài.

-Em thấy mình thiếu tự tin. Vậy nên, em chỉ thích cái nhàn hạ. Khi con người  mình thiếu ý chí, thiếu cương quyết thì tương lai sẽ không thành.

            Có chuông điện thoại reo, ông Thái cầm máy. Sau cuộc điện thoại, ông lên Phòng Hành Quân. Thụy vừa uống cà phê vừa nghe máy. Trên máy, chỉ là quân bạn và phi cơ trực thăng. Lúc này, phi cơ đã ở vùng hành quân:

            Trung úy Thái trở lại, ông nói với  Thụy:

-Có L19 hộ tống đoàn xe. Ông đưa manifeste cho Thụy ghi vào sổ và bắt đầu từ giờ này theo dõi đoàn xe.

            Thụy nhận giấy, ghi chép cẩn thận, và lúc này mới thực sự vào giờ làm việc. Nhỏm người đứng dậy, kéo sửa lại chiếc ghế xong Thụy ngồi xuống, thay đổi tần số trên máy PRC 25, rồi tai lắng nghe những thông tin liên lạc của phi cơ và đoàn xe.

            Đoàn xe đã chuyển bánh. Bên máy PRC 47, có một phi tuần A 37 vừa tới vùng hành quân. Thụy nghe các phi công nói chuyện qua máy. Thụy để tai lắng nghe, làm việc ở ban ALO, giờ phút sôi động hào hùng nhất là được nghe tiếng các phi công đang cho phi cơ nhào lộn với các trận đánh bom. Nhữngtrận  ném bom  trên mục tiêu ngoài chiến trường đã làm anh nghĩ đến một trận bóng tròn quốc tế đang diễn ra nhiều pha bóng tấn công hồi hộp, sôi nổi vào khung thành đối phương để ghi bàn thắng. 

            Thụy vừa ngồi nghe máy, ghi chép các sự kiện hành quân vào sổ, và bên cạnh có tờ báo, thỉnh thoảng anh cầm lên đọc. Tới trưa, Trung úy Thái đến ngồi trực máy thay cho Thụy đi ăn. Trước khi Thụy đi, ông móc ví lấy tiền nhờ Thụy mua gói thuốc Pall Mall. Đây là thuốc Mỹ loại nặng, Thụy rất thích, nhưng đến mỗi tháng có lương mới hào phóng mua một gói hút cho thơm râu.

            Ngoài cổng quân đoàn, dọc theo con đường dẫn vào thị trấn có rất nhiều quán ăn, giải khát. Thụy  đến quán cơm chị Hòa, giờ này đã đông khách. Trong quán, lính có , Sĩ quan cũng có, họ ngồi riêng từng nhóm. Thụy  gọi một dĩa cơm trứng và ly trà đá. Đây là phần ăn rẻ tiền nhất. Thường ăn một dĩa là còn thiếu, Thụy phải gọi thêm cơm không, ăn dặm với nước tương.

            Nắng trưa, bụi, khói, tiếng xe cùng lúc nổi trôi trên con đường. Bên ngoài này là khung cảnh thị trấn,  từ đây vào thị xã Biên Hòa còn khoảng bốn cây số nữa. Và, phía bên trái hàng rào doanh trại của quân đoàn là phi trường. Tại phi trường này, có đơn vị Không đoàn 23 trú đóng.

            Dọc theo con đường chính của thị trấn, nhà ở hầu hết là của lính. Những quán ăn và giải khát hầu hết cũng là của gia đình họ nằm ngay bên đường, luôn nhộn nhịp từ sáng đến nhiều. Buổi chiều, sau giờ còi hụ  những quán nhậu mọc lên bằng những tấm bạt, tấm dù, quán nào cũng  có rượu đế, có bia, thịt rừng, và đồ biển.

            Hai quả trứng chiên, dĩa cơm nóng thật hấp dẫn. Khi ngồi vào bữa ăn, Thụy luôn cảm thấy đói nên ăn ngon. Thụy ăn nhiều cơm, nên vừa sắp hết một dĩa là gọi thêm cơm không mang ra ăn tiếp với nước mắm mỡ, hay xì dầu. Nhờ ăn nhiều nên Thụy lúc nào trông cũng khỏe mạnh, dềnh dàng. Thời đi hocï, sự thiếu thốn làm Thụy luôn khắc khổ, luôn ám ảnh sự không may gắn liền cùng số phận, đến giờ đi lính, dù tuổi mới hơn hai mươi, nhưng trông anh cũng đã gió sương, dạn dày. Thực sự, anh vẫn còn ngây ngô, non dạ, non tình, vụng về nhiều mặt. Nhưng đôi lúc, ngồi cười thú một mình anh hay có những ý nghĩ lẩm cẩm về chuyện vụn vặt riêng của mình, của người khác, rồi lan ra tới chuyện đời. Thụy  cho rằng cuộc đời là không thể nào đơn giản, bình thường. Người ta hay ví dòng sông như dòng đời nhưng bạn có bao giờ thấy một con sông phát xuất từ đầu nguồn chảy nguyên một dòng ra đến biển hay không. Tôi cũng có sự phân biệt về cuộc đời và cuộc sống. Cuộc đời thì dài, liên tục, còn cuộc sống nó đặt ra sự hạn định con người trước thời gian. Có một phụ nữ trí thức người Mỹ nói, chúng ta sinh ra một mình, chết một mình, còn lại với cuộc đời chúng ta sống làm sao cho có được một ý nghĩa đích thực. Có một ông nhà văn người Pháp, thì bảo, cuộc đời này có đáng sống hay không đáng sống. Và, cụ Khổng Tử nhà hiền triết bậc nhất Trung hoa đã nói một câu thật ý nhị, nhưng buồn quá. Một hôm ấy, đứng trên bờ nhìn sông chảy, cụ than thở, sông ơi sao mà cứ chảy hoài không ngưng nghỉ.

            Giờ này đúng giờ ăn trưa nên các quán đều đông khách, đúng hơn là đông lính tráng, và cũng có Sĩ quan vào ăn. Thụy có một người chị con ông bác ngay trong thị trấn này, nhưng chỉ mới đến thăm nhà chị có một lần. Hôm ấy, dì Hồng hỏi Thụy:

-Lâu nay, thằng Nguyên đi đâu không ghé con ?           

-Chắc là anh đi công tác.

-Nó ở đâu, con biết không ?

-Anh không có nhà ở. Anh làm việc ở tòa báo, rồi ở luôn đó.

-Sao không về ở dưới này với dì.

            Có người bấm chuông ở ngoài, Thụy vội ngừng giặt đứng dậy đi nhanh bước. Anh Nguyên đến, thực là hay khi cả dì Hồng va anh  vừa mới nhắc tên. Khi thấy anh Nguyên xuất hiện, dì Hồng cười lên tiếng:

-Đã không ? Lâu nay đi đâu con ?

-Con mới đi công tác về.

-Công tác ở đâu con ?

-Dạ, xuống dưới miền Tây.

            Anh Nguyên để túi trái cây lên bàn, nói:

-Con mua trái cây biếu chú dì.

-Chà , thảo không ?

            Thụy tiếp tục giặt. Sau khi vò xong cái áo mai ô, Thụy bắt đầu xả. Quần áo Thụy mặc không dơ lắm, chỉ xả đến nước thứ ba là mặc được. Nơi chiếc bàn tròn, anh Nguyên và dì Hồng nói chuyện.

            Dì lắng nghe anh Nguyên kể chuyến đi công tác về miền tây, và bỗng nhiên dì cười vui khi nghe anh nói, bây giờ anh là đệ tử cưng của Thầy Thích Tâm Châu.

            Tiếng chuông đồng hồ trưa đổ. Ngừng chuyện, anh Nguyên đứng dậy bảo Thụy:

-Đi với anh thăm chị Số một chút.

-Uûa , chị Số ở đâu ?

-Chị ở Biên Hòa .

-Sao anh biết ?

-Anh gặp chị về Sài Gòn mua hàng.

            Thụy để anh Nguyên nói chuyện tiếp với dì Hồng rồi đi lên gác thay quần áo. Xuống nhà, hai anh em Thụy chào người dì để đi.

            Bến xe Nguyễn Cư Trinh gần nhà dì Hồng . Hai anh em Thụy vừa đi bộ, vừa nói chuyện nhà.

            Khi tới nơi, hai người hỏi xe đi Hố Nai. Chiếc xe búyt dài đang chờ khách nên hai anh em Thụy vào quán ăn cơm trưa cho chắc bụng . Trong lúc ăn, anh Nguyên nói:

-Ra Tết, anh em mình dọn tới khu Bàn Cờ ở.

-Anh thuê nhà ở đó.

-Nhớ anh Công học lớp anh không ?

-Nhớ.

-Hai anh em mình về ở chung nhà anh Công.

-Anh Công ở một mình.

-Anh Công ở nhà người anh rể.  Bây giờ, gia đình người anh xuống Mỹ Tho để lại nhà nhờ anh Công chăm sóc.

-Hay quá.

            Hai anh em Thụy ăn cơm xong, vừa lúc xe sắp chạy. Hai người lên ngồi băng ghế cuối. Ra khỏi bến, xe chạy trên đường Trần Hưng Đạo, rồi vào Hồng Thập Tự,  đến ngã tư Hàng Xanh xe rẽ phải vào xa lộ Biên Hòa. Từ  đấy, xe chạy nhanh và chỉ sau một tiếng đến Tam Hiệp ngừng đỗ khách .

-Hôm nay chị có biết anh xuống không ?

-Có.

            Từ bến đỗ, hai anh em Thụy đi bộ đến nhà chị Số xa chừng khỏang nửa cây số. Thụy hỏi anh Nguyên:

-Chị Số là con của bác gái hai hay ba.

-Bác hai.

-Bác lớn có mấy người ?

-Bốn người.

            Trên đường đi, Thụy hình dung lại bóng dáng của chị thuở nào. Tuy ít học, nhưng chị có nhan sắc. Thụy còn nhớ hình ảnh chị lúc gia đình anh vào ở Quảng Trị. Và, Thụy nhớ rõ hơn hết là một buổi sáng sớm ba anh, anh Nguyên, Lăng và anh cùng đến nhà bác sau một đêm đi ngủ nhờ vì căn nhà ở trọ là nhà bác Biền bị cháy. Đêm ấy lạnh, ngủ ngoài hiên không có chăn đắp. Khi thức giấc, Thụy nghe tiếng ba anh khóc. Có lẽ ông nghĩ nhiều đến sự đời.

            Sáng sớm hôm ấy, bốn người vội đi lúc chủ nhà vừa thức giấc. Ba anh nói lời cám ơn, vừa trả lại tấm chiếu cho chủ nhà. Trên đường, một người cha dắt hai con và đứa cháu từ ngòai con đường tỉnh đi sâu vào làng qua một con đường dài , hai bên là một hàng tre dày kín. Rất may, ba Thụy tìm ra được nhà bác Hai gái, rồi ở nhà bác ăn cơm, trò chuyện đến trưa đón xe ra Đông Hà , xong ba anh thu xếp đem cả gia đình vào Quảng Trị ở.

            Hai anh em Thụy đi bộ trên con đường đất có bóng cây im mát. Cũng khá xa, từ bến xe đậu đi tìm nhà người chị. Khi tới cổng và thấy số nhà, hai người dừng bước, do dự. Căn nhà chính lợp ngói, nhà phụ lợp tranh, sân trước khá rộng, và Thụy trông thấy phía góc sân  một người đàn bà mặc áo trắng cũ đứng quay lưng đang phơi quần áo. Có tiếng chó sủa, người đàn bà quay lại nhìn về phía hai người lạ. Anh Nguyên nói:

-Chị Số đó.

            Chị Số nhận ra anh Nguyên liền chạy ào tới. Thụy cười hỏi chị:

-Chị nhớ ra em không ?

-Trời, cậu.

            Chị Số đã nhận ra Thụy, rồi vừa nắm tay, chị nghẹn ngào nói, vừa khóc.

            Năm đầu tiên Thụy lên trung học, chị Số con bác hai lấy chồng vào Huế ở, sau hai năm thì vào miền Nam. Tuy chị đi xa, ít có dịp trở về thăm làng quê nhưng Thụy vẫn còn nhớ rõ hình ảnh chị thời con gái với nét mặt dịu hiền, cặp mắt to đen, và chị thật đảm đang việc nhà.

            Anh Nguyên và Thụy chỉ có em gái thôi, vì vậy, mỗi lần gặp chị, qua hình ảnh chị Thụy cứ nghĩ, ước gì mình có một người chị như thế để được gần gũi mỗi ngày trong cuộc sống bình thường, bằng tiếng nói, câu chuyện, bữa ăn, hay có một việc gì đó cần được giúp đỡ.

            Sự liên hệ gia đình thân thuộc, dòng dõi bên nội Thụy không có khoa bảng, nhưng anh chị em rất là thương kính nhau. Và, sau khi một người chú của Thụy mất, ba anh là người tương đối có chút học vấn, vừa làm nghề dạy học nên trở thành cái nôi cho cả gia đình, con cháu. Sớm hiểu về cuộc đời, nên ba anh đã cố gắng cho con cái đi học, đồng thời, cũng tìm cách giúp đỡ những đứa cháu ở làng quê cố ra tỉnh để theo học, may có tương lai về sau. Trong các bác, các chú, ba Thụy là người được các cháu kính trọng, nghe lời, trong đó riêng chị Số dành cho ba anh địa vị giống như một người cha. Thuở đó, ở làng quê ra, vì nghèo khó chị phải giúp mẹ buôn bán để nuôi em đi học. Bù lại sự thiếu thốn đó, trời cho chị chút nhan sắc để gặp người chồng tốt và sống cuộc đời hạnh phúc.

            Quảng Trị là một tỉnh tuy nhỏ, nhưng có nhiều tài nguyên ở trên rừng và dưới biển. Rừng núi ở phía Bắc, còn biển  trải rộng về phía Đông. Và, không chỉ có con sông Thạch Hãn chảy qua thành phố, mà ở mỗi quận, thị trấn, nơi nào cũng có sông và nơi nào cũng có những con đường đi ra biển, làng Thụy ở gần nhất. Ngôi làng này nay vẫn còn nguyên vẹn sau chiến tranh. Ngôi làng dân cư thưa thớt, có khỏang chừng 100 nóc nhà ở trải rộng trên những con đường đất xa gần. Có những căn nhà đơn độc, hẻo lánh hướng về phía mặt biển trông qua những đồi cát. Những con đường nhỏ chính yếu của ngôi làng luôn mát dịu dưới bóng tre, ở trên mấy con đường này tương đối nhà ở tụ tập gần nhau hơn những nơi khác. Quanh ngôi làng , xa cũng như gần ở đâu cũng nhìn thấy những đồi cát trắng trông tựa như những đàn voi. Vào mỗi buổi sáng, những đàn chim thiên di từ hướng núi bay ra biển. Vào buổi chiều, trước khi mặt trời lặn, sóng biển dội lúc nổi, lúc chìm trong tiếng rào rạt trôi xa, rồi mất hút. Và, đó là tiếng động báo hiệu trước mùa đang tới sẽ yên bình hay gặp cơn giông bão.

            Từ Sài Gòn lên Tam Hiệp thăm chị Số, hai anh em Thụy được một buổi chiều tối hưởng trọn hương vị đồng quê. Qua trưa hôm sau, hai anh em còn ăn bữa cơm với gia đình chị để sau  đó trở về lại Sài Gòn. Trong bữa ăn,  chỉ vắng anh Quy chồng của chị, anh làm ngành kiểm lâm và đang công tác ở Di Linh. Từ hôm qua đến giờ , Thụy vẫn luôn trông trông theo bóng dáng chị như để tìm kiếm  bóng quê nhà xa lắc. Khi nghe giọng nói của chị, Thụy chợt nghĩ đến thời con gái của chị, rồi bỗng thấy vui được nhớ đầy đủ mái nhà chị ở trong khu làng Thạch Hãn thật mát rợi với cây cối trong một khu vườn xanh kín lá cây.

            Thụy đưa tay đỡ lấy chén cơm chị vừa xới, rồi nở một nụ cười sung sướng như  vừa bắt gặp, vừa mới nhận ra cái đời sống sung túc của chị, để lúc này, gặp lại đứa em nhỏ ngày xưa chị có thừa cơm gạo, thức ăn, để em nó ăn no đủ.

            Thụy lên tiếng hỏi:

-Chị có được tin tức gì của chị Thú và anh Kiêm không ?

-Bác có được tin. Chị Thú ở Nghệ An, làm công nhân xưởng dệt. Còn anh Quân ở Hải Phòng.

            Hai anh chị con người bác mà Thụy vừa hỏi đến đều tập kết ra Bắc sau hiệp định Genève năm 1954. Thụy chưa hề được gặp chị Thú, anh Kiêm nhưng được nghe nói nhiều qua lời ba anh kể lại. Trong giòng họ Nguyễn Đặng, ông bà nội rất đông con, 8 ông con trai hai bà con gái, và hiện tại ở ngòai làng quê chỉ có bác Hai, bác Oanh và hai người o.  Còn lại, đi ra tỉnh kiếm việc làm sinh sống, ba anh dạy học, bác Hoàn làm y tá, chú Luyện làm thợ nề. Và, có lẽ do gen chung trong giòng họ, từ bác Hai đến o Uùt trong nhà, gia đình nào cũng đông con mà lại nghèo. Tuy nhiên, sự hòa thuận thương nhau từ ruột thịt đến bà con là đặc điểm mà Thụy biết được, không cần bộc lộ hay nói ra nhiều lời.

            Những năm tháng gia đình Thụy  còn ở Đông Hà, Quảng Trị, lúc đó hình ảnh cuộc chiến tranh Thụy thấy là nghe tiếng súng trên núi vọng xuống, cảnh hỏa họan do Việt Minh đốt trại lính lửa cháy tràn xuống vùng dân cư sinh sống tại thị xã, hay trong một lần anh được nhìn thấy những đòan xe chở lính tráng trên con đường qua vùng thị xã để đi lên mặt trận. Đó là những hình ảnh, ý niệm sơ sài về chiến tranh qua tuổi nhỏ, còn giờ đây lớn lên, Thụy ý thức được cuộc chiến tranh trước nhất là mình thấy sự đe dọa rồi sẽ phải đi lính, và dù chưa mặc áo nhà binh, nhưng mỗi ngày những biến động xáo trộn trong thành phố, những tin tức báo chí tường thuật các trận đánh của các đơn vị miền Nam với Việt Cộng, Thụy có nhiều nỗi băn khoăn, vẫn chưa bao giờ mình gạt được những lo âu thường ngày.

            Hình ảnh làng quê nơi chốn xa vẫn đem cho anh sự dịu hiền, quyến luyến. Và mỗi lần được nhớ, nhiều hơn hết trong tôi là gương mặt những người thân và tiếng nói. Thụy bỗng nghĩ đến sự lìa bỏ quê nhà đi theo lý tưởng của hai anh chị con bác Hai , nhưng anh không cần phải đạt câu hỏi hai người có nhận ra sự phi lý đối với một dân tộc, anh chỉ tự hỏi mình trong lúc này, anh có mang tâm  trạng của anh Quân, ra đi là từ bỏ chốn quê nhà và không mong nghĩ đến một ngày trở về .

 

           

                                                                 IV

 
            Hai ngày xuống ca nghỉ luôn làm Thụy cảm thấy dễ chịu, thoải mái. Khi về tới Sài Gòn, không khí sinh hoạt của thành phố luôn luôn làm anh phấn khích và nhận ra thành phố này đích thực là dành cho con người luôn thúc đẩy những chuyển động của mình hăng hái tham dự vào cuộc sống.

            Về nhà trọ, lên căn phòng vắng lặng, Thụy chỉ cởi đôi giày trận xong lăn lên giường đánh một giấc. Trên đường xe chạy Thụy đã ngủ, giờ vẫn thèm ngủ. Trong giấc ngủ, đôi lúc anh nằm mơ. Và, giấc mơ hạnh phúc nhất cho anh là được thấy bóng hình Ninh Hà. Khi nàng đến tìm anh trong giấc mơ, luôn luôn nàng mặc áo dài nâu. Đó là một chiếc áo, một bóng dáng riêng biệt của nàng. Cũng đã có một đôi lần, nghĩ về chiếc áo dài nâu nàng mặc, Thụy có nhiều ý tưởng so sánh, một cảm giác về thời tiết trong mùa, một bức tranh được treo trong góc căn phòng, thảng hoạc nơi xa đó là một thành phố mình hằng mong tìm đến. Những tháng năm của thời đi học, Huế quen thuộc với Thụy hơn hết. Và, thành phố này đã cho anh những hình ảnh áo trắng rất là quen thuộc. Áo trắng ở thành phố này là hương sắc của thời gian, ngày với hương vị của nắng ấm và gió của dòng sông, đêm là hương thơm của hoa. Nhưng lạ thay, xa Huế là Thụy không nhớ nghĩ đến thời gian và bao nhiêu khung cảnh quen thuộc ấy nữa. Và rồi, một buổi sáng ấy Ninh Hà đến lớp với chiếc áo dài trắng, hình ảnh đó mãi mãi với tâm hồn Thụy là một nơi chốn riêng biệt giữa bốn phương trời.

            Khoảng đầu giờ buổi chiều Thụy thức dậy. Sự thức giấc sau giấc ngủ ngon làm anh tỉnh táo và mới mẻ, và thèm một ly cà phê. Với cà phê, đã có một thời gian kéo dài đến mấy tháng, uống vào buổi chiều làm anh mất ngủ, nhưng giờ thì rất là quen. Và, đã một lần anh bỗng nhận ra, ly cà phê vào đầu buổi chiều là thời gian ngon nhất. Những buổi sáng thức dậy có bữa ăn sáng có ly cà phê, chẳng qua đó là thói quen, chứ uống cà phê vào không khí đầu buổi chiều bên goài trời mưa hay nắng, đều có một cảm giác rất ngon và rất thú vị. Huê bắt đầu ghiền cà phê, nàng nói, Thụy là người đem lại cho nàng thú uống cà phê. Không chỉ đôi ba lần mà nhiều lần, khi ngồi trong quán nước gọi cà phê uống, Thụy và Huê luôn cảm thấy lòng mình vui, yêu thích cuộc sống và trò chuyện rất ăn ý , vừa được cơ  duyên. Vậy là hai người trẻ , chàng và nàng đích thực có một mối tình cà phê. Khi Thụy nói ra ý nghĩ này, Huê gật đầu.

            Khi xuống nhà rửa mặt, hoặc tắm xong, lên thay bộ quần áo xin vin, Thụy có cảm giác nhẹ hẩng, nhưng sự quan tâm mỗi ngày của anh là coi tiền cất trong ví có được bao nhiêu. Nếu ít quá, anh phải đến quán cơm xã hội, hoặc bánh mì. Anh không thể mua bánh mì nhân thịt ổ lớn, mà mua một ổ vừa thêm ổ mì không cho nước tương. Còn như tiền được kha khá, thì đến quán cơm bình dân anh ăn no bữa. Vào mỗi kỳ đầu tháng, bữa cơm anh đi ăn khá là ngon và có thêm chai bia nhấm nháp nữa.  Kể từ ngày đi lính đến nay, Thụy luôn cố gắng sống với những sự khó khăn hàng ngày qua đồng lương. Thế nhưng, anh vẫn cố ngăn mình đừng quá mặc cảm và khổ sở vì sự thiếu thốn. Có thể nói, không khí thành phố Sài Gòn làm anh luôn cảm thấy dễ chịu và tự tin.

            Căn phòng Thụy đang thuê ở luôn bỏ trống trong thời gian còn lại của buổi chiều. Và cơn mưa có khi tới, thế nào căn phòng cũng có một đôi chỗ ướt dột. Nhưng sau đó, mùi vị của nó vẫn như là đã quen thường ngày.

            Khoản tiền nhà đầu tháng, Thụy đã trả tuần trước. Bà chủ nhà rất vui vẻ lúc lấy tiền và bà đã nhận ra rằng, bà quá cẩn thận về điện nước, thấy rằng Thụy đàng hoàng và từ nay bà rất muốn anh cứ tự nhiên, thoải mái.

            Vừa ra khỏi nhà, Thụy  chợt nghĩ đến Lăng. Từ Thị Nghè, Thụy đón xe buýt xuống Sài Gòn, rồi từ bến chính lại đi chuyến xe khác xuống chợ Thái Bình. Xuống đâyThụy  đi bộ đến nhà dì Hồng. Lối hẻm vào rộng rãi, nơi đây Thụy nhớ nhiều đến bóng dáng người thiếu phụ, và nơi đây vẫn nhắc Thụy nhớ đến Huê.

            Tiếng chuông cửa  dội lên, vang sâu vào bên trong. Một lúc sau, có người ra mở cửa.

-Ủa, hôm nay anh không đi làm ?

-Không, anh vừa xuống ca lúc sáng.

-Anh mới ngủ dậy phải không ?

-Ờ. Mấy hôm nay có thư từ gì không ?

-Anh có điện tín.

            Thụy bỗng càm thấy bất an, lo nghĩ. Thụy cầm bức điện tín Thúy đưa, rồi theo cô em họ xuống nhà dưới ngồi ở chiếc bàn tròn, một mình dì Hồng đang têm trầu ăn.

-Công việc con lúc này sao ?

-Dạ bình thường, dì.

            Thúy mở tủ lạnh đem ra cho Thụy một ly chè đậu. Thụy đọc bức điện tín:

-Thứ sáu 24/8 em vào Sài Gòn. Ninh Hà.

            Nỗi mừng vui lộ ra mặt.

-Điện tín ai đó con.

-Cô bạn học.

            Thúy ngồi xuống, cười nói:

-Em biết là ai rồi.

-Em đoán coi.

-Chị Ninh Hà phải không ? Từ ngày xa cách, anh chỉ nhớ nàng thôi.

-Si tình dữ không ? Rồi bây giờ , sao ?

-Dạ có gì đâu. Cô là bạn, có chồng rồi.

-Vậy à.

            Thụy cầm muỗng ăn ly chè.

-Anh Lăng vào chưa ?

-Em không biết. Chắc là chưa vào.

            Thụy đọc lại bức điện tín lần nữa, lòng tự dưng bâng khuâng. Ngồi đây, anh bỗng nhớ đến buổi sáng ấy thức dậy sớm cùng với Lăng đi ra bến tàu, nhớ đến khung cảnh buổi sáng ấy rất đông người đưa tiễn. Nắng hừng lên, con tàu tách bến, dần xa Sài Gòn. Ở trên bong tàu khi tàu rời bến Cảng, Thụy đưa mắt nhìn lại thành phố , nhìn quang cảnh thiên nhiên và nhà ở ven dòng sông. Rồi, tàu ra đến cửa biển. Nắng, gió lộng, bờ cát, nỗi nhớ nhung, nỗi buồn sự xa cách và nghĩ đến số phận. Lênh đênh trên biển hết ngày, rồi đêm xuống, Trong đêm đèn sáng phía xa bờ, và trong đêm tối hình ảnh những người lính ngồi dưới ánh đèn pin ngồi đọc thư  và viết thư cho gia đình, cho người yêu trong đêm tối mịt mùng với con tàu vẫn lênh đênh trên biển.

            Khi nghe tiếng chuông ngoài cửa, Thụy giật mình. Và rồi hết sức ngạc nhiên, khi nghe tiếng cười của Thúy và giọng nói của Lăng.

            Dì Hồng lên tiếng:

-Chà, xa Sài Gòn lâu dữ. Về Huế , vui không con ?

-Dạ vui.

            Lăng đặt gói quá xuống bàn, nói:

-Me con gởi biếu dì.

-Dì cám ơn me con. Sao me ngoài nhà khỏe không ?

-Dạ khỏe.

-Me đã nghỉ hưu chưa ?

-Chưa, dì ạ.

            Thúy nói:

-Anh Lăng mới về một tháng, coi mập ra.

            Thụy vẫn còn để những giây phút riêng tư nhớ đến Ninh Hà. Còn mấy ngày nữa thôi, anh sẽ gặp lại nàng. Xa nhau đã hai năm, gặp lại nhau chắc trong mỗi tâm hồn đổi khác nhiều.

            Buổi chiều nghe vang lên hồi còi hụ báo giờ tan sở. Luôn luôn trong câu chuyện về người thân là gợi nhắc dì Hồng nhớ đến cảnh làng quê cũ. Và, thực sự dì ước mong có được dịp đi xa, về tận ngoài đó thăm quê. Người rời làng quê đi xa sớm nhất là dì, từ thuở mới lên mười.

            Khi nghe tiếng xe ở ngoài, Thúy biết ba mình đã về tôi cô đi ra mở cửa.

-Chào chú.

-Ờ, chào hai cháu.

            Không vội thay quần áo, chú Minh ngồi vào bàn chuyện trò với cả gia đình.

-Trông cháu mập ra nghe Lăng.

            Thúy cười:

-Con mới khen anh.

-Ngoài nhà ra sao ?

-Dạ bình thường.

-Me cháu vẫn con dạy học.

-Dạ còn.

-Me con ở nhà, kém dì một tuổi.

            Chú Minh uống hớp trà nóng Thúy pha, vừa cầm một miếng mè xửng lên ăn.

-Ngon quá.

            Thúy lại đi ra ngoài khi nghe tiếng chuông gọi cửa. Chị Lành đi chợ về. Đi qua chỗ chúng tôi chị lên tiếng chào và xuống làm bếp.

            Thụy nói với Thúy:

-Huê  hỏi thăm em.

-Anh gặp chị ở đâu.

-Ở quán nước gần nhà.

-Lâu nay không thấy chị ghé.

            Thụy cười:

-Có bồ mới rồi. Vui vẻ lắm.

-Thật hả.

-Thật chứ. Huê khoe với anh.

-Anh gặp bồ chị chưa ?

-Có.

            Thụy và Lăng ngồi ở nhà dì Hồng chuyện trò đến giờ ăn. Trời âm u, gió nhẹ. Trong nhà đén sáng. Sau bữa ăn, khi cả nhà dùng trà, Lăng nói:

-Anh Nguyên sắp làm lễ hõi.

-Chà, giỏi không, dì Hồng khen.

-Anh Nguyên và chị Vân Oanh rất là đẹp đôi.

-Tên hay quá, anh.

-Tên hay, người cũng đẹp.

            Thụy cảm thấy vui. Dì Hồng hỏi:

-Chừng nào con ?

-Hình như là cuối tháng mười.

            Lăng đáp lời, xong quay sang Thụy:

-Anh có nhận được thư ngoài nhà không ?

-Không.

            Thụy rất muốn được nói chuyện riêng với Lăng về chị Vân Oanh nên mong một ngày khác. Bức điện tín Ninh Hà ở trên túi áo của Thụy. Nãy giờ, những ý tưởng về bức điện tín làm anh bâng khuâng. Anh vẫn chờ đợi, nhưng chẳng biết tự nguyên do nào.

            Khoảng chín giờ đêm, Thụy và Lăng cùng ra về. Hai người đi xe Honda. Đây là chiếc xe cũ  Lăng mới mua lại của người bạn, với giá thân hữu. Anh bạn cũng học trường Luật, thân nhất với Lăng, không chỉ bán thôi mà còn cho trả góp.

            Chiếc xe Honda nước sơn màu xanh lá cây. Tiếng máy nổ êm. Gió đêm thật mát rợi, trên đường xe chạy, Thụy kể lại cho Lăng nghe về công việc làm hiện giờ của mình, sôi nổi nhất là những ngày đi lên mặt trận vùng biên giới, sau hết, Thụy cho Lăng biết anh đang chuẩn  bị hồ sơ gởi Ban tuyển mộ để xin đi học khóa SVSQ hoa tiêu. Với quyết định này, ước mong chuyện học của Thụy tạm thời ngừng.

            Bến tàu đông vui. Lăng cho xe chạy dọc con đường bến tàu để nhớ những ngày trở lại Sài Gòn sau hơn một tháng đi vắng, để hóng mát gió đêm trong thành phố, rồi sau đó, dừng xe lại bên bờ đường cạnh một quán nước.

            Người chạy bàn ra ngay khi hai người vừa kéo ghế.

-Hai ly nước mía.

-Không bia bọt gì anh ?

-Không.

            Ngồi đợi không lâu, hai ly nước mía mang ra. Thụy uống một ngụm đầy.

-Mát quá.

-Chừng nào anh mới đi học ?

-Hy vọng tháng tới, nhưng còn phải khám sức khỏe. Đi  ngành hoa tiêu, sức khỏe khám rất kỹ.

-Cần nhất là mắt tốt.

-Mắt tôi, tốt độ 8/10 thôi.

            Lăng uống chậm rãi. Thụy nhìn Lăng, một lúc hỏi:

-Ngoài nhà ra sao ?

-Cũng thường.

-Vợ chồng Tri Trinh khá không ?

-Cũng khá hơn mấy năm trước. Tri đã lên chức Hiệu trưởng.

-Le vậy hả.

            Lăng cười vui.

-Anh Nguyên có về nhà thường xuyên không ?

-Có chị Oanh , anh về luôn.

-Sao, Lăng thấy chị Vân Oanh sao?

-Rất là xinh đẹp. Hoa khôi Đồng Khánh cũng không sánh bằng.

-Chị Vân Oanh học bên Mỹ Thuật.

-Chị cũng đang thi Tú Tài khóa II.

-Có kết quả chưa ?

-Mới thi xong loạt II.

            Trong thoáng giây nghĩ ngợi, Thụy nói:

-Tôi có nhận được thư của chị.

-Chị có nói lễ hỏi không ?

-Không, thư này lâu rồi. Lá thư chị viết cám ơn về cuốn sách. Nhưng tôi cũng hay biết về hai anh chị từ hôm về phép cuối hè năm ngoái. Nhi kể chuyện cho tôi nghe về chị, nói chị rất dễ mến.

-Anh Nguyên nhà mình là hay lắm.

            Rồi, Thụy hỏi Lăng về dự đinh học hành. Lăng nói với Thụy ở xã hội của mình, cần cuộc sống vững vàng. Học Luật, rất dễ dấn mình vào con đường chính trị và con đường này dẫn đến lợi danh, dễ hư hỏng, tôi không muốn. Với Lăng, làm sao đáp lại tấm lòng yêu thương của người mẹ.

            Hai người đứng dậy rời quán, Lăng đưa Thụy về nhà, lên xem căn gác Thụy ở , và ngồi tiếp chuyện trò một lúc lâu xong ra về. Thụy  theo Lăng xuống nhà tiễn chân.

-Ngày mai anh đi làm không?

-Ngày mốt.

            Thụy trở lên nhà, tự nhiên lạ lùng với ánh đèn điện trong phòng. Ngồi xuống giường, anh mở bức điện tín ra đọc. Nội dung bức điện tín rất đơn giản, nhưng sao, anh  vẫn cứ mang trong mình nỗi bâng khuâng từ chiều đến giờ.

            Khi đi nằm, anh đọc tiếp mấy trang truyện dịch cuốn Kẻ Xa Lạ. Những ý nghĩ về hình ảnh một người mẹ lúc còn sống, lúc đã qua đời, làm anh nhận ra rằng, trong đôi mắt của chàng Meursault là ánh nắng mặt biển . Và dù cho rằng, người mẹ đau yếu, nhỏ nhoi, nhưng tình của mẹ vẫn là biển.

            Khi Thụy thức dậy sáng hôm sau, trên mặt bàn còn nguyên bức điện tín của Ninh Hà. Và trong lúc đứng im, Thụy hình dung lại những ngày tháng của một thời đã qua tưởng chừng lâu lắm, trong ảnh tượng của nàng.

            Ngày trở lại ca làm việc, vào giờ ăn trưa Thụy gặp vị Giám đốc. Thụy xin được một tuần phép. Sự chấp thuận dễ dàng này của vị Trung Tá là anh có sự khéo léo và chân tình trình bày câu chuyện của mình và người bạn gái, mà nói tằng, nàng là em của anh. Trung tá B. làm Giám đốc trung tâm Không trợ III là người điềm đạm, mực thước, có sự chín chắn trong cách điều hành và phân phối các phòng ban của trung tâm. Ông là vị Chỉ huy có nhiều kinh nghiệm, Xuất thân Khóa I Thủ Đức và đã học trường Không Quân Salon bên Pháp. Thụy tuy cấp nhỏ, nhưng được sự thương mến của ông, ngòai khả năng làm việc,  anh còn có chút năng khiếu văn nghệ, và những bài anh viết luôn được đăng trên báo Lý Tưởng. Chính ông là người khuyến khích anh theo con đường văn học. Đôi lúc có dịp chuyện trò trong giờ nghỉ, Thụy và ông nói chuyện văn chương. Văn học thế giới, ông hiểu rất sâu và rộng về văn chương Pháp và Mỹ. Thụy trò chuyện với ông qua những suy nghĩ độc lập của mình. Thời đi học, môn tiếng Pháp Sinh ngữ chính anh được học các tác giả cổ điển Racine, Corneille, Chateaubriand, còn những tác giả mới về sau này anh được đọc  qua các bản dịch, và tạp chí Văn giúp anh mở rộng kiến thức với những số báo giới thiệu các nhà văn quốc tế. Mỗi tháng, Thụy dành tiền mua hai số báo này và lưu giữ để học viết văn. Khi đọc xong, Thụy hay đưa cho ông đọc. Số đặc biệt về Saint Exuypéry có những bài nhận định, có tiểu sử, và những đọan trích văn ông rất thích.

            Ngày thứ sáu Ninh Hà lên đường. Chuyến bay cất cánh rời Đà nẵng lúc 9 giờ sáng và tới Sài Gòn sau gần hai tiếng đồng hồ.

            Ở phòng đợi, rất đông hành khách đón thân nhân. Giữa khung cảnh sang trọng, lịch sự, Thụy cảm thấy một niềm vui được dự phần với mọi người, và đây là lần đầu tiên anh đi đến phi trường để đón một người mà người này đặc biệt hơn hết trong cuộc đời mình. Giữa anh và nàng là bạn học. Giữa anh và nàng, hiểu rằng sự xa cách là tình yêu, sự gần gũi là tiếng nói. Sau một thời gian biết nhau, nàng coi Thụy như người anh và những lá thư hai người viết cho nhau đọc đều cất giấu một nỗi niềm trong sự rung động của ngôn ngữ. Hôm nay Thụy có thể nhận ra tuổi trẻ của mình trong ánh sáng với quần áo mặc sạch sẽ, tươm tất, tóc chải gọn và anh đến đây tâm hồn vẫn còn chút dư vị của ly cà phê sữa vừa mới uống trước lúc đi. Và, khi gặp Ninh Hà ,Thụy  có chuẩn bị mời nàng bữa ăn nhẹ, hoặc bữa ăn trưa nếu chuyến bay đến trễ.

            Hành khách của chuyến bay đang ra lối cửa chính. Người nào cũng mang va li, hành lý xách tay bên mình. Ninh Hà vừa xuất hiện, trông thấy Thụy cặp mắt nàng vui lên với nụ cười sáng lên giữa khuôn mặt rạng rỡ. Thụy bước nhanh tới, nhìn Ninh Hà đẹp lạ lùng. Nàng mặc chiếc áo dài xanh có những chấm bông trắng lấm tấm, tóc xõa xuống vai, và trên gương mặt tỏa ra một vùng ánh sáng dịu hiền.

            Nàng giữ lấy cái túi xách còn đưa chiếc va li cho Thụy. Tới giữa phòng đợi, hai người chợt ngừng với đôi mắt còn bỡ ngỡ. Bên ngòai cửa, chiếc xe ca đưa hành khách về trạm ở thành phố đang chờ. Ninh Hà nói với Thụy:

-Em muốn về nhà bằng taxi.

-Anh cũng nghĩ là nên vậy. Theo xe ca về tới trạm, mình lại còn đón xe về nhà bác T. nữa.

            Thì giờ còn rộng rãi. Thụy và Ninh Hà đi tới nhà hàng ăn ngay chỗ phòng đợi. Các dãy bàn ghế trong và ngòai có khách ngồi ăn uống chuyện trò. Thụy  và Ninh Hà ra ngồi bên ngòai hiên có đặt chiếc dù trên những bàn tròn. Nắng ấm áp, dễ chịu. Hai người cùng gọi một món ăn nhẹ và dùng cà phê sữa.

            Nỗi vui mừng được gặp lại nhau lộ hết ra trên gương mặt, Thụy cũng như  Ninh Hà đều vui, hạnh phúc. Nụ cười thật sáng dịu trên đôi mắt nàng. Thụy say sưa ngắm vẻ đẹp trên gương mặt Ninh Hà, cặp mắt anh cứ tưởng như là cánh bướm màu xanh nhỏ nhởn nhơ quanh nàng. Sự duyên dáng của Ninh Hà rất là tự nhiên và rất quyến rũ. Bên vai Ninh Hà , mái tóc thả dài xuống nằm yên như một đứa bé nhỏ còn say ngủ.

            Cô gái mang bữa ăn ra đặt trên chiếc khay. Ninh Hà lặng im chờ cô dọn xuống bàn. Khi cô ta bỏ đi, Thụy  lấy ra bức điện tín, và giọng vui, anh nói:

-Anh thật là hồi hộp.

-Có ngạc nhiên không ?

-Anh thật mừng được gặp lại em. Em vào ở lâu không ?

-Chừng một hai tháng.

-Em có dự định gì không ?

-Không. Em vào thăm Duy . Duy đi Thủ Đức rồi, anh không biết sao ?

-Anh không hay.

-Vậy à. Em cứ nghĩ là em đã có viết thư cho anh.

-Không, anh không nhận được thư.

-Ba cũng không nói gì với anh sao ?

-Không

-Rất có thể là em quên không nói rõ trong thư cho anh.

            Thụy cười:

-Không sao. Gặp em ở đây là biết tin đầy đủ rồi.

-Hôm nay là thứ sáu. Ngày mai em đi thăm hay là ngày mốt.

-Em chưa chuẩn bị gì cả.

-Anh nghĩ em nên thăm ngày chủ nhật. Ngày mai rảnh rỗi, em đi mua sắm quà cho Duy.

            Ninh Hà gật đầu đồng ý với Thụy. Bữa ăn bắt đầu, giờ này cũng đã gần trưa. Tiếng chuyện trò nho nhỏ, hai người hỏi thăm nhau về chuyện gia đình, công việc làm, và anh hết sức chú tâm khi nghe Ninh Hà nói về dự định của mình trong thời gian sắp tới. Hiện tại, nàng vẫn chưa có ý định đi làm, nhưng rồi cũng sẽ phải lo liệu cho cuộc sống. Duy đi quân trường, sau chín tháng là mãn khóa học ra đơn vị. Có thể, nàng đợi Duy ra trường sẽ đi đơn vị nào rồi mới quyết định nơi ăn chốn ở. Thụy lặng im, có những phút giây nghĩ ngợi lo lắng cho người bạn gái của mình. Mới xa Đà Nẵng, xa Huế, xa đất miền Trung chưa đến hai năm mà Thụy cứ ngỡ như là mình đã đi lâu, lâu lắm chưa về.

            Ninh Hà có giọng nói rất hay. Ngày trước, tới nhà nàng chơi trò chuyện Thụy chỉ muốn ngồi nghe tiếng nàng nói. Không chỉ nghe, mà còn say ngắm vẻ đẹp của nàng khi nàng ham vui chuyện để lộ ra những nét đẹp tự nhiên qua dáng điệu của nàng. Khi nghe tiếng nói, lúc ngồi cạnh nhau, trước mặt nhau, tiếng nói ấy như thể bày ra cho bạn thấy một cô gái vừa cầm con dao cắt trái táo dòn cứng thành những khoanh nhỏ. Và nếu như, sau khi từ giã cô gái ra về, ngòai nỗi nhớ về một gương mặt xinh đẹp của nàng, tiếng nói của nàng cũng muốn gợi cho bạn âm thanh của những giọt rượu, nước trái cây chảy xuống lòng một chiếc ly thủy tinh.

            Ngồi đây bên Ninh Hà, Thụy gói ghém lại từng chút một của bao nhiêu kỷ niệm ngày trước đến một ngày đầu hôm nay gặp lại để cất giữ, để một lúc nào đó được cùng nói với nhau, chúng mình suốt đời thương yêu nhau.

            Nhà bác T. ở gần chợ Bà Chiểu, đầu con đường Đỗ Thành Nhân. Lên taxi, Thụy ngồi bên cạnh Ninh Hà . Khi xe ra khỏi phi trường, qua cửa kính, Ninh Hà đưa mắt nhìn thành phố. Trong cái nhìn của nàng,  những cảnh vật hiện ra đều tươi sáng và có sự vui vẻ, thân thiện đón tiếp nàng. Thụy lặng yên, vì muốn để cho người bạn gái của mình bằng sự mới lạ trong cặp mắt nhìn thành phố mới đến, và dù là lần đầu, nhưng nàng sẽ không bỡ ngỡ, xa lạ. Bên cạnh nàng, có một người thân quen là anh đây. Thụy còn ý nghĩ, thành phố này muốn nói với Ninh Hà nàng là người tình của thành phố vừa đi đâu xa nay trở lại.

            Chiếc taxi ngừng. Ninh Hà mở ví trả tiền, Thụy mở cửa ra trước đem hành lý xuống.

            Xe ngừng ngay trước cổng nhà. Căn nhà rộng lớn như một biệt thự. Hai người đứng trước cổng chờ, bên trong, tiếng chuông vừa bấm lên nghe vang vọng.

            Một lúc sau có người xuất hiện, mở cửa. Bác T. cười reo lên, mừng vui đón cô cháu gái. Ninh Hà giới thiệu tôi với bác. Bác T., Thụy nhận ra bác ngay, vì ngày trước ở Quảng Trị bác là một trọng tài quốc tế duy nhất về bộ môn bóng tròn.

            Bác T. đưa Thụy và Ninh Hà lên phòng khách. Căn nhà bác rộng, phòng khách có trưng nhiều bức tranh sơn mài rất đẹp. Bác T. tóc đã bạc, nhưng rất tự nhiên trong câu chuyện nói với Thụy . Ngày trước, bác làm việc ở tiệm thuốc Giơ Neo, tiệm thuốc lớn độc nhất của tỉnh. Bức ảnh chụp bác và ông Dược Sĩ Léon Volve, Thụy được trông thấy ở ngòai nhà Ninh Hà.

            Ngồi nói chuyện không lâu, Thụy đứng lên xin kiếu từ. Với cái bắt tay nồng ấm, bác T. cũng mong gặp lại anh.

            Ninh Hà tiễn Thụy ra cổng. Ngày chủ nhật Thụy  đến sớm. Trước khi đi, Thụy và Ninh Hà ghé quán uống cà phê. Sau đó, hai người đi tới bến xe gần chợ. Chiếc giỏ mây khá nặng, đầy thức ăn và quà mang cho Duy. Buổi sáng trời mát dịu. Lòng Thụy  hết sức vui đi bên cạnh Ninh Hà. Vì yêu thích tiếng nói của nàng, nên mỗi lần nghe tiếng nàng nói, Thụy có cảm giác nhận được một viên kẹo ngọt và thơm. Đôi lúc, Thụy chợt nghĩ tiếng nàng nói kéo anh trở lại tuổi thơ, về một nơi chốn thanh bình ở quê ngọai đứng trên con đường làng nhìn về phía bờ đê trong gió chiều lồng lộng thấp thóang vạt áo nâu đưa bóng dáng mẹ tôi trở về nhà. Như vậy, ở bên Ninh Hà anh có hạnh phúc, anh và nàng có thể chia cho nhau một tình bạn để được sống mãi bên nhau với cuộc đời.

            Hôm nay, chắc chắn Duy đã sẵn sàng chờ nghe tên gọi. Sài Gòn đi Thủ Đức, xe chạy mất gần bốn chục phút. Vừa xuống bến đậu, cùng với chúng tôi có rất đông thân nhân đi thăm. Gia đình nào cũng mang quà cáp, tay ôm, tay xách. Từ bến, mọi người đi bộ chừng hai trăm mét hướng về phía cổng chính quân trường. Từ xa, ai cũng trông thấy các SVSQ trong bộ lễ phục màu vàng đeo giây biểu chương, nón béret đen. Bên trong khu tiếp tân, nhiều chiếc lều vải được dựng lên. Và nơi xa đó, có bóng cây, màu cỏ còn xanh tốt.

            Hôm nay, Ninh Hà mặc lại chiếc áo dài xanh có những bông hoa trắng nhỏ lấm tấm như hôm mới đến xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Khi mặc áo dài, thời đi học cũng như hôm nay đã vào đời, dáng vẻ chiếc áo hay màu áo luôn làm cho nàng có một vẻ đẹp quyến rũ, lạ lùng. Hai người bước đi bên nhau với tiếng nói chuyện gần gũi, ấm áp. Thỉnh thỏang, cặp mắt Ninh Hà sáng lên một nụ cười. Thụy đọc được qua nụ cười ấy một chút vui của hạnh phúc. Và, ý nghĩa đó như muốn nói để Thụy hiểu rằng, Ninh Hà tuy đã một mái gia đình, đã đi lấy chồng, nhưng anh vẫn là một người bạn thủy chung, luôn luôn nàng nghĩ đến anh và anh ở bên nàng. Thụy cũng dự phần trong niềm vui đó qua ý nghĩ của Ninh Hà. Bất ngờ, cơn gió hất nhẹ thân trước chiếc áo dài bay lên, vội vàng, Ninh Hà đưa tay nắm giữ lấy. Và, thoáng trong giây phút đó, nàng có  một nụ cười mơ mộng, xa xôi.

            Khu tiếp tân ồn ào, náo nhiệt. Dọc con đường dốc từ quân trường ra khu tiếp tân, lần lượt từng nhóm TKS đều bước đi ra. Ở quanh các lều, những anh em ra trước đang vui chuyện với thân nhân và đang ăn uống. Những SVSQ khóa đàn anh chia từng nhóm phụ trách liên lạc với các Đại đội để gọi tên TKS ra gặp thân nhân. Quang cảnh buổi sáng chủ nhật thật vui, cảm động. Thụy và Ninh Hà đứng đợi dưới bóng cây. Khi lắng mình trong câu chuyện, tiếng nói của Ninh Hà làm tôi nhớ da diết tuổi học trò, nhớ lại thời hoa mộng của tuổi trẻ, nhớ đến một buổi sáng, nhớ bâng quơ một mối tình thuở gặp nàng, và thành phố cũ ấy. Không lâu, Duy ra tới. Duy vừa xuất hiện trên đường dốc mắt đang tìm, cùng lúc, tất cả ba người mừng vui nhận ra nhau và cao tay vẫy chào.

            Không mất công tìm kiếm, đã định chỗ Ninh Hà đứng Duy nhanh chân bước tới. Gặp lại vợ sau mấy tháng xa cách, Duy mừng khôn tả.

            Chỗ ba người đang gặp nhau là bóng cây im mát tỏa rộng, nên không cầm tìm ở nơi khác. Những tờ nhật báo trải rộng, và thức ăn, quà cáp từ trong cái giỏ mây được lấy ra hết bày thành một bữa tiệc vui. Hai chai bia lớn được rót đầy ba ly. Rót xong, ba người cùng nâng ly chúc mừng buổi gặp nhau. Những món ăn bày ra lúc này, tất cả, Ninh Hà tự làm lấy. Một con gà quay , bánh mì, cơm chiên, gõi tôm đu đủ, trái cây, mỗi người tự lấy muỗng nĩa của mình bỏ thức ăn vào đĩa giấy làm phần ăn. Trong phút giây này, niềm vui ai cũng như ai cả. Thỉnh thỏang, Duy và Thụy nói chuyện với nhau về một vài tin tức thời sự và chiến tranh.

            Xong bữa ăn, Thụy đứng dậy đi ra chỗ căng tin mua cà phê về uống. Ba người tiếp tục câu chuyện, Thụy và Duy vừa uống cà phê, hút thuốc. Và đến lúc cần thời gian cho hai vợ chồng tâm sự, rất nhanh gọn, Thụy cuốn những tờ báo đứng lên mang đến thùng rác. Vừa có ý định, Thụy nói với hai vợ chồng tôi ghé tìm mấy người bạn đồng hương ở Quảng trị, đến chiều sẽ trở lại.

            Thụy  một mình đi nhởn nha quanh các lều và những nhà tiếp tân đã làm sẵn. Chỗ nào cũng đông, và đúng như anh nghĩ, anh được gặp lại khá nhiều bạn bè quen ở Quảng Trị bị gọi nhập ngũ. Gặp nhau, anh cùng họ mừng vui ngồi chuyện trò, tán dóc, nhắc nhở những ngày vui đã qua. Bây giờ, tuổi trẻ của chúng ta  đã gắn liền với cuộc chiến. Và những ước mong, những mơ mộng, rồi cũng sẽ theo con đường chinh chiến để thử thách sự đối diện của mình trước chiến tranh .

            Buổi chiều xuống, dần dần theo bóng nắng đi xa rời khỏi quân trường. Hết giờ tiếp tân, mọi người chia tay. Khi Thụy trở lại, bỗng dưng bàng hòang trước sự giận dữ củaNinh Hà. Duy đang bối rối, anh đưa mắt nhìn Thụy cầu cứu. Không rõ chuyện gì, nhưng Thụy cũng đóan chừng có thể là chuyện riêng tư bên gia đình Duy có liên quan đến nàng.

            Rồi một giọng nhỏ nhẹ, Duy nói với Thụy:

-Anh đưa giúp Ninh Hà về nghe.

            Thụy bắt tay Duy, nói:

-Giữ gìn sức khỏe. Gặp nhau sau.

            Từ lối cổng tiếp tân, Thụy và Ninh Hà cùng theo những thân nhân ra về, đi bộ đến bến đậu xe lam. Buổi chiều trở gió. Trên con đường đất, Thụy im lặng đi bên cạnh người bạn gái và đang nghe tiếng nàng khóc. Một đôi câu nói dỗ dành của anh tựa như một vệt khói tan rất nhanh giữa buổi chiều. Không nói gì với chàng, nàng chỉ khóc.

            Tới bến xe, vừa gặp chuyến, hai người cùng lên ngồi cạnh nhau. Khách đông, vừa lên đủ là tài xế rồ máy chạy liền. Thụy ngồi im như là pho tượng. Tiếng Ninh Hà khóc, nước mắt nàng  của bạn tôi đã làm ướt đẫm chiếc khăn tay.

            Sau gần một giờ chạy theo con đường trong của quận lỵ, xe về đến Sài Gòn, dừng ở bến chính. Hành khách lặng lẽ xuống. Ninh Hà và Thụy  xuống sau cùng. Buổi chiều tắt hết nắng. Nhìn quaThụy, Ninh Hà nói:

-Anh Thụy về nghe.

            Thụy  ngỡ ngàng nhìn lại Ninh Hà. Tiếp lời, nàng nói:

-Em về một mình được.

                                                                   

 

                                                                  V                                         

                                                               

 

                                                        

 

            Ngày thứ sáu, thi xong hai môn vấn đáp sinh ngữ  Anh, Pháp, lòng Oanh cảm thấy nhẹ nhõm, nét hớn hở ửng hồng trên gương mặt, và niềm vui theo nhau dâng lên. Ở nhà một mình,  bây giờ sau bữa ăn nhẹ Oanh  bỏ giấc ngủ trưa vội thu xếp quần áo, ít sách vở và đồ dùng cho vào túi xách rồi rời khỏi nhà trọ, đón xích lô ra bến xe Huế đi Đà Nẵng. Oanh sẽ ở chơi với ba má, các em cô trong hai ngày cuối tuần, đến sáng thứ hai sẽ trở ra lại ngoài này, và đến ngày thứ ba kết quả thiệt thọ chắc chắn là sẽ niêm yết.

            Khi nhìn đoàn xe nối nhau vượt đèo, Oanh  vừa ngắm phong cảnh bên phía biển, rồi quay sang nhìn đồi núi chập chùng, lần đầu tiên Oanh chợt mang cảm nghĩ về cuộc đời mình có dấu hiệu đổi khác, trong niềm tin thật mới. Bây giờ, hình ảnh Nguyên hiện ra càng rõ nét , nhớ anh, cô thật quá thương trong suốt tuần lễ cô chuẩn bị bài thi các môn loạt II, tối nào Nguyên cũng ở bên cô lúc giảng bài, lúc kiểm tra bài, và chú tâm hơn hết vào hai môn Toán, Lý Hóa. Vào những đêm ấy, hai người bên nhau sống trong tình anh em ruột thịt. Và, mối xúc động này trở nên có tác động hiệu lực, Oanh lắng nghe giảng bài, và cô thực sự hiểu bài. Vậy nên, bài thi hai môn Toán, Lý Hóa, Oanh làm đầy đủ hoàn tất, chắc chắn là có điểm dư phòng hờ bù cho môn yếu khác. Buổi chiều thứ tư vừa qua, kết quả loạt II niêm yết, Oanh đậu, và nhờ coi điểm, tổng cộng 5 môn, cô dư được 8 điểm. Tới lúc này, cô đã tự tin , đầy hy vọng lấy được mảnh bằng Tú Tài II. Sáng nay vào vấn đáp, cô trả lời được, trong đó, phần đoạn dịch cô dịch suông sẻ, đúng nghĩa.

            Lòng Mỵ Châu reo vui lên mỗi lần nghe tiếng nói Vân Oanh về đến nhà. Như nắng ấm trong ngày cuối  thu, hay đầu hè, gương mặt Mỵ Châu sáng rở lên và đôi mắt to của cô bé như thể vừa đang nhìn một con chim nhảy nhót trên cành cây. Không thể nào quên được cô em yêu dấu của mình, nên mỗi lần gặp, lòng Vân Oanh rất vui, vừa tuôn tràn ra nước mắt, đó là hạnh phúc của bao nhiêu thương yêu nàng dành hết cho em gái của mình. Khi nhìn từng giọt nước ấm làm đỏ cặp mắt Vân Oanh, bạn như có cảm giác nàng muốn cất giấu những nét vẽ trên một bức tranh về cuộc đời chính mình.

            Hai ngày cuối tuần, thành phố Đà Nẵng đông vui. Bữa ăn sáng ở tiệm phở, cả nhà ngôi chung bàn đông vui. Bữa ăn trưa, ăn tối, trong nhà luôn nghe ồn vui tiếng cười nói, hòa nhịp sống với các gia đình quen biết lâu năm sống cùng chung khu phố. Về nhà, thời gian nghỉ Oanh nghe nhạc, đọc sách, chuyện trò với Mỵ Châu, đôi khi nàng thay thế mẹ tiếp khách mấy người bà con hai bên nội ngoại tới nhà thăm. Và, dự tính về lễ hỏi cho Nguyên và Oanh đang tới lúc, mỗi ngày một gần. Ngày tới ấy, bông hoa hồng xinh đẹp của cô bắt đầu nở.

            Oanh lại trở ra Huế, sau hai ngày vui về thăm nhà, và tới đây, bỗng dưng sự yên lặng theo bước chân cô gái một mình từ nơi bến xe đỗ trở về căn nhà trọ. Oanh cảm thấy buồn nhớ vì vắng Nguyên. Nguyên có chuyến đi công tác lên tiền đồn, thời gian cũng phải hơn tuần lễ.

            Buổi chiều, Oanh đạp xe qua trường Mỹ Thuật, lúc này đang còn nghỉ hè, cô vào văn phòng nạp thêm số giấy tờ liên quan đến năm học tới, là năm cuối cùng thi tốt nghiệp. Khi xong việc ra về , vừa tới cổng Oanh gặp thầy Văn, hai thầy trò đứng nói chuyện chốc lát, và nhân thể người thầy hỏi cô đôi chút chuyện riêng về Nguyên, là người bạn, và cô Oanh học trò  là ý trung nhân yêu quí của chàng.

Chừng khoảng nửa tiếng, thầy trò chia tay. Thầy Văn vào trường, còn Oanh , một mình thanh thản đạp xe vào khu Đại Nội. Qua khỏi vòm cổng, hai bên là vườn trồng đủ các thứ cây ăn trái, nhiều nhất là mận, mùa này mận đang sai quả. Lối vào Thái Miếu nhỏ hẹp lát gạch, cũng rất nhiều cây phủ bóng mát, và nơi này là nơi thờ những hương án của vua từ Thế Tổ Gia Long đến vua Duy Tân. Không khí trong Thái Miếu mang vẻ âm u, nhưng có ánh đèn điện rọi sáng, và qua từng bước nhớ tưởng, Oanh lặng lẽ vừa đi, vừa nhìn lại từng bức ảnh của từng vị vua qua mỗi thời đại  thăng trầm của lịch sử.

Triệu Miếu, gần cạnh đó, nơi đây thờ các vị Chúa, từ  Chúa Sải Nguyễn Hoàng là người sáng lập nên triều đại nhà Nguyễn và sự hưng thịnh của miền đằng trong từ lúc khởi dựng dần dần đem nước Việt  vào xa đến tận miền Nam, cuối cùng sự hình thành nên một nướcViệt Nam ngày nay.

Oanh dắt xe đạp qua vòm cổng, ngang Triệu Miếu cô không vào bên trong mà đứng ngoài nhìn quang cảnh. Từ nơi này, có một lối đi dẫn tới nơi trưng bày Cửu Đỉnh bằng đồng, ở đó, cũng là nơi sinh viên đến đây học vẽ theo lối rập (estampé) in bằng giấy dó những hình chạm trỗ trên mổi chiếc lư đồng lớn, rất là uy nghi, và ý nghĩa Cửu Đỉnh cũng là sức mạnh cầm quyền của các nhà vua.

Từ chỗ Oanh vừa dừng bước đưa tầm mắt nhìn rộng và xa, phía bên phải là Cửu Đỉnh còn bên trái, một con đường dài băng qua bãi đất trống, khi tới chiếc cầu hẹp, lại có con đường dẫn sang Tàng Kinh Các, một con đường khác nữa đi tới Điện Thái Hòa.

Nắng chiếu in xuống bóng dáng Oanh với chiếc áo dài trắng và chiếc xe đạp đang di chuyển. Gió thổi tung mái tóc sau lưng nàng bay lên. Cô gái cứ  mặc cho gió ùa ngập đến và bao quanh mình.

Tới sân ngoài Điện Thái Hòa, cô gái xuống. Tựa xe bên gốc cây sứ, Oanh chậm bước, và luôn muốn dừng bước để chiêm ngưỡng quang cảnh. Bên ngoài Điện Thái Hòa, cảnh vật và quần thể của  kiến trúc thật là hài hòa, uy nghi, đúng là chốn cảnh cung đình  điện ngọc của thời các vua chúa ngày xưa.

Sân đình lát gạch thật rộng, đi lần ra phía ngoài tới  một chiếc cầu lát đá bắc qua hồ nước,  rồi đến cửa Ngọï môn. Phía trên mái cửa Ngọ Môn là Lầu Ngũ Phụng. Đứng trên dãy lầu này nhìn xuống, bên dưới là hồ sen xanh mướt những cánh lá và hoa của mùa sen cũng đang nở.

Oanh nhìn ngắm khung cảnh Đại Nội , từ mấy năm qua, cảnh đã rất quen thuộc với nàng, nhưng hôm nay lần đầu tiên nàng đối diện với cảnh bằng những cảm xúc thật đặc biệt như thể cô là một du khách đầu từ xa mới đến. Một lúc sau, cô gái bước từng bước lên chín bậc thềm cấp  rồi đi vào bên trong cung điện.

Oanh cảm thấy nhỏ bé, trong cảm giác ngập ngừng như thể cô vừa nhận ra cái non nớt  về tài năng của mình trước một bức họa  lớn.

Hai bên cung điện, những hàng cột tròn bằng đá to lớn, chạm trổ ánh lên từng màu sáng của nghệ thuật rất nổi bật, và chỉ cần chạm tay vào  mặt đá là nghe ra âm thanh huyền nhiệm một thời nào đó của lịch sử.

Ngay giữa chính điện, là ngai vàng cũa Vua. Nền điện lát bằng đá thanh mát lạnh, càng lúc, cô gái nhận ra hương sắc thơm mát của đá hoa bên dưới thấm lạnh lên chân cô, và đến cả thân người cô. Vâng, nơi cung điện này chính là sự nghiệp to tát và lâu dài, từ đới vua Thế Tổ Gia Long khai lập đến các đời vua khác.

Viện Bảo tàng nằm gần cạnh trường Mỹ Thuật của Oanh học, nhưng cô không có ý định thăm viếng nữa.

Một mình với hạnh phúc đã làm nên vẻ yêu thương, giờ thì cô gái ra về.

            Oanh không về nhà ngay sau khi ra khỏi Đại Nội, cô đạp xe xuống phố Trần Hưng Đạo ý định vào các nhà sách, rất có thể cô xem  ciné nếu có phim hay. Ngày hôm qua buổi sáng chủ nhật, cô đi phố chơi, và xem cuốn phim Vacance Romaine ở rạp hát Lido. Cuốn phim thật hay, hai tài từ nổi tiếng đóng là Audrey Hepburn và Gregory Peck.

            Huế, những buổi chiều dạo trên phố chính Trần Hưng Đạo, bạn luôn thấy cảnh sinh hoạt chuyển động rất nhịp nhàng.  Nắng cuối hè đang cho thành phố ít nhiều mùi vị thơm và ấm. Và trong nắng chiều, bóng dáng chiếc áo dài trắng của các cô gái Huế trông rất tha thướt. Nhưng mà,trong những dáng ấy, một mình Oanh thật nổi bật.

            Oanh dừng xe đạp trước cửa hiệu sách Gia Long. Đây là hiệu sách lớn nhất nằm trên dãy phố chính này. Những ai sách mua ở đây, thường được bớt  20% trên giá bìa. Khi thấy Oanh xuất hiện, nhẹ bước đi vào cửa hiệu, một người khách trông thấy bỗng đưa mắt nhìn. Và, chiều nay, trong hiệu sách cũng có đông các chàng trai, học sinh có, sinh viên cũng có.

            Oanh chậm bước, mắt vừa ngước tìm kiếm sách qua từng dãy kệ. Nàng đọc từng tựa sách, và đang có ý chọn. Bên cạnh một cô gái, Oanh đứng tìm sách ở hàng kệ dành cho tiểu thuyết.

            Oanh với tay lấy cuốn truyện Gìn Vàng Giữ Ngọc xuống, mới lật qua bỗng nghe tiếng cô gái đứng bên.

-Chị Vân Oanh.

-Ủa,  Liên An.

-Hay thật, em và chị gặp nhau. Anh Nguyên đâu ?

-Anh đi công tác chưa về.

            Hai người nhìn nhau, đôi mắt chan chứa niềm vui, và thoáng chợt nghĩ những kỷ niễm về một thành phố, sau này gợi nhớ, ai cũng tin rằng, tới ngày ấy, mình đã sống một nơi phương trời xa.

            Trên tay hai cô gái, cô nào cũng giữ lấy sách mình đã chọn Oanh với cuốn Gìn Vàng Giữ Ngọc, Liên An là bộ Khu rừng lau. Những cuốn sách này trên tay hai cô gái, tác già là nhà văn Doãn Quốc Sỹ.

            Oanh nói:

-Phương  cho mình hay, Liên An đi Sài Gòn ?

-Em cũng vừa mới về.

-Đi Sài Gòn chơi vui không ?

-Cũng vui, chị Oanh . Em vào đó nạp đơn xin du học.

-Liên An đi Pháp ?

-Không, em xin học bổng đi Mỹ.

-Chừng nào Liên An đi ?

-Em đang chờ, nhưng hy vọng.

-Phương  nói, Liên An đậu hạng Bình.

-Em cũng may mắn. Bài luận Triết, em trúng tủ.

-Nhưng Liên An luôn là học sinh giỏi.

            Liên An ngước mắt, nhìn Vân Oanh , cô nói:

-Chị Vân Oanh đẹp quá.

-Khen hoài.

-Thật đó.

-Vậy mình đãi bạn đi uống nước nghe.

            Liên An nói:

-Để em khao chị.

-Hay quá. Mình rất mừng vui Liên An được đi du học.

-Cám ơn chị Oanh.

            Hai người dời kệ sách đi ra ngoài, tới dừng chờ ở quầy tính tiền. Bên nhau, tiếng trò chuyện nho nhỏ vừa đủ nghe.

            Khi ra đường, hai cô gái áo trắng đạp xe đi bên nhau hướng về phía cầu, vượt qua đó, đổ xuống con dốc rồi đến một quán nước nhìn ra bờ sông. Gởi xe ở bãi  đất trống phía trên, rồi hai người đi bộ trở lại quán. Khi hai cô gái đi qua, thanh niên trong quán đưa mắt nhìn. Nhưng cả hai cô rất tự nhiên, và chọn ngồi  một bàn ngoài cuối mái hiên.

            Đứa bé gái con chủ quán đến, Liên An hỏi ý Oanh xong bảo:

-Hai ly chè đậu xanh.

            Khi đứa bé gái trở gót vào quán, Oanh hỏi:

-Liên An đi Sài gòn lâu không ?

-Em đi đúng một tháng. Em có lên chơi Đà Lạt một tuần.

-Mùa hè, ở  Đà Lạt mưa phải không ?

-Có mưa, nhưng buổi chiều nhìn thành phố rất đẹp.

            Oanh nói:

-Cảnh của Đà Lạt là cảnh của sương mù, rừng thông.

            Liên An hỏi:

-Chị Oanh có ở Đà Lạt rồi.

-Không, mình có đi chơi. Nhưng cũng chỉ mới biết phố, một vài thắng cảnh về thác và vườn hoa.

            Đứa bé gái trở lại với khay chè, nó đặt ly bên Oanh trước rồi đến Liên An. Trên bàn có một thau nhỏ vun đầy nước đá bào.

-Em mời chị, Liên An nói.

-Cám ơn Liên An.

            Vị chè ngọt thanh, đậu mềm nhuyễn , vừa dẻo thơm. Hai cô ăn thật chậm, thưởng thức món chè như thể là chính mình nghĩ ra được câu chuyện hay.

-Năm nay là năm cuối của chị ?

-Không, năm tới.

-Chị có dự tính triển lãm tranh không ?

-Cũng rất muốn, nhưng chưa chuẩn bị.

-Bức tranh lụa chị triển lãm dịp Tết, em rất thích.

-Hôm đó, lễ hội thật là vui.

-Những lệ hội làm thành phố này như có sự đổi mùa.

-Mình cũng có ý tường như Liên An vậy .

            Rồi ngừng ít giây, hai người đưa mắt nhìn nhau. Bỗng Liên An hỏi:

-Anh Thụy có biết chị không ?

-Mình chưa gặp , chỉ nghe anh Nguyên nhắc.

-Em có gặp anh ấy.

-Ở  Đà Lạt ?

-Không, ở Sài gòn. Anh ấy rất là vui tính. Gặp nhau trên phố Catinat, anh mời em vào quán cà phê Pagode. Ở quán này, có bà caissière rất đẹp. Anh ấy coi bộ si tình, nói chuyện về bà này cho em nghe như một nhân vật tiểu thuyết.

-Liên An có thấy bà không ?

-Em có thấy. Quả thực bà ấy đẹp, một vẻ đẹp buồn trên cặp mắt.

-Thụy,  rất có tâm hồn nghệ sĩ.

            Một giọng vui, Liên An kể lại buổi gặp Thụy đầu tiên ở nhà Phương, và trước đó là một chuyến xe buýt lên tới trạm nhà ga.

            Nga nói:

-Lần đó em anh Nguyên về phép, mình đang ở Đà Nẵng.

-Anh Thụy có hỏi thăm chị. Anh ấy nói, chưa hề gặp chị, nhưng trong trí tưởng hình dung được bóng dáng của chị.

-Rồi anh thấy sao ?, em hỏi.

            Anh Thụy nói:

-Cô Vân Oanh cho anh một hình ảnh một thiếu nữ như đã gặp đâu từ trước. Và, chỉ có một hình ảnh lần gặp ấy là mãi mãi .

            Vân Oanh cười, nàng hỏi:

-Anh ấy có biết Liên An du học không ?

-Có, em có nói. Ít ngày sau đó, anh tìm gặp em ở Nha du học.

-Mình chưa gặp, nhưng luôn nghĩ người em của Nguyên có lòng nhân hậu.

            Ngồi trong quán khá lâu, Liên An gọi đứa bé đến trả tiền, rồi hai người rời quán đến bãi gởi xe đạp.

            Khi lấy xe ra đường, Liên An  nói:

-Em phải đến nhà bà cô ?

-Vậy hả.

            Nhưng hai cô gái vẫn còn chuyện trò, đạp xe đi bên nhau một quãng tới cây  cầu rồi mới chia tay.

            Về nhà, sự yên lặng làm Oanh cảm thấy dễ chịu, nhưng nàng đâm ra nhớ Nguyên, rất mong đợi tối nay chàng về nhà.

            Oanh kéo cửa màn khi thay quần áo. Bên ngoài trời đang gió. Oanh thay  bộ quần áo nhẹ màu xanh hạt cải, tự dưng có cảm giác sao mình còn  nhỏ bé quá.

            Không cảm thấy đói, nên cô gái ra phòng ngoài mở cửa sổ nhìn ra buổi chiều trên dòng sông. Ở Huế, hình ảnh buổi chiều trên các dòng sông luôn luôn là một khúc nhạc êm dịu thật đẹp buồn. Ở mỗi cảnh của khúc nhạc, bạn như trông thấy hình bóng một cô gái, lúc với đôi mát, lúc với khuôn mặt, và hẳn rằng, chúng ta phải đợi chờ những buồi sáng thu, những chiều mùa đông dài , tất cả trong sương mù bao phủ kín , lúc ấy, bạn nghĩ nhiều đến một mái tóc tha hương.

            Oanh đóng kín các cánh cửa khi trời tối. Dưới đèn sáng, nàng bắt đầu bữa ăn. Và rồi, tối nay nàng đi nghỉ sớm. Trong giấc ngủ, nàng nằm mơ thấy mình đi lên Đà Lạt bằng một chuyến xe lửa. Nàng có cảm giác như mình đi thực, và ngồi bên cửa cửa toa nàng trông thấy cảnh vật rừng núi, dòng suối của miền cao nguyên trong buổi chiều. Nàng thức dậy khi biết mình đến thành phố vào một ngày mưa nặng hạt, trong cảnh vật dày kín sương mù.

            Oanh bỗng nói với Nguyên:

-Hạnh phúc của đôi ta là mưa.

            Nguyên nói:

-Những ngày mưa dài trên thành phố, anh và em đi bên nhau.

-Em rất thích trời mưa.

-Anh cũng như em. Vậy, nơi thành phố này, mình hãy đi bên nhau dưới trời mưa.

            Buổi sáng thức dậy, Oanh bỗng có cảm giác trống không. Trưa tới, nóng bức lạ thường. Và đến buổi chiều, con đường Lê Lợi đông vui như lễ hội.

            Nhiều lần, Oanh đưa bàn tay áp mạnh lên phía trái tim để chặn từng nhịp đập rất hồi hộp.

            Oanh đứng ở trường Đồng Khánh rất lâu, và cô vẫn đứng đó một mình vì không có ai quen với cô cả. Một lúc, Oanh bỗng nghe tiếng gọi hối  hả. Oanh thật vui vừa  nhận ra Phương . Bên kia đường, Phương phóng xe nhanh qua. Chưa kịp  xuống, Oanh đã cầm tay Phương , nói:

-Mình đậu rồi.

-Em biết. Đi tìm chị nãy giờ.

-Phương  ở dưới phố lên, hay nhà tới.

-Em tới đây coi bảng có tên chị, em về nhà chị thấy đóng cửa liền phóng xe xuống phố tìm chị.

-Đông quá, mình chen nãy giờ.

            Phương và Oanh nhìn nhau cười. Một  giọng bình thường, Phương nói:

-Em biết thế nào chị cũng dậu.

-Mình rất mừng.

            Niềm vui chưa hết. Nhưng Oanh cũng không còn ước ao để quay lại nhìn tên mình bảng vàng lần nữa.

-Về nhà chơi.

            Oanh không đi xe đạp nên hai chị em đi bộ, từ  trường về đến nhà cũng gần. Oanh mặc áo hồng, và hôm nay trước khi đi coi bảng nàng ước mong màu áo hồng là màu của duyên may. Với  áo tím, Oanh rất yêu thích, đó  là một màu làm tôn vinh một vẻ đẹp buồn của Oanh, chết được. Nhưng mà tôi chỉ nói thế với bạn thôi, với nàng qua bóng dáng những chiếc áo dài, hương sắc áo nào cũng đều làm nàng đẹp. Nàng xinh đẹp trong áo vàng của thơ Nguyên Sa khi về yêu hoa cúc, nàng thật duyên dáng với áo xanh, nghe cả dòng nhạc đang tuôn tràn gió bay từ muôn phía tới đây ngập hồn anh , nhưng hôm nay, Oanh đẹp như hoa hồng của màu áo.

            Phương nói lớn:

-Em thích đi Sài Gòn mà anh Lăng không muốn.

-Phương  không thích học ở Huế sao ?

-Không phải là nơi học. Nhưng ở Huế buồn lặng quá, nên em muốn đi Sài Gòn.

-Phương  vào trong đó một mình ?

-Em đi một mình.

-Phương  vào đó, anh em bà con cũng đông.

-Em vẫn muốn độc lập.

            Oanh định nói với Phương về người em của Nguyên, mà thực lòng, đã lâu nay nàng rất mong gặp. Nàng vẫn  có ý nghĩ, và sự qua hình dung, phần nào người em ấy cũng giống Nguyên. Liên An nói, anh Thụy hiền lành trong vẻ khô khan, trầm lắng. Ấy thế, những câu chuyện cậu ta là những chuyện tình lãng mạn, và rất hiện sinh nữa.

            Khi những ngọn gió làm rung động những chiếc lá, thân áo của Oanh bỗng bay lên như tiếng đập nhẹ nhàng của cánh chim.  Nàng đưa hai tay ra nắm giữ , miệng mỉm cười. Nắng cuối hè chói chang trong linh hồn phượng vĩ  còn  rực đỏ sắc hoa. Khi gió làm từng cánh phượng đỏ rớt xuống, nhìn Oanh qua mái tóc, và dáng bước đi, từ phía đàng sau đã có một đôi lúc tôi nói với bạn về nỗi ngẩn ngơ của lòng tôi nhớ tưởng đến nàng.

            Về tới nhà, Phương dựng chiếc xe đạp dưới bóng cây trứng cá. Vào nhà, hai cô đi thằng vào trong, và Phương đã dừng lại ngay trước những bức tranh vẽ .

            Một lúc lâu, Phương nói:

-Em thích những tranh vẽ của chị. Trong tranh chi, màu xanh và vàng rất là tươi. Nhưng với máu rím chị dùng, không thể đem so sánh với nét đẹp của chị khi mặc áo dài.

            Oanh nắm bàn tay Phương. Rồi nàng tiếp lời về bức tranh vẽ con dang dở.

-Đúng màu xanh của chị rất hợp với cảnh trên biển.

-Phương  thực là hiểu mình.

-Em không vẽ được, nhưng hội họa là nguồn sáng tạo của em trong cuộc sống.

            Oanh để lại Phương một mình trước những bức tranh bên phòng vẽ. Phòng này nhỏ, không rộng, nhưng vừa đủ chỗ ngồi tâm sự với tách trà hay  ly cà phê vào những ngày thời tiết lạnh lẽo, và xa vắng.

            Thời tiết vẫn còn những ngày hè chưa hết. Lúc này, trên đường Lê Lợi, gió, hoa phượng và những tiếng ồn vui của đám học trò vừa mới thi đậu, tạo nên một đời sống đích thực cho riêng Huế. Ở nơi đây, thành phố vẫn luôn mong đợi những người đi xa, ngày mai vẫn chưa về .

 

 

                                                                      

 

                                                             VI

 

 

 

            Nguyên đi công tác lên tiền đồn đúng mưới ngày, vừa về kịp hôm nay để nghe tin vui người yêu thi đậu. Oanh đang dọn cho mình bữa ăn tối, thì Nguyên tới. Nàng hết sức ngạc nhiên như chưa bao giờ xảy ra như vậy cả, rồi đột nhiên hai cánh tay dang rộng nàng lao tới, Nguyên đón sẵn, hai người ôm nhau mừng vui, lẫn xúc động.

            Tiếng Oanh nói:

-Em quá nhớ anh.

-Anh biết, và còn biết cả tin vui của em nữa.

-Ai cho anh hay vậy ?

-Không, không có ai cả. Nhưng từ hôm em thi đến lúc có kết quả, anh cảm thấy sao trong người mình thật là dễ chịu, yêu đời.

-Em cám ơn anh đã dạy cho em học.

-Còn anh, hạnh phúc được nhớ em.

            Hai người nhìn nhau, đôi mắt thật âu yếm. Nguyên nắm giữ tay Oanh, giọng vui nói:

-Con mèo yêu quí của anh.

-Thôi, đi ăn cơm.

            Nguyên giữ tay Oanh lại.

-Mình xuống phố ăn đi em.

-Cơm dọn sẵn rồi.

-Đi xuống phố ăn cho vui, để mừng em thi đậu mà.

-Ngày mai, hay mốt đi.

-Anh muốn anh là người mừng tin vui của em trước hết.

            Oanh hơi  lưỡng lự. Nàng nhìn sang bàn ăn, hai chiếc ghế đối diện và thức ăn đã dọn sẵn. Nhưng bữa ăn cũng bình thường, chỉ hai món cá và canh rau.      

-Đi ăn đâu, anh.

-Đi Bao Vinh.

-Xa quá. Mấy giờ rồi ?

            Nguyên nhìn đồng hồ tay, nói:

-Còn sớm, chưa đến tám giờ.

            Oanh nói:

-Anh ra phòng khách đi.

            Nguyên đi ra, vừa rút tờ báo nhét ở túi dết. Phòng khách tương đối rộng, thoáng đãng, ánh đèn néon chiếu xuống sáng dịu. Ở phòng khách này, Oanh trang trí rất mỹ thuật, có bình hoa và con gấu bông đặt trên chiếc tủ kính, hai bên tường có mấy bức tranh họa đóng khung cỡ nhỏ.

            Nguyên ngồi xuống ghế đọc báo. Bên trong, Oanh thay quần áo, nàng mặc áo sơ mi trắng, quần tây màu xám đậm. Khi trở ra, Oanh lấy chiếc lồng bàn nhỏ đậy lại cơm và thức ăn, rồi nàng kéo chiếc ghế thấp ngồi xuống nhìn vào tấm gương soi trang điểm nhẹ trên cặp mắt.

            Kim đồng hồ tường chỉ đúng tám giờ. Oanh đứng lên, vắt chiếc áo blouson bên cánh tay, rồi quay gót đi ra phòng khách.

-Trông em lạ quá.

-Lạ không ?

-Em có chiếc mũ nỉ hồi nào vậy?

-Có lâu rồi, tại em ít đội.

            Nguyên gấp tờ báo, xong để lại trên bàn. Oanh mở cửa nhìn ra đường, gió đêm lạnh. Trên đường, có hai người đàn ông đang đạp xe nhanh, tiếng nói chuyện đứt quãng. Rồi con đường vắng trở lại. Bên kia ngôi trường, ở tầng lầu thứ ba, các dãy phòng đều mở đèn sáng, có bóng một vài chủng sinh đứng bên cửa nhìn xuống dòng sông và trông qua bên đây con đường.

            Gió đêm thổi mơn man, sương mù trải mỏng qua những hàng cây. Nguyên cười hỏi:

-Sao, em tìm ra ý thơ chưa ?

-Đừng có trêu em nghe.

            Oanh khép cửa, xong mở túi  xách lấy chìa khóa vặn theo chiều kim đồng hồ hai vòng.

            Chiếc xe Jeep đậu gần cổng, hướng lên dốc. Bàn tay Oanh trong tay Nguyên, hai người bước đi nanh.

            Nguyên mở đèn sáng trước khi cho xe nổ máy. Vào giờ này, có chuyến tàu về đến ga.

            Nguyên đạp côn, gài số hai rồi xe lăn bánh. Lên ngã tư, xe rẽ trái qua cầu. Vì không gấp vội, Nguyên cho xe chạy chậm thong thả chuyện trò với Oanh. Nàng nói:

-Em thấy anh đi công tác luôn.

            Nguyên đáp:

-Ở cấp trung đoàn, gần với mặt trận nên công việc  của anh cũng lưu động.

-Những công việc chính của anh là gì ?

-Không phân định rõ được. Tùy theo nhu cầu ỡ hậu phuơng cũng như ngoài chiến trường.

-Anh đi luôn, em lo quá.

-Không sao đâu. Em biết, việc nào ở ban anh cũng giải quyết nhanh gọn để luôn có thì giờ về với em.

-Hôm nay, anh đãi  em ăn món gì ?

            Nguyên cười bảo:

-Ăn fromage

-Sao mà ăn món này ?

            Nguyên hãm thắng cho xe ngừng rất êm.

-Sao vậy ?

-Em nghiêng đầu qua đi.

-Thôi, coi người ta đi đường trông thấy.

            Nhưng rồi, Oanh cũng chìu ý Nguyên. Nàng nghiêng mình qua để  anh cúi xuống đặt môi hôn. Đôi môi Oanh mềm ướt, ngọt ngào. Nguyên nuốt thật sâu nụ hôn yêu dấu được người yêu dành cho.

            Hai người buông tay. Chiếc xe chạy trở lại. Và, lúc này cả hai cùng cảm thấy thú vị khi hiểu ra được ý nghĩ của nhau.

            Bên trái  con đường Lê Lợi , khu công viên xuất hiện. Sươngmù giăng kín trên dòng sông, bên kia kinh thành Huế ánh đèn cũng mờ sáng trong màn sương. Ở quãng này, bắt đầu nhộn nhịp xe đạp, xe gắn máy và người đi chơi đêm. Ngôi trường Đồng Khánh vẫn in cái bóng màu vôi tím.

            Oanh nói:

-Tối nay quán sinh viên có trình diễn ca nhạc.

-Em muốn đi nghe không ?

-Tùy anh.

-Tính sau, đi ăn đã.

-Em cũng đang đói đây.

-Hay là xuống Bưu Điện.

-Vậy là em khỏi yêu cầu anh.

            Khu Morin đèn sáng trưng, không khí đêm nhộn nhịp, và khói thuốc lá bay lên từ những quán cà phê dọc vỉa hè. Quán nào cũng đầy khách, đám thanh niên ngồi đông và chuyện trò nghe ồn ào.

-Em đã ghi danh chưa ?

-Anh hỏi hay không ? Mới có kết quả hôm nay, mừng chưa hết lớn mà...

-Ờ nhỉ, anh lại tưởng như mùa thi qua lâu rồi.

-Em cũng có ý nghĩ như anh vậy.

            Xe vẫn chạy chậm. Tới  khu Bưu Điện, Nguyên nhìn quanh tìm chỗ đẫu xe. Hai người bán quán ra chào mời, Nguyên không đáp lời mắt đang tìm chỗ đậu xe. Nguyên chạy xe lên phía trên rồi trở đầu, chạy một quãng đến đường Trương Định và dừng xe bên lề đường.

            Trời đêm thu thật dễ chịu.          Có tiếng nhạc vọng từ  hội quán sinh viên,  Oanh nắm tay Nguyên, theo bước anh dìu đi.

            Có bốn quán ăn nằm trong khu Bưu Điện. Nguyên đưa Oanh trở lại quán ăn lần trước. Khi hai người vào, nhiều người khác đưa mắt nhìn, một vài người nói chuyện về nàng. Và, trên mắt người lạ nào cũng ánh lên một nụ cười thiện cảm.

            Có bàn trống sâu bên trong. Ngồi ở bàn đó tuy hơi tối, nhưng có thể trông ra được hai con đường nằm phía sau dưới bóng tối những hàng cây.

            Huế, thành phố này đôi khi cho bạn một cảm giác lạc long như thể bạn là kẻ từ đâu xa mới trở về.

            Đứa nhỏ gái chờ Oanh đọc món ăn trên thực đơn. Nàng gọi cơm phần bốn món, nước uống làsinh tố.

            Nguyên nhìn Oanh, anh mỉm cười. Nàng bảo:

-Anh nhìn em hoài.

            Nguyên vẫn lặng yên nhìn người mình yêu. Đôi mắt anh thật trìu mến, và trong thoáng giây ấy anh nhận ra được tình yêu của anh dành cho nàng. Anh trở về thành phố, để quên được những ngày vừa mới qua trong chuyến đi công tác, trong sức nóng của cuộc chiến, không phải, thế là xong phần trách nhiệm của mình, nhưng cứ mỗi lần anh trở về, anh vẫn cảm thấy chỉ có Oanh làm cho anh với dịu bớt đi nhiều  những nỗi ưu tư của tuổi trẻ về chiến tranh. Oanh, tên nàng là bóng cây im mát, là không gian rộng và đẹp của tình yêu.

-Hôm nào anh mới đi trở lại ?

-Có thể tuần tới.

-Tuần này, anh  ở hậu cứ.

            Nguyên bỗng nhận ra trong câu hỏi của Oanh, muốn cho anh một sự liên đới giữa nàng và đơn vị anh phục vụ. Hai năm qua, từ khi quen biết Oanh, không chỉ tình yêu hai người đóng khung trong thành phố mà còn dành cho nhau một cuộc sống thật lãng mạn trong không khí chiến tranh. Nguyên nhiều lần đưa Oanh lên thăm căn cứ đóng quân của Trung đoàn ở trên một vùng đồi cao, nơi này, nàng quan sát thấy khung cảnh hoang vắng, hiểm trở, thấy những cánh rừng, những bóng núi, khói lửa từ nơi ấy dâng lên trong cảnh yên lặng của buổi chiều. Nhưng, nàng có sự chia sẻ từ tấm lòng chân thật của mình, và khi đến đơn vị của Nguyên nàng luôn cảm thấy như mình gặp lại bao người thân. Nàng ngồi trong phòng Nguyên làm việc bề bộn giấy tờ, sổ sách, dưới cái nóng của những ngày hè, giá lạnh những ngày đông, và nàng cảm thấy không riêng với Nguyên thôi, nàng còn hòa mình với nhiệt tình của các chiến hữu bên cạnh Nguyên. Một khi đưa Oanh đến, Nguyên cũng luôn  để cho nàng thoải mái quan sát cảnh sinh hoạt của những người lính, chuyện trò thân mật, hỏi han từng người trong thân tình của bè bạn, gia đình, chị em. Nguyên cũng dành cho Oanh cái thú vui ngồi uống cà phê ở câu lạc bộ trong căn cứ, ăn cơm trưa, hoặc chiều tại những hàng quán khu gia binh, và chính những nơi này, nàng hiểu rõ hơn về cuộc sống , về cảnh đời của các quân nhân. Và hơn hết, Oanh rất được sự quí mến của các Sĩ quan ở Trung đoàn, từ cấp chỉ huy, đến các bạn cùng ngang cấp bậc với Nguyên, hay nhỏ thấp hơn. Khi được các chiến hữu Trung đoàn khen ngợi phong cách làm việc của Nguyên, Oanh cũng lấy làm vui thích, vừa hãnh diện. Biết bao nhiêu người lính chiến ở đây ước ao có được một mối tình đẹp như Nguyên và nàng, ao ước có một người yêu thật sự có tình yêu như nàng. Hầu hết ở đơn vị của Nguyên, lớp Sĩ quan trẻ khá đông, và cũng có trình độ Đại Học, với những lần Nguyên đưa người yêu đến, đã có một số an hem ngoài tình cảm yêu mến Nga qua tính tình, qua sắc đẹp, có người con cho rằng nàng là một biểu tượng của sáng giá của tình yêu. Cách xa đơn vị không đến mười cây số là thành phố Huế, Oanh đang học, đang sống ở đây, và đây là thành phố của những dòng dõi về khoa bảng, về địa vị, gia phong , sắc đẹp của nàng đã làm cho biết bao nhiêu chàng sinh viên của các trường Đại học, biết bao nhiêu Bác sĩ, sinh viên Sư phạm vừa mới ra trường, bất cứ ai gặp nàng cũng để mắt chú ý, cũng rất muốn làm quen, muốn cùng nàng xây dựng hạnh phúc, thế nhưng không hề nghĩ đó là điều nàng ước mong về cuộc sống thật yên bình nhưng mình không muốn chọn lựa. Nàng chỉ là người yêu của Nguyên, vì Nguyên thể hiện được cái tính cách hào hùng, độc đáo  của người trai, hơn nữa là một người lính nhận lãnh đúng trách nhiệm của mình. Những lần đi với Nguyên lên thăm đơn vị, Oanh luôn mặc áo dài lúc là màu tím, màu vàng nhạt, màu rêu phong, để rồi trong dáng đẹp thướt tha, nhung lụa của nàng, mỗi  chiến hữu đồng đội của Nguyên, ai cũng được hái cho mình nụ hoa từ trên cặp mắt dễ thương, trên gương mặt nhân hậu, đầm ấm của nàng.

-Sắp đến ngày sinh nhật của em rồi đó.

-Anh sắp nói, thì em đã cho biết rồi.

-Nhưng hôm đó, có anh không ?

-Có chứ.

-Anh không về, em lên đơn vị tìm anh.

-Em có nhớ chuyến đi thăm Đại đội 3, Tiểu đoàn 1.

-Nhớ chứ.

-Vừa rồi, anh trở lại công tác cùng Đại đội này hai ngày. Ai cũng nhắc đến em hết.

-Em vẫn nhớ những ngày đi tiền đồn với anh.

            Bữa ăn đến lúc này mới mang đến, vì khách chờ khá đông. Nhưng từ nãy giờ, Nguyên và Oanh cùng vui chuyện đã  không để ý thời gian đợi của mình. Cơm nóng, thức ăn nóng lên khói. Oanh lấy khăn giấy lau chén  xong xới cơm đưa qua cho Nguyên. Và, Nguyên cũng đợi Oanh lo xong cho mình, anh mới lên tiếng mời nàng ăn. Từ đôi mắt và cử chỉ của Nguyên, luôn làm cho Oanh cảm thấy sự hồn nhiên, trẻ thơ, tâm hồn mới mẻ.

-Tối nay, anh có lên trực ở Trung đoàn không ?

-Không. Tối nay được ở nhà.

            Nguyên tiếp lời:

-Ông Trung đoàn trưởng rất quí anh. Những công việc anh làm cho phòng ban, cho đơn vị, ông rất hài lòng.

-Anh là quân nhân gương mẫu.

-Em là bông hồng của Trung đoàn.

-Không, em phải là nữ quân nhân danh dự.

            Nhìn lại gương mặt Oanh, suy nghĩ về một lời ý nhị khá lâu làm Oanh ngạc nhiên. Nhưng, ngay đó Nguyên nói:

-Em may một bộ quần áo lính, anh nói ông Trung đoàn trưởng gắn hoa mai cho em.

            Oanh cười, gật đầu.

            Một lúc Nguyên nói:

-Anh em trung đoàn, ai cũng nhớ những chiếc áo dài tím em mặc.

-Hân hạnh làm người yêu của Trung úy Nguyên

-Anh sắp có hoa mai nở.

-Thật không ?

-Anh có giấy thăng cấp, hai tuần nữa văn thư gởi về.

-Em thực sự, chỉ mong anh bình yên.

-Anh luôn cảm thấy dễ chịu có được em và ở bên em.

            Bữa cơm ngon miệng, Oanh và Nguyên ăn được nhiều, nhưng không hết, cơm và thức ăn vẫn còn.  Phía ngoài quán, không khí ồn vui của thực khách, họ trò chuyện sôi nổi và cười lớn tiếng. Cũng có một hai bàn, không khí trầm lặng, ai cũng uống nhiều bia, nhưng ăn nói thật chừng mực, cân nhắc.

-Lâu nay, em không thấy bác trai về nhà ?

-Ba anh đang đi công tác miền Tây

-Không phải bác làm việc ở Bộ Xã hội.

-Ba anh ở trong ban Thanh tra. Ông chỉ về  Bộ sau khi xong công tác, còn hay đi luôn, nhất là những vùng đang xây dựng cơ sở.

-Anh cũng như bác, cứ đi công tác hoài.

            Rồi một giọng nhẹ nhàng, Nguyên nói:

-Năm nay là năm cuối em ra trường.

            Oanh nhìn lại Nguyên, một giọng nói trong âu lo:

-Nhưng em và anh còn phải xa cách một thời gian mới ổn định.

-Anh cũng nghĩ vậy.

            Nguyên rót thêm trà vào ly đá vừa uống hết. Oanh chậm rãi uống từng ngụm nước sinh tố.  Trên bàn, Nguyên cũng rót sẵn một ly trà nóng để Oanh uống tráng miệng. Khu phố Bưu diện, vẫn hết sức nhộn nhịp, đông người qua lại. Có tiếng nhạc vang vọng giữa không gian, và đêm, trong không khí sinh hoạt nổi nổi, chìm chìm. Từ chỗ bàn Nguyên và Oanh ngồi, hai người nhìn về phía thư viện Xavier đã đóng cửa nhưng đèn sáng bên goài, cạnh thư viện là một cửa hàng bán bánh ngọt, bánh mì nướng, ở đó, rất đông khách đứng sắp hàng chờ mua bánh.

            Hầu như, ai cũng cảm thấy, đêm nay trong mùa thu mang một vẻ thân tình, ấm áp. Và, có một đôi tình nhân đang ngồi đây trong quán ăn đông khách, thấy mình hạnh phúc hơn cả.

-Anh nhớ đem chiếc máy ảnh về nghe.

-Anh nhớ.

            Oanh cười hỏi:

-Đi đâu nữa bây giờ ?

-Tùy em.

            Nguyên gọi người chạy bàn đến tính tiền. Oanh dành phần trả tiền bữa ăn, nàng cười nhìn sang Nguyên.

            Oanh để lại tiền lẻ trên bàn cho người phục vụ. Hai người đứng lên, lúc đi ngang qua những bàn phía trước, một số khách nhìn theo hai người và họ vẫn muốn nói nhiều điều trong suy nghĩ của họ về lứa đôi này.

            Hương đêm trong những ngày đầu thu ngào ngạt, đôi lúc bạn nhận ra vị mặn và mùi cay của lá cây và sương ướt. Rồi hai cái bóng đi bên nhau, đến chỗ đậu xe.

            Nguyên mở đèn sáng, chú sau xe nổ máy. Trên con đường nhỏ xe chạy. Khi ngang hội quán sinh viên, tiếng nhạc ồn, rất khích động. Đã qua rồi, buổi gặp đầu tiên của hai người ở nới đây.

            Hội quán nằm bên khu Đại học. Ở phía trước là khách sạn Thuận Hóa. Khi ra tới con đường chính, Nguyên lái xe rẽ trái, ngang quan Đài phát thanh, anh vẫn cho xe chạy thong thả hướng về phía cầu Mới, rẽ phải qua cầu, rồi đổ xuống phố chính Trần Hưng Đạo.

            Phố vẫn còn đông người, và các cửa hàng mở đèn sáng. Những tiệm ăn , tiệm cà phê trên phố chính này đông khách ra vào. Nguyên chạy xe lên phía cầu đến chỗ bùng binh vòng xe trở lại, và anh cho xe chạy thật chậm dọc theo con phố, đến chỗ rạp hát, ngừng lại trong ít phút.

-Em thích coi ciné không ?

-Vào đi anh.

            Nguyên lùi xe lại khoảng vài mét, rồi tắt máy. Xe đậu bên lề đường, giờ này, bên đường cũng không có nhiều xe hơi đậu.

            Rạp hát chiếu phim La seconde chance. Oanh lại dành phần mình đi mua vé, lúc Oanh đi, Nguyên theo bên cạnh người yêu. Anh cảm thấy sung sướng, hạnh phúc hơn bao giờ hết vì có được Oanh .Oanh, đúng là một nàng tiên. Oanh rất trẻ thơ, vui tính, và đôi mắt nàng không chỉ tỏ lộ cái đẹp của dòng sông, mà trong lắng sâu thật dịu dàng, ần chứa một tâm hồn nhân hậu. Nàng cũng luôn cho Nguyên một tiếng nói tự tin, và tiếng nói của nàng cũng là một điểm tựa.

            Oanh mua vé xong, nhưng cùng với khán giả đang đứng chờ bên ngoài, vì xuất hát còn mười lăm phút nữa mới vãn. Trên biển quảng cáo, vẽ lớn chân dung hai tài tử Pháp: Robert Hossein và Michèle Mercier. Trong khung lưới rộng, là những bức ảnh chụp từng cảnh phim. Nữ tài tử Michèle Mercier rất đẹp, trẻ trung.

            Không đợi lâu, cửa vào rạp mở rộng và đông khán giả bên trong đi ra. Nhạc và đèn sáng gây nên cái cảm giác rung động, phấn khích, và khán già xem xuất cuối đã càm thấy vui khi đi vào rạp.

            Nguyên và Oanh chọn ngồi dãy ghế giữa. Không khí trong rạp hát bình yên trở lại, với ánh đèn vẫn chiếu sáng, và điệu nhạc trở nên êm dịu.

            Nguyên nói:

-Em định theo học Luật hay Văn Khoa.

-Em học Văn Khoa, và anh còn phải dạy thêm cho em nhiều.

-Anh vui từ nhiều ngày nay. Tin em thi đậu, niềm vui được báo trước.

-Năm dự bị, học nhiều môn không ?

-Cũng nhiều.

-Nói cho em nghe từng môn học đi.

            Nguyên kể qua vài môn chính yếu, trước đây anh đã học. Oanh ngạc nhiên hỏi:

-Có học cả môn triết nữa.

-Có. Nhưng Việt Văn là chính. Em cần phải học thêm cả Hán Văn nữa.

-Em thấy khó.

-Khi đến trường ghi danh, em hỏi thêm các bạn sinh viên năm trước.

            Oanh nắm tay Nguyên, nàng nói:

-Anh đi với em.

            Nguyên chợt có một thoáng nghĩ mơ hồ. Anh gợi nhớ thời đi học của mình, nhớ những người bạn cũ.

-Hôm ấy, em mặc áo màu thiên thanh. Anh muốn chụp em mất pose ảnh em đứng trên thềm ngưỡng cửa Đại Học.

-Le quá, phải không anh.

            Bỗng nhiên đèn rạp hát tắt. Không lâu, màn ảnh chuyển động, và những đoạn phim quảng cáo cho kỳ tới diễn ra, trong mỗi cảnh phim, tiếng động và cả tiếng nhạc di chuyển lúc nhanh, lúc chậm.

            Nguyên bỗng nói:

-Em cố gắng nghe tiếng Pháp.

-Em đang tập trung đây.

            Rồi phim chính bắt đầu. Hình ãnh nữ tài tử Michèle Mercier, mặc chiếc áo blouse trắng trong vai nữ sinh viên y khoa, thật là đẹp làm khán giả thốt lên những lời trậm trồ ngợi khen.

-Em có thích học Y khoa không ?

-Cũng thích, nhưng em không học nổi dâu.

            Với một giọng thân tình, Nguyên nói:

-Bạn cứ hình dung Vân Oanh của tôi mặc áo blouse trắng, đeo kính trắng trên cặp mắt và ống nghe vắt qua cổ áo, nàng đứng trong phòng thực tập.., chà chà..

-Đẹp quá, phải không ?

            Nguyên tiếp lời:

-Em học ở Y Khoa, sinh viên không có ai học hành gì được cả.

-Làm gì mà gán chuyện ác cho em vậy ?

-Không thực sao. Em quá đẹp, chàng sinh viên nào cũng ngẩn ngơ.

-Em vào trường Y khoa, thì anh sao ?

-Em nhận được thư của anh gởi hàng tuần.

-Em cũng lên tiền đồn nữa, phải không ?

-Cô là Bác sĩ đầy lòng nhân ái cho quân nhân.

-Ai cũng khen em như anh cả, em như là mây bay về trời

            Robert Hossein trong vai luật sư, ông ta đã có vợ con, nhưng ông ta đang yêu say đắm một cô sinh viên Y khoa. Trước khi gặp vị Luật sư này, cô gái đã có một người yêu là sinh viên học cùng lớp.

            Những đoãn đối thoại trong phim, có lúc đi nhanh, cũng có lúc chậm, vừa phải. Khi hiểu được trọn vẹn từng câu, Nga lấy làm thích thú, hãnh diện.

-Ở Văn khoa, có giáo sư  Pháp dạy không anh ?

-Anh không rõ sau này. Trước đây anh học, có ông thầy Cauro.

-Ông dạy văn chương Pháp.

-Đúng rồi.

            Một lúc sau, Oanh chợt hỏi:

-Lúc này Thụy có viết thư về nhà không ?

-Nó đang xin đi học ngành phi hành.

-Học lái máy bay hay sao ?

-Ờ, nó xin học lái máy bay.

-Bao giờ mới được đi.

-Chắc còn lâu, trước tiên là đi khám sức khỏe, rồi học Anh Văn ở trường Sinh ngữ quân đội.

-Xong hai giai đoạn đó là đi qua Mỹ.

-Đúng rồi.

-Thời gian học bên Mỹ lâu không ?

-Chừng hơn một năm.

-Vậy là thế nào Thụy cũng xin về phép trước khi đi học.

-Anh cũng nghĩ vậy.

-Chắc Tết này Thụy về thăm nhà.

-Không hy vọng ngày Tết đâu, có thể trước hoặc sau.

-Em nghĩ chắc là Tết, Thụy về.

-Em anh, nó quý em lắm.

-Em biết.

            Oanh bỗng nhiên thấy hoảng hốt, vừa hết sức ngạc nhiên. Trên màn ảnh, cảnh phim đang diễn ra một cuộc cãi vả dữ dội giữa cô gái và người bạn trai cùng lớp. Bất ngờ, cô rút súng, bắn liền mấy phát trúng tim,  người bạn cô tử thương, dẫy dụa trên nền nhà. Và, sau đó, một cảnh phim cuối cùng về cuộc đời cô gái, trên chiếc xe FIAT sơn trắng, hun hút trên con đường dài chiếc xe lao đi, đến khúc quanh lao vào vách núi, chiếc xe tan nát, và cô gái đã tử nạn.

            Khi biến cố tai nạn xảy ra, xe cứu thương và xe Cảnh sát bao quanh hiện trường. Người ta đã báo tin và chờ đợi thân nhân đến. Một lúc sau, có một chiếc xe Ford đen dừng lại, viên luật sư bước xuống. Ông ta ngán ngẫm, bị sốc vì cái chết của tình nhân.  Quay sang một phóng viên vừa đặt câu hỏi, ông trả lời:

-Le coupable, c’est moi.

           

           

           

           

                                                             VII

 

                                                            

                                

            Trưa chủ nhật, Thụy đến thăm Ninh Hà . Hai người ngồi ở phòng khách nói chuyện một lúc, sau đó, Ninh Hà lên phòng riêng thay quần áo. Khi Ninh Hà xuất hiện ở lối cầu thang xuống nhà, nhìn anh nàng mỉm cười, anh thấy nàng mặc chiếc áo dài tím có chấm bông trắng thật là đẹp.

            Nhà vắng, nên trước khi đi Ninh Hà phải coi lại các cánh cửa. Sau đó, hai người qua phía cửa bên, rồi theo lối đi đầu con hẻm ra đường lớn. Có chiếc taxi chạy qua, nàng vẫy tay.

            Thụy ngồi bên cạnh Ninh Hà . Người tài xế vặn lại khóa đồng hồ rồi mới cho xe chạy. Xe chạy lên hướng Bà Chiểu, rẽ trái qua cầu Bông rồi hướng về khu Dakao. Hôm nay là chủ nhật, ngày cuối cùng của Ninh Hà ở Sài Gòn. Thụy được ở bên nàng, nhưng không hề có chút gì về sự hứa hẹn. Thụy cảm thấy rất tự nhiên ở bên Ninh Hà, vì vậy, anh cũng chẳng có ý sắp sẵn những chuyện riêng tư để nói với nàng. Dù sao nữa, nay anh và nàng có bên nhau trong tình anh em. Con đường nào cũng đông xe và người đi bộ. Từ Sở Thú, con đường Thống Nhất mở rộng , yên vắng.

            Xe dừng ở ngay trước cửa chính chợ Bến Thành. Khi ra khỏi xe, ánh nắng buổi chiều trong thành phố ấm hẳn như thể cho Thụy một cảm giác mình đang ở bên người yêu. Thụy đã quen gương mặt Ninh Hà từ một tháng gặp lại nhau ở đây, và cứ mỗi lần, đưa mắt nhìn nàng, trong cái nhìn phác họa cho anh thấy những nét riêng nào đó của nàng rất dễ nhớ. Cố nhiên, Ninh Hà biết Thụy yêu nàng, thích được nhìn ngắm nàng nên nàng cũng rất muốn dành sự yêu thích đó cho anh.

            Hai người đứng trong đám đông chờ đèn xanh. Trước mặt, con đường tràn ngập những dòng xe và tiếng người ồn ào.

            Chỉ đợi hơn một phút, mọi người xuống lối đi bộ qua đường khi đèn xanh bật lên. Qua bên kia đường, mọi người tản mác, Ninh Hà và Thụy dừng bước. Nàng hỏi Thụy:

-Bây giờ đi đâu anh ?

-Tùy em. Trước hết, em phải đi mua sắm cho mình đã.

-Còn sớm. Em còn bên anh cả buổi chiều.

-Vậy mình ghé quán nước đi.

-Anh thích xem ciné không ?

            Tự dưng Thụy hơi ngần ngại, rồi nói:

-Tùy em.

-Anh biết rạp nào chiếu phim hay không ?

-Chung quanh đây có nhiều rạp.

            Thụy và Ninh Hà cùng dời bước. Buổi chiều Sài Gòn thật rộn ràng trong khung cảnh náo nhiệt, sầm uất với những con đường đông người, những dãy phố chính san sát nhà ở, các hiệu buôn đều trông sáng sủa, đẹp mắt. Dọc vỉa hè, tiếng trò chuyện, tiếng cười vui, làm như ai cũng có chuyện riêng của mình trong đó nữa. Và, nếu ngày mai bạn đi xa, bạn sẽ nhớ đến thành phố này hơn cả sự đợi mong nơi mình sẽ đến nữa. Thụy chợt nhớ đến mấy câu thơ của Nguyên Sa trong bài Áo lụa Hà Đông.

            Ninh Hà bắt đầu nói chuyện với Thụy về Duy. Giọng nàng vui, đùa nghịch. Và, Thụy lại thích nghe tiếng nàng nói, nên đi bên nàng là hạnh phúc, anh chỉ nghe thôi, hòa niềm vui theo nàng, và cứ nhẹ bước, thích thú nghe tiếng nàng nói, chẳng bận tâm đến câu mình muốn hỏi, thảng hoặc ngắt lời nàng.

            Hai người đi tới rạp Rex. Cuốn phim En plein soleil đang chiếu. Bên ngòai và dưới mái hiên rạp đông người. Thụy  hỏi ý Ninh Hà , rồi sau đó, anh sắp hàng đứng đợi trước quầy để mua vé. Lúc này, cả anh  và nàng đưa mắt nhìn quanh như để tìm kiếm có ai quen. Trong một giây nhỏ, anh chợt nghĩ đến ngày mai dưới cơn mưa nhỏ hạt, qua ánh đèn nhòa nhạt trên những con đường, một chiếc xe ca lặng lẽ đưa Ninh Hà và bao nhiêu người hành khách nữa rời khỏi thành phố này.

            Đến trước quầy, Ninh Hà trả tiền mua vé, và đưa hai tấm vé qua cho Thụy cầm. Chưa tới giờ chiếu hai người tới quầy giải khát gần đó mua nước sinh tố. Cô bán nước làm xong, Ninh Hà trả tiền và đi vào rạp hát lên phía lầu ngay lối cầu thang.

            Hàng ghế trước ngay balcon, chỗ Thụy và Ninh Hà ngồi góc bên trái. Rạp hát rộng, có máy điều hòa, đèn đang chiếu sáng và có tiếng nhạc nghe nhẹ nhàng, êm dịu, thỏai mái. Không gian của rạp hát, ánh đèn, những hàng ghế có khán giả, nhưng Thụy vẫn thầm nghĩ rằng, lúc này chỉ có anh và Ninh Hà thôi.

-Ngày mai đi, em nhớ Sài Gòn không ?

-Nhớ chứ.

            Ninh Hà nhìn qua Thụy, nụ cười thật dễ thương.

-Em không nhớ, thành phố này cũng giữ lại em.

-Em cũng phải về chứ.

-Em về, hình ảnh của em vẫn còn ở đây.

-Rồi cũng có ngày em trở lại.

            Trong tiếng nói của nàng, Thụy nhỏ bé quá. Sài gòn, nơi thành phố này nàng đến rồi ngày mai sẽ ra đi.

            Ngày mai, tôi vẫn được ở bên nàng.

            Hai ly nước mía thật ngon. Aùnh đèn trong rạp hát chợt tắt, và buổi chiếu phim bắt đầu. Có hai phim chiếu dạo lâu chừng mười lăm phút, rồi phim chính bắt đầu. Tên tài tử nổi tiếng Alain Delon in chữ đậm trên màn ảnh.

            Thụy và Ninh Hà vừa lặng yên xem phim, vừa chuyện trò. Hạnh phúc này, như một món quà nhỏ nàngmuốn dành cho anh. Và, anh hãy giữ lấy với sự yêu thương, bao dung của nàng. Giọng nói của Ninh Hà nghe trong âm thanh như những sợi chỉ màu đang nối kết những niềm vui trong nụ cười của nàng lại với nhau. Mỗi nụ cười trên mắt nàng, cho tôi một bóng ánh sáng. Đôi lúc, tiếng nói ngừng lại, Thụy chợt nghe nàng qua hơi thở.

            Cuốn phim có nhiều đọan thật vui. Nước Pháp, những thành phố ở đó trải rộng đem lại cho trí tưởng tượng của Thụy và Ninh Hà như được sống trong khung cảnh thơ mộng đó.

            Rồi cuốn phim kết thúc, đèn trong rạp sáng lên. Thụy  và Ninh Hà cùng đứng dậy rời khỏi ghế .

            Buổi chiều xuống mau, trời đang mưa. Bởi cơn mưa nặng hạt nên khán giả còn đứng ở rạp chờ đợi. Thụy lật cổ tay nhìn đồng hồ, mới ba giờ. Bên ngòai, trời u ám vì mưa. Những cơn mưa ở Sài gòn thường nặng hạt trong buổi chiều nhưng cũng mau tạnh.

            Nắng chợt bừng sáng ngay lúc mưa vừa tạnh. Tiếng reo vui  ồ dậy , ngay lập tức, mọi người cùng bước, cùng chạy ùa xuống đường.

            Nắng hay mưa, trên các phố chính vẫn luôn nhộn nhịp. Ninh Hà và Thụy vẫn bên nhau, không rời nhau. Hai người đi vội, nhanh bước trên con đường Lê Lợi. Khi vào chợ Bến Thành, Ninh Hà đưa Thụy đến các sạp hàng bán quần áo may sẵn. Nàng chọn lựa, mua nhiều lọai quần áo đủ  cỡ, và cũng mua thêm các lọai áo ấm. Sau khi mua quần áo xong, Thụy và nàng đến chỗ bán hàng bánh kẹo mua nho khô, táo, hồng khô, và nhiều thứ khác nữa.

            Chỉ vào chợ mua sắm không đến một tiếng, hai người trở ra. Trời lại mưa, và họ băng qua đường núp mưa dưới mái hiên của một công ty xuất nhập cảng.

-Ngày em vào đây cũng vừa đúng mùa mưa khởi sự.

            Ninh Hà không nói gì. Bất chợt, ý nghĩ về ngày mai nàng rời khỏi thành phố này mang lại cho Thụy một nỗi buồn.

-Em về, hành lý nhiều không ?

-Cũng nhiều. Các thứ này nữa là đủ hai va li.

            Mưa lại tạnh, Ninh Hà nói:

-Em cảm thấy đói. Aên gì đây anh ?

-Tùy em.

            Ninh Hà không trả lời. Thụy  nói:

-Đi ăn bánh cuốn nghe.

            Ninh Hà gật đầu.

            Đường phố lại đông người. Thụy  đưa Ninh Hà đến dãy hàng bán bánh cuốn nằm cạnh nhau trên đường Pasteur. Nơi ghế bàn thấp, Thụy và Ninh Hà ngồi chờ. Bánh cuốn nóng, bốc khói lên trông hấp dẫn. Giọng vui, Thụy hỏi:

-Em đã ăn đủ thứ quà ở Sài Gòn chưa ?

-Em cũng ăn nhiều.

            Ngừng ăn, nhìn Thụy nàng hỏi:

-Ngày mai anh có đi làm không ?

-Ngày mai anh được nghỉ.

-Anh làm việc ở Biên Hòa cứ lên về mỗi ngày.

-Có tuần thôi. Khi nào cần, anh mới về dưới này.

            Thụy  quá hạnh phúc khi được ở bên Ninh Hà. Anh nhìn nàng ăn, nhớ nàng vô cùng.

-Em ăn ngon không ?

-Ngon lắm.

-Em ăn thêm đi.

-Vừa rồi, anh ăn nữa đi.

-Thôi, anh đi mua nước em uống.

            Thụy  đứng dậy đi qua quầy nước mía bên cạnh. Không chờ lâu, anh mang hai ly lớn về đặt xuống bàn.

-Nước mía ngon lắm, em uống đi.

            Buổi chiều còn thư thả nên Thụy và Ninh Hà còn trò chuyện. Thụy đốt điếu thuốc hút, nhìn Ninh Hà nói:

-Tối nay em phải đi ngủ sớm.

            Ninh Hà cười nhìn lại anh.

-Em dễ ngủ mà cũng dễ thức dậy sớm.

-Nhưng cẩn thận, em nên để đồng hồ báo thức.

-Có chứ.

-Ngày mai anh đợi em ở trạm.

-Em sẽ đi taxi đến.

-Về ngòai đó công việc như thế nào, viết thư cho anh biết.

-Em sẽ viết thư cho anh luôn.

-Từ ngày anh đi xa đến nay, anh được đọc nhiều thư em.

-Ba mợ vẫn nhắc anh luôn.

-Anh hiểu. Anh đã có được tấm lòng yêu thương của gia đình em.

-Rồi anh cũng phải lo cho anh nữa.

-Anh chưa nghĩ xa chuyện gì cả.

-Anh cũng phải nghĩ đến thôi.

            Thụy lặng im. Giờ phút này đây, Thụy còn được ngồi bên nàng. Giữa hai người, tình yêu đã cất giấu, muốn trốn và đi tìm, và chỉ còn  chỗ ẩn náu trong con tim. Thụy  gợi nhớ đến những ngày vừa qua nàng đến đây. Thụy cũng đang tìm lại những trang giấy màu, những dòng thư nàng đã viết cho anh. Thật là đẹp, nhưng rất buồn.

-Mau quá, mới buổi chiều hôm đó em tới đây, giờ đã qua một tháng rồi.

-Anh lúc nào cũng cứ gợi nhắc đến kỷ niệm. Em cũng không thể ở lâu hơn.

-Em có tính đi học tiếp nữa không ?

-Thôi, em đã lấy chồng rồi, học gì nữa.

-Anh đang nghĩ tới một công việc phù hợp với em.

-Anh muốn em làm gì ?

-Anh thích em đi dạy học.

-Anh vẫn sống với hình ảnh lý tưởng.

-Hình ảnh em làm một cô giáo đẹp biết chừng nào .

-Không đâu, em sẽ làm công việc năng động hơn.

            Có tiếng còi hụ tan sở từ nơi nào đó vang lên trong buổi chiều. Buổi chiều sắp qua hết. Lúc này, Ninh Hà đứng lên đến chỗ người đứng bán bánh trả tiền. Thụy  hơi ngỡ ngàng, bâng khuâng.

            Thụy và Ninh Hà ra bến xe lam đón xe về nhà. Khi tới cổng, Ninh Hà đưa tay cho Thụy  bắt cùng nói lời tạm biệt.           

            Về nhà dì Hồng, ở lại đây buổi tối. Lần nào ở Biên Hòa về, anh cũng hay ở lại nhà dì hoặc nhà Thống, bạn anh.

-Anh nên nghĩ cho mình đi.

            Tiếng nói của Ninh Hà ắp đầy trong trí nhớ Thụy. Lúc này, chắc Ninh Hà ngồi ở phòng riêng để sọan hành lý. Nỗi ước mong của tôi được ở bên nàng để giúp nàng.

            Sau bữa ăn tối, Thụy ngồi nói chuyện với gia đình dì Hồng. Trong đêm, anh nằm mơ thấy Ninh Hà . Hình ảnh nàng trong giấc mơ, anh thấy nàng tươi cười từ trên cầu thang phi cơ bước xuống phi trường thành phố. Và hai người gặp lại nhau qua nụ cười của tuổi trẻ.

            Khi nghe tiếng mưa trên mái tôn, Thụy giật mình thức giấc. Lúc này là ba giờ sáng. Thụy  nằm nán một chút nghe mưa rồi trở mình dậy. Với sự khẽ khàng, anh đi rửa mặt, thay quần áo, rồi lặng lẽ rời nhà dì tôi. Từ con đường hẻm, tôi bước nhanh ra đường chính và đứng đợi xe lam lên Sài Gòn.

            Tới trạm hàng không, tôi đi thẳng đến quầy cân hành lý. Không thấy Thu Hải, tôi đi qua phòng hành khách đợi cũng không trông thấy nàng.

-Ninh Hà  chưa tới.

            Thụy  nghe tiếng mình nói một cách tự nhiên. Bỗng anh đâm ra lo ngại, sợ nàng để quên đồng hồ reo, hay có khi giờ này chưa có taxi đi qua khu phố đó, thảng hoặc, người tài xế cho chạy vòng quanh nhiều chỗ để tăng thêm giờ trên đồng hồ. Thụy  liền đến hỏi cô tiếp viên về chuyến bay sớm nhất đi Đà Nẵng. Thụy  hơi lo ngại, và bây giờ, hành khách các chuyến bay tới dần dần đông thêm.

            Tôi trở ra phía ngòai đứng nhìn ra lối cổng vào sân. Có một chiếc taxi đang chạy vào, tôi chú ý ngay khi nó vừa lọt vào cổng, và nỗi mừng vui dậy lên trong tôi khi thấy bàn tay Thu Hải thò ra ngòai cửa gương vừa lên tiếng gọi tôi. Tôi bổ xuống thềm tam cấp chạy nhanh, lúc xe vừa ngừng, tôi vội mở cửa và đỡ lấy hành lý cho Thu Hải. Trong phút giây này, tôi muốn được ôm chầm lấy người yêu của mình.

            Tôi đợi Thu Hải trả tiền xe, và cố định thần lại nỗi lo vừa qua của mình. Khi người tài xế taxi lái xe đi, Thu Hải nắm tay tôi, giọng hơi run nói:

-Em sợ quá, anh ơi.

-Sao vậy ? Có chuyện gì không, em nói đi.

-Cha tài xế này không tốt. Từ nhà tới đây đâu có gì xa, mà xe ông ta cứ chạy vòng qua nhiều chỗ lạ, và lúc nào mắt ông cũng liếc vào tấm gương để nhìn em ngồi sau. Em sợ quá.

-Anh cũng có ý nghĩ đó trước khi em thấy em tới. Biết vậy, anh đến nhà em để cùng đi cho em yên tâm.

-Lúc ấy trên đường đi, em cũng mong vậy.

            Tôi xách hai va li, Thu Hải cùng bước nhanh theo tôi đi vào trạm đến quầy cân hành lý. Vào sắp hàng sau hai người, tôi và Thu Hải đứng cạnh nhau. Giờ phút này, Thu Hải và tôi như không thể rời xa nhau. Đến lượt mình, tôi nhấc hai chiếc va li đưa qua bục gỗ cho người bên trong nhận để đặt lên bàn cân. Thực là hên, số cân vừa đủ , khỏi phải đóng thêm tiền. Tôi nhận ba thẻ hành lý đưa cho Thu Hải, hai cái để nhận, còn một cái móc vào túi xách đi đường.

            Xong việc, chúng tôi trở ra ngòai.

-Em ăn uống gì không ?

-Thôi lên máy bay, có bữa ăn sáng.

-Em uống cà phê nghe.

-Em không uống nhiều đâu. Anh mua một ly thôi, em uống với anh.

            Tôi cảm thấy lòng vui vô hạn liền đi tới quầy phục vụ ăn uống mua một ly cà phê sữa. Cà phê đã nấu sẵn nên có ngay, và tôi cầm một ly đầy trở lại. Khi tôi đưa mời Ninh Hà uống trước, mắt nàng cười, đón nhận. Nàng uống một hớp nóng rồi đưa lại cho tôi ngay.

-Em uống thêm nữa đi.

-Ra ngòai băng ghế ngồi nói chuyện.

            Hai người trở ra ngòai ngồi xuống băng ghế trống. Tôi uống hớp cà phê xong đưa qua lại cho nàng. Nàng cầm lấy, giữ hơi ấm nơi thành ly, và tôi đốt điếu thuốc. Lúc này, trời hãy còn mờ tối. Ngòai con đường, đèn điện chiếu sáng, những dãy phố im lìm, thỉnh thỏang có tiếng động một vài chiếc xe hàng, xích lô máy chạy qua, rồi mất hút, tiếng động cũng chìm lặng, như muốn tắt.

-Nhớ viết thư cho anh nghe.

-Em nhớ.

-Em có nói ai lên đón em không ?

-Không. Vì xe ca trên phi trường về trạm đi qua nhà mà.

-Anh quên mất.

            Tôi tiếp lời:

-Lên máy bay, em ráng ngủ bù một giờ.

-Em không ngủ đâu.

-Ngủ đi, cho có sức. À..., em về lại ngòai đó, rồi hai tháng nữa Duy mới ra trường.

-Em cán ơn anh những ngày em vào đây.

-Anh cám ơn em nhiều hơn. Cả thành phố này nữa, cho anh được gặp lại em.

            Sau câu nói, tôi và nàng cùng lặng im. Tôi như không thể còn đủ sức để nói thêm gì nữa. Ít giây phút giây nữa thôi, tôi và nàng rời xa nhau.

-Ngày đó, chúng ta không gặp nhau thì sao nhỉ ?

-Anh cũng không biết. Từ khi gặp em, anh luôn nhớ đến em, lúc ở xa, cũng như ngày gặp lại em ở nơi đây.

-Em biết, anh không quên được em.

-Nếu mà anh quên, cũng vô ích thôi, phải không ?

-Có lẽ.

-Chúng ta ngồi đây, mà thấy rõ sự xa cách hơn bao giờ cả. Anh rất mong em được hạnh phúc, hạnh phúc trọn vẹn. Rồi một ngày nào đó, anh cũng sẽ trở về tìm đến em, để thăm em.

-Anh rất tốt với em.

-Anh yêu em, em biết phải không ?

            Ninh Hà lặng không nói gì. Nhưng rồi, có tiếng của nàng bên tôi, rất rõ.

-Em biết chứ. Dù sao, anh cũng đã nói với em, chứ không im lặng.

            Bên ngoài, ánh đèn thành thành phố vẫn giăng mắc  qua những hàng cây. Trong yên lặng, có bàn tay Thu Hải nằm yên trong tay tôi. Thế nhưng, tôi không chờ đợi gì khác ngoài ánh sáng một ngày sớm xuất hiện.

            Từ bên trong, tiếng một cô nữ tiếp viên loan báo cho hành khách biết đã đến giờ hành khách lên xe ca để đi phi trường.

            Hai người đứng dậy. Chiếc xe cậu giữa sân đang nổ máy. Tôi và Thu Hải xuống bậc thềm, thong thả bước tới chỗ xe đang đậu. Rồi, chúng tôi mở rộng vòng tay ôm nhau, nói với nhau lời từ giã.

            Tôi vẫn đứng lại ở dưới sân, khi Thu Hải lên xe. Nàng ngồi ở ghế ngoài, gần cửa.

-Chừng nào anh đi phép ?

-Có thể vào tháng tới.

-Anh về Huế, hay Quảng Trị.

-Anh sẽ về Đà Nẵng, thăm em ít ngày đã.

-Nhớ nghe.

-Nhớ chứ.

-Rồi, anh ra Huế sau.

-Anh cố gắng xin cho được hai tuần, mới chọn ngày đi.

-Anh về thăm, anh và em đi chơi phố.

-Em luôn là một người bạn, suốt đời anh.

-Em vẫn muốn dành cho anh, ít nhiều kỷ niệm đẹp trong tình bạn.

-Mãi mãi, phải không ?

-Ờ , mãi mãi.

-Em đưa tay cho anh, tô nói.

            Thụy  nắm  cánh tay Ninh Hà, giữ  bàn tay nàng rất lâu đến lúc xe ca chuyển bánh rời ga trạm.

-Nhớ viết thư cho em.

            Thụy gật đầu, mắt vẫn  còn cố trông theo.

 

 

 

 

                                                             

                                                    VIII

 

 

            Sau buổi họp ban, Thụy được nghỉ ca để về nhà chuẩn bị cho chuyến đi hành quân ngày mai lên căn cứ Vên Vên nằm sát biên giới Miên Việt, đây là bản doanh của Sư đoàn dù, và anh  sẽ đi cùng với người trưởng toán là Trung úy Ngoạn. Trung úy Ngoạn  cũng có nhà ở Sài Gòn, nên Thụy xin quá giang theo ông bằng xe Honda, đi ngang nhà thờ khu Thị Nghè ông thả cho anh xuống, và từ đó anh đi bộ về chỗ trọ.

            Vừa thấy Thụy bà chủ nhà ngạc nhiên, anh liền cho bà ta biết về chuyến đi xa, vắng nhà từ một tuần đến mười ngày, nếu có ai tìm nhờ bà hỏi tên và địa chỉ . Trong đôi mắt thoáng lo ngại, bà nhìn anh, và lắng nghe kỹ những điều căn dặn.

            Lên phòng, Thụy xếp lại chăn màn, ngồi xuống giường nghĩ tới chuyến đi lên vùng hành quân .

            Một lúc sau, Thụy bắt đầu soạn đồ, đem đi mấy bộ quần áo, khăn mặt, kem, bàn chải đánh răng, mùng và chăn đáp. Tất cả, anh  cho hết vào cái ba lô vừa lấy ở móc treo xuống.

            Xong việc, Thụy rời khỏi nhà tìm đến quán hủ tiếu đầu ngõ . Khách ngồi đông, Thụy gọi tô hủ tiếu, ăn xong, anh đứng dậy trả tiền và đi qua quán cạnh bên uống cà phê. Loại cà phê bít tất pha rất nhanh, Thụy uống cà phê và lấy bánh tiêu để trên dĩa chấm vào cà phê ăn có mùi vị béo. Coi như  bữa ăn sáng này thế ăn trưa. Thụy  ăn no, thở nhẹ hơi và còn ngồi nán lại hút điếu thuốc.

            Khi rời quán cà phê, Thụy đi bộ thong thả có ý định  xuống Sài Gòn bằng xe buýt. Đi ngang quầy vé số, Thụy móc ví  lấy mấy tấm vé đã mua đem ra dò, không có vé nào trúng cả. Thụy xé mấy vé trật vứt xuống đường, xong mua hai tấm mới xổ vào ngày mai.

            Còn một tuần nữa mới tới kỳ lương. Trong ngăn ví , tiền đã gần cạn nên Thụy đang cảm thấy lo.

            Trạm xe buýt đi Sài Gòn nằm bên kia đường, đối diện nhà thờ. Thường lệ, xe buýt trên đường này xuống Sài Gòn, mười phút là có chuyến đến. Đôi lúc, Thụy bị đãng trí, quên ngày, quên tháng. Và anh như hiểu ra rằng, sự kiện này do những mặc cảm bị ức chế từ bao nhiêu thất bại trong chuyện học hành củamình. Xe buýt đến rộng rãi nên có ghế ngồi. Thụy xuống phía dưới, ngồi ghế bên cạnh lối cửa lên xuống.

            Xe chạy, Thụy nhìn đồng hồ tay đã gần mười giờ. Dọc con đường này có nhiều trạm, nên xe chỉ chạy vài trăm mét là ngừng  lấy khách. Rồi , dần dần khách lên đông. Thụy trông thấy một người khách có vẻ quen, nhưng không hỏi, vì không nhớ tên. Bên ngoài, đường phố nhộn nhịp, đông xe đạp, xe gắn máy, người đi bộ.

            Quanh trung tâm Sài Gòn, những con đường ở phía ngoài đường nào cũng trồng nhiều hàng cây. Đường Nguyễn Du trồng me, đường Công Lý, Nguyễn trung Trực, Pasteur, trồng cây sao, cây bồ đề và có cả cây phượng.

            Bến chính xe buýt nằm đối diện với  chợ Bến Thành, gần nhà ga xe lửa, nay dùng làm trạm hàng không. Ở Sài Gòn, cũng có đường ray tàu điện như ngoài Hà Nội nhưng nay không dùng nữa. Thụy vẫn còn ghi nhớ những cảm giác trong tuổi thơ của mình về nhà ga Sài Gòn ngày đầu tiên đặt chân xuống thành phố này vào một buổi sáng sớm thành phố vừa thức giấc. Thụy nhớ mình thật thích thú khi được thấy thủ đô Sài Gòn. Và, lúc đó, Thụy ước mong được nhìn thấy sân banh Tao Đàn, sân banh Cộng Hòa, vào hai ngày cuối tuần sẽ được xem những trận cầu quốc tế giữa đội tuyển Sài Gòn và các nước khác trong khu vực Á Châu, hoặc Châu Âu. Thụy rất yêu thích môn bóng tròn, anh cũng đã là cầu thủ trong đội bóng học sinh lớp nhỏ của trường Nguyễn Hoàng. Trước khi biết Sài Gòn, những trận đá bóng quốc tế anh đọc qua các nhật báo, và nghe tường thuật trực tiếp trên đài phát thanh của ký giả Huyền Vũ .

            Xe vào bến giữa cảnh náo nhiệt, ồn ào. Bọn trẻ bán báo dạo, những người bán quà rong, các chuyến xe về bến, các chuyến xe bắt đầu đi, và lúc này, vẫn rất đông hành khách ở trạm đứng chờ những chuyến đi ra vùng ngoại thành.

            Từ bến, Thụy đi bộ, và cũng chưa định rõ mình sẽ đi đâu. Lúc này đã là giờ cao điểm sinh hoạt của thành phố. Sai gon ngày nào cũng náo nhiệt, xô bồ, nhưng tạo nên sự phấn khích trong cuộc sống. Những người quen sống ở Sài Gòn, đi đâu xa vắng chỉ một hai hôm là rất nhớ không khí Sài Gòn, ngày cũng như đêm. Thụy không là người miền Nam, người ở Sài Gòn, nhưng thành phố này là của tuổi trẻ. Thụy thích không khí buổi sáng ở những quán bán hàng rong bên đường. Vào buổi trưa, trong sự lắng yên của tiếng động Thụy luôn có cảm giác dễ chịu một mình lang thang qua những cửa hàng bán sách báo cũ trên vỉa hè. Anh cũng rất thích buổi chiều trời mưa, ngồi trú mưa trong một quán cà phê nhìn ra ngoài, luôn trong tâm hồn anh có những ý nghĩ hay lạ về những ngưới bạn từ đâu xa đến thành phố này để tìm mình. Trong mưa, cây lá trên đường phố lúc nào xanh tươi, đẹp, gợi cảm sự ướt át trên nên một gương mặt. Về đêm tối, Sài Gòn đúng là hòn ngọc, đèn đô thị sáng khắp nơi, và ở đâu cũng nghe vọng tiếng nhạc phòng trà khiến bạn không thể ngồi yên ở nhà được.

            Ngang qua sạp báo, Thụy ghé vào mua một tờ rồi tiện thể đứng ngay đó đọc cọp những báo khác.  Thụy bỗng nhớ có truyện ngắn đã gởi đăng ở tuần báo Tiểu thuyết thứ năm, liền vội tìm báo này mở ra xem ở mục hộp thư. Không thấy có, Thụy về trang đầu và niềm vui đến với anh thật bất ngờ. Trong mục lục, có truyện ngắn của anh được đăng.       

            Hết sức là mừng, vội vàng Thụy bước nhanh chân. Ýù nghĩ đầu tiên là có tiền nhuận bút, từ  con phố anh đang đi đến tòa soạn, không mấy xa. Khi Thụy  đến, phòng ngoài có hai người khách ngồi chuyện trò với nhà văn Thanh Thủy. Vừa trông thấy Thụy, ông giới thiệu tên và Thụy hân hạnh được làm quen với nhà thơ Tường Linh và nhà văn Sơn Nam. Cả hai người nào cũng đeo kính trắng.

            Thụy kéo ghế ngồi chuyện trò, và để khích lệ người viết mới ông Thanh Thủy nói nhiều đến những truyện ngắn  của anh được chọn đăng. Khung cảnh và không khí làm việc ở tuần báo này rất là quen thân, dễ chịu. Ngày mới đến Sài Gòn, Thụy có làm việc ở đây hai tháng trước khi chọn con đường đi lính vào chuyên viên Không Quân. Và sự chọn lựa của anh thực sự là điều may, vì ra quân trường Nha Trang anh chỉ học ba tháng, xong về làm việc ở Sài Gòn, phục vụ  bên phi đoàn 217 trực thăng rồi chuyển qua báo Lý Tưởng, và nhờ làm việc cho báo này anh tạo được bút hiệu, viết được nhiều truyện ngắn, bút ký, đăng ở báo ngoài để lãnh tiền nhuận bút. Có những tháng, truyện ngắn được đăng nhiều, anh dành dụm số tiến này cộng với tiền lương lính, gởi về Huế cho mấy em anh ăn quà, mua sách học. Thụy  thật có tâm hồn nghệ sĩ, lãng mạn, nhưng rất chừng mực, không bừa bãi để chỉ biết vui cuộc sống hôm nay, chẳng  dự tính ngày mai.

            Hai ông nhà văn và nhà thơ nói chuyện về những sách mới xuất bản trong tháng này, và họ cũng nói đến giải thưởng văn học của Hội Văn Bút. Ở hội này, hàng tháng có ra tờ Tin Sách, hàng năm có giải thưởng văn học, vị chủ tịch của hội này là Linh mục Thanh Lãng, vừa là giáo sư dạy ở trường Văn Khoa.

            Khi ông Quản lý tới, hai người khách đứng lên theo ông lên phòng làm việc ở cầu thang, còn Thụy ngồi lại với ông Thanh Thủy.

-Công việc của em lúc này sao ?

-Em ở Biên Hòa, nhưng cũng có được thì giờ viết lách.

-Cố gắng đi, viết được gì  đưa cho tôi.

-Ông in được bao nhiêu cuốn sách rồi ?

-Sáu cuốn.

-Em cũng ước mơ có tác phẩm xuất bản.

-Em hãy viết truyện ngắn thêm một thời gian, rồi khởi sự viết tiểu thuyết. Tới lúc, bắt đầu tiểu thuyết, nghề văn đã tới sự trưởng thành.

            Thụy lắng nghe hết những lời nhà văn nói, xong anh từ tốn đáp:

-Em vẫn viết truyện ngắn thôi. Về tiểu thuyết, em nghĩ là mình cần nhiều đến kinh nghiệm sống và khả năng trong nghề văn.

            Hai người khách kia xuống, đến lượt ông Thanh Thủy bảo Thụy lên lấy tiền nhuận bút.

            Thụy  đứng lên, và khi bước qua những bậc cầu thang gỗ anh cảm thấy hồi hộp. Ông Quản lý thật vui vẻ , đón tiếp .

-Lâu nay, thấy vắng anh.

-Tôi làm việc trên Biên Hòa.

-Công việc ra sao ?

            Thụy cầm điếu thuốc Lucky ông mời, và kể sơ lược cho ông nghe về những việc anh làm ở đơn vị. Hết sức chú tâm lắng nghe, Thụy kể xong, ông gật đầu.

-Anh viết những truyện ngắn hoặc là bút ký, phóng sự trong đời sống quân ngũ đi.

-Ngày mai tôi lên vùng hành quân.

-Đi lâu không ?

-Chừng một tuần đến mười ngày.

-Ghi nhận vào sổ  tay, và viết bài cho báo của tôi.

            Thụy quá  vui mừng hớn hở. Ông tiếp lời:

-Anh đã viết khá. Tiền nhuận bút lần này được tăng.

            Thụy  có được năm trăm cho truyện ngắn vừa đăng. Ngồi trò chuyện với ông chốc lát, Thụy đứng lên kiếu từ. Khi xuống nhà,  Thụy ghé qua chỗ cô Thư ký nhận báo biếu. Cô Hoa làm việc cho tòa soạn đã lâu năm, dạo làm ở đây Thụy có phụ giúp cô trong việc phân phối phát hành báo. Báo Tiểu thuyết Thứ Năm in mội kỳ 5000 số, phát hành riêng Sài gòn là 2000, còn lại đưa đi các tỉnh.

            Ông Thanh Thủy hỏi:

-Lãnh tiên chưa ?

-Dạ rồi.

            Thụy  cũng cho ông hay về chuyến đi công tác ngày mai. Ông nhìn anh, trong cặp mắt tỏ lộ một niềm tin cậy về thế hệ mới của những người viết trẻ.

            Ra khỏi tòa soạn,  lòng Thụy vui lên với món tiền nhuận bút bất ngờ. Thoáng có ý định xuống nhà dì Hồng, nhưng rồi, Thụy lại thôi và từ tòa soạn anh về khu phố Lê Lợi , và sẵn dịp, tìm kiếm mua một ít sách báo cũ. Vì nghĩ mình viết văn còn kém, khả năng ngoại ngữ còn yếu, nên mỗi khi gặp các tạp chí cũ và những truyện dịch bán xôn Thụy đều mua để đọc, để học về cách cấu trúc câu chuyện và lối hành văn.

            Trên đường đi, Thụy nhớ Ninh Hà lạ lùng. Nàng đến thành phố này với một khuôn mặt đầy ánh sáng giữa những ngày mưa. Nàng đã cho có được mối tình của nàng qua âm thanh trong tiếng nói của nàng với từng câu chuyện kể. Và, như thế đó, tình anh yêu nàng,  mỗi sự nhớ nhung là mỗi lần thấy nó hao hụt.

            Khi đi ngang rạp hát Vĩnh Lợi, Thụy dừng lại chốc lát đứng xem biển quảng cáo. Rạp đang chiếu phim Le repos du guerrier. Hai tài tử đóng phim này là Robert Hossein và Brigite Bardot. Thụy nhìn qua khung lưới, nhìn thật lâu vào những tấm ảnh của BB trong mỗi cảnh phim. Thụy thích vẻ đẹp của BB. Thụy  thấy cô ta có vẻ đẹp dễ thương và ngây thơ.

            Bỗng dưng vừa mới quay gót trở ra, Thụy nhìn thấy thành phố sáng lên giữa một vùng nắng mênh mông trải rộng từ dãy bên này qua tới bên kia. Thụy đã trông thấy màu nắng tràn vào thành phố thành những dòng sông. Trong lúc này có một chút lãng mạn bất ngờ , chẳng qua, Thụy mong muốn được làm vơi dịu nỗi buồn. Từ hôm nàng từ biệt đến nay đã hơn một tuần. Có nàng, Duy coi anh là người bạn. Nhưng nàng đã đi xa, giờ đây, giữa Duy và anh như không còn mối liên hệ mật thiết nữa. Tuy nhiên, Duy sẽ hiểu anh là một người bạn cần thiết trong mối quan hệ hoặc có sự giúp đỡ nhau. Thụy cũng lạ là giữa Duy và Ninh Hà luôn cãi nhau, giận lẫy nhau, rồi làm hòa ngay sau đó. Về phần mình, Thụy thật khó nói nên lời. Nàng biết anh yêu nàng, đã khóc thầm với mối tình , vậy mà, rất nhiều lúc nàng muốn nói, bỗng dưng ngừng lại. Không phải do bản tính rụt rè, nhưng có lẽ rằng, nàng quá thấu hiểu một mối tình lặng câm, vừa chua xót của hai người.

            Một quầy sách lớn xuất hiện, nó ở cạnh hiệu thuốc tây đang bày ra những sách vừa mới xuất bản trong tuần. Thụy vừa dừng bước , đã thấy choáng ngợp. Sách mới, in rất đẹp, nhưng giá tiền đắt. So với các hiệu sách bên kia đường, thì ở đây, bạn mua sách được bớt từ 30 đến 40% trên giá bìa. Những cuốn tiểu thuyết dịch trưng phía ngoài, hai cánh bên với các tựa  Một thời để yêu, một thời để chết, Mùa thu lá bay, Về miền đất hứa, Người vợ cô đơn, Dừng cơn gió loạn  thật là hấp dẫn, bắt mắt,  thu hút sự tò mò của Thụy. Nhưng rồi, anh đã có sẵn ý nghĩ, đợi một thời gian vài tháng sau nó sẽ xuất hiện trên những hàng sách cũ bán xôn.

            Bên kia ngã tư, dọc từ dãy quán đầu đến gần trụ sở Quốc Hội, thuộc khu vực những gian hàng buôn bán sách, báo cũ. Hồi mới vào , Thụy mua được những sách giáo khoa về Triết và đã gởi những sách này về cho Ninh Hà học.

            Thư nàng viết hồi âm cho anh ngay sau khi nhận được sách. Lá thư thật dễ thương, cảm động. Và, từ ngày đó quen nhau qua buổi học đầu tiên, những kỷ niệm gì của nàng, Thụy đều cất giữ bằng cả tấm lòng một người bạn.

            Có tiếng còi hụ giờ trưa vang lên. Ngoài đường, xe qua lại như mắc cửi. Những quán ăn , quán nước bên đường đông khách tới ngồi. Tại gian bán sách đầu tiên, Thụy ngồi xổm xuống, mắt tìm kiếm những sách được trưng bày. Nhưng ở đây chỉ có báo Nhân Loại, Tân Phong, và hầu hết là sách giáo khoa trung học.

            Thụy đứng lên, sang quán bên cạnh. Có hai số báo Sáng Tạo cũ, và cuốn truyện dịch Mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh. Rồi bất ngờ, anh tìm ra tập truyện Mưa của nhà văn người Anh Somerset Maugham.  Khi người bán cho giá, anh kỳ kèo và được bớt chút ít. Anh bán sách cũng bằng lòng, rồi lấy những sách Thụy đã chọn cho vào túi nylon. Khi nhận sách anh ta đưa, Thụy nói lời cám ơn.

-Hút điếu thuốc cho vui.

            Thụy cầm điếu thuốc Mélia vàng anh mời, đứng hút và chuyện trò với anh ít phút.

-Anh là người Qui Nhơn hay Tuy Hòa ?

-Anh đoán sai. Tôi ở Nha Trang.

-Tôi cũng mới ngoài đó về đây.

-Anh làm gì ngoài đó ?

-Thì đi lính. Tôi là lính Không Quân.

-Vậy hả. Anh chịu khó đọc sách.

-Ờ đọc giải trí cho vui.

-Những sách báo anh mua rất là hay.

-Tôi cũng mê đọc truyện.

-Anh có mê kiếm hiệp không ?

-Không mê lắm, nhưng có đọc vài bộ.

            Người đàn bà trẻ mang cơm đến, Thụy lên tiếng chào, được anh ta giới thiệu bà xã của anh.

            Người vợ nhắc:

-Anh ăn cơm đi.

            Anh ta nhìn Thụy, nói:

-Khi nào cần mua sách gì, ghé đây nghe.

            Thụy  gật đầu. Ở gian sách kế bên, bán sách báo ngoại ngữ. Thụy lướt mắt nhìn thấy hầu hết là sách báo chuyên môn, khảo cứu. Có ở gian hàng này những báo Thế Giới Tự Do, Đối Thoại, Triển Vọng và Văn Hóa Á Châu.

            Thụy  không mua gì cả. Rồi bất anh chợt nhớ ra một lần trước có mua một ít sách về hội họa gởi cho cô Vân Oanh, thì bây giờ, anh thực sự mong đi tìm ra được những loại sách đó.

-Ủa, mày đi đâu đây ?

-Anh Dương.

-Kéo chiếc ghế con ngồi đi.

            Thụy ngồi xuống ghế, đưa mấy cuốn sách vừa mua cho anh xem. Anh coi qua từng cuốn, còn người đàn bà đang bán sách cho khách hàng.

-Chào chị, Thụy lên tiếng.

            Người đàn bà đáp lời ,  nhìn Thụy vẻ dò xét, vừa thân thiện. Anh Dương hỏi:

-Lâu nay, mày làm ở đâu ?

-Em làm trên Biên Hòa.

-Không đoàn 23.

-Không, em làm bên ASOC.

            Thụy cầm điếu thuốc anh mời, tiện hỏi:

-Quán sách này của anh ?

-Ờ ,  của bà đây.

-Hôm nay anh được nghỉ.

-Làm gì, chút nữa tao tới nhà in.

-Báo Lý tưởng in xong chưa ?

-Đang in, gần xong.

-Lúc này, anh có viết thêm cho báo nào không ?

-Có. Anh đang đi  feuilleton cho báo Độc Lập.

-Truyện dài mới.

-Truyện mới. Hôm nay , kỳ thứ mười.

-Em không hay.

            Anh Dương đưa Thụy  tờ báo Độc Lập. Thụy mở trang trong, thấy truyện dài Người Lính Hào Hoa.

-Cuốn này đúng đề tài của anh.

-Mình phải viết, chứ mấy ông phi công bận đi bay đâu có thì giờ.

-Em sẽ theo dõi truyện dài  của anh.

-Ờ,  tao viết cũng để kiếm tiền.

            Thụy không hỏi thêm, nhưng lúc này dễ dàng nhớ lại những buổi đầu làm việc với anh ở phòng báo chí. Khi Thụy vừa đến  quân trường, báo Lý tưởng ra mắt. Báo được phân phối, Thụy đọc thấy hay, sau đó, anh lấy một truyện ngắn viết trong Đặc San gởi về Tòa soạn. Truyện ngắn anh được đăng, có sửa chữa một vài chi tiết kể cả câu văn. Người sửa là anh Dương đây. Anh Dương là nhà văn tên tuổi trong quân đội, trước khi theo nghề báo anh làm việc bên ngành Không lưu. Thời trước đi lính, anh qua Pháp học ở trường Cơ khí Rochefort như Thượng Sĩ Trạch. Về nước, vừa làm việc, anh vừa viết văn cho các báo Thần Chung, Nhân Loại, và khi tờ Lý Tưởng ra mắt, anh là người đầu tiên được vị Tư lệnh để mắt đến. Về phần Thụy, mãn khóa tân binh anh về Không đoàn 33, do có chỉ số hành quân nên sau khi trình diện bên Liên đoàn tác chiến, anh được đưa đến làm việc ở Phi doàn trực thăng 217. Trong giấy tờ, chức vụ của anh là thư ký hành quân, nhưng thực sự, công việc chẳng có gì là quan trọng cả. Thụy và Tài, bạn cùng khóa  hai đứa làm thay ca, hàng ngày, buổi sáng là gọi đài khí tượng để ghi tin tức thời tiết, sau đó, làm phần hành ghi sổ trực những phi vụ hành quân từ Liên đoàn tác chiến gọi tới, đến mỗi  tuần lập danh sách cơ hữu về nhân viên và phi cơ, cuối tháng là cộng giờ bay cho các phi công.

            Không khí làm việc ở phi đoàn thoải mái, dễ chịu. Các phi công đều còn trẻ, từ cấp bậc Chuẩn úy đến Trung úy, mỗi ngày, ở phòng hành quân thường có đến mười phi công trực, đến đêm tăng cường một số nữa. Ở phi đoàn trực thăng, các phi vụ thực hiện là tiếp tế, tản thương, và đổ quân. Thụy có được những dịp trò chuyện với các Sĩ quan trẻ nên được hiểu biết thêm về phi công và phi cơ, được nghe những câu chuyện các phi công này trong những phi vụ ngoài chiến trường, và có hai lần Thụy theo chuyến bay, một chuyến xuống Cần Thơ đưa người tăng phái, và một chuyến tản thương đêm ở chiến trường Hậu Nghĩa. Sau phi vụ  này, Thụy có viết được một truyện ngắn và một bài phóng sự, cả hai được đăng lên báo Lý Tưởng. Nhớ bài báo trên, Thụy được gọi về báo Lý tưởng, và được làm việc chung với anh Dương một thời gian, nhưng rồi, lại rời Sài Gòn trở ra Nha Trang học đúng theo ngành chuyên môn của chỉ số ấn định.

-Ngày mai em đi biệt phái .

-Ở đâu.

-Tây Ninh.

            Thụy thèm cà phê, liền đứng lên gọi. Người bán quán bên kia nghe Thụy gọi hỏi bao nhiêu ly, Thụy nói ba, nhưng chị Dương không uống. Thụy cười  nói với anh Dương:

-Em mới lãnh nhuận bút, mời anh ly cà phê.

            Anh Dương gật đầu. Chị Dương cũng cười, vui mắt nhìn qua Thụy. Anh Dương nói:

-Thụy  đây có viết văn. Làm việc chung với anh ở báo Lý Tưởng.

            Rồi chị Dương nhớ ra, nói:

-Chị có đọc bài của Thụy.

            Người bán cà phê mang chiếc khay qua, dặt hai ly cà phê ở chỗ Thụy và anh Dương ngồi. Anh Dương hỏi Thụy:

-Em có bằng Tú Tài sao không xin đi Sĩ quan.

-Em đã nộp đơn xin đi phi hành .

-Nộp rồi hả.

-Dạ rồi.

            Thụy uống một hớp cà phê cảm thấy tỉnh táo. Anh Dương lấy gói thuốc đưa Thụy một điếu.

-Em đang chờ gọi khám sức khỏe.

-Khi nào có giấy gọi tin cho anh hay.

-Em hơi yếu về mắt.

            Anh Dương suy nghĩ một chút, xong nói;

-Bên mắt là Bác sĩ Lữ.

-Anh quen không ?

-Để anh nhờ người nói giúp.

-Em cám ơn anh.

            Anh Dương nhìn đồng hồ, Thụy biết anh sắp đi nên cũng vội vàng đứng lên. Trước khi đi, Thụy và anh còn nói lại chuyện vừa rồi, và Thụy cảm thấy có sự tin cậy về tương lai của mình.

            Ngày hôm sau, Thụy lên đơn vị chờ chuyến đi. Nhưng cả Thụy và Trung úy Ngoạn chờ đến gần trưa, giờ đó mới có chuyến bay Chinook lên vùng hành quân. Tới đây, Trung úy Ngoạn liên lạc về ASOC, xong xuôi, ông quay sang Thụy nói cho biết là chuyến đi biệt phái kỳ này kéo dài đến hai tuần lễ.

 

 

                                                                IX

 

 

            Lần đầu tiên bà Huyên gặp lại cô gái, kể từ một buổi sáng hè năm ngoái cô đến đây, mới đó, đã qua hơn một năm.

            Khi còn đứng trên bậc thềm cửa, bà trông thấy cô gái đang cắt tỉa những ngọn lá, nhánh cây, và chăm sóc từng cánh hoa, nhìn bóng dáng thiếu nữ hiện lên trong nắng sớm lòng bà nghe trỗi dậy một niềm thương mến và cảm thấy những giây phút hạnh phúc đang được gửi tới, riêng cho đời mình.

            Từng bước chậm, bà Huyên đi trong dáng vẻ an nhàn, tự tin. Với bộ quần áo nhẹ vàng nhạt, khoác ngoài chiếc áo len màu cà phê, bà có cái dáng thật cao nhã, đẹp thuần hậu qua mái tóc bạc trắng, gương mặt đầy đặn, đôi mắt còn lấp lánh những tháng ngày tìm lại tuổi thanh xuân.

            Hoa, cây lá, cũng là một thứ tình yêu giữ rất lâu trong tâm hồn cô gái. Ánh nắng in xuống vai áo hồng của cô. Không để ý gì chung quanh, lúc này, cô ngây người ngắm từng bông hoa đã nở rộng hết các cánh.

-Chào cháu.

            Cô gái hơi giật mình, quay đầu lại.

-Dạ, cháu chào bà.

-Bà thấy cháu thật là dễ thương. Cháu đã làm sáng đẹp cảnh trí của nhà bà.

-Cháu rất thích chăm sóc cây cối, bông hoa.

-Và, cháu cũng là một cô gái xinh đẹp.

-Cám ơn bà.

            Hai người bên nhau trong nắng ấm của những ngày đầu thu. Những ngày thu luôn mang dáng vẻ buồn dịu dàng, nhưng thật mới mẻ.

-Cụ ông khỏe không bà ?

-Đã yếu đi nhiều.

-Cháu thấy bà vẫn còn mạnh.

            Bên ngoài, con đường không một chút vẩn đục. Tất cả nhẹ êm, sáng sủa. Dòng sông chảy hiền hòa, những hàng cây dọc theo bờ sông phủ kín lá xanh mướt. Dòng sông trôi đi, trong lúc này ánh nắng từ đâu xa tràn tới phủ kín lên chiếc cầu. Đây là khu nhà ga, luôn gần gũi thân mật. Ở khu phố này khi có đoàn tàu ở các tỉnh về đến, lúc nào bạn cũng được nghe nó báo hiệu một hồi còi vang vọng thật dài và rất lâu.

-Cháu vẫn thường hay về thăm nhà ?

-Dạ, cũng có về nhưng không thường lắm.

            Cô gái lễ phép lên tiếng mời bà chủ vào nhà mình. Yên lặng, bà Huyên theo chân cô gái bước lên bậc thềm vào nhà.

            Căn phòng phòng khách sáng lên, và những sự vật bày biện tự nhiên lộ ra vẻ mặt hớn hở để đón tiếp bà chủ nhà. Cô gái mời bà Huyên ngồi xuống chiếc ghế nệm, rồi một mình cô đi ra phòng sau. Một lúc cô trở lại với khay trà, và để  nhẹ xuống bàn.

            Trong khi cô gái rót nước vào tách, bà Huyên nói:

-Bà rất hài lòng về cháu.

-Cám ơn bà.

-Cháu tên gì ?

-Cháu tên Oanh.

-Đúng là cái tên thể hiện con người của cháu.

-Mời bà dùng nước.

            Bà Huyên cầm tách trà lên uống một hớp.

-Nhà vườn có bông mộc, cháu bỏ vào trà cho thơm.

-Dạ.

-Cháu đi dạy hay còn đi học.

-Cháu vẫn còn đi học.

-Cháu học trường nào ?

-Dạ, trường Mỹ Thuật.

            Bà Huyên  gật nhẹ đầu. Ánh mắt bà sáng lên một niềm vui. Thật yên lặng, bà nhìn những bức tranh vẽ treo tường. Bà khen cách trang trí của cô gái. Bà nói:

-Cháu chọn những bức tranh thật dễ thương.

-Những bức này cháu vẽ lấy.

-Giỏi quá.

            Bà ngắm cô gái, đôi mắt bà hạnh phúc lạ thường. Và, theo ý mong của bà Huyên, cô gái đưa bàn tay ra cho bà nắm giữ. Giọng thân tình, bà Huyên nói:

-Rất tiếc, con trai bà đã lập gia đình.

            Cô gái bỗng thấy ngượng nghịu, bối rối. Rồi bà tiếp lời:

-Hạnh phúc cho ai được gặp cháu.

-Cám ơn bà có lời khen cháu.

-Không, bà nói thực lòng. Cháu ở đây thấy ra sao ?

-Dễ chịu lắm, thưa bà.

-Cháu nói thực lòng chứ.

-Dạ, cháu rất thực lòng.

-Nào, cho bà xem cuộc sống của cháu.

            Cô gái đứng lên mời bà Huyên vào phòng sinh hoạt của mình. Và, sự ngạc nhiên đến thích thú khi bà nhìn thấy căn phòng cô gái ở rất ngăn nắp, gọn gàng và sạch sẽ.

-Cháu thật là một cô gái hoàn hảo.

-Dạ, cám ơn bà. Cháu thật hạnh phúc trước những lời khích lệ của bà.

            Không nói gì thêm, bà nhìn ngắm những bức tranh cô gái vẽ. Những nét vẽ ấn tượng, màu sắc tươi sáng, trước mỗi bức tranh bà cảm thấy như mình được trờ về lại những tháng ngày xưa.

-Oanh,  cháu đi theo bác.

            Cô gái vâng lời, bước đi theo. Ra ngoài phòng khách, bà chủ nhà lấy chìa khóa mở một cánh cửa đi qua phòng bên.

            Đây là căn phòng còn bỏ trống. Ở bên trong bức màn, gia đình cất những thứ đồ đạc riêng, nay không cần dùng đến.

            Nhìn gương mặt cô gái, bà nói:

-Bà dành cho cháu căn phòng này để vẽ tranh.

            Cô gái thoáng có chút lo ngại.

-Này cháu, bà hiểu cháu. Không, cháu đừng nghĩ ngợi. Bà muốn dành cho cháu căn phòng này vì cháu yêu nghệ thuật. Chỉ có cháu, bà mới mở cửa căn phòng này. Đây là phòng tranh của cháu.

            Giọng ngập ngừng, cô gái hỏi:

-Mỗi tháng bà cho cháu trả bao nhiêu.

            Bà chủ ngẩn người. Nhưng nhìn vẻ mặt cô gái, bà hiểu.

-Không, bà không lấy tiền đâu. Bà dành cho cháu, cháu hãy dùng căn phòng này để vẽ tranh.

            Một giọng xa vắng, bà tiếp lời:

-Nhưng rồi, đến một ngày cháu xa khỏi đây, xa khỏi thành phố này. Về sau, khi cháu rời căn nhà này, xin cháu gởi lại cho bà một vài bức tranh cháu vẽ để kỷ niệm nhắc bà luôn nhớ đến cháu.

-Vâng, cháu xin hứa với bà.

-Bà rất thương cháu.

            Niềm vui quá bất ngờ, cô gái nói:

-Thưa bà, hôm nay là ngày sinh nhật của cháu.

-Vậy sao ? bà chúc mừng ngày vui hôm nay của cháu.

            Rồi bà Huyên rút chiếc chìa khóa đưa cho cô gái.

-Đây, cháu cất giữ.

-Cháu cám ơn bà.

            Oanh theo chân bà Huyên xuống khỏi bậc thềm tam cấp.

-Bà về nghe cháu.

-Dạ, bà về.

            Oanh trở lại chỗ khóm cây, nàng dọn dẹp những cánh lá, cánh bông và nhánh cây tỉa vương rãi trên mặt đất. Bằng lối đi bên hàng rào, nàng cầm túi rác bỏ vào thùng xong đi tới bể nước rửa tay.

            Oanh trở lên nhà, trong trạng thái hân hoan và nàng nghĩ tới phòng tranh đặc biệt của mình. 

            Căn phòng lặng yên như thể mong đợi nàng lên tiếng. Ngay lúc này, nàng nghĩ tới việc dời những bức tranh bên phòng vẽ chỗ ở của mình, qua phòng mới, và từng bức một với nghệ thuật trang hoàng tranh thật khéo léo, cân xứng như nghệ thuật cắm hoa, Oanh làm cho bức tường trở nên sinh động, đầy ánh sáng qua màu sắc khiến bạn có ngay cảm tưởng, mỗi bức tranh là một khuôn mặt hiện hữu ngoài cuộc đời. Và, hôm nay, cái cơ duyên của bà khách đem đến cho nàng, trở nên một sự tái tạo và trưởng thành khi nàng nghĩ đến cuộc đời mình. Ngày mai, luôn luôn những ngày thật hứa hẹn. Và, ngày mai, cũng luôn luôn là những ngày tháng của mỗi mùa, trong cái tốt tươi, hạnh phúc.

            Lúc nãy, mới bước chân vào căn phòng này, nàng giữ lấy một cảm giác có tính cách ước lệ, vừa thầm kín, nhưng giờ, là trước mắt nàng là một thế giới nhỏ bé được dựng lên thật bao dung, hài hòa. Từ một góc ánh sáng bên cửa Oanh nhìn căn phòng, bất chợt nàng có ý nghĩ đây là một khung cảnh của sân khấu, và nàng đang tập diễn cho mình một vai kịch. Không chỉ đứng nhìn tranh vẽ của mình với tâm cảm của một người sáng tác, mà trong sự thưởng ngoạn nghệ thuật, Oanh cũng đang ngây ngất với từng nét đẹp duyên dáng, vừa chân thực của tình yêu. Oanh bỗng nhắm mắt lại, đây là giây phút huyền nhiệm, và nàng đã có ngay trong trí tưởng một bức tranh thật mới lạ, đầy ánh sáng của màu nắng và cây lá, mỗi màu là một niềm vui, mỗi màu là tiếng nói từ ngoài cuộc đời đưa nàng vào trong sự thể hiện của nghệ thuật.      

            Những giọt mồ hôi trên trán nhỏ xuống, cảm giác của vị mặn trên môi làm Oanh nhớ nghĩ đến Nguyên. Và, người yêu của cô, một bóng hình đâu đó, thật rất gần bên cô.

            Oanh trở về phòng mình. Nàng xuống bếp, chiếc khăn mặt vắt trên vai, cả mái tóc đổ xuống khi nàng múc nước rửa mặt. Sau khi rửa mặt xong,  Nga thong thả nghĩ đến bữa ăn trưa, mà hầu như nàng không dự tính trước. Ăn gì đây, nàng cất tiếng hỏi đôi mắt hiền dịu đang đứng nhìn chung quanh gian bếp đã nguội lạnh, không có một chút lửa từ sáng đến giờ. Nhưng rồi, nàng chú ý đến mấy thứ thức ăn mua sẵn chiều qua để trên bàn, trong thoáng nghĩ, nàng nghĩ đến một vài món ăn sẽ làm chiều nay để mừng sinh nhật của nàng.

            Nga nghĩ đến món ăn nhẹ. Nàng xách chiếc ấm ra bể lấy nước, đặt lên bếp đun sôi, và trong khi chờ nước sôi reo, nàng làm món mì gói, có cải, tôm và trứng. Đây là món đơn giản, nhưng với tài khéo tay làm bếp, món ăn này của nàng luôn hấp dẫn.

            Khi nước bốc hơi, Oanh vẫn để nước sôi thêm chút nữa rồi mới nhấc ấm, và từ từ nàng cho nước vào tô mì, xong lấy một cái dĩa đậy úp kín đợi lâu chừng hơn một phút, mì vừa chín tới.

            Ngày chủ nhật bình yên. Oanh ngồi ăn ngoài phòng khách. Bỗng nhiên nàng chợt nghĩ, từ một ngày ấy đến giờ, nàng ở căn nhà thuê này một mình, nhưng không lúc nào nàng cảm thấy lẻ loi, cô độc cả. Nàng luôn cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống, với không khí, cảnh vật quen thuộc, và hơn thế nữa, nàng luôn có Nguyên ngay cả lúc này đây vắng chàng. Hầu như Nguyên về bên Oanh mỗi ngày.

            Bữa ăn trưa ngon. Oanh đứng lên đem chiếc khay ăn vào nhà để xuống chậu thau dùng rửa bát bên cạnh bể nước, xong nàng trở lên phòng khách, ngồi một mình uống trà thật thú vị trong sự yên tĩnh, rồi bỗng nhiên nàng khép mắt lại như đó là giây phút thần diệu của người họa sĩ nghĩ đến một bức tranh vẽ chân dung.

            Khi cảm thấy trong cõi tiềm thức có một sự lay động êm dịu, nhẹ nhàng, Oanh đứng lên, đi vào phòng nghỉ của mình. Trên mặt gối, tóc nàng xõa rộng. Nàng đọc tờ tuần báo Kịch Ảnh, số mới nhất, ra Huế ngày hôm qua.

            Bài điểm phim của nhà văn Mai Thảo về cuốn phim The Snows of Kilimanjaro thật hay. Hai tài tử chính đóng trong phim này là Gregory Peck và Ava Gadner. Nàng đã coi nhiều cuốn phim Gregory Peck đóng, nhớ nhất là phim To kill a Mockingbird. Nàng cũng rất yêu thích nét đẹp lãng mạn, phong trần của nữ tài tử Ava Gadner. Nguyên cho nàng biết, nữ tài tử này, gốc Mễ Tây Cơ, cô ta đóng rất nhiều phim phỏng theo tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Enerst Hemingway, và anh có điều ngạc nhiên, trong phim A farewell to arms, đạo diễn không chọn cô ta đóng vai Catherine mà lại chọn Jennifer Jones. Phim A farewell to arms được quay hai lần, đều cùng một nữ tài tử Jennifer Jones đóng, nhưng vai cô ta đóng không lột tả hết tính cách nhận vật chính trong truyện.

            Oanh thiếp ngủ lúc nào, nàng cũng không hay. Căn phòng lắng im không tiếng động. Tờ báo buông rời khỏi tay nàng, nằm bên cạnh chiếc gối. Và, hơi thở nàng nhẹ, vừa dễ gây niềm xao xuyến. Nàng đẹp trong sự yêu thương trên gương mặt, và nàng đang ngủ ngon giấc. Bên cạnh dòng thác đang tuôn chảy, con đường đèo uốn quanh dẫn nàng đi xa lên thành phố miền cao nguyên. Oanh đang nằm mơ thấy mình đi trên một chuyến xe ca vượt từng quãng đèo, cảnh vật hai bên là rừng núi, ghềnh thác. Trời không mưa, nhưng gió tràn lạnh vào khoang xe, và nàng ngồi ở chiếc ghế dựa bên cửa xe nhìn sương mù bao phủ cả một vùng không gian xa lạ, nhưng thật là thơ mộng. Trong xe, có tiếng nhạc, có cả tiếng nói của hành khách, nhưng riêng nàng vẫn một mình. Và rồi, quang cảnh thành phố hiện ra, giống thư thể lúc này nàng đang nằm mơ vậy. Nàng hết sức ngạc nhiên trước khung cảnh một thành phố nằm giữa một không gian của núi và rừng bao quanh. Khi xe chạy qua nhiều nhiều con đường nàng được trông thấy những biệt thư nằm trên các ngọn đồi, những ngôi nhà màu ngói đỏ tươi bên cánh rừng, những vườn hoa xinh đẹp, chim chóc bay qua trên hồ nước, và ánh nắng sớm đang dần dần làm loãng tan những đám sương mù dày trên các góc phố.

            Nơi thành phố ấy nàng đến là Đà Lạt. Lúc này, trong giấc ngủ thật êm dịu, nàng vừa nhận ra được bóng dáng mình, và nhớ lại một mùa hè ấy nàng mới mười lăm tuổi. Nàng đến thành phố này để thăm một người anh ruột. Anh của nàng đi xa nhà đã lâu, và anh đang sống trong thành phố này ở căn nhà thuê chung với gia đình một người bạn thân.

            Khi cô gái đến,  sự xuất hiện của cô làm mọi người ngẩn ngơ, thấy cô đẹp như là thiên thần. Từ buổi gặp đầu tiên, những người trong nhà ai cũng quí mến, mỗi ngày ai cũng ai cũng dành được ở bên cô, ngắm vẻ đẹp dễ thương của cô, nghe giọng nói của cô như tiếng chim hót, và sự săn sóc dành cho cô là những món quà cô yêu thích.

Người anh của cô, sau buổi đi làm việc ở sở về, là để hết thời gian dành cho cô với mỗi buổi chiều là một cuộc dạo phố, đi mua sắm, đi tới các tiệm ăn, mỗi cuối tuần là đến một nơi có nhiều thắng cảnh đẹp rừng Saint Benoit, hồ Than Thở, thác Cam Ly, thác Prenn, thác Gougha, hồ Xuân Hương, tu viện Domaine de Marie.

            Ngôi nhà ấy nằm ngang lưng dốc đường Duy Tân, bên kia đường là những hàng cây trồng anh đào và mimosa, ở sau lưng nhà, nhìn xuống bên dưới con đường là một ngôi trường trung học, về sau này, tôi mới nói cho cô gái hay tôi đã học ngôi trường đó, tôi đã ở thành phố đó vào thời gian cô đến thăm. Khi nghe tôi nói vậy, cô gái đã nhìn tôi bằng cặp mắt thân thiện, và bạn biết không, chỉ trong cái nhìn ấy mà bao nhiêu ý tưởng về hạnh phúc, về kỷ niệm, về tình yêu bỗng gợi nhớ lên trong sự hồi ức một thành phố cũ của tôi thời niện thiếu, ngày xa ấy, tôi thấy bóng dáng buổi chiều sương mù trên các ngọn đồi, tôi nghe tiếng thông reo lưu luyến hoài mong như âm điệu của tiếng đàn vĩ cầm, và tôi được ngắm nhìn từng mùa hoa nở, đáng yêu nhất là hoa mimosa và hoa anh đào. Tôi chỉ học ở Đà Lạt  hai năm,  rồi đi xa. Rồi một ngày đó, tôi nhận được lá thư của cô gái, cô cho tôi hay rằng người anh của cô đã chết, anh ấy chết khi chưa có gia đình, hay tin cái chết của người anh, cô đã khóc sướt mướt, thảm thương như  thể một người vợ chưa cưới. Lá thư viết dài, cô kể lại cho tôi nghe một mùa hè tuyệt vời của năm ấy, cô nói nhiều về tình cảm người anh của cô, và hiện giờ cô vẫn còn giữ lại kỷ niệm chiếc áo đầm  học sinh màu xanh có dây thắt lưng màu hồng tím rất là đẹp.

            Một hôm, ngồi bên nhau cô gái hỏi:

-Bao giờ mùa hè mới trở lại anh nhỉ ?

-Cô cứ nhìn những chiếc áo cô mặc sau mỗi mùa.

-Anh cũng như thế chứ.

-Không đâu cô. Tôi chỉ có một màu áo thôi, đó là màu của núi rừng.

-Màu ấy, trông thật hoang dại.

-Tôi  chỉ có mặc một màu áo đó. Vì tuổi trẻ của chúng tôi thuộc về chiến tranh.

-Anh không có được những ngày nghỉ hè sao ?

-Không, cô. Những lúc nào tôi cũng nhớ, và bên cô, trong giọng nói của cô, lúc này đây tôi là kẻ trở lại một mình với thời niên thiếu.

-Người anh của em chết thảm thương quá.

-Cô thật đẹp và có lòng nhân hậu.

-Anh vẫn còn giữ những lá thư của em đó chứ.

-Tôi vẫn còn giữ lá thư của cô và nhiều hình ảnh khác nữa.

-Rồi thời gian cũng phôi pha.

-Với cô, trong niềm phôi pha, luôn luôn tôi vẫn thấy những hình ảnh sáng đẹp của cô.

            Khi nghe tiếng chuông nhạc trên đồng hồ treo tường, Vân Oanh thức dậy. Nàng thức giấc với một cảm giác dễ chịu, và nàng cũng biết rằng, lúc này buổi chiều đã tới.

            Bên ngoài cửa, có tiếng nói thân quen của ba cô gái.

            Vừa gặp nhau, các cô cùng cất tiếng cười vang. Rồi ở ngay phòng khách, bốn cô ngồi xuống, ba cô đem hết những quà tặng của mình ra khoe, còn Oanh, nàng luôn là biểu tượng của hạnh phúc.

            Nhi, em gái Nguyên tặng cho người chị dâu tương lai một cuốn album và một tập ảnh phong cảnh về Hà Nội thuở xưa. Phương, tặng cho Oanh bốn cây cọ và hộp sơn màu nước. Liên An nhìn Oanh, nụ cười trong cặp mắt đen lánh. Cô gái muốn để cho Oanh tự tay mở sợi dây buộc gói quà. Và, quà tặng của Liên An là một khung ảnh lớn.

            Oanh nhận quà xong, nàng để một vài giây cho căn phòng thật là nồng ấm, rồi chút sau lên tiếng:

-Mình vừa mới mở một phòng tranh ?

            Tất cả ba cô gái nhìn Oanh, kinh ngạc.

-Mời các bạn bước qua phòng tranh của mình.

            Ngay khi Oanh nay cánh cửa bên, những bức tranh của nàng mới treo xong lúc trưa dậy lên như một luồng sáng. Bốn người bước vào, những bức tranh đã xem trước đó, giờ là những bức tranh mới hẳn mang trọn vẹn một ý nghĩa về giá trị nghệ thuật khi nó có được vị trí của mình trong căn phòng này.

-Hay quá, nhưng làm sao chị có  cơ duyện này, Liên An hỏi.

            Bằng một giọng nhỏ nhẹ, thân tình, Oanh kể lại câu chuyện sáng nay của nàng và bà chủ nhà.

-Vậy là  là ngày sinh nhật của chị hôm nay đáng nhớ hơn bao giờ hết.

-Chị cám ơn Nhi.

            Sau một lúc khá lâu đứng ở phòng tranh, giờ bốn cô qua phòng khách. Vừa ngồi xuống, cả bốn người tranh nhau nói về thực đơn của mình dành cho một tối sinh nhật.

            Liên An chợt hỏi:

-Nãy giờ, chị Oanh giấu anh Nguyên đâu ?

-Anh Nguyên đi dặt bánh.

-Phương  sẽ làm món bánh lá.

-Nhi  là món bánh xèo.

-Liên An chỉ chờ tới giờ ăn thôi. Nhưng mình cũng có thể làm được món chả giò.

-Hay lắm.

            Rồi cả bốn cô cùng đứng lên, rộn ràng đi xuống bếp. Tự trưa, bếp nguội lạnh, giờ có lửa sáng, dậy ồn lên với những tiếng nói yêu đời của bao cô gái.

            Oanh nói với các bạn, nàng làm món mì Quảng và món xôi gà.

            Phương bỗng lên tiếng:

-Mình làm nhiều món quá, làm sao ăn hết ?

-Đừng lo, chúng mình ăn sinh nhật buổi tối mà.

            Nhi hỏi:

-Anh Nguyên có mời bạn anh đến không ?

-Không, anh Nguyên chỉ dành cho chúng mình thôi.

            Nguyên được từng cô gái nhắc đến tên, và một vài mẩu chuyện của anh thời trước.

-Em chưa hề hay biết buổi gặp đầu tiên của chị Oanh và anh Nguyên.

-Tối nay, chị sẽ bảo anh Nguyên kể cho .

            Liên An nói:

-Em muốn anh Nguyên kể hết chuyện các cô nàng anh quen.

-Anh ấy sẽ chiều ý Liên An.

-Còn chị thì sao ?

-Bao nhiêu chuyện của anh, chị nghe kể hết rồi.

            Phương hỏi Oanh.

-Có mấy phút chị buồn ?

-Hơn một giây.

            Khi lửa bếp đã nóng lên và làm đỏ hồng gương mặt các cô gái, và lúc này các cô đang chuyển qua những đề tài về chuyện học hành, thi cử, chuyện tình lãng mạn trong yêu đương của chính mình, bạn bè.

            Phương lên tiếng hỏi:

-Chị Oanh thích làm cô giáo không ?

-Đó là ước mong của mình.

-Chị không thích làm họa sĩ sáng tác.

-Mình rất thích vẽ, nhưng không là họa sĩ, sự nghiệp to tát quá.

-Ở thành phố nào mà có chị Oanh đến, sẽ là thành phố đẹp.

            Oanh đưa mắt nhìn qua Nhi. Nàng hiểu được bao nhiêu ý nghĩ dễ thương của cô em gái Nguyên dành cho nàng. Và, lúc trưa nằm nghỉ nàng đã mơ thấy một thành phố trong cái đẹp huyền nhiệm của thiên nhiên. Nguyên cũng nói, tên của nàng là một thành phố trong con tim.

-Em chọn học Luật, muốn trở thành Luật sư.

-Em mong năm tới lên Đại Học.

-Liên An thì sao ? Đã có tin đi du học chưa ?

-Vẫn chưa.

-Vẫn còn chờ.

-Vâng, em đợi chờ.

-Liên An nên đi ngành ngoại giao, Phương nói.

            Oanh mỉm cười nhìn qua Liên An. Vừa xem Liên An là một người bạn, vừa coi cô như em gái của mình, Oanh rất mến Liên An. Về Liên An, cô thật hạnh phúc mỗi khi nói về Nguyên. Nguyên cũng là một lý tưởng của Liên An.

            Nhi bỗng phá ngang giấc mộng, cô nói:

-Với  giấc mộng nào đi nữa, chị em mình rồi cũng chỉ làm đến chức nội tướng mà thôi.

            Bốn người cùng cười vang. Buổi chiều tới nhanh. Bên ngoài, nắng đã tràn qua hết phía bên kia sông. Hàng cây trên bến nước, nắng ở đó treo từng cụm vàng óng, và hình ảnh dãy nhà tu viện dần dần vươn lên cao khỏi bóng nắng.

            Từ đơn vị, Nguyên lái xe về nhà, tắm rửa xong anh thay quần áo xi vin rồi xuống phố, đến tiệm bánh Bảo Thạnh .

            Nguyên trả tiền, nhận bánh xong về nhà ngay. Ba cô gái còn ở lại nơi gian bếp làm thức ăn để mình Oanh lên nhà trên đón Nguyên.

-Trời, anh lạ quá.

-Sao mà lạ ?

-Hôm nay anh thật trẻ ra như sinh viên thời trước.

            Nguyên mặc áo sơ mi kẽ sọc xanh và chiếc quần tây xám. Oanh nhận nghĩ thật đúng, những lúc như thế này, Nguyên trẻ hẳn trong dáng nét cũa thư sinh.

-Anh đặt bánh ở đâu ?

-Tiệm bánh Bảo Thạnh.

            Rồi một giọng vui, Oanh hỏi:

-Anh có thấy gì lạ không ?

            Nguyên nhìn quanh, bất chợt nhận ra căn phòng bên mở cửa.

-Bà chủ cho em mượn căn phòng để tổ chức sinh nhật.

-Anh đi theo em.

            Oanh đưa Nguyên qua căn phòng mới, anh rất ngạc nhiên khi đứng trước những bức tranh của Oanh. Hai người bên nhau, Nguyên mong tìm được ý tưởng mới.

-Em nghĩ sao ?

            Oanh không đáp lời, nàng ngước lên nhìn Nguyên với nụ cười trong cặp mắt. Nguyên đặt bàn tay lên vai người yêu rồi kéo nàng lại thật gần. Oanh hé môi, lặng im để cho Nguyên đặt môi hôn.

            Một giọng nhỏ, nàng nói:

-Em là của anh.

-Cám ơn em. Nghìn lần..

-Thôi, một lần mới quí.

            Oanh nói, rồi nắm giữ lấy bàn tay của Nguyên. Hai người trở qua phòng khách. Bất chợt, Nguyên bảo người yêu tới đứng bên cửa mở ra sân, anh lùi một bước và đưa máy ảnh lên ngắm cái dáng nghiêng có mái tóc dài thả xuống vai của thiếu nữ , rồi hai lần bấm nút, Nguyên chụp được cho Oanh hai pose ảnh thật vừa ý.

 

 

                                                                  X

 

 

            Oanh trở xuống bếp một mình. Chỉ độ mười lăm phút lên đón Nguyên về mà nàng có cảm tưởng thời gian như khá lâu. Một buổi chiều nay, hai người bên cửa sổ, sau cái nhìn đằm thắm, si dại trên đôi mắt, Oanh đứng yên cho Nguyên xổ tung mái tóc nàng, anh ngắm nàng rất cảm động, và rồi, anh đón nhận từng nụ hôn mềm ướt, trên cặp môi run rẩy của người yêu.

            Liên An hỏi:

-Anh Nguyên đi lại rồi ?

-Không, ở trên nhà.

            Trên chiếc bàn dài , bên phía Phương và Nhi để một  tô bột trắng tinh vừa nấu chính, xấp lá chuối xanh, và dĩa thịt kho tôm. Oanh và Liên An lo về món chả giò. Oanh rây dầu ăn và lòng trứng đỏ phết lên từng chiếc bánh tráng, còn Liên An ngồi cuốn. Những ngón tay thon nhẹ của Liên An tưởng như cũng làm cho mỗi chiếc giò cuốn nhỏ theo.  Mỗi cô ngồi  trên chiếc ghế gỗ vuông, thấp. Vừa làm, giọng nói qua lời chuyện trò, những lúc được đùa giỡn trong tiếng cười vui, cô nào cũng cảm thấy thoải mái.

            Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

            Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi

Đôi mắt đẹp của Oanh, nhiều lần bị chiếu tướng. Liên An, rồi Phương và Nhi lúc nhìn qua nàng biểu lộ một vẻ đằm thắm, lạ lùng. Khi có mặt nơi gian bếp lúc này, bạn chợt nhận ra cô gái nào cũng thùy mị , đảm đang. Và rồi đây, những cô gái của tuổi xanh này sẽ lớn, có thể họ chia tay bất ngờ, rồi đường đời dưới gót chân, những kỷ niệm đẹp mỗi lúc hao mòn, trong thoáng nhớ, có người thầm nhắc lại mấy câu thơ mà ngày hôm ấy chợt thốt lên.

-Em chỉ có tập Gái quê của Hàn Mặc Tử.

-Không, chị ạ. Em yêu thích sự trong sáng, hiền lành, không hề muốn nghĩ gì về nỗi khổ đau.

-Chị thấy rằng, người thi sĩ này quá bất hạnh.

            Trên bếp nấu, lửa đang cháy đều ngọn. Có hai lò, phía trong là nồi xôi đậu, ở  ngoài là soong nước chờ sôi để luộc gà. Hai món này, do cô chủ Vân Oanh đảm trách, và còn một món nữa chưa làm đến là mì Quảng.

            Hôm nay, ngày sinh nhật Vân Oanh. Nàng sẽ luôn nhớ mãi ngày này, một ngày vui không chỉ riêng cho mình mà còn là của các cô bạn ngồi đây nữa. Bốn cô  đã thành cô Tú hết. Nhi kém tuổi hơn, vừa mới đậu xong phần nhất. Cô học khá, trúng tuyển ngay kỳ đầu. Ba cô Oanh, Phương , Liên An, kỳ thi vừa qua đều gặt hái được kết quả vừa ý. Trong tâm cảnh Phương và An, buồn vui lẫn lộn. Phương rất mong đi Sài Gòn, nhưng rồi, hiểu được những ý nghĩ sâu sắc của người anh mình về gia đình, cô đành ở lại Huế học, và những ngày qua, Oanh, Liên An , Nhi đã làm cho Phương khuây khỏa, vui lên, nhờ đó Phương mới nhận ra rằng, Huế là thành phố của tình bạn. Về Liên An, rồi cô sẽ đi xa. Nơi phương trời ấy, rất lẻ loi, nhưng những lá thư cô sẽ viết gửi về cho những người bạn, mỗi lá thư  là chút lửa ấm với quê hương và gia đình. Và, giống như Phương, cô thương mến Nguyên như người anh ruột, và giờ đây cạnh bên người anh của mình, là Vân Oanh yêu dấu, muôn thuở với màu áo tím của nàng. Liên An đã nói với tôi, trong linh hồn áo tím, em nhớ mãi Vân Oanh.

            Suốt tuần lễ rồi, khu Morin rộn ràng tiếng nói, tiếng bước chân hớn hở của bao nhiêu cô cậu học sinh mới đặt bước lên năm thứ nhất Đại học. Oanh nay không còn ở cái tuổi mười tám dung dăng, dung dẻ, nhưng vẫn giữ được sự hồn nhiên, và bây giờ, hình bóng nàng xuất hiện thật là mới mẻ. Từ sinh viên bên trường Mỹ Thuật qua trường Văn Khoa, Vân Oanh nhận ra được mình trong một ý thức trầm tĩnh về nhân cách và cả học vấn.

            Nguyên đã  ở bên Oanh trọn ngày thứ tư vừa rồi. Nguyên đưa Oanh đi ghi danh, hai người rất thích thú khi đạp xe bên nhau một buổi sáng của ngày đầu thu trong thời tiết thật là đẹp. Những lúc nhìn qua Nguyên, với gương mặt nhỏ nhắn và dáng dấp thư sinh, nhanh nhẹn, nàng thấy anh rất là trẻ, chừng mới cái độ của lớp tuổi hai mươi.

            Một giọng thân thương, Oanh nói:

-Anh ghi danh học lại đi.

            Nguyên cười đáp:

-Anh thuộc lớp sinh viên già.

-Không, em rất muốn anh trở lại thời sinh viên.

-Anh đã có em, em đem anh trở lại thời sinh viên.

            Oanh đạp xe chậm lại, trên đôi mắt nhìn xa tới cuối đường, nàng nói:

-Anh đi học, có thêm em nữa, anh vẫn là người thầy giúp đỡ em.

-Em yên tâm học, lúc nào cũng có anh bên em.

            Bên kia sông, hình ảnh kinh thành Huế. Khu công viên đầy nắng thật sáng sủa, sạch đẹp. Ngôi trường Đồng Khánh đối diện với công viên, trước cổng trường quét vôi tím, nữ sinh Huế mặc áo trắng mới tinh. Nhìn lên bầu trời, bạn chợt trông thấy cả một đàn chim đang bay ngược hướng dòng sông, xa dần khỏi thành phố hướng về phía ngọn núi.

            Nguyên bỗng nói:

-Anh và em, chúng mình có nhau là đủ.

-Nhưng rồi, chiến tranh cũng kết thúc.

-Em mà đã mong đợi, ngày ấy sẽ đến thôi.

            Thoáng có một ý tưởng vui trong nụ cười, Oanh nói:

-Anh mà trẻ mãi, thì em mới ở bên anh.

-Thời gian sẽ không làm thay đổi được anh.

-Anh đừng quá tự tin, nhé.

-Em mới làm cho anh tin tưởng về mình.

-Hay quá.

            Oanh đáp lời, và cảm thấy cặp mắt mình đang vui. Oanh luôn nhớ nghĩ đến Nguyên, những lúc xa cũng như ở mỗi giấy phút gần. Mùa thu cũng đã làm cho thành phố trở nên trang trọng, tuổi trẻ vừa được sự yêu mến của thời gian, vừa đang nẩy mầm một sự trưởng thành trong nhận thức.

            Khi đến khu Morin, hai người phải xuống xe dắt bộ vì rất đông sinh viên đứng tràn ra đường. Tới chỗ gởi xe đạp, Nguyên và Oanh ngó tìm một quán cà phê gần đó. Nguyên lấy chiếc máy ảnh ở trước giỏ xe, rồi trên vỉa hè lát đá, cách quãng chừng năm mười mét Oanh dừng bước lại vừa tạo dáng để  Nguyên chụp những bức ảnh cho nàng. Nga mặc áo dài tím, nắng thu chiếu sáng lên áo nàng. Nguyên và Oanh rất hợp ý nhau trong sự yêu thích những cảnh vật. Vừa chụp nhanh và chính xác, những bức ảnh Nguyên dành cho Oanh rất là nổi bật các góc cạnh, tạo ngay ấn tượng, bạn có thể đem so sánh được  với những người chụp ảnh chuyên nghiệp.

            Quán cà phê khá đông sinh viên. Khi thấy Nguyên và Oanh xuất hiện, rất nhiều cặp mắt chú ý nhìn chàng và nàng, người nào như cùng  nhận rõ sự tương xứng của đôi lứa này.

            Hai ly cà phê nóng, bốc lên hơi khói. Oanh nhìn Nguyên hỏi:

-Tại sao anh không biết hút thuốc ?

-Anh không thích.

-Uống cà phê, không hút thuốc, anh không thấy xa lạ sao ?

            Nguyên mỉm cười, đáp:

-Ý tưởng của em cho anh nhìn thấy màu khói.

-Cà phê đây uống ngon, phải không anh ?

-Rất ngon.

-Chừng nào Thụy về phép ?

-Chắc là trong năm nay.

-Coi bộ, Thụy thứ gì cũng lấn lướt anh.

-Em kể ra xem.

-Nhi nói, Thụy rất là bụi đời. Những môn thể thao, thứ nào cũng chơi được, rồi hút thuốc lá, ghiền cà phê, còn cả bài bạc nữa.

-Có một thứ nó không biết.

-Về nghệ thuật ?

-Thụy không biết tí gì về âm nhạc cả. Coi một bản nhạc, nó không đọc được nốt, nói gì đến chuyện cầm đàn.

            Oanh nhìn vẻ mặt Nguyên một lúc khá lâu, không hẳn cô gợi sự hình dung gương mặt người em của Nguyên thật khá thân như là một người bạn của nàng đang ở xa, mà có lẽ, với chút suy nghĩ để tìm lấy cho câu chuyện thân mật.

-Hãy bảo Thụy học nhạc, học đàn đi. Tuổi trẻ với cây đàn ghi ta khác chi người lữ khách đầy mơ mộng, lãng mạn.

-Nếu Thụy có được một cây đàn, chắc nó sẽ mơ làm nhạc sĩ.

-Đó cũng là hạnh phúc.

            Nguyên gật nhẹ đầu, rồi cầm chiếc máy ảnh lên điều chỉnh. Bỗng anh đẩy nhẹ chiếc ghế, rồi lùi bước và hơi thấp người xuống. Nguyên lên tiếng:

-Em cầm ly cà phê.

            Oanh uống khẽ một hớp, rồi trên tay vẫn giữ ly cà phê để sát gần môi. Nguyên bấm máy, thêm hai pose nữa với đôi mắt Oanh yên lặng nhìn xuống ly cà phê đơn độc để lại trên bàn. Nàng cũng vừa chợt nghĩ đến một tranh tĩnh vật, thiếu nữ và ly cà phê. Bức tranh sẽ có một lọ hoa, với hai thứ hoa trắng và tím.

            Nguyên trở lại ghế ngồi, anh đón nhận ở phút giây này cái nhìn đằm thắm của Oanh. Oanh có đôi mắt thật dịu buồn, những lúc yên lặng nhìn rất lâu, Nguyên có cảm giác Oanh sắp nói với anh về những kỷ niệm thật sâu kín đã đến với cuộc đời nàng, mà chỉ riêng nàng mới biết, và vẫn ôm ấp. Những kỷ niệm đó, thường biểu lộ khi anh thấy nàng khóc.

            Hôm nay trời se lạnh hơn mọi hôm, nên không khí ngồi quán uống cà phê rất là thú vị.

            Quán cà phê nằm phía trên khu nhà Bưu điện,  từ chỗ ngồi dưới bóng cây nhìn qua khu Đại học Morin bạn trông thấy rõ tất cả cảnh mọi sinh hoạt.

            Ngồi khá lâu, hai người mới rời quán. Những đám sinh viên năm thứ nhất đến ghi danh xong ra về, dần dần thưa vắng bớt. Oanh để tay mình trong tay Nguyên khi hai người băng qua đường.

            Vừa bước lên bậc thềm tam cấp, oanh bỗng thấy trong tâm trí nàng một cảm giác khác lạ không giải thích được. Có thể, bạn chợt thấy chỉ có một bóng dáng nàng trước ngưỡng cửa Đại Học. Khi vào trong văn phòng của trường, hai người dừng lại chờ. Bên trong, các sinh viên và nhân viên phụ trách ghi danh đang làm việc. Những tiếng gõ trên bàn máy đánh chữ  nghe vang đều đặn.

            Oanh đang cầm giữ tấm bìa vàng, ở trong là những giấy tờ cần thiết để xin nhập học. Rồi đến lượt nàng, sau khi bốn sinh viên vừa xong việc ra về. Cô sinh viên phụ trách nhận giấy tờ, văn bằng của Oanh xem kỹ, rồi ghi tên nàng vào một cuốn sổ giấy ca rô dày , xong, cô cho nàng biết tiền lệ phí ghi danh phải nạp.

            Xong việc thu nhận đơn  ghi danh, trong lúc đưa biên nhận cho Oanh, cô gái bỗng ngây người trước một vẻ xinh đẹp , duyên dáng của Oanh. Nhưng rồi, cô không biết biểu lộ cách nào, mà nhìn Oanh, cô cố gắng tạo dáng nên một nụ cười thật lòng để nhớ mãi.

            Ngày nhập học sẽ được ghi rõ trên giấy báo. Cô gái hỏi Nguyên:

-Anh có ghi danh không ?

-Không.

-Sao lại không ?

            Cô gái vui miệng  hỏi. Nguyên cười đáp:

-Tôi không có bằng cấp.

-Em không tin đâu?

            Rồi nàng nói với Oanh;

-Chị nên khuyến khích anh đi học.

-Anh không thích đi học, Oanh đáp.

            Xong buổi ghi danh quan trọng này , Nguyên dành trọn cả cuộn  phim mang theo chụp cho Oanh. Tới ngày sinh nhật , thêm những cuộn  phim mới ảnh của nàng sẽ đầy kín cuốn album.

            Trên đường trở lại bãi gửi xe , Nguyên nói:

-Em sẽ là người mẫu của trường Văn Khoa.

-Không dám đâu, biết bao nhiêu cô Đồng Khánh đẹp hơn em nhiều.

-Anh sẽ đi tìm một cô Đồng Khánh xinh đẹp để đứng gần em.

-Anh đi tìm đi, rồi để cả một đời anh bên cạnh cô gái ấy.

            Nguyên nói:

-Áo trắng của Đồng Khánh đã phôi pha rồi.

-Thật không ?

-Em hãy tin là có thật.

            Vừa dắt xe đạp ra đường, Oanh hỏi:

-Anh đi ăn tiệm không ?

-Tùy em.

            Nguyên có vẻ yên lặng, vừa lơ đãng.

-Hay là về nhà ?

-Ừ, về nhà.

-Nhưng cũng ghé vào chợ một chút.

-Vậy thì qua phố.

-Thôi, tới chợ Bến Ngự cho gần.

            Một buổi sáng thật dễ chịu, Oanh như chỉ nói cho mình nghe lúc lên xe đạp. Từ  Morin đi đường tắt đến Bến Ngự rất gần, nhưng cả hai ra đường chính Lê Lợi , thong thả đạp xe bên nhau. Hôm nay, áo tím của Oanh mang dáng vẻ của mùa thu. Và, ý thu của nàng rất dễ thương như Huế.

            Dòng sông Hương đang lướt gió, trải rộng một mái tóc nàng cung nữ.  Nắng qua mỗi con đường, chiếu sáng lên công viên, nước chảy của dòng sông hòa sắc với những đám mây trên bầu trời tạo cho thành phố không chỉ yên bình theo cuộc sống, mà mới đây, đã hình thành một phong thái nghệ thuật.

            Dọc đường Lê Lợi, dòng người và xe đạp lên xuống rất nhộn nhịp. Ít ngày nữa thôi, các trường trong thành phố sẽ bắt đầu niên học mới.

            Nguyên và Oanh vẫn đi chậm bên nhau. Thời gian đã dành mỗi phút hạnh phúc trong ân tình, câu chuyện hai người bình thường trong cuộc sống, đôi lúc được nhớ về kỷ niệm từng nơi chốn đã sống qua, thảng hoặc xen vào chuyện học hành hay nhắc đến một hai người thân trong gia đình.

            Bỗng nhiên Oanh hỏi:

-Tại sao anh luôn thích mặc đồ lính ?

-Anh là quân nhân, phải mặc quần áo lính chứ sao.

-Nhưng vào ngày nghỉ, anh cũng không mặc quần áo thường.

-Áo quần xi vin nhẹ quá.

-Hay là anh chỉ muốn làm người hùng ?

-Đôi khi, anh vẫn cứ tưởng mình đã ở trong quân đội quá lâu.

-Anh vào quân đội bao lâu rồi ?

-Hơn bốn năm.

-Anh lên lon như vậy có nhanh không ?

-Trong khoảng thời gian vừa phải. Không nhanh lắm, không chậm lắm.

-Anh và Thụy có hợp tính nhau không ?

-Em hỏi một câu thực hay.

-Anh trả lời em đi.

            Nguyên nói:

-Anh chị em trong gia đình, thường sống với nhau bằng tình thương, sự hy sinh, và nhớ nghĩ nhau khi ở xa. Nhưng không thể nào trở thành người bạn, hay coi nhau là bạn, ai có những ý nghĩ so sánh ấy anh cho là không đúng, cũng không thành thực nữa.

            Tới ngả rẽ bên trường Luật, Nguyên và Oanh đạp xe vào lối đường giữa đi tới phía cầu Nam Giao,  đoạn rẽ trái, men theo dòng sông phía bên này tới chợ Bến Ngự.

             Dòng sông nhỏ lại, khoảng cách hai bờ cũng gần nhau, nhà ở bên đây và bên kia bờ trông thấy rõ, và mỗi khu vực, có một cây cầu nhỏ bắc qua giữa hai bờ. Sông nhỏ này có tên An cựu. Suốt dòng sông, có đến sáu chiếc cầu nhỏ bắc qua hai bờ. nằm

 cách khoảng nhau chừng vài trăm mét.

            Nguyên đứng ngoài chờ  Oanh vào chợ. Lúc này một mình, dưới bóng cây im nắng Nguyên đưa mắt nhìn khung cảnh sinh hoạt  của mọi người đi qua trên đường, về phía các nhà ở, và những cảnh vật hiện lên trong không gian bình thường, lặng lẽ, anh bỗng có cảm giác thật dễ chịu khi được nhớ lại những tháng ngày đã qua.

            Năm 14 tuổi, Nguyên rời gia đình ở ngoài Quảng Trị vào Huế học ở trường trung học Hàm Nghi. Anh học tiếp năm sau ở trường này, rồi thi Thành Chung, sau đó, chuyển qua trường Quốc Học học ba năm ở ban Tú Tài xong bước lên Đại Học. Nhưng ở bậc Đại Học chỉ một năm  Dự bị, hỏng thi vấn đáp, rồi trong không khí chính trị bất an,  anh rời bỏ Huế  vào Sài Gòn tìm kiếm việc làm, cuối cùng chọn đi lính. Vào lính, anh lột bỏ ngay được cái dáng vẻ thư sinh ngay từ ngày đầu ở quân trường, từ đó, anh cảm thấy mình thực sự yêu mến quân đội qua tâm hồn lãng mạn của người lính. Với anh, lãng mạn trong tâm hồn người lính không phải để là người hùng, mà qua một tập thể lớn mạnh này, ai cũng nhận ra tinh thần trách nhiệm của chính mình với bộ quân phục là biểu tượng. Vậy nên, từ mấy năm ở  lính đến giờ, hầu như Nguyên thấm đậm hẳn về cuộc sống người lính, lúc nào anh cũng nghĩ mình là người lính và luôn cả những bộ quần áo lính anh phải mặc, không thể rời bỏ. Tuy đây chỉ là thói quen, một cung cách, hay là suy nghĩ độc lập từ một cá nhân, nhưng nó thể hiện rõ cá tính của Nguyên về tình cảm cũng như về cách phục vụ. Nguyên rời Sài Gòn ra đơn vị Trung đoàn tân lập này nay cũng đã gần ba năm. Về lại Huế, Nguyên khác xưa nhiều với thời học sinh, sinh viên, nhưng Huế vẫn nhận ra anh là đứa con Huế đã trưởng thành,  và giờ đây cho anh có được mối tình đẹp, rất đẹp với một người con gái xứ Quảng.

            Oanh mua một ít rau, cá , thịt và trái cây, mấy túi nhỏ bỏ chung vào cái túi lớn xách bên tay, chừng nửa giờ vào chợ nàng trở ra.  Nguyên không hay khi Oanh từ phía sau đi tới. Anh quay lại nghe tiếng Oanh hỏi, rồi một giọng vui, anh trả lời:

-Thật là lâu , đó em.

            Oanh hỏi lại:

-Bao nhiêu năm ?

-Năm thôi chưa đủ, còn phải thêm cả ngày tháng nữa.

-Anh cảm thấy lo lắng không ?

-Không, anh có em.

            Hai người lên xe đi. Oanh vui giọng, kể cho Nguyên nghe những lời ngợi khen của các cô bán hàng trong chợ lúc nhìn ngắm nàng đi qua.

-Em có được là người mẫu không ?

-Em là người mẫu của áo dài.

-Các cô Đồng Khánh thì sao ?

-Các cô ấy dịu dàng quá.

-Còn em, dữ lắm nghe.

-Không, em rất là duyên dáng.

-Anh giải thích nghe mơ hồ quá.

-Cách nói mơ hồ, rất dễ gây cảm xúc cho trí tưởng tượng.

            Oanh bỗng nói:

-Ngôn ngữ triết lý thật là khó, nhưng càng gợi ý suy tưởng, em lại thích.

            Giờ khắc của buổi trưa trở nên ấm áp, lạ thường. Huế, mỗi không gian là bức tranh, cách bố cục cho nó, bạn chỉ cần lấy một đoạn sông có cây cầu nhỏ, và bên sông là một mái nhà. Huế, ý thu rất dễ thương khi bạn nghe tiếng nói từ các cô gái Huế ,tới tuổi trưởng thành, từ một nơi xa về lại đây, khung cảnh ở thành phố này sẽ tạo cho bạn nhửng liên tưởng đến một thành phố khác.

            Nguyên bỗng nhớ một gương mặt trí thức trẻ, nhà thơ Nguyễn đình Thi. Rồi tiếp đó là bóng dáng người thi sĩ. Và, lúc này, Huế cũng sẽ mãi đẹp như hai câu thơ của chàng:

            Gió thổi mùa thu hương cốm mới

            Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em

            Về đến nhà, Nguyên ngồi ở phòng khách đọc báo. Nguyên cảm nhận được sự thoải về không khí bình yên trong một gia đình, dưới một mái nhà, với tờ báo mình đang đọc cho anh liên tưởng tới các bài luận văn thời còn ở những lớp nhỏ dưới trung học.

            Oanh thay xong bộ quần áo nhe,ï nàng đi làm cơm. Trước khi nhen bếp lửa, nàng pha hai ly nước chanh đường, một cho Nguyên và một cho nàng.

-Anh đói chưa ?

            Nguyên ngừng đọc báo, nói:

-Em nấu chín cơm, bữa ăn sẽ rất ngon.

-Em có nấu món canh chua.

-Em đúng là con người thuần túy.

-Sao, anh hay diễn tả ý rất mơ hồ.

            Nguyên đáp lời Oanh như bài soạn sẵn:

-Em ở xứ Quảng, mà tất cả các món ăn ba miền Nam, Trung, Bắc em đều nấu được và rất là ngon.

-Vậy, em còn là người mẫu nấu nướng nữa, phải không ?

            Nguyên gật đầu ngay, không do dự. Nhìn qua Nguyên, Oanh cười, ít giây sau nàng nói:

-Mứt bánh, mới là món thuốc của em. Nấu ăn, em tạm thôi. Nhưng được anh khen ngon là quí lắm rồi.

-Anh ăn ngon thực sự.

            Vừa chuyện trò với Oanh , Nguyên vừa xem báo. Anh chú ý đến bài xã luận của ký giả Từ Chung.

            Oanh cầm ly nước chanh đứng lên, nhẹ bước xuống nhà. Một giờ sau, bữa ăn trưa dọn lên ở ngoài phòng khách.

            Cơm và thức ăn đang nóng. Lúc Nguyên cầm đũa, anh không ngăn được cảm xúc của mình, và sau đó, anh tìm ra được một ý nghĩ trọn vẹn cho đời anh, là anh đang có được sự săn sóc của người yêu.

            Bữa ăn chậm rãi, mỗi miếng ngon rất chân thực như là kỷ niệm của tuổi thơ.

-Có thư Mỵ Châu gởi cho em không ?

-Có.

-Mỗi khi có thư Mỵ Châu, em nhớ cho anh biết và đọc thư Mỵ Châu cho anh nghe.

            Oanh bỗng nghĩ tới một ngày, khi nàng và Nguyên có được mái ấm gia đình, gần hay xa tới đâu trong đất nước, nàng sẽ đem Mỵ Châu theo với nàng.

            Sau một ngày nghỉ, Nguyên trở lại đơn vị làm việc bình thường. Anh làm công việc với sự đam mê, thật cẩn trọng về  các thứ giấy tờ, đối  với thuộc cấp, không một ai anh quên nghĩ đến họ. Những lúc sau giờ làm việc, sau bữa ăn trên Câu lạc bộ về phòng nghỉ, anh dành hết thời gian này nhớ đến Oanh. Oanh luôn hiện ra trong tâm trí anh một khuôn mặt dịu dàng, hạnh phúc. Có những bức ảnh anh chụp được cho Oanh qua trí tưởng tượng, thật là mới mẽ, sáng tươi, hay đẹp, hơn cả những bức ảnh Oanh có trong cuốn album. Và, hết tuần lễ này, anh phải mua sắm một ít thứ chuẩn bị cho ngày vui sinh nhật của Oanh.

            Hôm nay, ngày vui này đến. Oanh nói với Liên An:

-Anh Nguyên còn là một người anh của chị.

            An nói:

-Em rất thích anh Nguyên. Anh ấy thật dễ chịu. Và, không chỉ riêng em, anh ấy luôn là người rất dễ thương với bao cô gái khác ở thành phố thân yêu này.

            Bỗng Nguyên xuất hiện, An lên tiếng :

-Nãy giờ anh trốn đi đâu, không xuống coi tụi em làm bếp.

            Nguyên cười hiền lành, rồi anh gọi Oanh lên nhà.

-Em thấy anh trang hoàng như vậy, được không ?

-Giỏi.

-Anh muốn em xem lại lần nữa.

            Oanh đưa mắt quan sát. Nàng học Mỹ Thuật, nên cái nhìn của nàng, trong đó, mọi sự vật như thể đã được sắp sẵn theo ý nàng. Oanh cầm bình hoa, dời qua phía bên trái một chút cho cân đối vị trí. Hai người nói chuyện một lúc, Oanh trở xuống nhà, đúng lúc này, bánh lọc đã hấp chín, giò cuốn chiên xong, luôn cả món xôi và gà luộc cũng đã rồi.  Chỉ món đặc biệt là mì Quảng, bây giờ Oanh bắt đầu.

            Trên bếp, son nước sôi để luộc mì. Bốn cô cùng đứng bên Oanh, nghe nàng nói về món ăn đặc biệt này của xứ Quảng mà nàng học từ người cô em họ của ba nàng. Người cô này, lúc ở Hội An, có mở một tiệm mì Quảng ở Cẩm Hà, quán ăn nằm bên con đường lớn của vùng ngoại ô trông xuống sông Thu Bồn. Ở xứ Quảng, món mì rất bình dân, để được ăn ngon, sợi mì vừa mềm và dẽo, còn đồ nấu là thịt heo cắt lát thật mỏng, tôm nhỏ không bóc vỏ, rồi cho gia vị, tất cả thứ này nấu thành nước dùng mì, nó không được loãng nước như bún, phở hay hủ tiếu mà phải nấu thật rền, và thật kẹo.

            Liên An nói:

-Chị Vân Oanh đúng là một phụ nữ hoàn hảo.

            Oanh chỉ cười, tay trái nàng đang cầm đũa khoắng nhẹ cho ớt màu hòa tan vào nước dùng. Liên An nhìn vẻ khéo léo từ bàn tay của Nga khi nấu món ăn, cô gái bỗng ước ao mình có được người chị như nàng.

            Phương lên tiếng hỏi:

-Anh Nguyên có hay khen chị không ?

-Trời, ông cứ khen hoài.

-Và, chị thấy anh sao ?

-Anh Nguyên vui tính.

-Chưa hết đâu.

-Em thấy anh Nguyên và chị quá đẹp đôi.

-Hôm nào đến lễ đính hôn, mình sẽ chụp ảnh và quay phim.

-Em ở xa, chị nhớ gởi ảnh cho em.

-Chắc chắn rồi.

-Có chữ ký , lời đề tặng của hai người. Và cả thư nữa nhé.

            Nga hỏi:

-Liên An muốn mình viết hay anh Nguyên.

-Cả  hai người.

            Nguyên đang ngồi một mình trên phòng khách. Anh cảm thấy hài lòng khi nhìn cái vẻ sáng đẹp, tươi tắn trong căn phòng hôm nay được trang hoàng để mừng sinh nhật Vân Oanh.

            Bên ngoài, buổi chiều thật nhẹ nhàng.  Phía dưới sông, có đông người giặt giũ, bất chợt vang lên tiếng kêu xình xịch của một chiếc xuồng máy rẽ sóng lướt mau, rồi xa dần. Ngày chủ nhật,  sinh hoạt trên các khu phố quanh nhà ga vẫn giữ một nhịp độ như ngày bình thường. Huyền Trân là con đường từ đầu phố ga ra ngoại ô, con đường này khá dài, có những quãng ven theo dòng sông, buổi sáng sớm trông thấy sương mù còn bao phủ trên những cây cầu và những khu phố bên kia bờ sông, buổi chiều, cảnh hoàng hôn xuống trông rất đẹp, và cũng rất buồn. Khi ra đến cuối ngoại ô, con đường càng thơ mộng, êm ả, với tiếng gió ru hàng cây, với những căn nhà màu ngói đỏ, và nghe dậy lên những hương vị thoang thoảng mùi thơm cây trái từ trong các nhà vườn tỏa ra. Hết con đường này, bạn sẽ còn trông thấy còn một con đường đất rộng nối dài theo, dẫn đi qua các ngôi làng rồi vượt qua các dãy đồi, dần dần tiến đến núi.

            Nhi bỗng lên tiếng:

-Anh Thụy sắp về phép đó chị Oanh.

-Ờ, chị có nghe anh Nguyên nói. Anh cũng sắp đi học ngành hoa tiêu.

-Anh Thụy đã gặp chị Oanh lần nào chưa ?

-Chưa.

-Anh có về phép.

-Ngày Thụy về phép, mình ở Đà Nẵng.

            Liên An nói:

-Anh Thụy quen cô nào, anh cũng mời người ta uống cà phê.

-Con người nghệ sĩ mà.

            Bỗng dưng Liên An muốn kể ra chuyện về một người mình đã gặp nhưng rồi cô dừng lại, sợ có điều dị nghị. Tuy nhiên, Oanh đã nghe cô gái kể một vài câu chuyện về người đó rồi.

            Buổi chiều đã qua nhanh, vừa hết giờ nguyện, chuông nhà thờ lớn của thành phố đánh lên vang vọng một hồi dài nghe trầm tĩnh, lắng đọng, sự sinh hoạt một ngàysắp hết.

            Nguyên bật đèn sáng. Vừa đúng lúc, các cô em mang từng món ăn lên dọn vào chiếc bàn xếp dài. Trên bàn, đã có sẵn ly giấy, nước giải khát, các thứ này Nguyên mua ở quầy hàng quân tiếp vụ của Trung đoàn.

            Sau khi mì luộc chín xong, Oanh vớt ra ngoài để ráo khô trong cái thau nhựa, còn nồi nấu món mì, lửa được hạ thấp để giữ sức nóng. Ở bàn nhỏ bên kia, Nga đã để sẵn vài dĩa bánh và xôi, dành biếu bà chủ nhà và để cho Nhi mang về cho mẹ và các em của Nguyên.

            Ba cô em dọn tiệc xong, đi rửa mặt và thay áo dài. Oanh vào phòng mình, sau khi các cô đã xong.

            Kim đồng hồ chỉ đúng sáu giờ, giờ mặt trời lặn.

            Oanh trở ra ngoài với chiếc áo nhung màu rêu thật là đẹp. Nàng đeo lên cổ một chuỗi hạt nhỏ màu hồng rất là xinh.

            Nguyên cầm máy ảnh, sẵn sàng, anh đề nghị trước tiên các cô đứng cạnh nhau trước bàn tiệc, rồi lần lượt  là Oanh, bên cạnh mỗi cô trước chiếc bánh sinh nhật với một ngọn nến hồng cắm ở ngay chính giữa chiếc bánh lớn.

            Mỗi cô, một màu áo. Mỗi cô, duyên dáng qua nụ cười. Oanh cảm thấy hạnh phúc ứa lệ.

            Rồi ngọn nến được thắp sáng lên. Oanh đứng trước chiếc bánh và ngọn nến. Hôm nay là sinh nhật thứ 21 của nàng. Ngọn nến hồng với dáng cao và đẹp vươn lên tỏa sáng xuống chiếc bánh. Nguyên chụp Oanh từng ảnh một ghi dấu mỗi khoảnh khắc hạnh phúc của nàng.

            Và, tuổi sinh nhật bắt đầu. Ngọn nến lung linh. Như một cảnh trong phim, Oanh cúi xuống, chúm môi thổi tắt ngọn nến. Tuổi 21 vừa trôi qua sau một giây. Khi lửa nến đã tắt, tiếng vỗ tay của Nguyên và các cô em nàng cùng reo vui lên, rồi mọi người cùng hát một bài hát .

            Happy birthday to you, happy birthday to you.

            Happy birthday...

 

 

                                                            XI

 

 

            Tối hôm ấy, sau bữa tiệc sinh nhật mà món ăn nào cũng ngon, vừa miệng, Nguyên và Oanh cùng mấy cô em ngồi ở phòng khách trò chuyện, cười nói rất là vui. Liên An là đề tài chính về chuyện nàng sắp đi du học. Nhân chuyến đi của Liên An, Nguyên kể cho các cô chuyến đi của anh sang Đài Loan hai tháng để học về khoa chiến tranh tâm lý. Anh vừa gợi nhớ, và dùng nét phác họa, rồi theo câu chuyện anh nói đến một biến cố lịch sử Trung Hoa, vào năm 1949, hồng quân Mao Trạch Đông nổi dậy giành chiến thắng, Tưởng Giới Thạch bại trận rút lui quân ra Đài Loan và  thành lập thành một quốc gia riêng trên đảo này.

            Bên ngoài, có tiếng động gió thổi rung cây lá , và trên mặt sân là màu sáng của ánh trăng. Trăng mùa thu thật đẹp. Từ cửa phòng khách mở rộng, bạn nhìn ra thấy con đường Huyền Trân, thấy dòng sông chảy bên dưới, một lúc sau, trăng sáng ngập lên hai bờ sông, dâng cao và tràn qua những mái ngói của ngôi trường, ngôi trường cũng vừa là một tu viện cổ kính.

            Đến 9 giờ, Nga mời mọi người qua phòng tranh. Khi bật đèn sáng lên, những bức tranh hiện ánh màu nước thật là sắc , và trong ánh màu của những bức tranh biểu hiện rõ năng khiếu hội họa của một sinh viên học trường Mỹ Thuật.

            Một giọng vui, lớn trong phong cách đĩnh đạc Nga nói:

-Bây giờ, mình khai mạc phòng tranh với các bạn.

            Các cô vỗ tay khen ngợi. Niềm vui của Oanh, như thể là những hoa trái đầu mùa vừa được hái. Có mười bức tranh được treo trong căn phòng này. Oanh hướng dẫn các cô bạn đi xem tranh, mỗi bức, Oanh để cho các cô thưởng thức, bình phẩm, và nếu cần đến một lời giải thích, Oanh mới lên tiếng.

            Nguyên thay xong cuốn phim, thêm lúc này nữa, anh chụp ảnh cho căn phòng triển lãm tranh của Oanh.

            Tùy theo cách chọn mỗi cô, Nguyên chụp ảnh qua chân dung và bức tranh treo đằng sau. Tiếng bước chân lay động nhẹ nhàng gây nên sự ấm cúng. Rồi sau một lượt xem tranh xong, chiếc bánh sinh nhật được Oanh cắt thật khéo để mời khách.

            Mỗi cô gái dành cho sinh nhật Oanh một câu chuyện. Đây là câu chuyện hội họa về những bức tranh được xem xong bên phòng triễn lãm. Và bây giờ, những câu chuyện này được nói ở phòng khách.

            Những bông hoa Phương vừa nói đến, thật sống động. Nhìn qua các bông hoa, bạn sẽ thấy rằng Phương nhận xét đúng, cái đẹp và cuộc đời Vân Oanh ẩn chìm trong những sắc hoa ấy.

            Khoảng hai tuần sau, có toán ALO mới đến , nhóm của Thụy bốn người được thay phiên. Trưa nắng gắt, đầy bụi, sau chuyến tiếp tế, cả nhóm được trực thăng đón đưa về Biên Hòa. Xuống sân bay ở phi đoàn 229, họ quá giang xe pick up, xuống ở phòng tài chánh để lãnh lương.

            Sau khi nhận lương xong, mỗi người tản mác một nơi, hẹn gặp ở bên đơn vị vào đầu giờ làm việc buổi chiều.

            Số tiền lương của Thụy được ba ngàn hai trăm. Thụy  tính đến tiền nhà thuê, tiền ăn trong tháng, còn lại non một ngàn là tiền tiêu.

            Quán cơm nằm bên dưới, cách cổng chính Quân đoàn hơn trăm thước. Khi bước vào quán, người Thụy đầy bụi ở quần áo và trên chiếc ba lô. Nhưng anh không còn cảm thấy mệt mỏi, vì thế nào sau chuyến công tác cũng được nghỉ xả hơi đôi ba ngày.

            Vừa ngồi xuống ghế, Thụy gọi:

-Cơm dĩa.

-Trứng chiên, hay đồ xào chú.

-Cho chú chung cả hai thứ.

-Nước uống, chú.

-Trà đá, ly lớn nghe.

            Đứa gái nhỏ quay bước. Nơi bàn Thụy ngồi trông ra con đường, nắng bụi, và tiếng động xe cố gây thêm cảm giác buồn  ngủ. Sau bữa ăn, Thụy còn muốn uống cà phê cho được tỉnh táo. Hai tuần đi hành quân, ngày đêm, Thụy chập chờn nghe tiếng súng đạn giao tranh, tiếng súng trọng pháo của bên quân dù và bên Cộng quân, những đêm ngồi trực máy, và những giấc ngủ chập chờn có khi gặp cơn ác mộng, ngay lúc đó, Thụy có cảm tường tôi đang ở một nơi chốn nào xa lạ trong khung cảnh nước độc, rừng thiêng.

            Khi đứa gái mang cơm và nước uống ra, Thụy  gọi thêm một dĩa cơm không để ăn no.

            Cứ vào bữa ăn, Thụy luôn đói, nhờ vậy, anh ăn cảm thấy ngon và ăn được nhiều cơm. Những miếng cơm anh ăn cũng thật thô, và anh ăn trong sự vội vàng, thiếu thốn. Những miếng ăn cũng chằng nhai kỹ, rất có thể sau này, khi tuổi càng lớn , bệnh đau bao từ sẽ gây khó khăn cho anh. Nhưng thậy kệ, anh đang sống với ngày qua ngày, có vậy thôi.

            Sau bữa ăn no, Thụy gọi ly cà phê đá. Không đợi lâu, có cà phê đá Thụy cầm ly uống một ngụm đầy xong đốt điếu thuốc. Khi hít những hơi thuốc của một điếu vừa mới đốt, Thụy hít thật sâu, xong nhả khói ra từ từ, cảm giác lúc ấy, biết bao nhiêu là ý tưởng trộn lẫn cùng giấc mơ làm anh thật sự khoái trá. Như vậy đó, Thụy cho phép mình đã hiểu, và rất đáng được hưởng một cuộc sống.

            Quán ăn đông khách, vì giờ này là cao điểm. Quanh các loại bàn lớn nhỏ bày trong quán, bàn nào cũng có đông lính tráng ngồi ăn.

            Thụy ngồi ở quán cho đến đầu giờ làm việc. Khi trả xong tiền ăn, anh mua thêm gói thuốc trong số tiền thối lại.

            Một người lính nhìn qua khi anh vừa đúng lên và quàng ba lô vào người. Bật chợt, anh thấy kim đồng hồ treo tường chí đến 2 giờ.

            Ra khỏi quán, anh đi về phía cổng, rồi từ cổng đi bộ tới Trung tâm Không trợ nằm ở dãy nhà bên trái.

            Bộ chỉ huy Không trợ nằm dưới hầm, có gắn máy lạnh. Ở đây, có cả một đơn vị Không quân Mỹ làm việc chung, vậy mà, sự cố gắng học Anh ngữ của Thụy với các ông Sĩ quan và lính Mỹ, không được mấy kết quả. Hai năm rồi, bốn kỳ thi Tú Tài đôi, anh vẫn lấy được nổi mảnh  bằng.

            Qua khỏi quầy căng  tin, Thụy rẽ  trái là đến phòng làm việc của ban ALO. Phước đang trực máy, vừa thấy tôi anh đưa tay chào.

-Sao ? người hùng.

            Vừa buột miệng chưởi thề, Thụy tiếp lời:

-Rét quá mày ơi, ngày nào cũng nghe pháo.

-Đám kia đâu ?

-Lãnh lương xong, anh em tản mác. Chắc tụi nó sắp qua.

            Thụy mời Phước điếu thuốc. Đốt lửa xong, Thụy hỏi:

-Có gì lã không ?

-Mày có giấy gọi đi học.

-Lâu chưa ?

-Hai  ngày rồi. Mày lên văn thư gặp trung sĩ Bình.

-Ờ.

            Vừa thấy viên Đại úy trưởng ban vào, Thụy đứng nghiêm, chào kính. Ông hỏi Thụy:

-Mấy anh em kia đâu ?

-Ở bên Không đoàn, chắc sắp qua.

-Anh lãnh lương chưa ?

-Dạ rồi.

            Viên Đại úy nhìn áo quần Thụy mặc khá lôi thôi, ông mỉm cười.

-Sao tình hình trên vùng hành quân sao ?

-Nghe đạn pháo suốt ngày, Đại úy ơi.

-Cho mấy cậu đi theo hành quân cho thấm mùi chiến trận.

-Đại úy, cho tụi em ít ngày nghỉ chứ.

-Cố nhiên.

            Thụy định lấy gói thuốc đưa mời, nhưng thuốc tôi hút loại nặng và rẻ tiền nên thôi. Viên Đại úy ngồi ở bàn làm việc, còn tôi vẫn đứng. Bỗng nhớ về Thụy, ông nói:

-Anh được gọi đi học hoa tiêu.

-Dạ, mới nghe anh Phước nói.

            Với một nụ cười hảo cảm, ông nói với Thụy:

-Anh sắp trở thành hoa tiêu rồi.

            Thụy đáp lời ngay:

-Chưa dám đâu, Đại úy.

-Sao mà chưa được. Anh đi học, chừng hơn một năm là trường.

-Nhưng biết có đậu không. Ở đây, Sĩ quan ALO, ông nào cũng gãy cánh.

            Với cái nhìn trầm lặng, thông cảm, ông nói:

-Tôi hiểu anh có nỗi lo. Nhưng khi đã chọn lựa sự ra đi, nhất quyết anh phải cố gắng thành công.

            Rồi ông bảo Thụy kéo ghế ngồi. Ngồi xuống ghế, Thụy nói lời tâm sự:

-Em vẫn muốn học xong Tú Tài II, rồi xin vào ngành kỹ thuật.

-Tuổi em còn trẻ, trở thành phi công hào hùng hơn.

-Vâng, em cũng có ước mong này, nhưng được trở thành phi công như Đại úy, đâu dễ dàng.

-Không khó lắm đâu. Tùy vào khả năng, sức khỏe của mình khi học bay.

-Đại úy bay đã quá ba ngàn giờ chưa ?

-Chưa tới.

-Ba ngàn giờ, là được mang cánh có râu.

-Đúng rồi anh. Vậy là anh cũng biết qua về hoa tiêu.

            Thụy nói:

-Trước khi học chuyên môn, em có làm việc ở phi đoàn 217 và báo Ly tưởng.

-Anh có viết báo sao ?

-Em viết loại truyện sáng tác thôi.

-Hay  lắm. Rồi nghề bay đem cho anh nhiều cảm hứng viết văn.

-Em viết vui thôi, không thể là nhà văn.

-Anh đọc cuốn Đời phi công chưa ?

-Rồi, Đại úy.

-Và những tiểu thuyết của Saint Exupéry

-Có, em đọc qua bản dịch. Em thích cuốn Bay đêm.

-Anh không đọc được tiếng Pháp ?

-Không đủ sức. Nhưng học chương trình thi, tác giả này em có học.

-Saint Ex, viết truyện rất hay, thơ mộng, lãng mạn, đúng tâm hồn của phi công.

-Saint Ex lâm nạn, chết trong kỳ đệ nhị thế chiến.

-Đúng rồi.

            Bên ngoài, tiếng cười nói ồn ào, và Thụy biết là các bạn trong toán đã tới. Trung úy Ngoạn xuất hiện, ông đứng nghiêm chào kính.

-Sao, khỏe chứ Ngoạn.

-Cám ơn Đại úy.

-Hai cậu sao ?

-Dạ,  cũng  bình thường. Tài và Phú chào xong đáp lời ngay.

            Viên Đại úy nói:

-Chuyến công tác tốt. Tôi để cả toán nghỉ ba ngày rồi trở lại làm việc.

            Thụy để anh em ngồi lại, xin phép viên Đại úy đến phòng văn thư. Vừa thấy anh, trung sĩ Bình cười hỏi:

-Sao, chừng nào bạn khao chúng tôi chầu bia đây.

            Thụy chỉ cười. Bình hỏi lại:

-Sao mà cười trừ.

            Vừa kéo ngăn học, Bình tiếp lời:

-Thôi, để cho bạn đi học ra Sĩ quan rồi về khao nhé.

-Đồng ý.

            Thụy được xem Công điện gọi đi học, danh sách hồm bốn chục người. Tên và cấp bậc của Thụy nằm ở hàng thứ 12.  Thụy còn nhận được thư của em gái Nhi.

-Rồi thủ tục sao, Trung sĩ.

-Về nghỉ ít ngày cho thoải mái, xong trở lại đây nhận giấy tờ đi học.

            Trong phòng văn thư, có  hai người đang chơi cờ. Bên chiếc bàn trong góc, hạ sĩ Phong đang đánh máy giây tờ về các tin tức tình báo, một vài người nữa đang làm việc, nhưng câu chuyện giữa Thụy và các bạn vẫn tiếp nối.

            Bỗng nhiên, Thụy nhận ra thời gian trôi nhanh. Lúc trưa, cùng toán lên trực thăng, từ trên phi cơ nhìn xuống, Thụy trông thấy núi, đồng ruộng, thị trấn Tây Ninh và đường quốc lộ I. Gió tạt  mạnh, tiếng cánh quạt kêu vù vù, ngồi nhìn ra ngoài Thụy nghĩ nhiều đến chiến tranh trong khoảng thời gian hai tuần lễ ở vùng hành quân với Sư đoàn dù, và Thụy đã trực diện, nghe rõ tiếng súng nổ, nhìn thấy những cuộc giao tranh. Vào lúc ấy, Thụy không dám nghĩ đến những câu chuyện chiến tranh thật lãng mạn để kẻ cho Huê nghe (nhưng nếu nàng thích, tôi sẽ kể). Với Thụy, có Huê để mình hiểu thêm đôi chút về một cô gái lạ lùng trong cuộc sống.

            Kim đồng hồ phòng văn thư chỉ bốn giờ. Thụy nói lời chào các bạn, xong trở lại phòng của ban ALO, nhưng thấy vắng chỉ có mình Phước làm việc.

-Chưa về à ?

-Đại úy Luyện đi đâu ?

-Đi họp.

-Thôi, về nghe.

-Ờ.

            Với chiếc ba lô đeo vai, Thụy mở lối cửa sau ra ngoài. Ở trong phòng có máy lạnh, người cảm thấy dễ chịu, ra bên ngoài trời hừng nóng, một lúc sau mới thấy quen mắt cảnh vật.

            Từ khu vực Trung tâm Không ra đến cổng cũng xa, vừa đi, Thụy đảo mắt tìm kiếm xe quá giang nhưng không có xe nào cả.

            Trời bỗng âm u như thể sắp có mưa. Bên kia đường, có chuyến xe khách vừa mới ngừng. Tôi vội băng nhanh qua và lên xe, nhưng rồi xe vẫn chưa chạy ngay. Tôi ngồi dãy ghế giữa, phía ngoài.

            Hai chiếc phi cơ khu trục vừa cất cánh bay lên tiếng động cơ vang giữa vùng trời.

-Chưa chạy sao anh tài ?

-Chưa. Chờ  lấy thêm ít người khách.

            Chiếc ba lô tôi treo trên giá. Và lúc này chờ, tôi mở thư Hiền ra đọc. Nỗi vui đến với tôi ngay những giòng đầu thư, Thúy Hiền báo tin thi đậu được bằng bán phần, rồi sau đó em tôi kể chuyện gia đình, gần cuối thư, Thúy Hiền cho tôi biết cô được dự ngày vui sinh nhật của chị Thiên Nga bạn gái anh Nguyên. Bỗng dưng lòng tôi bâng khuâng, vì không có được ảnh của Thiên Nga. Vậy là, từ kỳ nghỉ phép hồi năm ngoái đến giờ, tôi chỉ nghe tên người con gái xứ Quảng, và hình dung nàng qua mỗi câu chuyện, qua những hàng chữ viết của người thân trên dòng thư. Thúy Hiền em tôi nói, chị Thiên Nga bằng lòng cho gởi mấy tấm ảnh chị đến cho tôi, nhưng vì hay tin tôi sắp đi phép nên em gái tôi muốn dành cho tôi một sự ngạc nhiên, vào lúc ấy, không biết tôi sẽ nghĩ như thế nào, hay  cảm nhận ra sao sau một thời gian lâu chỉ hình dung nàng qua trí tưởng.

            Có bốn người khách tới một lượt , họ lên ngồi ghế sau. Xe hàng nổ máy trở lại, từ từ  lăn bánh. Tôi gấp lá thư của Thúy Hiền bỏ vào túi áo trên.

            Ngồi bên cửa xe tôi yên lặng nhìn ra ngoài. Ý nghĩ về một nơi chốn xa lạ, về một cuộc chiến xảy ra nơi ấy, mà tôi đã có mặt cách đây hai tuần, và giờ đây, trên chuyến xe hàng, tôi đang ở trên con đường đi đến một thành phố. Rồi, tôi sẽ thấy lại những khung sinh hoạt bình thường ở Sài Gòn như trước khi đi. Rồi, tôi sẽ mau chóng quên những ngày lửa đạn vừa mới qua.

            Sài Gòn, trời đang mưa. Xuống xe ở bên hông nhà thờ chợ Thị Nghè, tôi đến trạm xe buýt đứng núp mưa, đồng thời, mở ba lô lấy chiếc áo mưa ra mặc.

            Trời mưa nặng hạt , rồi tạnh. Về tới chỗ nhà trọ, hầu như mọi việc tôi cùng làm một lúc cho nhanh chóng, sau đó, tôi trút bỏ hết cảm giác nẳng nề của chuyến đi khi đã giặt, phơi xong hết quần áo, rồi bước vào phòng tắm.

            Mỗi giờ, thời gian lại chuyển dịch tôi qua một ví trí khác. Bên ngoài, trời chưa tối hẳn. Từ trên gác, tôi nhanh chân qua lối cầu thang đi xuống nhà, tay cầm sẵn tiền đưa cho bà chủ.

-Cám ơn cậu. Hai tuần rồi, cậu đi đâu xa ?

-Tôi đi công tác.

-Có một người tới tìm cậu.

-Ai vậy ?

-Tôi nhớ anh này có đến đây một lần.

-Anh ta có nhắn lại gì không ?

-Không. Anh hỏi cậu, tôi nói đi vắng, xong là anh lên Honda đi liền.

            Thụy  đoán nghĩ chắc là Hoàng.

-Cậu ra ngoài ăn cơm ?

-Ờ cũng đi ăn, rồi xuống phố.

-Tôi quí cậu làm nghe. Thật là một người đàng hoàng.

-Cám ơn bà. Cứ đến đầu tháng, tôi lo trả tiền nhà cho bà kẻo sợ bà lo lắng.

-Không, không sao đâu.

-Sao, lâu nay, anh con trai của bà có thư về không.

-Có, này cậu. Có ảnh của em chụp ở trường, tôi đưa cho cậu xem.

            Bà chủ nhà đi lấy thư  đưa cho Thụy đọc. Thụy chỉ đọc qua, xem sơ mấy bức ảnh rồi trả lại cho bà.

            Hoàn toàn, lúc này anh không nghĩ đến tương lai của mình.

            Vừa bước chân ra tới đầu đường, bất chợt tôi có ý nghĩ hỏi mình sao lâu nay, không tìm sắm một xe đạp để đi đây, đi đó. Chưa tìm ra cách giải quyết, mưa ào xuống.

            Tới mười giờ đêm, tiệc sinh nhật vãn. Chỉ còn Nguyên và Oanh ở lại dọn dẹp bàn ghế, ly tách, và dĩa giấy. Những phần ăn còn dư cũng được đem cất. Mỗi cô , người nào cũng có một phần quà mang về nhà, vì các món ăn và bánh trái hôm nay làm khá nhiều.

             Sauk hi dọn xong, Oanh  để Nguyên lại một mình, nàng qua bên bà Huyên chủ nhà. Bà Huyên đón nàng, vừa vào nhà Oanh để nguyên chiếc khay xuống, rồi theo ý bà Oanh ngồi xuống chuyện trò.

            Oanh làm bà Huyên vui qua những câu chuyện. Chừng sau nửa giờ, nàng đứng dậy xin kiếu từ. Bà Huyên tiễn nàng đi ra lối cửa trước, dừng lại bên thềm mái hiên.

            Trăng sáng đẹp lạ lùng. Bây giờ, Oanh mặc quần áo nhẹ trong nhà, nàng cảm thấy gió đêm hơi lạnh nhưng cũng hay, lúc đi, nàng đã quấn khăn quàng ở cổ.

            Cửa phòng khách vẫn còn mở, Nguyên đang ngồi đọc báo. Oanh vào nhà, vừa đóng cửa lại, nànglên tiếng hỏi Nguyên:

-Anh uống cà phê không ?

-Em không sợ mất ngủ, thì uống.

            Oanh nói:

-Em đi làm cà phê.

            Nguyên đọc báo. Cà phê, Oanh chỉ pha một phin, với bình thủy nước sôi vừa mới nấu xong.

            Oanh hỏi:

-Sao, anh giúp em cả ngày nay, mệt không ?

-Có em, việc gì anh cũng làm tốt.

-Thật không ?

            Hai người bên nhau ngồi chung ở chiếc ghế lớn. Nguyên ôm Oanh trong cánh tay, vừa vuốt tóc nàng. Hai người đang chờ cà phê chảy xuống ly.

-Ngày mai Tổng thống ra thăm Sư đoàn.

-Ông có ghé Huế không ?

-Không, ông chỉ thăm các đơn vị rồi về lại Sài Gòn.

-Có thăm Trung đoàn anh không ?

-Có chứ.

            Nguyên hôn mái tóc, hôn xuống cánh tay để trần của Oanh anh cảm thấy dễ chịu, nhẹ nhàng với mùi vị trái cây nơi da thịt người yêu.

            Nguyên nói:

-Rồi em sẽ bắt đầu thấy hăng hái, yêu thích chuyện học hành.

-Anh mượn một số cours năm học đầu cho em.

            Nguyên nói:

-Thụy sẽ gởi cho em một số sách văn học em cần.

-Sách dành cho Đại Học.

-Ở trường Văn khoa Sài Gòn, có một số bài giảng được in thành sách.

            Oanh chợt mỉm cười, nói với Nguyên:

-Một mình em mà đến hai người săn sóc.

-Chẳng phải, em sắp là chị dâu của Thụy đó sao ?

            Oanh hỏi:

-Rồi đến lúc nào Oanh  mới về phép.

-Có lẽ vào tháng tới.

-Vậy anh viết thư nhắc Oanh mua sách Đại học cho em.

-Ngoài sách ra, em cần gì nữa không ?

            Oanh chỉ nói:

-Em cũng rất thích học. Nhưng học Đại học, đâu có dễ dàng.

-Em nghĩ đúng.

-Tại sao, anh không muốn học nữa.

            Im lặng, một lúc sau Nguyên nói:

-Anh không duyên nợ với khoa bảng. Năm lên Đại Học, anh thi vào trường Sư phạm đậu đến hạng nhì, nhưng vào vấn đáp bị đánh rớt. Anh có thể học ở Sư phạm, nhưng học không có học bổng, nên anh bỏ, qua học Văn khoa, ở khóa nhì, anh đậu viết, nhưng rồi rớt vấn đáp. Thực ra, lúc ấy đừng xảy ra biến cố chính trị, có thể anh đậu được rồi....

            Oanh nói:

-Mới rớt một năm thôi, anh đã nản chí.

-Anh không nản, nhưng duyên nợ với sách đèn, anh không có.

-Anh buồn lắm phải không ?

-Có buồn chứ. Nhưng bây giờ, em đã học thay cho anh.

-Em sẽ cố gắng.

-Và rất ngoan ngoãn nữa, phải không.

-Không đâu, em dữ lắm, Oanh cười ngước mắt nhìn Nguyên.

            Rồi nàng hé môi để cho Nguyên hôn nàng.

            Khi xuống tới Sài Gòn, Thụy đến nhà dì Hồng. Trong nhà, ai cũng ngạc nhiên vì cả mấy tuần nay Thụy không đến. Thụy không nói về chuyến đi công tác, mà chỉ trò chuyện bình thường về công việc đang làm ở đơn vị.

            Có tiếng chuông, Thúy ra mở cửa, Lăng đến.

-Ủa, anh đi đâu mấy tuần nay ?

-Đi theo hành quân với Sư đoàn dù.

            Ngay lúc ấy, Thụy nhớ ra người khách đến tìm gặp  Thụy là Lăng, không phải bạn Hoàng như dự đoán.

 

 

                                                                    XII

 

 

           

            Vừa tới ngày nhận giấy tờ đi học, lúc tìm gặp anh em trong đơn vị nói lời chào từ giã, bất ngờ,Thụy  được hay biết hôm nay là ngày kỷ niệm bốn năm thành lập đơn vị biệt phái. Và, tiệc liên hoan mừng ngày này được tổ chức lúc sáu giờ chiều.

            Sau bữa ăn trưa,Thụy đón xe lam ra Tam Hiệp thăm gia đình chị Số. Tới khu chợ, tôi thấy chị ngồi ở sạp hàng, hai chị em nói chuyện, và đợi chừng nửa giờ sau có cháu gái lớn ra trông hàng, chị đưa tôi về nhà. Lối đường từ chợ đến nhà chị ở xa hơn cây số, nhưng đường đi có bóng mát của hàng cây nên không cảm thấy mệt nhọc.

            Đã vắng hơn bốn tháng, nay Thụy mới trở lại nhà chị. Có một vài thay đổi nho nhỏ, bên phía trái cạnh vườn, chị làm  hai cái chuồng cao nuôi chim bồ câu. Từ phía đường trên có tiếng chó sủa, vào sân, tôi thật vui mắt được nhìn bầy gà của chị đang mổ thóc, và nghe tiếng gà mẹ, gà con ríu rít bên nhau mà nhớ đến làng quê trong thuở thanh bình. Nhớ rõ lần đầu cách đây bốn năm, Thụy và anh Nguyên từ Sài Gòn tìm lên thăm chị. Rồi, Thụy làm việc ở Biên Hòa, rất nhiều lần chị mongThụy  đến nhà chị ở cho có tình chị em, cũng gần chỗ làm việc (mà em có ngại lắm, em chỉ vẻ cho cháu học giúp chị) nhưng thực lòng, Thụy không muốn có điều kiện như thế, Thụy vẫn luôn nhớ đến chị, có dịp đến thăm, và tự nhủ rằng, chị là người nhân hậu, rất thân yêu trong gia đình, giòng họ, và riêng với tâm hồn anh nữa.

-Cháu chào cậu.

            Ở bàn học bên cửa sổ, cháu Hùng con trai chị vừa thấyThụy đứng dậy chào.

-Hôm nay cháu nghỉ.

-Dạ không, cháu học lớp chiều.

            Hai chị em ngồi ở bàn khách, trông ra cửa chính mở rộng. Chị Số hỏi, vừa rót trà nóng ra ly.

-Cậu có về phép thăm nhà không ?

-Em có về năm ngoái.

-Chú thím, mấy em khỏe không ?

-Ngoài nhà bình thường. Em cũng có ra làng quê.

-Chị cứ trông về thăm một lần mà chưa đi được.

            Thụy  nhìn gương mặt người chị, đôi mắt to, vẻ lặng buồn như chỉ gửi gắm trong câu nói.

-Em thăm chị lần này, có lẽ lâu nữa mới gặp lại.

-Cậu thuyên chuyển đi đâu ? Về ngoài Trung hay lên cao nguyên.

-Em đi học.

            Chị Số nhìn lại người em trai. Khi Thụy rút điếu thuốc trong bao, chị để anh châm lửa hút, và rồi không đợi chị hỏi, Thụy giải thích cho chị hay. Niềm vui dậy dàng làm sáng khuôn mặt chị.

-Vậy đến chừng nào em đi qua Mỹ ?

-Chưa đâu, đơn em xin đi học mới được chấp thuận.

            Thụy cũng nói cho người chị hay về điều kiện được cho đi học hoa tiêu là phải có sức khỏe tốt. Thụy  xong được giai đoạn này, trong kỳ khám sức khỏe vừa qua, phần nào anh cũng tốt, chỉ có mắt hơi yếu bị xếp loại A, nghĩa là rồi đây chỉ học về ngành trực thăng.

            Bữa ăn trưa, nhà chỉ có mấy người. Anh Nghi làm việc ở ngành kiểm lâm, trưa ở lại sở. Thụy đã ăn ở quán trước khi đến tìm chị, nhưng rồi cũng cầm đũa cho chị vui. Có món bún cá thật ngon, Thụy ăn hết tô, và gắng thêm một chén cơm.

            Chị Số hơi thất vọng khi thấy anh ăn ít, sớm ngừng đũa. Nhưng rồi, chị vui trở lại, và trong mắt chị ánh lên một niềm vui, sung sướng có được một người em nay mai sẽ đi học ở Hoa Kỳ.

            Khi được mẹ cho biết cậu đi học lái máy bay, cháu Hùng cứ nhìn anh, cắp mắt sáng lên có vẻ thán phục. Thụy  đọc được trong mắt đứa cháu những ý nghĩ và những ước mong của cháu trong sự tưởng tượng về một người cậu.

            Bữa ăn qua mau, Thụy lên tấm phản nằm nghỉ đọc báo, còn cháu Hùng cũng đã vội thay quần áo vì sắp đến giờ đi học.

            Trước khi đi, cháu Hùng lên tiếng chào Thụy, anh đáp lời vừa đưa mắt nhìn đứa cháu. Đợi cháu ra ngoài, Thụy mới hỏi:

-Cháu học hành khá không chị ?

-Cháu học khá, cậu.

-Mong cháu học khá, Thụy nói. Rồi tiếp lời: Bên giòng họ mình không có khoa bảng. Ai cũng chăm chỉ, cần cù, nhưng rồi đường học cũng không có ai đi được xa. Thế hệ anh, chị em mình qua rồi, mong đến các cháu thôi.

-Chị cũng thấy vậy. Nhưng dù sao, trong gia đình mình tình anh chị em, vẫn còn máu mủ, giòng họ.

-Chị ra quán bây giờ ?

-Không, chị làm việc nhà. Cậu nằm nghỉ đi.      

            Thụy  qua tấm phản, ngả người xuống nằm đọc báo. Một lúc anh thiếp ngủ, rồi thức dậy với một cảm giác xa lạ, mơ hồ. Khi nhìn qua kệ sách, Thụy lấy làm lạ có mấy cuốn truyện dịch, Thụy nghĩ chắc không phải của cháu Hùng mà là của anh Nghi. Anh Nghi cũng rất ghiền tiểu thuyết, mấy lần trước ghé thăm, ở lại một hai tối, trời có trăng sáng, hai anh em ngồi uống trà ngoài sân trò chuyện về thơ văn rất thú vị. Và trong các nhà thơ xưa, Nguyễn Bính là thi sĩ anh rất ngưỡng mộ.

            Ở trên kệ không có sách truyện kiếm hiệp của Kim Dung, nhưng Thụy biết anh Nghi đã đọc từng kỳ tên nhật báo và có trí nhớ rất tốt. Những truyện Kim Dung anh đã đọc, ngoài trí nhớ ra, anh có những cách mô tả  nhân vật rất ấn tượng, hấp dẫn và những lời bình luận cũng độc đáo. Thụy có đọc hai cuốn Cô gái Đồ Long và Tiếu Ngạo Giang Hồ. Hai nhân vật nữ trong hai bộ truyện này Thụy rất nhớ, rất vọng tưởng là Chu Chỉ Nhược và Nhạc Linh San. Và, sau hai nhân vật này , có một nhân vật phản ảnh rõ tính cách người đời trong xã hội là Nhạc Bất Quần.

            Thụy rời tấm phản, tới kệ sách, nhìn lướt qua một lúc, xong chọn cuốn Giã Từ Vũ Khí là cuốn tôi luôn bị cuốn hút với nhiều lần đọc.

            Thụy trở lại tấm phản, nằm xuống mở rộng cuốn sách. Nhưng anh  không đọc từ đầu cuốn, mà lướt qua nhiều chương, xem chương nào thích thì dừng lại đọc.

            Đến chương XXIII, Thụy cảm thấy muốn đọc. Henry hết kỳ nghỉ bệnh trở ra lại chiến trường. Trước khi đi, anh gặp những người trong bệnh viện nói lời chào tạm biệt. Khung cảnh một buổi chiều thật buồn, cảm động.      Lúc sáng nay, nhận giấy tờ xong Thụy đi gặp vị Trung Tá Giám đốc, các Sĩ quan, các anh em Hạ sĩ quan, rồi các bạn lính như anh để nói lời chào từ giã, bỗng dưng tôi có cảm tưởng những kỷ niệm về một đời lính của mình đã thực sự hình thành và làm anh xúc động. Mới ba năm lính, vậy mà Thụy thấy thời gian như đã lâu. Nhớ lại buồi đầu tiên, Thụy và người bạn cùng khóa đến trình diện làm việc ở phi đoàn 217. Trong phi đoàn, hầu hết là các Sĩ quan phi công, hạ sĩ quan và lính chỉ khoảng mười người. Thụy có chức vụ là thư ký hành quân, buổi sáng lên ca, Thụy gọi điện thoại qua Đài khí tượng xin tin tức thời tiết để ghi lên bảng, sau đó, ngồi ở bàn làm những việc linh tinh về giấy tờ, vừa nghe điện thoại. Giờ nghỉ trưa, chiều, đi ăn xongThụy  trở lại làm việc, đến tối , một mình với chiếc ghế bố ở  nơi phòng trực. Về  đêm, rất thường xuyên có những phi vụ tản thương ở chiến trường. Vào ngày đầu tuần và đầu tháng Thụy phải vẽ biểu đồ hoạt động của phi đoàn, rồi làm tính cộng số giờ bay của mỗi phi công trong tháng. Trong cuốn sổ bay hàng ngày, các phi công có phi vụ sau khi hoàn tất, thường ghi giờ bay vào sổ ở hai cột, cột hàng đầu là giờ cất cánh, cột hàng nhì là giờ đáp khi trở về, hàng cột  thứ ba là ghi tọa độ và mô tả mục tiêu. Khi tổng kết xong giờ bay, Thụy làm trên một tờ giấy trắng viết tay để trình chi vị Đại úy phi đoàn phó vừa kiêm nhiệm Trưởng phòng hành quân. Thụy chỉ làm một thời gian ngắn, rồi đi. Nhưng với đơn vị đầu tiên này đã cho anh một chút hương hào hoa của người lính không quân. Ở phi đoàn, các sĩ quan trẻ rất vui tính, người nào cũng có thiện cảm với cấp dưới và khi thấy trong lúc rảnh, Thụy đem sách học, ai cũng khuyến khích. Ngày ra đi lính, tôi thấy tương lai mình buồn bã, nhưng rồi sau ba tháng học căn bản quân sự ở quân trường Nha Trang xong về đơn vị này công việc thật nhàn hạ nên anh cảm thấy dễ chịu, và cầm chắc chữ thọ cho số mạng của mình. Ngoài công việc ra, đôi lúc, anh cũng có đôi chút nghĩ ngợi, suy tư về cuộc chiến tranh. Mỗi ngày, từ sáng đến tối khuya, phi đoàn có rất nhiều phi vụ tiếp tế, tản thương, công tác, biệt phái. Khi các phi công trở về sau một phi vụ hoàn tất, nhìn hình ảnh họ qua bộ quần áo bay màu lam, màu đen, hay màu da cam, Thụy có ngay một ý tưởng về họ là người hiệp sĩ của không trung.  Và tiếp đó, anh liên tưởng những trang sách tả các những chuyến bay chở thư, những chuyến bay đêm, những chuyến bay hành quân của nhà văn phi công Pháp Saint Exupéry. Vào một tối lên phiên trực,Thụy được Trung úy Thạnh trưởng toán cho anh theo một chuyến bay đêm đi tản thương ở Hậu Nghĩa với hai phi công trong phi đoàn. Bãi đậu phi cơ của phi đoàn nằm xa doanh trại chừng hai trăm mét, lúc  lên phi cơ, anh ngồi phía sau với một cơ khí viên, đội mũ bay, phía trước là hai ghế ngồi của phi công bên trái là người chánh, bên phải là người phụ. Sau những vòng quay rất nhanh của cánh quạt, phi cơ cất cánh. Từ chỗ ngồi nhìn ra khoang cửa, lúc phi cơ dần dần lên cao Thụy trông thấy quang cảnh Sài Gòn bừng sáng ánh đèn. Nhưng chỉ ít phút sau, phi cơ bay vào trong đêm tối, và lúc đến vùng hành quân Thụy trông thấy những tia sáng của lửa đạn và có cuộc chạm súng đang diễn ra. Vừa liên lạc với quân bạn, phi cơ vừa giảm độ cao và đáp xuống một trảng cỏ. Gió cánh quạt vẫn quay đều làm tung những đám cỏ ở khu tiền đồn , ngay lúc đó, bốn người lính chuyển hai băng ca của hai thương binh lên máy bay. Trời tối, Thụy không nhìn rõ mặt họ, nhưng nhận ra các vết thương đã được băng bó tạm.

            Từ tiền đồn về quân y viện Cộng hòa khoảng nửa giờ bay. Sau mười phút đổ thương binh, trực thăng lại cất cánh. và trước khi trở lại phi đoàn, hai phi công bay mấy vòng bay trên thành phố Sài Gòn, lúc này,Thụy  được thỏa mắt nhìn thấy một thành phố bừng sáng như ngày hội.

            Thụy về viết một đoản văn về chuyến bay đêm gởi báo Lý tưởng và được chọn đăng. Rồi anh gởi thêm ít truyện ngắn, các sáng tác của anh được chúy ý, và đến một ngày Thụy được kéo về báo Lý tưởng làm việc với tính cách phóng viên cho tờ báo. Thời gian này, Thụy đi công tác luôn, chuyến công tác nào anh cũng được lên máy bay. Những gì đã qua, đó là những gì vẫn còn lại (rồi sẽ theo anh).

            Vừa ra khỏi bệnh viện, Henry bước vào quán cà phê . Bên ngoài, trời đêm xuống lạnh lẽo, nhiều sương mù. Henry ngồi uống cà phê, lúc trông thấy Cathérine đến, anh đứng lên gõ vào cửa, nàng quay đầu, trông thấy anh nàng mỉm cười.

            Henry rời khỏi quán, bước ra ngoài và cùng với người yêu đi chơi trên phố. Đây cũng là một buổi tối cuối cùng, rồi hai người từ biệt. Rất có thể, họ sẽ gặp lại, và cũng có thể là không. Chiến tranh, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đang diễn ra, Cathérine là người Anh làm nữ  y tá phục vụ trong bệnh viện của người Anh, còn Henry là người Mỹ phục vụ trong đội quân Hồng thập tự , cả hai đang ở mặt trận trên đất Ý.

            Về đêm,  đường phố lặng yên, vắng bóng người. Những bước đi của hai người bên nhau là những lời tâm tình, những ước mơ, những điều muốn nói, có vẻ như chỉ mong tìm nguồn hơi ấm, một chỗ ẩn núp, vì trên mỗi  quãng phố họ đi qua trời đang lạnh, rất tối, và đang mưa.

            Một lúc sau, họ đón xe ngựa trở về khách sạn trước mặt nhà ga nghỉ ngơi, ăn bữa cơm tối, trước khi chia tay. Suốt buổi ăn, Cathérine vắt chiếc áo của Henry trên vai nàng. Đây là kỷ niệm giản dị và chân thực. Xe lửa từ Turin sẽ đến ga vào lúc mười hai giờ đêm. Tới giờ đó, Henry ra đi và chuyến tàu sẽ đưa anh đến đơn vị đang ở ngoài mặt trận.

            Lúc hai người chia tay, trời mưa nặng hạt. Cathérine không vào sân ga để tiễn người yêu, chiếc xe ngựa đưa nàng trở về bệnh viện, ngồi trên xe, nàng ngoái đầu nhìn lại bóng dáng chàng.

             Còn một chương nữa kết thúc phần thứ ba của tác phẩm nhưng Thụy ngừng hẳn, không đọc thêm,  trong khoảnh khắc này, những cảm xúc trong buổi tối ấy đã làm Thụy lây lất nghĩ đến chiến tranh, đến các cô gái anh đã quen hoặc một đôi lần gặp trong những ngày tháng qua của tuổi trẻ. Và, không có một ai như  Cathérine cả. Thụy nghĩ đến Ninh Hà đến những người bạn đã quen biết nàng, trong đó có Thụy nữa. Sau cùng, Thụy nhớ đếnVân Oanh. Trong sự nhớ nghĩ đến nàng, Thụy trở lại những ngày nghỉ phép năm trước, đó cũng là hạnh phúc tưởng như mình đã tìm thấy.

            Chị Số ở nhà dưới đi lên, lúc đặt mâm ăn xuống bàn, chị lên tiếng:

-Có chè ngon, em dậy ăn.

            Thụy  ngửi được hương vị thơm của món chè, liền ngồi dậy, đem cuốn sách sang chỗ kệ, để vào chỗ cũ.

-Em ở đây chơi với gia đình chị ít ngày.

-Em không có ngày nghỉ phép.

-Vậy biết đến lúc nào gặp lại em.

-Rồi cũng có ngày chị ạ.

-Ăn chè đi em.

            Chị Số dọn mâm chè đến sáu chén. Thụy cầm muỗng múc chè ăn. Chè ngọt thanh, những hạt đậu thật mềm, vừa dẽo. Vừa ăn, Thụy  thưởng thức món chè cùng với khung cảnh làng quê ở nơi đây. Bên ngoài, trời chiều thật dễ chịu.

-Lúc này chị buôn bán khá không ?

-Cũng tạm cậu.

-Em thấy cuộc sống yên ổn của chị ở vùng quê em rất là thích.

-Rồi ít năm nữa thôi, cậu có gia đình.

-Chưa đâu chị ạ.

            Ngon miệng, Thụy ăn thêm chén nữa. Người chị cảm thấy vui, hỏi tôi thêm nhiều chuyện. Thụy hết sức hạnh phúc được nhìn và nghe tiếng chị nói. Bằng một giọng hơi nặng, nhưng rõ ràng, chị Số kể lại những năm tháng rời xa Quảng Trị, vào sống ở Huế rồi  lấy chồng, ít năm sau đi theo chồng vào miền Nam. Từ thuở ấy, cái tuổi con gái lớn lên và đi xa gia đình, đã gần mười năm nay chị chưa có dịp về thăm làng quê nội ngoại ở Quảng Trị. Trong các chú, các cô, ba Thụy rất được chị quí trọng. Với ba anh, ông cũng không chỉ coi chị là cháu mà còn là đứa con ruột thịt.

            Ngày xa ấy, Thụy chỉ gặp chị một đôi lần, đến bây giờ, gặp lại lòng anh trở nên thân thiết hơn. Thụy có anh trai và em gái. Cả hai anh đều lấy làm thích, nhưng vẫn còn thiếu, ấy là anh cũng rất cần có một người chị. Bây giờ, anh có thể nghĩ rằng, chị Số là người chị ruột thịt. Thụy thích có được một người chị để được nhớ nghĩ tới và mong mỏi tin tức khi ở xa. Và có được người chị, ở xa về với gia đình, thì nhà người chị là nơi trước tiên mình tìm thăm, đến đó, mình cảm thấy vui được chuyện trò, và nếu lúc mình đến chị vắng nhà, mình sẽ giúp cho chị công việc gánh nước, bổ củi, để khi chị còn lo buôn bán ngoài chợ khỏi phải bỏ công làm thêm việc nhà. Và rồi, buổi chiều hôm ấy chị em gặp lại nhau, cùng nhau vui với bữa cơm trong gia đình. Tối đến, thời gian thư thả tiếng chuyện trò vang âm cả một vùng làng quê ở trong trí nhớ cũng như bên ngoài của cuộc đời.

            Năm giờ chiều, Thụy chào chị tôi để đi. Chị Số đi theo tiễn anh ra lối cổng, dừng lại đó, Thụy nhìn chị trên gương mặt buồn và đôi mắt mở to, lúc ấy, chị đưa tay lên quệt mấy giọt nước mắt.

-Em cám ơn chị. Đi xa em nhớ đến chị và các cháu luôn.

-Cậu nhớ viết thư cho chị.

-Em nhớ.

            Thụy dời bước, không ngoái đầu lại. Dưới bóng im con đường quê Thụy bước thanh thản, ra đến bến xe gần chợ, anh vừa gặp kịp chuyến xe lam đi Biên Hòa.     

            Khoảng đường từ Tam Hiệp lên Biên Hòa chừng mười cây số. Thụy ngồi dãy ghế bên trái, chỗ phía ngoài cạnh bậc thang lên xuống, đầu quay nhìn những cảnh vật đằng sau mỗi khi xe lướt qua. Trời chiều bâng khuâng trong nắng ấm. Thụy không nhận ra một quang cảnh xa lạ, và cũng chẳng thấy nó quá thân thuộc với mình. Đã qua hơn một năm Thụy đến làm việc ở thị trấn này, chừng đó không lâu, nhưng rồi, cuộc sống của Thụy ít nhiều cũng có sự gắn bó nên đôi lúc nhận ra vẻ thân tình của đời sống, Thụy thật sự bằng lòng, chẳng đòi hỏi cái gì cao hơn, hay một ước vọng gì lớn hơn.

            Thực lòng, Thụy không mấy vui về chuyện được đi học lớp sĩ quan ngành hoa tiêu. Điều ước của anh là dứt khoát lấy cho được mảnh bằng tốt nghiệp trung học, xong việc này là tôi trả dứt món nợ. Thụy ước mong có tấm bằng này là để giải tỏa mọi mặc cảm tâm lý về chuyện thi cử đã dồn đọng từ nhiều năm tháng qua. Khi có được tấm bằng này, Thụy có thể xin đi học khóa Sĩ quan kỹ thuật ra trường được mang cấp bậc Thiếu úy làm việc dưới đất, có đồng lương kha khá để có thể nghĩ tới được một mái ấm gia đình. Nhưng đây cũng chưa hẳn là điều ước mong thực sự của Thụy điều ước thực sự là Thụy trả xong món nợ học hành thi cử để tự do theo con đường văn nghệ, một con đường viết văn tôi đang đi và luôn ấp ủ bên mình.

            Khi có được một tâm hồn tự do, phong phú, Thụy sẽ viết văn hay và tin tưởng vào năng khiếu, vào sự sáng tạo của mình và luôn luôn trong mọi tình huống là nhìn về phía trước. Ở đây, trong cái nhìn này, là sự cố gắng khám phá những bí ẩn của con người trong văn chương. Tôi sẽ không đi tìm sự linh diệu, huyền bí về con người trong đức tin của tôn giáo, mà tôi chỉ mong đạt tới được con người bằng giá trị nhân bản của hiện sinh. Và sau cùng, những nhân vật trong tiểu thuyết tôi tìm kiếm, không là toàn thể nhưng có được tính cách biểu tượng. Mới ít năm trên đường văn nghệ, nhưng tôi cũng nhận ra sự bộc phát của riêng mình, đồng thời, có một ý niệm về bản sắc của văn chương miền Nam từ sau ngày chia đôi đất nước. Theo cái nhìn chung, thời của văn chương tiền chiến và văn chương kháng chiến đã qua, được đem vào văn học sử một cách trang trọng. Nhà trường vẫn cất giữ những sách này trong thư viện, độc giả bên ngoài  vẫn đọc sách, và các tác phẩm cũ vẫn làm họ yêu thích, nhưng dù vậy, nó đã không còn nằm trong luồng gió mới của miền Nam. Từ ảnh hưởng lớn lao của văn chương hiện sinh, thế hệ mới của tuổi trẻ đã chuyển dòng, khởi sự cho miền Nam một cách viết mới, và cách viết này được có cảm hứng từ những suy nghĩ mới. Nhóm Sáng Tạo là tiền phong, nhóm này  tuy không nhiều người, nhưng gây nên được ngọn lửa, thổi bùng cháy sức sáng tạo ảnh hưởng lớn cho toàn cõi văn học miền Nam. Khi khởi viết những truyện ngắn đầu tiên, tôi đã nương nhờ theo cách viết của nhóm nhà văn này, và càng viết, tôi nhận ra mình có thêm cảm xúc mới, cái nhìn mới, nhờ đó chữ nghĩa trở nên vừa lạ lùng, vừa trong sáng.

            Nhưng theo tôi, gió mới trong văn học miền Nam chỉ ảnh hường nhất thời. Sau những mới lạ ban đầu trong cách viết mới, hầu hết các nhà văn tiên phong đã dừng lại, không đi xa nữa. Tại sao ? Nguyên do chính, vì những cái vốn sống, vốn kiến thức của họ chỉ đến tầm mức trung bình. Có hai hình ảnh nhà văn ở miền Nam: nhà văn tự học, nhà văn có bằng cấp. Ở các nhà văn tự học, thường là có năng khiếu đặc biệt về sáng tác, về sự cảm thụ , nhưng dễ chết non, vì rằng,  ở buổi đầu họ viết hay đều là những dạng hồi ức, tự truyện, khi đến giai đoạn trưởng thành của tiểu thuyết được ví như  dòng sông ra đến biển, thì các nhà văn này không thể viết tác phẩm lớn có bề dày cả hình thức, nội dung, vì rằng, họ thiếu kiến thức học vấn, thiếu cả kinh nghiệm sống, đồng thời điểm quan trọng nhất là đọc. Sự phát triển trong việc đọc là tìm hiểu hiểu văn chương nước ngoài, sự kiện này, các nhà văn tự học do thiếu trình độ ngoại ngữ, và ở miền Nam còn quá nhiều sách dịch. Đó , xem ra, là một bước cản rất lớn hầu như rất ít có nhà văn tự học nào có đủ khả năng vượt nổi.  Nhà văn văn thuộc lớp có học, có bằng cấp, thì những tác phẩm của họ viết ra lại nhiều  phần khó hiểu. Những nhà văn này có thể đem lại cho độc giả sự tin tưởng về cái sở học của mình ở cách viết đúng câu, đúng văn phạm, nhưng không tạo cho họ những hứng thú trong một bài thơ, một truyện ngắn có tính cách sáng tạo, vì rằng sự vắng bóng cảm xúc, đến cả đời sống thực cần thiết cho kinh nghiệm. Ở lớp nhà văn có học, hiểu rộng trên sách vở về triết lý hiện sinh nhưng không biểu hiện được con người hiện sinh trong cuộc sống qua tác phẩm của mình. Nguyễn Du không là một nhà văn, nhà thơ của thuyết hiện sinh , nhưng truyện Kiều ông viết là một tác phẩm hiện sinh đặc sắc, toàn diện.

            Tôi luôn có tâm niệm muốn đi đúng con đường văn nghệ, và chân thực với mình, nên luôn luôn tôi tự đo lường khả năng của mình. Để đi được xa, trước tiên tôi cần kiến thức, đó là sức đọc. Tôi chịu khó, cốn gắng đọc. Ít ra, mỗi nhà văn, tôi phải tìm ra một cuốn đặc sắc để đọc. Với vốn đọc nhiều, tôi tin rằng, mình sẽ nghĩ ra được một cách viết. Tôi viết những gì tôi hiểu được, không làm dáng trí thức để viết những điều mà mình không hiểu. Trong những câu danh ngôn, tôi có được đọc câu của nhà văn Boileau, ông nói rằng, điều gì mình hiểu  thì sẽ diễn đạt ra rõ ràng. Tôi cũng không nên viết lập lại những khuôn sáo của người khác.Tôi chỉ nên viết, ước ao viết ra được những gì chân thực, dễ hiểu, đầy cảm xúc, và phải có một kỹ thuật văn chương về cả hai mặt bố cục và bút pháp. Khi đạt điều này, tôi đi được một mình. Không có nghĩa, trên con đường độc đạo, chỉ riêng mình tôi đang đi, mà thực ra trong cái bóng của tôi có sự hiện diện của một người thầy. Người thầy của tôi là tác giả và những tác phẩm mà tôi vừa yêu thích, vừa khám phá thấy. Nhờ vào người thầy mà tôi chọn như là định mệnh, tôi tạo được cho tôi một sự đích thực của riêng mình.

            Tôi đang ở tuổi hai mươi, cùng lứa tuổi của tôi, có rất nhiều anh em cũng  làm văn nghệ, sáng tác thơ văn. Những anh em này là học sinh, sinh viên, và đa phần do tình hình chiến tranh, những người trẻ này đã mặc áo lính. Tôi đang tìm đọc những tác phẩm của bạn bè hôm nay, dù chì nghe tên, dù chỉ sơ thân hay đã quen biết. Và đọc họ, tôi nhận ra được một đôi điều họ có cái nhìn mới, cảm xúc mới, và rất là táo bạo trong sự diễn tả. Vào thời điểm này, văn chương lớp trẻ trở thành một biểu tượng cho văn học miền  Nam, một văn học của khói lửa và chiến tranh. Và những người bạn văn này đang ở trên tôi, nhưng không vì thế, tôi không nhận ra cái yếu kém của họ mà nhìn chung, tôi thấy chưa có ai viết thực với suy nghĩ và cảm xúc, không những thế, rất nhiều anh bạn còn ưa sự làm dáng trong văn chương. Rồi, cái nhất thời ở phía ngoài bề mặt chiến tranh, cũng sẽ chỉ còn là những sự kiện thông tin, sáng tác của họ một thời gian sau cuộc chiến sẽ trở nên cũ kỹ như một lớp sơn đã tróc.

            Trưa hôm ấy nhà vắng, chỉ có mình tôi và Thu Hải. Riêng hai người, chúng tôi ngồi ở bàn khách chuyện trò, nàng biết tôi yêu nàng nên để nguyên vẹn cả khuôn mặt của nàng cho tôi được ngắm.

            Với một giọng thân tình, Ninh Hà hỏi:

-Anh đi xa như vậy có nghĩ đến lúc trở về không ?

-Anh không nghĩ tới. Nhưng có em, anh luôn ước mong có một ngày trở về của mình.

-Anh trở về, sẽ cảm thấy vắng bóng em.

-Không, em không vắng bóng đâu. Em sẽ có những đổi khác, nhưng mà trong kỷ niệm anh biết mình đang có là của em.

-Anh có đi theo con đường viết văn không ?

-Anh muốn nói với em, anh sẽ theo con đường này. Không, nó không là mơ ước, không là sự thành công, không là đi tìm kiếm danh vọng, tên tuổi, nhưng nó đã báo trước cho anh biết số phận của mình. Văn chương như thể đã trói buộc, vận vào đời anh.

-Em nghĩ là anh sẽ viết văn.

-Có em, anh tin là anh viết được. Rồi một ngày nào đó của bao nhiêu năm sau, em là nhân vật chính trong tiểu thuyết của anh.

-Nếu anh thực hiện được đó là niềm vui em đã dành cho anh.

-Em đã nói ra những lời anh ấp ủ.

            Sau một ngày ấy, và từ buổi ấy ra đi, giấc mơ để trở thành người viết văn ở nơi tôi, vẫn luôn là sự đợi chờ một hình bóng. Khi tôi gặp lại Ninh Hà ở Sài Gòn, nàng có đổi khác đôi chút, và nàng có thêm nữa chút vẻ đẹp quyến rũ, rất mặn mà. Những ngày ở Sài Gòn, tôi và nàng cùng cảm thấy hạnh phúc. Tôi yêu nàng, có được nàng qua những ngày mưa nặng hạt buổi chiều. Tôi nhớ chiếc áo dài xanh chấm bông trắng nàng nàng mặc. Tôi như luôn ở bên nàng, và nàng đã cho tôi một khuôn mặt thiếu phụ thật trẻ đẹp, mỗi ánh mắt nhìn nàng, tôi cố giấu đi nỗi buồn của mình vì thực sự trong lòng đang có niềm khao khát tình yêu. Và ở bên nàng, tôi rất thích nghe tiếng nàng nói, tiếng nói của nàng âm thanh trong trẻo như tiếng đàn, có lúc thấy mờ đục như thấm nước mắt, và với giọng nói khô ngọt ấy cũng hết sức gợi ra trong tôi lòng thèm muốn có được tình yêu trong vòng tay ấp ủ của nàng.

            Nàng vào thăm Duy đang học ở quân trường, hai tháng sau đó, nàng về. Sáng sớm hôm ấy, tôi đến trạm hàng không đưa tiễn nàng.

            Trước khi chia tay, nàng để cho tôi ôm hôn nàng, và nghe nàng nói:

-Anh phải quên em mới viết văn được. Đừng nên giữ lại em, nhớ em trong những ngày mưa ở Sài Gòn, vì như thế, anh sẽ chỉ quá nặng lòng tươngtư không viết được. Hãy quên em đi, hãy nghĩ em là một người khác thì anh sẽ viết được và thành công.

            Từ lần nghĩ phép đầu tiên về thăm gia đình, Thụy được hay tin Vân Oanh là người bạn gái của anh Nguyên. Và, đến nay, hình ảnh Vân Oanh mà Thụy mường như nàng là một nhân vật tiểu thuyết.

            Xe lam vượt lên hết quãng dốc, rồi giảm tốc độ xuống, rồi dừng lại phía bên ngoài con đường trước cổng gác chính của Quân đoàn.

 

 

                                                               XIII

 

 

 

            Tiệc liên hoan tổ chức ở phòng hội, có hai chiếc bàn dài có trải khăn màu và mấy chục chiếc ghế xếp. Trên mỗi bàn bày nhiều thức ăn, rượu, bia và nước ngọt.  Anh em trong đơn vị khoảng ba mươi người họp mặt đông đủ.

            Sau lời ngỏ của vị Trung tá Giám đốc kết thúc, tất cả đồng loạt vỗ tay, rồi bữa tiệc vui bắt đầu, mỗi người tự động lấy phần ăn và thức uống cho mình. Có ghế, nhưng ít ai ngồi. Dù là chung đơn vị, nhưng vẫn theo thứ cấp, các Sĩ quan làm một nhóm riêng, hạ sĩ quan và lính tụ một nhóm riêng. Tiếng chuyện trò nổi lên vui vẻ, thoải mái, và không thiếu những chuyện tiếu lâm là cả một kho tàng của binh chủng Không quân, bao nhiêu chuyện này thường hay đăng trên Lý tưởng, nhưng cũng có một số chuyện được phịa ra nghe vừa lạ, và vui.

            Thụy chỉ uống bia, không dùng rượu. Và, hôm nay, cùng các bạn, người nào cũng bắt anh cụng ly. Trong đám lính bạn Thụy, có bốn tên đã đậu Tú Tài, vậy mà chỉ mình Thụy đi học Sĩ quan, ba bạn kia vẫn muốn làm lính để có được nhiều thì giờ học thêm lấy cho xong cái bằng Tú Tài đôi.

            Khi gần tan tiệc, Thụy mới tìm đến chào tạm biệt các vị Sĩ quan. Các Sĩ quan không trợ đều thuộc ngành phi hành , tuổi tác họ chỉ hơn chúng tôi một hai tuổi, tính tình rất vui vẻ.

            Người sau cùng, Thụy đến chào là Trung úy Khải. Thụy nói xong, ông đưa mắt nhìn lại anh rất lâu. Rồi bằng một giọng chân tình, vừa nghiêm nghị, ông nói:

-Mầy đã đi Sĩ quan, thì gắng cho thành. Dù tình huống nào cũng phải trở thành Sĩ quan, không được thoái bước mà quay lui, nghe rõ chưa.

-Nghe rõ Trung úy,Thụy  đáp.

            Ông đưa tay ra bắt tay Thụy.

            Tám giờ tối, tan tiệc. Sau khi thu dọn xong, anh em trong đơn vị chia tay ra về. Chỉ những toán trực ở lại làm việc.

            Vừa trông thấy Thụy, vị Trung tá Giám đốc hỏi:

-Anh có về Sài Gòn không ?

-Dạ có.

-Lên xe tôi về.

            Chiếc xe pick up sơn màu xanh. Ngoài chỗ ghế lái, băng bên cạnh rộng và dài ngồi được ba người.

            Khi xe trên đường hướng ra cổng, một giọng hơi nhỏ, Thụy nói:

-Em cám ơn Trung tá đã giúp cho em nhiều trong thời gian qua.

            Một giọng vui, ông hỏi:

-Anh ra Sĩ quan, rồi có muốn đi ngành Không trợ không ?

-Em chưa dám nghĩ gì cả. Em chỉ mong sao được đi Mỹ học, rồi ra trường.

-Rồi ngày ấy sẽ đến với anh, ông nói.

            Chiếc xe rẽ trái khi ra khỏi cổng Quân đoàn. Giờ này, dưới đèn điện sáng dọc con đường, sinh hoạt thị trấn nhộn nhịp, đông vui. Các quán ăn đông khách, và các quán cà phê vọng lên tiếng nhạc, giọng hát Khánh Ly nghe văng vẳng, chán chường.

-Thời trung tá đi Pháp, thời gian học lâu không ?

-Gần ba năm.

-Thời đó, đi Pháp thật là hiếm.

-Lớp của tôi là lớp đầu, có chừng ba chục anh em.

            Một giọng vui Thụy hỏi:

-Thời trẻ đó, Trung tá có quen cô đầm nào không ?

-Có chứ.

            Thụy không cần hỏi thêm, đã được nghe ngay câu chuyện tình của ông với một cô sinh viên người Thụy Sĩ qua Pháp học.

            Trên gương mặt vị Trung tá ửng hồng vì uống khá nhiều rượu whisky, nhưng ông không say. Những câu chuyện ông vừa kể cho Thụy nghe rất hứng thú, và có những câu thơ Pháp ông đọc lên nghe thật đậm đà, mới lạ. Paris, Thụy không dám hình dung nơi kinh thành ánh sáng ấy những gì lớn lao mà chỉ nhớ nghĩ nơi ấy bởi có tâm hồn yêu thích thơ văn.. Thụy thích những bài thơ của thi sĩ Cung Trầm Tưởng, tôi nhớ mùi vị cà phê Magots, điếu thuốc Gitane và khu phố sinh viên Latin, những hình ảnh ấy nằm ở trong trí nhớ tôi qua một đoạn văn đẹp trong tiểu thuyết Đời phi công của nhà văn Toàn Phong. Và, còn thêm một nơi chốn nữa là khu vườn Luxembourg, nơi đây, vào mỗi buồi sáng đi đến trường học, chú bé Pierre Nozière(chính là Anatole France) vừa đi, vừa nhảy nhót như một con chim sẻ. Thụy rất yêu chú bé nếu anh được gặp chú bé ngoài đời, vì chú cũng có một tâm hồn dễ mơ mộng giống như anh.

-Ngày Trung tá về , đất nước đã chia đôi ?

            Thụy hỏi điều ấy, ông gật đầu. Xa lộ dài hun hút, bắt đầu chìm trong bóng tối. Hai bên rất là vắng vẻ, thưa thớt ánh đèn qua những căn nhà, về phía trong xa là bóng núi và các làng mạc.

-Lâu nay, anh có sáng tác được gì thêm không ?

-Dạ, cũng có. Em viết được vài truyện ngắn.

-Anh có tác phẩm in nào chưa ?

-Dạ chưa. Em cũng chỉ mới tấp tễnh làm người viết văn thôi.

-Anh viết cũng khá. Rồi đây, được cơ hội đi xa anh có thêm nguồn cãm hứng sáng tác.

-Em rất muốn viết một cuốn tiểu thuyết về người phi công trong thời chiến.

-Ý nghĩ đó hay. Lâu nay, có một số rất ít viết về cuộc chiến tranh của người phi công.

            Thụy suy nghĩ một lúc, rồi nói:

-Khi trở thành phi công, em sẽ viết, và tin là tác phẩm hoàn tất. Em muốn viết để tiếp nối cuốn tiểu thuyết của nhà văn Toàn Phong. Ở cuốn truyện này, độc giả chỉ mới biết được giai đoạn đầu của người phi công vào những năm còn đang huấn luyện, về cái đẹp của tình yêu, về phần em , nếu tiếp nối được em sẽ viết về những người phi công đang hiện diện trong cuộc chiến tranh ở trên vùng trời miền Nam và cả miền Bắc nữa.

-Anh hãy đọc thêm tiểu thuyết của Saint Exupéry.

-Sách nhà văn phi công này đã được dịch mấy cuốn. Em có hai cuốn Bay đêm và Chuyến thư miền Nam. Nhưng thực sự, thời của Saint Ex, cũng vẫn là thời huấn luyện, thử thách từng dặm đường bay trên không gian, và thời ấy, phi cơ hẳn còn đang thô sơ chưa hiện đại như sau này.

            Vị Trung tá trở lại thời gian cũ của mình, ông cho Thụy biết những tháng năm khó khăn lúc ông học ở bên Pháp, và điều ông cũng như tôi hãnh diện là thế hệ của ông sau này là những người làm vinh dự cho binh chủng Không quân.

            Tới ngã tư Sài Gòn, xe rẽ trái đi theo đường Hồng Thập Tự. Khi xe dừng lại bên đây cầu, trông qua bên kia là khu nhà thờ, Thụy nói lời từ  giã cám ơn ông lần nữa rồi xuống xe.

            Mới tối hôm đó, đã qua hai tuần lễ Thụh rời xa đơn vị. Ngày mai, Lăng đi xuống miền Tây thực tập ở ba tỉnh Mỹ Tho, Cần Thơ và Long Xuyên. Thời gian thực tập bốn tháng xong trở lại trường, rồi học hết chương trình Cao học trong hai năm. Khi ra trường, Lăng sẽ được hưởng lương ngạch Đốc sự và đảm nhận chức vụ Trưởng ty, Quận trưởng, có khi là Phó tỉnh trưởng.

            Sau khi xem xong trận đá banh, Thụy và Lăng tìm đến quán ăn ở đường Nguyễn tri Phương. Thụy nói với Lăng dù được gọi đi học nhưng lòng tôi không vui, vì món nợ với cái bằng Tú Tài hai anh chưa trả dứt được. Không hiểu sao, Thụy cứ lấn cấn và luôn bị ám ảnh về tấm bằng này đến nỗi khiến anh có ý nghĩ mình làm gì cũng cứ thất bại.

            Bữa ăn ngon, và hết sạch các món hai đứa gọi. Không ngồi lâu, vì Lăng phải về nhà để ngày mai đi chuyến xe sớm nên hai người cùng rời quán đứng dậy.

            Xuống Sài Gòn, Thụy nhờ Lăng thả tôi ở khu chợ Bàn Cờ trên đường Nguyễn Thiện Thuật.

-Có rảnh, nhớ viết thư.

-Có chỗ ổn định, anh xuống dưới chơi.

            Một vài giây còn đứng với nhau, Thụy nói:

-Tôi tính xin ít ngày phép về Huế thăm nhà.

-Xin được, anh nên đi.

            Từ ngõ đường ngoài tôi đi bộ đến nhà Huê. Có tiếng Thụy và cả tiếng gõ cửa, Huê đi ra.

-Ủa,  anh hả.

-Anh đến mời em đi uống cà phê.

-Sao mà có chuyện lạ vậy.

-Có gì đâu mà lạ.

            Huê khoác chiếc áo len nhẹ ở ngoài bộ quần áo thường có chấm bông, rồi cùng tôi đi ra quán nước đầu đường.

            Quán nước có mái hiên, đèn sáng, nhưng khách hơi thưa vắng. Cả Thụy và Huê cùng uống cà phê đen nóng.

            Khi đứa nhỏ chạy bàn bỏ đi, Thụy nói:

-Em có thấy uống cà phê lúc nào cũng thú vị.

-Em cũng thấy thế.

-Em và anh có vài sở thích giống nhau.

-Nhưng suy nghĩ về tình cảm lại rất khác nhau.

-Dù thế nào, em cũng không quên anh.

            Mỗi ly cà phê nóng được đặt trên dĩa lót. Thụy múc hai thìa đường bỏ vào tách của Huê .

-Lâu nay anh đi đâu không thấy.

-Anh vẫn làm việc ở trên Biên Hòa và ở trên đó luôn, ít về Sài gòn.

-Em cứ tưởng anh lại đi xa.

-Đi xa, anh đã viết thư cho em rồi.

-Trời, anh làm như em là người yêu.

-Cà phê ngon, em uống đi.

            Thụy  đốt điếu thuốc sau một hớp cà phê uống đầy. Thụy muốn tìm một lời chân thật để nói với Huê và anh đang nhìn nàng uống cà phê. Lúc nào gặp nhau cũng vậy, Huê  rất là tự nhiên khi nàng cho anh ngắm lâu vẻ đẹp của nàng.

-Sao đó, công việc làm của anh.

-Cũng bình thường. Anh luôn nhớ đến em.

            Huê mỉm cười nói:

-Anh luôn hiểu sai những ý của em.

-Nhớ, đâu hẳn chỉ là tiếng của tình yêu, mà tình bạn cũng có.

-Nhưng lúc nào, em cũng thấy anh mượn nhiều ẩn dụ.

            Thụy mỉm cười, nghĩ đến giọng nói của Huê. Trên khuôn mặt Huê, cả một vẻ sáng đẹp hiện ra dưới ánh đèn.

-Anh sắp đi phép.

-Về Huế, phải không ?

-Đúng rồi, em. Ở Huế, em chưa hề biết phải không ?

-Chưa. Này anh,  gái Huế đẹp lắm phải không ?

-Anh không biết .

-Trời đất, anh ở ngoài đó mà không biết hả.

-Anh đã xa ngoài đó lâu rồi.

-Bộ, anh không thích gái Huế hả.

-Anh không quen cô nào cả, xa quê hương vào đây được gặp em nên chỉ biết có em thôi.

-Anh thấy em, sao ?

-Em là một thiếu nữ đẹp.

-Anh nói cũng đúng thôi.

-Em thật duyên dáng như người mẫu.

-Mấy giờ rồi anh ?

-Mười giờ hơn.

            Thụy  gọi đứa nhỏ lại trả tiền cà phê rồi cùng Huê rời quán. Thụy đưa Huê về nhà, cả hai cùng vui câu chuyện trong cách bình thường.

-Em thích anh tặng em chiếc nón bài thơ không ?

-Ờ hay đó, anh mua tặng cho em.

-Sẵn lòng.

            Trước cửa nhà, Thụy và Huê dừng bước.

-Hôm nào anh đi phép ?

-Anh chưa định, vì còn một số việc về giấy tờ anh làm chưa xong.

-Trước khi đi, anh có ghé em không ?

-Có, anh sẽ ghé. Không có anh, em chẳng có bạn uống cà phê.

-Nhớ ghé, lần tới em bao anh.

-Em quá dễ thương.

-Không đúng đâu.

-Em ngủ ngon.

-Nhớ ghé em trước khi đi.

            Thụy chợt kéo tay Huê giữ lại và nàng để cho anh ôm nàng. Buổi tối về nhà,Thụy thức khuya ngồi viết truyện, và qua ngày hôm sau, đọc lại truyện đã viết Thụy sửa chữa đôi ba chỗ, sau đó viết thêm một truyện mới nữa.

            Những khóa sinh ở các đơn vị xa được gọi đi học về trình diện vẫn chưa đông. Lúc thấy Trung úy Cẩm đi ra, Thụy lại gần chào ông. Khi ông lấy điếu thuốc, tôi bật ngay que diêm để ông mồi lửa. Sau khi kéo một hơi đầy, ông hỏi:

-Có chuyện gì không ?

-Dạ có.

            Ông nhìn lại Thụy. Thụy nói:

-Trung úy cho em xin ít ngày phép về thăm gia đình.

-Gia đình anh ở đâu ?

-Dạ ngoài Huế.

-Sao ở đơn vị, anh không xin đi.

-Có giấy gọi đi học, em phải đi gấp sợ trễ khóa.

            Ông nhìn lại Thụy.

-Anh thi đậu không ?

-Dạ rớt. Ngày thi thứ nhì, em đau bỏ cuộc.

-Tôi đậu rồi.

-Em chia mừng với Trung úy.

-Tôi thi ở Trưng Vương, cùng trường với anh.

-Em không gặp Trung úy.

-Tôi có thấy anh hôm đầu.

-Lên Đại học, Trung úy học ngành gì ?

-Tôi học Luật.

-Ở Không quân, có nhiều Sĩ quan học bên ngành Luật.

-Tôi không thích học văn chương.

-Em thích, và em có viết văn.

-Tôi biết anh.

            Ở ngoài hành lang hai người nói chuyện chốc lát, sau ông trở vào phòng làm việc ,  bảo Thụy đi theo. Khi ông ngồi xuống ghế, Thụy đứng quan sát bàn làm việc của ông. Bên trong chiếc kệ nhỏ, có một số sách sắp ngay ngắn.

-Cho anh đi phép một tuần. Nhớ về trình diện đúng ngày.

-Dạ.

            Trưa hôm ấy, từ Tân Sơn Nhất Thụy đón xe buýt xuống Sài Gòn. Sau khi rời quán ăn, suốt buổi trưa anh đi dọc theo dãy hàng sách cũ trên phố Lê Lợi mua được một ít sách cho anh Nguyên, sau đó qua chợ Bến Thành mua một ít quà biếu về cho bên gia đình Ninh Hà và gia đình anh.

            Trước ngày đi, Thụy có được 700 đồng tiền nhuận bút hai truyện ngắn được đăng trên nhật báo Ngôn Luận và Miền Nam.

            Từ Sài Gòn, Thụy đi chuyến bay C47 cất cánh lúc 10 giờ sáng, đến Đà Nẵng gần mười hai giờ trưa. Từ trạm tiếp liên, có xe thồ và xe lam đưa khách ra phố. Thụy đi xe thồ về thẳng nhà Ninh Hà.

            Vừa thấy tôi xuất hiện, cả nhà ngạc nhiên, mừng rỡ, các em đến nắm tayThụy  rất cảm động.

            Nàng hỏi:

-Anh về phép lâu không ?

-Anh đi được mười ngày.

            Thụy không thể giấu được sự xúc động khi gặp lại Ninh Hà. Trong ánh mắt nàng, bóng dáng anh đã bất động, in lên đó.

-Cậu đã ra ngoài nhà chưa ?

-Dạ chưa.

-Anh ở chơi với gia đình ít ngày rồi ra.

            Thụy kéo chiếc ghế ngồi, cảm giác thật nhẹ nhõm. Cả nhà đông đủ, mỗi người hỏi anh một đôi câu. Thụy nghe rõ tiếng nói, nhất là nhớ rất lâu từng âm sắc của Ninh Hà.

Có khách vào mua hàng, bà Uyên đứng lên đi ra quầy, trong thoáng nhìn,Thụy  quan sát cửa hiệu nước hoa của gia đình, và thấy mới mẻ hơn ngày xưa. Hai tủ kính bày những loại hàng mẫu nước hoa nhiều màu sắp đẹp, ở ngoài mái hiên có một cái tủ kính cũng lớn bày bán thuốc lá, bật lửa, đồ trang sức.

Ánh sáng từ khuôn mặt và trên cánh tay để trần của Ninh Hà dâng lên một màu sáng dịu, vừa phảng phất chút hương thơm.

-Anh lúc này mập ra .

-Em đi làm chưa ?

-Em có việc làm rồi, tuần tới bắt đầu.

-Dạy học phải không ?

-Nghề đó, nghèo lắm.

-Anh biết, việc gì em cũng làm được.

            Ông Kha nói:

-Em Hà làm cho hãng xuất nhập cảng.

            Tôi nhìn qua Ninh Hà , đôi mắt nhỏ bé của nàng sáng lên một nụ cười.

-Trưa rồi, mình đóng cửa em ạ.

-Vâng.

            Bà Uyên mở hai sợi dây buộc, bức màn buông rũ khép lại. Hai cánh cửa vẫn mở, và lúc này, cả gia đình chuẩn bị ăn trưa.

            Khi hai người giúp việc dọn cơm lên, Thụy không thấy chị Trà. Bà Uyên nói:

-Mấy người giúp việc trước lúc cậu còn ở đây, họ về quê rồi. Hai người này, cũng là người Quảng Trị.

            Quanh chiếc bàn tròn, gia đình ngồi ăn. Thụy ngồi cạnh Ninh Hà và mấy em nàng. Nhìn Hằng,Thụy hỏi:

-Em học lớp mấy rồi ?

-Đệ Lục anh.

            Thụy ngắm cô bé bắt đầu để tóc thiếu nữ, giọng vui nói:

-Anh nhớ thời đi học, em mặc chiếc áo đầm, cứ lúp xúp theo bên chị Ninh Hà.

-Nay em đã lớn rồi đây.

-Xinh nữa.

-Em không dám đâu.

-Anh Thụy lúc này có viết truyện nữa không ?

-Có, nhưng không nhiều lắm.

-Anh có mang những truyện đăng báo về không ?

-Có.

            Ông Kha hỏi tôi:

-Cậu ở lính, thăng được cấp gì rồi.

-Thưa hai bác, cháu sắp đi học Sĩ quan.

-Cậu không ở Không quân nữa sao ?

-Dạ, vẫn ờ Không Quân, cháu xin học về hoa tiêu.

-Vậy là cậu lên cấp Sĩ quan rồi.

-Cháu mới được giấy gọi đi học. Giờ đang là khóa sinh.

-Hoa tiêu là làm phi công phải không anh ?

-Đúng rồi  em.

-Vậy là anh học lái máy bay.

-Đúng rồi.

-Anh đã lái được chưa ?

-Chưa. Anh mới có giấy gọi về đi học.

            Cà nhà nghe tôi kể chuyện của mình. Ninh Hà nói:

-Anh đi qua Mỹ học, có gì vui bằng.

-Chừng nào đi, anh Thụy.

-Anh chưa biết. Giờ anh đang chờ khóa học Anh ngữ.

            Tôi đã có được một ngày vui với gia đình người bạn gái. Tới đầu giờ buổi chiều các em đi học. Rồi ông bà Kha cũng đi thăm gia đình một người bạn mới từ Qui Nhơn ra. Trước khi đi, ông cho tôi hay, người bạn này trước đây ở trong quân ngũ, cùng đơn vị với ông. Xa nhau từ sau ngày đình chiến, nay mới bắt được tin tức.

            Tôi không đi đâu, ở nhà với Ninh Hà trông coi cửa hiệu.

-Anh Duy sao không về ?

-Anh đang ở Quảng Tín.

-Làm việc trong đó.

            Ninh Hà nhìn tôi nói:

-Từ ngày anh Duy ra đơn vị, hư hỏng lắm.

-Sao vậy ? Có chuyện, em nói cho anh biết đi.

-Em buồn lắm.

            Người khách đến đứng bên ngoài đợi mua thuốc lá. Ninh Hà bỏ dở câu chuyện đứng lên đi ra bán hàng. Khi trở vào, cô đưa cho tôi gói thuốc Pall Mall.

-Anh có đây rồi.

-Anh giữ  lấy mà hút.

            Tôi đốt điếu thuốc, giọng trầm lặng nói:

-Lúc nhận được thư em, anh thấy lo lắng. Từ ngày ấy đến nay, anh chỉ ước mong em có cuộc sống dễ chịu.

-Anh Duy sa vào cờ bạc, em không nói nổi nữa.

            Khi bắt gặp thấy đôi mắt, tôi và nàng nhìn nhau rất lâu. Rồi tôi hỏi:

-Nơi hãng em sắp làm việc, là trong nước hay ngoại quốc.

-Hãng này của Đại hàn.

-Có việc làm, em sẽ bớt phiền muộn.

-Em chán lắm, đôi khi ân hận cho đời mình.

-Em nên nói rõ cho Duy biết.

-Anh ấy chỉ biết con bạc. Anh đánh thua sạch, con người anh không còn tư cách gì nữa.

            Tôi dụi mẩu thuốc lá vào chiếc gạt tàn, cầm tách trà đưa lên miệng uống một hớp đầy.

-Anh ăn gì không ?

-Không, anh không đói.

-Em gọi cà phê cho anh nghe.

-Không, anh uống trà, được dịp về phép thăm em, lòng anh vui.

-Anh qua Mỹ học lâu không ?

-Cũng đến hai năm.

-Sao, anh đã có cô Phượng nào chưa ?

-Em đã đọc cuốn truyện ấy rồi.

-Có. Em rất thích.

-Vậy mà em lại không làm cô Phượng cho những chàng phi công.

-Ở xa, viết thư cho em, anh phải viết hay như những lá thư trong cuốn sách.

-Anh không chắc mình viết hay, nhưng thành thực.

-Những thư anh viết gởi cho em hẳn còn đó.

-Anh cũng giữ những thư của em, và bao nhiêu tấm ảnh của em cùng gia đình.

-Anh đã khởi sự viết cuốn sách chưa ?

-Chưa, nhưng anh rất nhớ những lời  em nói, và căn dặn.

-Anh nên viết cho đời mình một cuốn sách.

-Về ngoài này, em nhớ Sài Gòn không ?

-Rất là nhớ.

-Sài Gòn vẫn còn mưa. Những ngày mưa nhắc anh nhớ đến em hơn hết. Bây giờ đây, bao nhiêu hình ảnh cũ của em vẫn còn trong đó. Sài Gòn, cứ đến về chiều trời mưa, và nhắc anh nhớ tên em, nhớ đến từng bóng dáng của em.

            Nàng nghe tôi nói, chỉ im lặng. Một lúc sau, tôi nghe rõ tiếng của nàng:

-Em nhớ đến anh luôn.

 

           

 

                                                          XIII

 

 

            Xe Phi Long hẳn còn đậu chờ khách. Mới có bốn người trên các dãy ghế trống. Thụy để túi xách lên giá , xong ngồi xuống. Bỗng dưng, anh có cảm giác trống trải lạ thường.

            Một lúc sau, có thêm khá nhiều khách tới tìm xe. Thằng lơ đón mời họ lên những dãy ghế trước, vừa cho biết, chừng hai mươi phút nữa là xe chạy. Người tài xế đứng ở ngoài, dáng nặng nề, anh ta đang hút thuốc. Bà chủ xe mặc bộ quần áo bà ba màu đất, bên vai đeo cái túi xách lớn.

            Thụy không ngồi lâu, một lúc sau mở lối cửa bên hông đi xuống rồi chậm bước đến quán cà phê. Anh gọi ly cà phê đen  nóng. Không quá hai phút, đứa nhỏ mang cà phê ra, vừa bỏ xuống bàn, nó hỏi có lấy thuốc hút, anh đáp không.

            Thụy cho hai muỗng đường vào cà phê, khuấy nhẹ, hẳn còn nóng nhưng anh đưa lên miệng làm một hớp đầy để đốt điếu thuốc.

            Nắng buổi sáng thật dễ chịu. Bến xe ồn ào, quanh bến khá nhiều xe đậu và đông khách đợi chờ, còn những người bán quà rong, bán báo dạo vừa mời mọc, vừa cất tiếng rao.

            Khói thuốc trườn lên từng sợi mỏng dần ngả màu tím. Thụy là người lính trở về phép, đi chuyến bay từ Sài gòn ra Đà Nẵng, lúc xuống phi trường anh đón xe thồ về thăm nhà người bạn gái nghỉ chơi ở  gia đình nàng, hai ngày qua, đối với nàng cũng như gia đình anh được coi như là người thân.

            Lúc sáng nay, nàng tiễn chân anh một đoạn ngắn ra con  đường trước mặt nhà. Trong lúc chờ xe lam đến, nàng và anh có được sự gần gũi bên nhau trong ít phút.

-Anh có trở vào Đà Nẵng nữa không ?

-Không, hết phép, anh đi luôn từ Huế.

-Nhớ viết thư cho em.

-Anh nhớ luôn.

            Một giọng vui, nàng hỏi:

-Anh sắp đi Mỹ, mơ mộng gì không ?

             Với giọng điềm nhiên, Thụy đáp lời:

-Anh vẫn còn lo lắng qua từng giai đoạn. Khó nhất với anh, là học Anh ngữ.

-Mình học ở bên đây mới đi.

-Đúng đó em. Nhưng qua tới Mỹ cũng còn phải thi trắc nghiệm nữa.

-Anh đừng lo lắng quá.

-Cám ơn em.

            Khi từ giã, nàng đưa tay cho anh bắt. Chiếc xe lam vừa lăn bánh, anh ngoái đầu nhìn thấy nàng đứng vẫy tay, thật là một nỗi nhớ da diết, u buồn. Thụy vẫn mãi nhớ đến nàng, đến những ngày ở Sài Gòn. Thời gian cũng đã qua nhanh. Rồi đời lính nói với anh rằng,  năm nay, bạn hai mươi lăm tuổi.

            Cà phê nguội dần, Thụy cũng đang uống chậm. Trong lúc ngồi quán uống cà phê, mắt anh không ngừng chú nhìn quang cảnh sinh hoạt buổi sáng nay ở bến xe, có lúc, anh nhớ nghĩ nhiều đến Huế, có lúc, anh  trông thấy bóng dáng mình vào một năm ấy đã tìm đến thành phố này, rồi bất chợt, anh hướng về Sài Gòn, nơi thành phố đó bây giờ anh đang là kẻ vắng mặt.

            Hành khách tới xe đã khá đông. Bỗng nhiên, một bóng chiếc áo dài tím xuất hiện làm Thụy chú ý. Nàng đứng quay lưng nên anh không nhìn được rõ khuôn mặt, nhưng qua áo tím, và cái dáng thật uyển chuyển trong mỗi bước đi, Thụy hình dung ra được một vẻ đẹp trên khuôn mặt của nàng.

            Bỗng tiếng thằng lơ xe cất lên:

-Mời quý cô bác lên xe.

            Vội vàng đứng dậy, trả tiền cà phê xong, Thụy trở lại xe, và mở cửa hông bước lên.

            Cô gái nhìn Thụy, có vẻ chú ý. Thụy chưa ngồi, còn đứng với cao tay để mở cái túi ngoài lấy mấy tờ báo xuống, chút nữa đọc giết thì giờ lúc xe chạy.

            Vừa đặt tờ báo trải ra, và trong ánh mắt nhìn qua cô gái, ngay lúc này, anh phác vẽ được vào tâm trí mình hình ảnh một bức chân dung thiếu nữ mà chiếc áo tím của nàng là một dĩ vãng đẹp. Nàng có khuôn mặt trái soan, mái tóc không dài lắm, thả xuống chỉ tới gần vai, và nàng có một đôi mắt nhung vời vợi, đẹp vô cùng.

            Tự dưng Thụy ái ngại không dám tìm lời làm quen. Ngồi im gần như bất động, anh cũng thật bối rối. Không hiểu sao anh có mặc cảm, vì anh nhận ra rằng, tuy vẻ đẹp ngoài của nàng rất giản dị, nhưng thật ra, nàng tự mình cất giấu trong linh hồn một vẻ khuê các của các nàng tiểu thư, càng mường tượng, càng tưởng như thấy nàng qua bao nhiêu hình ảnh kiêu sa trên từng lớp nhung lụa.  Vậy đó, ích gì mà tôi nghĩ đến hay trông đợi mối  tơ duyên, hoặc có diễm phúc được trao đổi ít lời thành nên một câu chuyện cùng với nàng. 

            Người tài xế nhấn một tiếng còi, liền đó, tay thằng  lơ xe đập mạnh vào mái cửa, vọng lớn tiếng:

-Xong rồi, chạy đi.

            Xe rời bến. Tôi nhìn ra cửa, nhưng không hề sắp  xếp một chuyện gì quan trọng trong đầu đề suy nghĩ về mình nữa cả. Quang cảnh khu phố quanh bến xe mau biến dạng, chỗ này khuất, chỗ kia hiện và sau khi chạy lướt một vòng bến, xe tiến ra ngoài phía cổng. Dừng lại ở đó đợi , ít phút sau xe mới rẽ trái vào đường lớn của phố chính. Khu phố chính thật đông đúc, ồn ào, xe trên đường, và người đi qua lại tấp nập.

            Đà Nẵng cách Huế gần một trăm cây số. Chỉ chạy chậm trên một đoạn khá dài hơn ba trăm mét , rồi thấy đường bắt đầu trống xe liền tăng tốc độ để chạy nhanh. Ngồi bên cửa xe, Thụy vẫn chú tâm nhìn quang cảnh. Mỗi chuyến ra đi hay trở về, trong tôi luôn tự cho mình là lữ khách. Khi đi phi cơ, tôi luôn tìm và tưởng tượng trong cái nhìn của mình vào không gian,  ở bên dưới là đất liền, tôi gắn ý nghĩ của mình vào cuộc sống qua tâm tưởng từng con người, ở trên bầu trời, phi cơ đã bay qua những vùng mây, trong mỗi bóng mây tôi có sự hình dung về nó, nó hiện lên hình dáng những thú vật không lồ, nó cũng sẽ hiện lên những cánh đồng mây trắng bao la, nó cũng cho thấy những dáng hình vươn lên rất cao như là những ngọn núi, và đẹp nhất nhất là lúc nó tạo nên được những hình ảnh kiến trúc lạ mắt bằng những đền đài, hay bằng những dáng vẻ của một hay nhiều thành phố giữa khung trời thật cao và thật rộng. Tôi đã ghi nhận bao nhiêu hình ảnh đó, và ước mong đến một ngày tôi sẽ viết nên được trọn vẹn những cảm xúc chân thực của mình. Ở trong mọi cuộc di chuyển, đời tôi gắn bó nhiều nhất là với con tàu. Có lẽ, hình ảnh đầu tiên đã ghi khắc trong trí nhớ của tôi là tháp nước, nơi ấy, mỗi khi tàu về đến ga thường dừng lại trong mười phút để lấy nước, rồi sau đó, mới tiếp tục cuộc hành trình. Ngày xa ấy, gia đình tôi còn ở Quảng Trị và căn nhà chúng tôi ở ngay trước con đường bên dưới phía cổng ga, nhìn đối diện sang bên kia là tháp nước và xa hơn một chút là rừng thưa. Từ một thuở ấy, trong ký ức tôi đã nghe vang dội lên những tiếng còi tàu. Vậy nên, khi trở về hay đi đâu xa, ngồi trên xe lửa, đó là thời gian của sự hồi ức đưa tôi trở lại nơi chốn cũ ở thành phố Quảng trị nhỏ bé, nơi chốn ấy, cũng là một thứ quê nhà cho lữ khách. Đi, bao giờ bạn cũng dễ biết mình sẽ tới một nơi nào đó xa. Và, bạn cũng biết rồi đó, trong đời tôi, đã đầy ắp biết bao nhiêu kỷ niệm còn hơi nóng của tuổi thơ , những kỷ niệm ấy làm nên cuộc hành trình lang thang trên những con tàu và đưa tôi đến từng nhà ga.

            Khi xe bỗng giảm tốc độ, rồi chạy chậm, tôi nhìn thấy phía trước có một trạm gác nằm gần cây cầu. Tối hôm qua, với một giọng thân tình nàng nói:

-Anh hãy cố gắng quên em đi.

            Tôi lặng im, ít giây sau nàng tiếp lời:

-Anh quên được em, đó cũng là lúc cuốn sách anh ước ao viết sẽ hình thành.

-Em vẫn mang một hình ảnh trong đó chứ.

-Không. Hãy nên đem một ảnh hình khác thay thế em.

-Có thể như em nói, rồi anh sẽ gặp.

            Trong giấy nghỉ phép, tôi được đi mười ngày. Chiều hôm qua, tôi đi chơi phố một mình. Sau khi ghé nhà sách Lam Sơn trở ra, tôi bỗng có ý nghĩ muốn đi tìm nhà cô Thiên Nga. Không biết cô ở phố nào, nhưng cũng mong tìm nên tôi cứ lang thang qua nhiều dãy phố, tình cờ tôi buột miệng hỏi một vài người qua đường, nhưng rồi, không có ai hay biết cả.

            Xe ngừng hẳn. Người tài xế mở cửa xe đi xuống. Viên Cảnh sát gác đứng chờ, lúc đến gần, người tài xế trình giấy. Viên Cảnh sát không nói gì, anh ta đưa mắt quan sát từ phía bên ngoài vào trong xe. Rồi anh ta bước chậm, mắt ngước nhìn qua từng hàng ghế hành khách ngồi trong xe.

            Một lúc sau, đứng chỗ giữa xe mắt anh ta nhìn lên phía trần, bỗng  hỏi:

-Gì trên đó ?

-Hàng hóa thường thôi xếp.

-Còn gì nữa không ?

-Không.

            Tôi để ý vẻ mặt người tài xế và cả viên cảnh sát nữa. Chắc là có chuyện không ổn với những người đi buôn. Vừa chợt nghĩ vậy, tôi bỗng thấy khó chịu khi thấy viên Cảnh sát tới bên cửa hông, rồi anh ta đu mạnh người lên. Đứng trên bậc cao của thanh sắt, anh ta đưa tay dỡ tấm bạt, vừa  lục lọi tìm từng bao hàng. Cũng khá lâu, viên Cảnh sát mới nhảy xuống.

            Người tài xế đi theo anh ta vào trạm, hai người nói chuyện gì với nhau hơi lâu, rồi họ trở ra, vẻ mặt anh tài xế không mấy vui, còn viên Cảnh sát giờ như có được cảm giác thoải mái với điếu thuốc hút đang cháy đỏ ngậm trên môi.

            Vừa quay đầu vào trong, tôi bắt gặp cái nhìn cô gái. Tôi cảm thấy bâng khuâng thấy cô đẹp lạ lùng. Xe lăn bánh chạy, lặng yên tôi mở tờ báo ra đọc. Bỗng dưng tôi có cảm tưởng như cô gái định hỏi tôi điều gì đó. Tôi ngừng đọc, nhìn qua cô nhỏ nhẹ hỏi:

-Còn dư một tờ, cô đọc không ?

            Cô gái gật đầu. Tôi có hai tờ  báo, đưa qua cho cô một tờ.

-Báo cũ nghe cô.

-Không sao .

            Tôi đọc tin tức trên trang nhất. Rồi sau đó, lật qua tìm trang trong tôi đọc lướt  vài bài xong đến mục quảng cáo.

            Rất bất ngờ, tôi trông thấy cô gái đang cúi mắt chăm chú đọc trên trang văn nghệ có một truyện ngắn của tôi.

            Với sự ngại ngần khi không muốn tự mình khoe khoang, tôi gấp tờ báo lại để trên đùi xong quay mặt ra ngoài.

            Xe đang chạy lên đèo. Những đoàn xe đang nối nhau tạo nên một chuỗi biểu tượng, hình ảnh nào cũng phản hiện những dáng màu sắc rất là sinh động. Tôi nhìn thấy núi qua từng  tảng đá chênh vênh và nghe tiếng nước suối chảy. Phía bên kia xa cách biển, nhưng trong nắng, tôi cũng nhìn thấy rõ mặt biển lóa sáng, trên biển có bóng dáng vài con tàu đang di chuyển ra ngoài khơi. Nơi xa kia nữa, bạn có thể ước độ qua một tầm nhìn phóng và định hướng về phía đó là Cửa Đại.

            Lên đèo xe chạy theo triền núi, nhiều vòng cua, nhiều lối đổ dốc, nhưng xe vẫn chạy êm không bị nhồi xóc. Hải Vân, tên con đèo nghe dễ thương như tên người con gái. Lúc này, tôi thực sự rung động đi tìm những nguồn thơ, nhưng không sáng tác, mà muốn  được dành riêng cho mình hạnh phúc nhớ lại những câu thơ hay.

            Khi càng lên cao, núi và sương mù dâng một thứ khí lạnh trong hồn thơ Huy Cận, và hương vị  ấy len vào tâm tưởng làm tôi nôn nao. Thế rồi, từ trong âm vang của bài thơ tôi chợt nghe có tiếng động và hình bóng một con chim vụt bay qua cánh rừng

            Bỗng dưng buồn bã không gian

            Mây giăng lũng thấp một màn âm u

            Nai cao gót lẩn trong mù

            Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về

            Hải Vân ơi, hãy để cho tôi nghe tiếng gọi thầm như thể đó là tiếng của nàng.

-Anh Thụy ạ, em luôn hiểu anh.

-Anh cũng có ý nghĩ như em.

            Bên dưới này nhìn lên, tôi trông thấy trạm ngừng của đỉnh đèo xuất hiện. Đã có những chuyến xe đến sớm ngừng đỗ khách ở đó.

            Cô gái đã coi xong truyện ngắn đăng ở trang văn nghệ. Lúc cô lật qua trang khác, giọng thân tình tôi hỏi:

-Cô đang dạy học ở Huế ?

            Với nụ cười trên ánh mắt, nhìn qua tôi, cô đáp:

-Không, tôi đang còn học.

-Tôi được về phép thăm nhà.

-Ông đang ở trong quân đội ?

-Vâng.

-Ông xa Huế lâu chưa ?

-Cũng mấy năm rồi cô. Cô học bên Văn khoa hay Luật.

            Tôi được nghe rõ tiếng cô gái nói, giọng chậm rãi:

-Tôi học chính bên Mỹ Thuật, còn ở Văn Khoa mới là năm dự bị.

-Bên Mỹ Thuật, cô học sắp xong chưa ?

-Năm nay là năm cuối.

-Tôi có một người quen đang học ở Mỹ Thuật. Thực ra, cô ấy là bạn gái của anh tôi.

-Ai đó ?, nàng hỏi tôi.

-Cô bạn gái anh tôi tên là Vân Oanh.

            Một nụ cười rất vui trên cặp mắt, cô gái nói:

-Ở trường Mỹ Thuật chỉ có một nữ sinh viên thôi.

            Hai người có vẻ bắt đầu thân tình với nhau trong câu chuyện. Người lính nói:

-Tôi chưa gặp, chỉ đọc thư nhà nghe nói tới người bạn gái của anh mình thôi. Cô gái người xứ Quảng, ra Huế học về ngành Mỹ Thuật. Năm trước, tôi có về thăm nhà nhưng không gặp, em gái tôi nói, chị ấy về gia đình nghỉ hè.

-Vậy là ông chưa gặp lần nào cả ?

-Chưa. Nhưng tôi có nhận được thư. Từ ngày ấy, trong tôi luôn có một sự hình dung, đến bây giờ, hình ảnh mường tượng về cô gái vẫn đẹp, không mất đi một nét nào.

-Người anh của ông có ở trong quân đội không ?

-Có. Anh tôi là Sĩ quan, vừa mới thăng cấp Đại úy.

-Ông thì sao ?

            Người lính đáp:

-Tôi thì rất tầm thường. Tôi là lính bên binh chủng Không quân, nhưng làm lính thành phố cũng nhàn.

-Ông được về phép lâu không ?

-Mười ngày cô ?

-Hôm nay là ngày đầu ?

-Cũng mất hai ngày rồi.

            Nắng rực sáng bên lưng đèo thật là đẹp. Ở phía trước cũng như sau, các đoàn xe nối đuôi nhau chạy. Và mỗi quãng đèo, cảnh vật trở nên đẹp, tươi lên giữa màu nắng.

            Người lính hỏi:

-Cô đã có dự cuộc triễn lãm nào chưa ?

-Cũng có một vài lần vào những kỳ lễ hội hay dịp Tết.

-Năm Dự bị, cô học bên ban nào ?

-Ban Pháp văn.

-Ngày đó, anh tôi chẳng gặp duyên may thi cử. Anh ấy thi đậu viết ở trường Sư phạm , nhưng vào vấn đáp lại rớt. Ở trường Văn khoa, năm Dự bị anh cũng đậu viết, nhưng cũng rớt vấn đáp.

            Cô gái nhìn qua người lính, trên mắt nàng có một nụ cười rất dịu hiền. Một chút sau, nàng lật trang báo, xong đưa ra một truyện ngắn trong đó hỏi:

-Truyện ngắn  này ông viết phải  không ?

-Đúng đấy. Sao cô đoán hay vậy ?

            Nàng cười, bảo:

-Tôi biết hết chuyện ông kể.

-Nghĩ là thân tình trong chuyến đi, tôi kể cô nghe thôi.

-Tôi hiểu.

            Xe đã lên tới đỉnh đèo đang tìm chỗ đậu để nghỉ. Hai người ngừng chuyện, và hành khách lần lượt xuống xe. Giờ đợi đổ đèo xe đến rất đông, các hàng quán tấp nập khách ra vào.

            Bên tôi, vẫn còn bóng cô gái. Từ đỉnh đèo cao nhìn xuống biển, cảnh trí rất là đẹp mắt,  tôi bỗng thốt ra lời về điều mình nghĩ.

            Cô gái bỗng hỏi:

-Hồi trước ông có học ở Đà Nẵng không ?

-Có, cô. Tôi có học một năm ở trường Sao Mai.

-Cô gái ông viết trong truyện là nguyên mẫu ngoài đời.

-Một cái bóng thôi cô. Viết truyện, ai cũng tưởng tượng và hư cấu.

-Ông còn đi học tiếp không ?

-Không, tôi thực sự không sáng dạ với sách đèn.

            Giữa đám đông ồn ào trên bãi đậu xe, có những đứa trẻ bán quà rong. Một lúc sau, người lính và cô gái đi tới một quán giải khát. Lúc ngần ngừ dừng lại bên ngoài, người lính nói:

-Mời cô uống cà phê cho vui.

            Cô gái không đáp lời, rồi cùng người lính vào quán ngồi ở cái bàn nhỏ bên chái hiên. Trong quán người ta đang ăn uống và có mùi thịt rừng dậy lên tỏa bay ngào ngạt.

-Cô uống được cà phê vào lúc tối không ?

-Cũng uống được.

-Cà phê tôi uống lúc nào cũng được.

            Đứa nhỏ mang hai tách cà phê nóng ra. Trời ấm nắng và có chút lạnh. Ở nơi đây, vang âm tiếng suối bên lưng đèo thỉnh thoảng nghe trỗi dậy.

-Mỗi tuần cô về thăm nhà một lần ?

-Không thường lắm. Thường là mỗi cuối tháng.

            Người lính nói:

-Ngày hôm qua đi chơi phố, trong đầu tôi có ý nghĩ muốn tìm thăm nhà người bạn gái của anh tôi. Tôi đã được đọc thư, hình dung ra bóng dáng và khuôn mặt của nàng. Dù chưa gặp, nhưng trong thư từ đã có tình thân. Bây giờ tôi phải gọi nàng bằng chị, vì anh tôi và nàng sắp làm lễ hỏi vào tháng tới. Tôi mong lần về này được gặp, và cũng mong rằng những gì mình tưởng tượng là đúng người thực ngoài đời.

            Người lính dừng lời nhìn qua cô gái, thấy khuôn mặt cô, và trên cặp môi dễ thương đang có một vệt màu cà phê đọng lại. Trên mắt cô gái lại có lớp nhung rất mịn màng, và nụ cười thật là hiền dịu trên ánh mắt. Rồi, trong những nét ấy lại còn trải ra một vẻ buồn, thật xa vắng vừa nên thơ.

-Ông được coi ảnh người chị dâu tương lai của ông chưa ?

-Chưa.

-Ông có mong gặp người đó không ?

-Rất mong. Tôi nghĩ lần này về chắc là gặp. Vì lúc này, đang là mùa học, không phải là mùa hè.

            Ngồi chuyện trò với người lính, cô gái vẫn giữ nét trang nghiêm và khi nghe người lính nói về những cuốn sách mà anh bỏ công tìm mua để mang về cho cô học, cô thật là cảm động.

            Hành khách rời quán trở lại xe, người lính rút ví lấy tiền trả, cô gái ngăn lại:

-Để tôi trả cho.

-Tôi mời cô mà.

-Tôi biết. Chút nữa lên xe mình tiếp câu chuyện.

            Người lính được trở về và tìm thấy một thứ hạnh phúc thật êm ái trong thời tuổi trẻ của mình.

            Khi xe chuyển bánh, rồi cùng chạy theo đoàn xe đang xuống đèo phía trước bỗng nghe vang lên một điệu nhạc hành khúc, rồi tiếng hát bắt đầu.

            Hành khách nghe xong hết bản nhạc, vỗ tay.

            Người lính quay sang hỏi:

-Ở Huế, nhà cô ở đâu ?

            Một giọng vui, cô gái cười đáp lời.

-Tôi ở gần nhà anh Nguyên.

 

 

           

                                                          XIV

 

 

 

            Khoảng quá trưa, xe đò đến Huế. Hai người chưa về nhà, cùng đi bộ tìm một quán ăn đầu phố cách bến xe chừng hai trăm mét. Người lính và cô gái cùng cảm thấy vui, giờ họ đãõ là hai chị em. Nghĩ như thế nên cô gái chợt cảm thấy mình lớn hẳn, nghiêm trang ra, còn người lính, anh ta cũng thấy vui trong cảm giác mình đang nhỏ bé lại.

-Chị Oanh có hay ghé nhà Thụy không ?

-Ghé luôn mà.

-Có chị, chắc anh Nguyên hay về nhà.

-Thụy  nói đúng. Trước khi quen mình, anh hay ở luôn trong trại ít khi về.

-Đọc thư của chị, lòng rất vui. Thư đó, Thụy còn giữ.  Rồi, tôi nói tiếp: mới có một thư thôi đó.

-Một thôi. Thư khác dành cho các cô ở đây. À, Thụy quen Liên An lâu chưa ?

            Người lính này đang yêu, nhưng không tỏ bày. Liên An là cánh bướm trắng, còn Thụy đang phất phơ như chiếc áo giữa vùng trời mây tím.

            Hai người vào ngay quán ăn nằm đầu dãy phố. Trưa đầy nắng, và cái lạnh gây nên một cảm giác thú vị, vừa ấm áp.

            Hai người để túi xách xuống chân, rồi kéo ghế ngồi. Người hầu bàn đi ra, dừng bước ngay bên bàn nghe Vân Oanh đặt món ăn cho bữa cơm phần hai người.

-Rồi chừng nào Thụy mới đi học ?

-Hết kỳ phép này, vào trong đó vừa đúng lúc nhập học.

-Thụy học lái máy bay.

-Chưa, mới bắt đầu học Anh ngữ, thi đậu bên đây sẽ được cho đi. Qua bên đó, còn học ở trường dạy Anh văn thêm một khóa nữa mới chuyển qua học bay.

            Vân Oanh nhìn lại tôi, ánh mắt cười biểu hiện niềm vui. Rồi tôi nghe tiếng nàng nói, và lúc này, đang chờ dọn bữa cơm trưa, tôi cảm thấy mình thật là nhỏ bé trước một người chị dâu thật là đẹp, vừa rất đáng yêu. Cũng yểu điệu nữa chứ, hay quá, mình nên để nàng nói, một giọng nói  xứ Quảng nghe đậm đà, thân thiết, và mình  cũng đang nghĩ rằng, nàng hay biết trong đôi mắt mình lúc nào cũng thầm lặng ngắm say sưa khuôn mặt đẹp của nàng.

            Khi bữa ăn được người hầu mang chiếc mâm nhôm ra, rồi dọn từng món ăn lên bàn, mùi vị thức ăn và cơm nóng làm tôi cảm thấy đói.

-Chị ở nhà thuê chung với bạn, hay một mình.

-Ở một mình.

-Nhà thuê rộng không chị ?

-Cũng rộng rãi.

            Hai người cầm đũa, nhìn nhau trong niềm vui, rồi cùng lên tiếng mời ăn.

-Sách Thụy mua cho chị, có mấy cuốn in từ bài giảng dạy ở trường.

-Cám ơn Thụy nhiều lắm.

-Rồi tốt nghiệp bên Mỹ Thuật, ra trường chị có xin đi dạy không ?

-Chưa biết, nhưng dạy học mình rất thích.

-Rồi trở vào Đà Nẵng, chị xin dạy ở đó.

            Với nụ cười đằm thắm, nàng ngừng đũa nhìn tôi hỏi:

-Thụy  muốn mình dạy ở đâu ?

            Nhìn nàng, tôi nói:

-Chị xin ra Quảng Trị dạy nghe.

            Nàng gật đầu, ánh mắt của một phương trời.

            Trong giọng vui,Thụy  nói:

-Ước gì, cho tôi được nhỏ bé để ngồi học lớp côVân Oanh.

-Anh Nguyên cũng nói mình xin ra Quảng Trị dạy để gần Huế và gia đình.

-Chị đã có biết Quảng Trị rồi phải không ?

-Có. Anh Nguyên đã đưa mình ra thăm ngoài làng quê và ngoài tỉnh lỵ.

            Nhìn Thụy, một giọng vui nàng tiếp lời:

-Quảng Trị , mình không chỉ thấy ngoài thực tế, mà cũng rất chia sẻ với một quê hương Thụy đã viết nhiều trong truyện.

            Tôi uống hớp nước. Một giọng tâm tình, tôi kể cho nàng nghe câu chuyện của tôi và người bạn gái thân thương.

            Vân Oanh hỏi:

-Sao cô ấy không muốn mình là nhân vật trong cuốn sách Thụy viết.

-Cô ấy không muốn muốn người mình yêu đè nặng mối tương tư.

-Vậy là Thụy phải tìm một hình ảnh khác thay thế cho cô.

-Chị nói đúng, hình ảnh đó là muôn thuở.

-Liên An phải không ?

-Liên An là cánh bướm trắng, rất mỏng manh.

-Vậy thì ai trong đo ?

-Nàng là một tấm áo, và với tấm lòng quê hương cũ.

-Thụy có thích nhân vật cô Loan trong Đôi bạn ?

-Khi mong tìm gặp người thân của mình, Thụy luôn nhớ nghĩ đến Loan.

            Tôi ăn rất tự nhiên. Vân Oanh cũng đói, nàng ăn ngon. Tôi thỉnh thoảng ghi nhận được những nét duyên dáng cũa nàng trong cách cầm đũa muỗng, trong cách gắp thức ăn, và mỗi miếng vừa ăn xong, tôi cũng ghi nhận thêm cái vẻ hay hay từ dư vị thức ăn còn lại trên đôi môi xinh đẹp của nàng. Nỗi buồn thật duyên dáng và tự nhiên từ hình ảnh đôi mắt có nụ cười của nàng, ánh sáng cứ dịu lại, nhỏ dần, và ngưng đọng rất lâu.

            Nàng bỗng nói:

-Liên An có giấy gọi đi du học rồi.

-Chắc cô ấy đã vào Sài Gòn .

-Chưa đâu. Có thể về lần này Kham sẽ gặp.

-Nhưng sao chị biết Thụy quen Liên An.

-Cô ấy kể chuyện cho mình nghe.

-Hôm ấy Liên An nói: Về chị Vân Oanh, biết lấy ai mà so sánh.

            Vân Oanh cầm ly nước trà đá đưa lên miệng uống. Thời tiết trong thành phố đang bắt đầu những ngày mới mẻ vào đầu mùa đông, ánh nắng đã làm gương mặt Vân Oanh ửng hồng như màu chín của trái cây.

            Một giọng thân tình tôi nói với nàng:

-Thụy thực sự chưa mong điều chi cả. Nói vậy, không hẳn đúng. Ước mong của Thụy là viết nên được một cuốn sách. Còn về những cô gái mình quen, đó chỉ là những kỷ niệm đậm đà trong hương vị của gió mùa.

-Về phép, ghé Đà Nẵng Thụy ở nhà ai ?

-Nhà cô bạn.

-Cô gái ở trong truyện Thụy viết, phải không ?

-Vâng, bạn gái thân lắm.

-Người chồng của cô này, có họ hàng bên gia đình mình.

-Vậy à , chị.

-Anh Nguyên hay nói về Thụy, và mình cũng cho anh biết.

-Gia đình cô coi Thụy như là con, nhận làm con nuôi.

-Thế với cô ấy là sao ?

-Hai người rất hiểu nhau.

-Cô ấy trước đây là bạn học cùng lớp.

-Vâng.

            Tối qua, Thu Hải cũng nói chuyện cho tôi nghe về Duy chồng nàng. Tôi đem lời tâm sự của nàng nói với Thiên Nga.

-Gia đình bên Duy, người nào cũng vậy hết.

-Anh Duy đánh bạc thua nhiều lắm.

-Bên nhà Duy có họ hàng với bên má mình. Nhưng, cũng không gần gũi, ít qua lại với nhau.

            Bữa ăn thong thả cùng thời gian rảnh rỗi cho câu chuyện. Trong im lặng, tôi và Vân Oanh dành một vài giây nhỏ cho nụ cười, và trong thâm tâm nàng biết, tôi thật ngưỡng mộ nàng, vì thế, nàng cũng thật vui  tạo dáng cho mình thành người mẫu để cho tôi thật vui trong cặp mắt khi được ngắm nàng.

            Tôi bỗng nói:

-Hình ảnh Vân Oanh vẫn nguyên vẹn trong trí tưởng.

-Nghĩa là sao ?

-Buổi chiều ấy, em Nhi nói về Vân Oanh, câu chuyện kể ấy đã cho Thụy hình dung về bóng dáng một thiếu nữ,  và bây giờ, sự không ngờ gặp đã thấy rõ nét người trong trí tưởng vẫn là người của nguyên mẫu.

-Chắc không ? Sao mà có ý khen mình vậy ?

-Cái đẹp của Vân Oanh rất thuần khiết, đúng là hình ảnh của văn chương .

-Những nhân vật trong truyện của Thụy đều có thực ở ngoài đời.

            Câu chuyện của hai người nghe thật thú vị qua giọng nói, vừa thân mật, vừa chất chứa những cảm tình trong sáng.

            Vân Oanh ngừng ăn, cầm ly nước đưa lên miệng uống. Tôi cũng muốn ngưng, nhưng còn lại ít cơm trên dĩa, tôi ăn nốt cho hết.

-Chiều nay chị có đi đâu không ?

-Không, ở nhà.

-Anh Nguyên về, tối đi uống cà phê.

            Vân Oanh gật đầu. Người đàn bà ngồi ở quầy tính tiền đưa mắt nhìn ra cửa. Bên ngoài, nắng tràn qua những mái nhà, trên con đường, tiếng động xe cộ qua lại vang lên thật đều đặn.

            Thụy  quay đầu nói:

-Cho tính tiền chị ơi.

            Vân Oanh ngăn lại:

-Để mình trả.

            Thụy  mỉm cười, lắc đầu. Khi rời quán ra đường, Thụy nói:

-Lần về phép này, Thụy lãnh được tiền nhuận bút cho hai truyện ngắn.

-Họ trả nhiều không ?

-Mỗi truyện được bảy trăm. Báo ngày, báo tuần trả không nhiều. Ở tạp chí, nhuận bút đến 2000, khá lắm.

-Sao Thụy không gởi truyện cho tạp chí.

-Khi nào cảm thấy mình viết thật khá, lúc ấy Thụy mới gởi.

-Truyện Thụy viết có nhiều cảm xúc lắm.

-Mình phải đi từng nấc thang. Và muốn viết khá, cần đọc nhiều. Khi Thụy gởi truyện cho tạp chí đó là lúc, chị coi Thụy là nhà văn được rồi.

-Bây giờ gọi nhà văn không được sao ?

-Chưa. Bao giờ truyện Thụy viết hay, và đẹp như hình ảnh Vân Oanh , lúc ấy hẳn gọi.

            Với ý tưởng ấy, giọng nói vui của tôi tình cờ luồn vào cơn gió hất tung chiếc chiếc áo dài tím Vân Oanh bay lên. Nàng đưa một tay ra cầm giữ, nhìn phía trước, tôi trông thấy có một bóng người khách đứng chờ ở trạm xe buýt.

            Khi đến đó, chúng tôi cũng đợi. Trạm xe búyt cách xa bến xe đò chừng hai trăm mét, và từ chỗ chúng tôi đứng, nhìn một quãng xa trông thấy ngôi nhà thờ, Trước nhà thờ là bức tượng lớn Đức Mẹ vươn lên cao khỏi bóng nắng.

-Năm đầu tiên đến Huế, gia đình ở trong vùng này, căn nhà nằm trông ra con đường nhỏ bên trái khu nhà thờ.

            Vân Oanh hồi tưởng lại thời thơ ấu, nàng kể một câu chuyện vừa thực, vừa trẻ thơ.  Tôi bỗng nghĩ đến cô Mỵ Châu, qua gương mặt ấy là dáng nét của thiên thần.

            Xe buýt đến. Ba người khách lên xe. Người khách kia với dáng vẻ một công chức, trong lúc chờ xe, hai chúng tôi trò chuyện còn ông ta đọc báo, vừa hút điếu thuốc.

            Xe chạy nhanh. Tôi trông thấy ngôi nhà thờ và thấy bóng dáng căn nhà cũ tôi ở ở con đường bên cạnh. Trong phút giây này, Huế  làm tôi ngập ngừng, vừa xa lạ.

            Xe buýt đỗ khách ở trạm nhà ga. Nhiều khách đứng ở đó đợi xe, chỉ có hai người xuống bến là tôi và Vân Oanh.

            Không về nhà ngay, tôi theo Vân Oanh đến nhà nàng. Từ ga đi bộ tới nhà nàng hơn trăm mét. Con đường Huyền Trân nằm ven theo dòng sông. Tôi trông thấy dòng sông, cây cầu, và ngôi trường cổ giống như tu viện bên kia sông.

            Lối cổng sắt mở rộng, nhà thuê Vân Oanh cuối dãy cạnh đó có mấy cây nở hoa trắng và tím thật đẹp. Khi Vân Oanh lấy chía khóa mở cửa tôi đưa mắt nhìn qua bờ tường, nhìn cảnh sân trước nhà, và bên ngoài là con đường dưới nắng ven theo dòng sông.

            Vừa bước vào nhà, Vân Oanh nói:

-Ngồi nghỉ đi, mình làm nước chanh cho uống.

            Vân Oanh đi vào nhà trong. Tôi ngồi xuống chiếc ghế ở phòng khách, túi xách để bên cạnh chân. Nắng ngoài sân tràn vào phòng qua cửa lớn mở rộng, tôi cảm thấy có chút bâng khuâng về người chị dâu đẹp và thương mến của mình. Trong phòng khách bày biện giản dị, có mấy bức tranh vẽ treo trên tường.

            Một lúc sau, Vân Oanh trở ra với khay nước và bộ quần áo mặc thường.

-Chị thuê chỗ này, có đắt không ?

-Không. Bà chủ đây là người rất tử tế, phúc hậu.

            Tôi nhìn bao quát căn nhà. Vân Oanh nhắc:

-Uống nước đi.

-Mời chị.

            Tôi và nàng cùng cầm ly nước chanh uống một hớp nhỏ. Lặng yên, tôi kéo túi xách mở ra, và lấy những cuốn sách đã mua theo lời dặn của anh Nguyên.

            Tôi để gói sách trên mặt bàn.

-Chị mở ra đi.

            Vân Oanh mở gói giấy một cách cẩn thận. Trong gói mặt trên là những sách về văn học, bốn cuốn, còn mặt dưới là những tập bài giảng in ronéo.

            Trong lúc nàng xem qua các bài giảng, tôi nói:

-Thụy  có người bạn đang học trên Văn Khoa. Những bài giảng này anh ấy học năm trước còn giữ, tặng cho Thụy, tiện mang về cho chị.

-Hay quá.

            Với những sách học rất cần, và các bài giảng thật là hữu ích, Vân Oanh chăm chú, cúi mắt tìm kiếm trên đó một sự chờ đợi cho thời gian học của mình. Tôi ngắm nhìn dáng vẻ của nàng, mái tóc thả vai, gương mặt đẹp, rất dịu hiền, hòa nhã.

            Khi ngẩng mặt lên, nhìn tôi, nàng cười.

-Uống nước đi.

-Mong là anh Nguyên về chiều nay, tôi nói.

-Chiều nay anh về.

-Uống nước đi rồi qua xem tranh.

            Một lúc sau, Vân Oanh đứng dậy. Tôi cũng đứng lên, rồi bước theo nàng qua phòng bên cạnh.

            Vừa nhìn thấy căn phòng và tranh vẽ  xuất hiện, tôi thốt lên;

-Đẹp quá. Chị có máy ảnh đó không ?

-Không có.

-Có máy ảnh thì hay nhỉ. Những bức tranh chị vẽ Thụy muốn chụp. Và, có cả cô họa sĩ nữa, phải không ?

-Có rồi Thụy , cả phòng tranh này anh Nguyên đã dành cho mình nguyên một cuốn album.

-Thật là tuyệt với.

-Sao, thấy tranh mình sáng tác được không ?

-Bức tranh nào cũng có một khuôn mặt hạnh phúc, tôi nói.

            Vân Oanh mỉm cười. Khi hai người bước chậm bên nhau cùng xem tranh, nàng cũng đã cho tôi chút hương thơm nhan sắc của nàng.

            Một hồi lâu, tôi lặng im không nói gì. Nàng hỏi:

-Có gì mà băn khoăn vậy ?

            Tôi nhìn về phía khoảng tối bên trong, bỗng nói:

-Sao Vân Oanh không vẽ bức chân dung của mình.

-Đó tác phẩm cuối đời.

-Sao không vẽ ngay bây giờ.

-Không, không nên vẽ.

-Nhưng dù vậy, có người đã vẽ rồi.

-Ai vẽ, thực không ?

            Hai  người trở qua lại phòng khách. Ánh nắng từ ngoài sân tràn vào dâng cả vùng sáng, làm mềm dịu mái tóc thiếu nữ. Nàng như hiểu được ý Thụy đã nói ra với nàng, nhưng đó là của trí tưởng tượng in bóng cho mình, chứ không thể nào anh vẽ nên được bức chân dung cho nàng. Vì rằng, anh không có chút năng khiếu nào về hội họa. Nếu anh có , anh không chỉ vẽ một bức chân dung của nàng thôi, mà nhiều , rất nhiều.

            Nhìn vẻ mặt buồn của Thụy, nàng hỏi:

-Đang nhớ Ninh Hà hay Liên An ?

            Trên tường, chiếc đồng hồ trỗi ngân lên nhiều tiếng nhạc lúc quả lắc đun đưa.                                                

 

                                        

 

 

                                  Phần Thứ Ba

 

                                                             I

 

 

            Trong lúc chờ  khai giảng, tất cả khóa sinh ngành phi hành vừa mới được tuyển đều phải qua một kỳ thi trắc nghiệm khả năng Anh ngữ, nếu một bạn nào đạt số điểm 80 ECL sẽ thi lần thứ nhì, và số điểm này vẫn lấy được thì sẽ được bay nhanh sang Hoa Kỳ sớm để học bay. Hai ngày thứ năm, thứ sáu là hai ngày thi tại địa điểm trường Sinh Ngữ Quân đội nằm trên đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn. Bài thi gồm 120 câu, trong đó có 40 câu hỏi về văn phạm. Thụy ở đợt thi ngày đầu, anh làm bài được nhưng không mấy tự tin.

            Thời gian học Anh ngữ được ấn định 6 tháng với bộ sách American English Course gồm 10 cuốn, mỗi cuốn học từ ba đến bốn tuần lễ , rồi qua các kỳ thi lên lớp, đến lớp cuối cùng sách 2400 là bắt đầu dự  kỳ thi lấy điểm chuẩn xuất ngoại.

            Bây giờ đây , hơn 800 khóa sinh đã về trình diện đủ vẫn còn được Tổng Hành Dinh điều động. Số này chia ra rất nhiều toán, thường ngày làm công việc trực gác vòng đai, hoặc phụ việc về hồ sơ ở các phòng ban  thuộc Bộ Tự Lệnh.

            Thụy đã trở về đơn vị sau kỳ nghỉ phép mười ngày, và đây  cũng là lần đi thứ nhì kể từ ngày anh vào lính. Trong chuyến phép vừa qua, Thụy có một ngày ghé Đà Nẵng thăm gia đình Ninh Hà, được gặp lại nàng. Anh thật hạnh phúc với từng giây phút bên nàng, được nàng cho anh nhìn say đắm một khuôn mặt đẹp và buồn của người thiếu phụ, được nghe tiếng nàng nói, và từ đôi mắt yêu dấu, anh cũng đã tỏ lộ cho nàng hiểu rằng anh vẫn yêu nàng.

            Ngày ở chơi Đà Nẵng, Thụy cũng mong tìm nhà hay được thấy Vân Oanh, nhưng cũng có cơ duyên, ngày hôm sau anh tình cờ gặp nàng trên chuyến xe khách từ Đà Nẵng đi ra Huế. Sự gặp gỡ thật là bất ngờ, ngạc nhiên đến thú vị, và Thụy nhận ra rằng khung cảnh trữ tình của mặt biển, mây núi giăng trên đèo không thể gây nên ấn tượng thiết tha bằng chiếc áo dài tím của Vân Oanh.

            Rồi bao nhiêu ngày ở Huế với sự thân thương đầm ấm của gia đình, bóng dáng Vân Oanh thấp thoáng , chan hòa. Mỗi giờ khắc trong buổi sáng hay chiều, Vân Oanh và Thụy ở bên nhau trao đổi nhiều câu chuyện rất đáng ghi nhớ, và hai người thật là tâm đắc. Không quá suy xét chọn lọc, mỗi lần Vân Oanh tạo dáng là Thụy tìm ra một nét đẹp riêng của nàng. Và cứ như thế, anh ghi lại dễ dàng từ Vân Oanh một khuôn mặt trái soan, một mái tóc như bài thơ, còn ánh mắt nàng luôn mang một vẻ buồn thiếu nữ, đó là màu ánh sáng buổi chiều in dấu trên nhung lụa. Khi anh nói nàng đúng là người mẫu, đáp lời, nàng ngồi im lặng  như  tranh vẽ chân dung để cho anh ngắm nàng.

            Hết mười ngày phép, Thụy lại ra đi. Nơi thành phố ấy, đằng sau lưng anh giờ đây  mái nhà ở và những người thân trong gia đình là của nàng. Hãy cứ gọi như thế, mới thấy rằng, hạnh phúc thật quí hiếm. Năm nay cũng là năm cuối của Vân Oanh ở trường Mỹ Thuật. Tới hè, nàng thi lấy bằng tốt nghiệp. Thời đi học, ai cũng có những kỷ niệm đẹp. Vân Oanh sẽ lấy làm vui, rất vui trong thời gian nghỉ hè được trở về với gia đình ở Đà Nẵng. Một mùa hè thong thả, nàng sẽ dành nhiều thời gian để vẽ tranh, hay viết thư cho bạn bè ở xa, và thế nào cũng có một lá thư dành cho Thụy. Vào mỗi buổi tối, nàng sẽ ở bên Mỵ Châu, cô em gái yêu thương của nàng, và nàng sẽ nói rất nhiều lời tâm sự.

            Chỉ vừa mới khoảng hơn hai tháng, vậy mà Thụy cứ tưởng mình rời xa đơn vị lâu lắm rồi. Lòng Thụy cũng đang rộn ràng trong ước mơ được trở thành người phi công. Có lúc, anh buông thả đời mình bằng trí tưởng tượng, nhưng rồi trở về thực tế, suy nghĩ trong mỗi lần cân nhắc, Thụy thấy mình có những điều lo ngại. Thời gian đi và đến sẽ như thế nào, mộng ước thành hay tan vỡ, tất cả hoàn toàn không do chính anh quyết định. Thụy vẫn thấy mình còn lơ lửng. Khi nghĩ đến chuyện thi cử, phần nào Thụy cảm thấy cay đắng. Bởi thế, trong lúc này anh vẫn cứ băn khoăn về một ngày nào đó trong tương lai. Nếu là hiện thực, Thụy sẽ trở thành một phi công và anh được tham dự vào cuộc chiến tranh cùng đồng đội. Rồi từ đó, anh hẳn phải gắn bó cuộc đời quân ngũ, trong ý nghĩa người phi công thời chiến. Cái đẹp trong tiểu thuyết luôn luôn là niềm mơ mộng, dễ thương. Khi thực sự là người phi công, Thụy nghĩ đến hơn tất cả là trách nhiệm của mình qua từng phi vụ trong mỗi ngày hoặc đêm. Anh sẽ cố tự nhủ, mình là phi công không phải chỉ muốn khoác áo cái vẻ lãng mạn, hào hùng giữa mây trời, rồi để làm thơ, hoặc viết tác phẩm văn chương. Khi mong tìm hoặc mơ mộng về những thiếu nữ xinh đẹp, trong tâm hồn Thụy luôn có hình ảnh Phượng. Thế nhưng, anh vẫn chưa gặp hình ảnh nàng qua một ai đó ở ngoài đời. Kỳ nghỉ phép vừa qua anh được gặp Vân Oanh, thực sự thương mến nàng, nhưng anh cũng phải đi xa để viết thư cho nàng đọc, rồi những lá thư ấy sẽ nói anh là một người bạn trẻ rất đồng cảm về  những sắc thái nghệ thuật của nàng từ sự sáng tạo đến cuộc sống. Tối hôm đó, anh Nguyên dẫn đi uống cà phê ở trong khu Thành Nội. Trời đêm lạnh, nhưng ánh trăng ngập sáng cả cung điện hoàng thành. Chiếc bàn gỗ và ghế thấp, Thụy vừa nghe tiếng Vân Oanh nói , vừa ngắm nàng. Về sau, nàng nói với anh, đó là lần đầu tiên nàng nói chuyện về gia đình của mình.

            Trước ngày Thụy đi, bên nhà anh làm một bữa cơm thịnh soạn trong gia đình, món ăn ngon nhất là mì Quảng tự tay Vân Oanh nấu. Xong bữa ăn, anh Nguyên chụp ảnh cho Thụy và cả nhà. Rồi đến lượt Thụy, anh cũng chụp được cho hai người, anh Nguyên và Vân  Oanh những bức ảnh rất nghệ thuật.

            Từ Huế, Thụy đi Sài Gòn bằng chuyến phi cơ C130. Mưa nặng hạt lúc máy bay cất cánh. Khi qua khỏi vùng mây con đèo và biển ở Hải Vân, bầu trời mới  quang đãng trở lại, và máy bay về đến Sài Gòn sau 1 giờ 40 phút bay.

            Về lại Sài Gòn Thụy ở tạm nhà dì Hồng, từ hôm ấy đã qua đi một tuần lễ khóa học vẫn chưa bắt đầu . Mỗi ngày, hết phiên trực gác, có lúc Thụy ngồi quán cà phê đấu hót với bạn bè, có lúc nhảy dù ra ngoài chơi phố. Vào ngày nghỉ, anh dành thì giờ cho một số công việc làm: giặt giũ quần áo, viết thư, và luôn sáng tác truyện ngắn. Khi nào viết xong, ngày hôm sau Thụy tìm đến ngay các tòa soạn tuần báo gởi đăng để kiếm tiền nhuận bút. Những gì Thụy viết lúc này là cốt kiếm chút tiền để chi tiêu và cơm nước. Anh chỉ ở tạm nhà dì Hồng, còn đến bữa anh thường ra ăn ngoài. Rồi ăn xong, Thụy thường đi chơi phố , la cà dọc theo con đường có những quầy hàng bán sách báo cũ. Lúc nào có mặt ở đây, Thụy cũng mua được ít cuốn sách truyện hay, giá rẻ.

            Buổi chiều hôm nay, trời Sài Gòn thật đẹp. Thụy đang rảo bước, bỗng nghe tiếng gọi tên, nghe đến lần thứ hai anh mới dừng bước.

            Liên An mặc áo dài trắng, nàng vội băng qua đường, hình ảnh đó Thụy ghi nhớ mãi. Tới gần, nhìn thấy nhau, trên gương mặt Liên An hiện rõ một niềm vui. Rồi nàng nói:

-Em mong gặp anh.

            Chiếc túi giấy Thụy đang cầm có hai cuốn sách cũ mới mua xong. Hai người bên nhau, ngược con đường đi lên phía rạp hát. Ngôi nhà thờ ở xa thấp thoáng ánh sắc đỏ của màu ngói và cả một vùng nắng sáng lòa, tỏa rộng.

-Anh mới về phép thăm nhà.

-Anh có gặp chị Vân Oanh không ?

-Có.

            Thụy kể lại cho Liên An nghe về chuyến đi hôm ấy cùng Vân Oanh từ Đà Nẵng ra Huế.

-Bất ngờ như vậy, hay quá. Có thể thành nên một câu chuyện hay để anh viết.

-Vân Oanh,  bây giờ là chị dâu của anh.

-Em biết.

            Khi Thụy đưa Liên An vào quán Cái  Chùa, bà Huyền Chi trông thấy, mỉm cười. Quán đông khách, nồng lên mùi khói thuốc, và lúc đứng chờ Thụy cũng có ý tìm gặp bạn quen. Ở bàn trong cùng có ba người khách rời ghế, Thụy liền nắm tay Liên An kéo đi.

            Người hầu bàn đến, chờ ông ta dọn dẹp xong, Thụy nói:

-Hai cà phê.

            Liên An nhìn Thụy, nàng nói:

-Em thấy lúc này anh khỏe ra.

-Ngày anh về Huế không có Liên An.

-Chị Vân Oanh ra sao ?

-Anh Nguyên và chị sắp làm lễ hỏi.

-Em biết.

            Hai ly cà phê mang ra. Thụy bỏ vào ly của Liên An hai viên đường.

-Anh cho thêm một viên nữa.

            Thụy bỏ thêm cho Liên An, còn bên anh hai viên là đủ.

-Anh về thăm nhà vui không ?

-Anh có mười ngày với Huế, nhưng đi đâu cũng không tìm thấy em.

-Ngày mai em lên đường.

-Em đi chuyến bay sáng hay chiều ?

-Ban đêm anh, 12 giờ đêm.

            Khi đặt tách cà phê xuống dĩa lót, Thụy đốt điếu thuốc.

-Em uống cà phê giờ này, sợ mất ngủ không ?

-Không, em cũng thích cà phê.

            Người lính thở nhẹ làn khói. Những sợi khói mỏng lãng đãng trước đôi mắt Liên An. Với ánh mắt ngập ngừng trong dáng vẻ nghiêm trang, Liên An ngồi đó nhìn Thụy, mỗi lúc tưởng như trong cái nhìn ấy, những điều gì nói được với nhau dần dần thể hiện rõ. Liên An thật chỉ muốn dành cho Thụy một hình ảnh áo trắng. Thụy chợt nghĩ đến Huê. Rốt cùng, anh vẫn một mình, trơ trọi.

            Tự nhiên Thụy giật mình lúc nghe tiếng Liên An hỏi. Vừa ấp úng, anh đáp:

-Không, không có ai cả.

-Đừng có giấu em, nàng cười.

            Vừa thấy người hầu bàn đi ngang, Thụy gọi lấy thêm bánh.

-Hai cái.

-Không, một thôi.

            Khi dĩa bánh mang ra, Thụy để dành cho Liên An.

-Anh ăn đi.

-Anh muốn nhìn em ăn.

            Cà phê đã nguội, nhưng uống vẫn ngon.

            Liên An ăn bánh. Thụy bắt đầu cảm thấy dễ chịu, và nói:

-Anh về phép được mười ngày, những ngày ở Huế thật vui.

-Anh có ra Quảng Trị không ?

-Không, lần này chỉ ở Huế. Bữa cơm thân mật trong gia đình có Phương nữa. Vân Oanh làm món mì Quảng, hôm đó, vắng mình em thôi. Nhi nói cho anh hay sách vở học của em và Phương, cô hưởng hết.

            Liên An cười. Trên dĩa, chiếc bánh còn một nửa.

-Em có viết thư cho anh đọc không ?

-Không.

-Em qua Mỹ, học bao nhiêu năm ?

-Bốn năm.

-Em ở  tiểu bang nào ?

-California.

            Thụy nói với Liên An:

-Nếu anh được gởi đi học, anh sẽ ở bên Texas.

-Anh cũng sắp đi Mỹ.

-Anh xin đi học về ngành hoa tiêu. Nhưng khóa học thì vẫn đang chờ.

-Anh mà đi, nhớ cho em hay.

-Em nói không viết thư cho anh đọc mà.

            Nàng bảo:

-Anh đừng làm bộ ngây thơ.

-Anh lúc nào cũng tin lời người khác, nhất là em.

-Em cũng giống như Phương thôi.

-Em nói không đúng. Em là người ở phương xa.

-Không chính xác. Em là người sắp đi tới phương trời xa.

-Liên An bắt đầu lãng mạn rồi.

            Liên An cười, ánh sáng trên đôi mắt khép lại như giấc mơ.

            Không ăn nốt phần bánh còn lại, nhưng cà phê cô gái uống hết.

            Và, Liên An đưa tay ra ngăn lại không để cho Thụy trả tiền.

            Ra ngoài đường phố, buổi chiều Sài Gòn trời thật đẹp.

-Nếu trời thình lình đổ mưa, em có đón xe về nhà không ?

-Không đâu, em ở bên anh hết buổi chiều nay.

            Hai người đi lên phía khu nhà thờ. Bên phải nhà thờ là nhà Bưu diện, bên trái có một hiệu sách. Lúc nãy, khi quay đầu về phía trong quầy có cửa kính, Thụy trông thấy bà Huyền Chi. Bà chỉ nhìn anh, và có lẽ bà còn nhìn theo anh và Liên An lúc hai người đi ra phía cửa chính.

-Thời gian anh đi học lâu không ?

-Anh chưa biết. Nhưng khoảng chừng hai năm.

-Em mới nhận được thư của Ngọc. Sáu tháng nữa, anh ấy về nước.

-Anh Ngọc đang ở đâu ?

-Texas, anh qua sớm sẽ gặp Ngọc.

-Anh sẽ nói gì với  Ngọc, nếu gặp.

-Anh kể chuyện về anh, và có những lần gặp em, ở Huế, rồi Sài Gòn.

-Anh và em, còn nhớ nghĩ đến nhau không ?

-Luôn luôn.

-Nhớ thôi, không có chờ đợi.

-Không. Nhưng anh không có gì để làm em quên anh cả.

-Vậy anh chỉ có một tình yêu em gái thôi.

-Anh nói đúng.

            Khu nhà thờ với dáng màu ngói đỏ và nơi đây lá cuối mùa thu rụng xuống hết trên các lối đi và trên vỉa hè. Thụy đưa Liên An tới phía công viên có cỏ, rừng cây, nằm đối diện với dinh Độc Lập.

-Em có hay chụp ảnh không ?

-Cũng thích lắm.

-Không có chiếc máy ảnh cho anh chụp em một vài tấm kỷ niệm.

            Buổi chiều chợt trở lạnh. Liên An và Thụy  ngồi xuống băng ghế. Hai người bên nhau nhìn quang cảnh phố, nhìn màu cỏ xanh tươi và những hàng cây trong công viên.

-Liên An đã làm lễ hỏi chưa ?

-Chưa, anh.

-Rồi Ngọc, còn chờ đợi Liên An về nước.

            Cô gái gật đầu.

-Anh vẫn nghĩ mình xa lạ với em.

-Em không phải là người anh mong đợi. Em biết.

-Anh không có một ai hết.

-Em biết.

-Nhưng, anh không nghĩ mình là bơ vơ, đơn độc.

            Liên An nhìn qua Thụy:

-Anh chỉ giữ mãi ảnh hình của Ninh Hà.

-Người bạn học của anh thời trước. Anh không có gì về kỷ niệm với người bạn ấy.

-Có chứ, anh đừng giấu em.

-Có, trong tiếng nói của người bạn.

-Em ở bên anh lúc này, anh cảm thấy vui không ?

-Anh thấy rất vui. Liên An là buổi chiều của anh.

-Em luôn nhớ đến anh.

-Biết đến bao giờ anh gặp lại em.

-Thời gian sẽ nhắc nhở cho anh hay.

            Đôi mắt Liên An nhìn lâu vào gương mặt Thụy. Và, nàng mỉm cười. Lúc này bên anh, nàng muốn kể cho anh câu chuyện giữa nàng và Ngọc. Nàng lại nghĩ, kể xong hết  chuyện, Thụy sẽ không có chút gì ngạc nhiên, cũng không tự so sánh để ôm lấy mối mặc cảm. Dù sao, Thụy đã là một người lính.      

            Sự ra đi của anh Châu ngày ấy gây cho tôi một nỗi buồn, quyến luyến. Những ngày đầu, tôi rất nhớ đến anh. Tôi nhớ những buổi tối có trăng ngồi đánh cờ, chuyện trò với anh, nhớ tới  những cuốn sách của anh đưa cho tôi đọc. Và , lại còn tình thân của anh cho gia đình tôi nữa, tôi rất thích những chuyện anh kể về Hà Nội, về những tỉnh lỵ, những vùng quê miền Bắc. Tôi luôn coi anh như là người anh cả.

            Trưa hôm ấy, nằm nghe  cơn mưa xuống thật nhẹ mát, tôi đọc lại cuốn truyện Bướm Trắng của nhà văn Nhất Linh. Cô Thu trong Bướm Trắng đã cho tôi hình dung một thiếu nữ đẹp, sắc nét, rất có thể rồi đây tôi sẽ gặp một cô gái giống như thế ngòai đời. Tôi đọc xong trọn chương đầu, cảm thấy buồn ngủ rồi buông sách. Tôi ngủ ngon giấc và nằm mơ thấy Ninh Hà. Nàng và tôi ngồi trong lớp học ồn ào, đông bạn bè vây quanh. Các cô bạn mặc nhiều màu áo khác nhau, chỉ có Ninh Hà mặc áo dài trắng. Lớp học đang giờ nghỉ, học sinh nói chuyện, và hầu như ai cũng chú ý đến chúng tôi. Một lúc sau đó, Ninh Hà và tôi lên ngồi trên bàn học cạnh bên nhau. Tà áo dài của nàng lấp qua một bên. Nàng đưa tay qua kéo tôi lại gần, rồi lúc đó, nàng hé môi. Tôi cúi xuống đặt môi hôn, vừa ôm nàng. Tôi cảm thấy cả môi tôi và nàng cùng thơm một thứ vị ngọt trái cây. Tôi ngửi được cả hương vị thơm như gạo mùa nơi chiếc áo trắng nàng mặc. Hai chúng tôi vẫn quấn quít trong cặp môi hôn, không rời nhau. Chiếc áo trắng Ninh Hà mặc đã làm tỏa ngập ánh sáng khắp căn phòng.

            Khi tôi thức giấc, trời tạnh mưa. Chiếc đồng hồ để trên bàn học chỉ 3 giờ. Tôi ngồi dậy trong yên lặng, sau đó đi rửa mặt, rồi trở về phòng thay quần áo. Tôi mặc chiếc áo sơ mi màu nâu đậm, quần vải kaki vàng nhà binh. Tôi mở ngăn ví, thấy có ít tiền còn ở ngăn giữa.

            Đường Trưng Nữ Vương bắt đầu từ Viện Cổ Chàm chạy qua khu chợ Mới và lên thẳng đến vòng đai phi trường. Nhà dì tôi ở quãng giữa, cách ngã ba đường đi ra phía biển chừng vài chục mét. Ở khu dưới này chỉ có một ít nhà xây, còn hầu hết là những xóm nhà lao động. Quán ăn, quán giải khát cũng mọc lên nhiều. Vào sáng thứ bảy, chủ nhật, con đường đông khách ăn, vì các quán bán món ăn bình dân ngon và rẻ. Từ ngày ở Đà Nẵng, tôi đâm ra ghiền món mì Quảng. Món ăn này đặc biệt của người ở miền trong này, và khi bạn đến đây, ghé quán mì Quảng, bạn sẽ thấy món ăn hấp dẫn, no và ngon miệng. Đó là những sợi mì dai và dày bỏ vào trong cái tô có rau, thịt kho ba chỉ, bánh tráng, đậu phụng. Khi bạn đói, có thể bạn ăn đến hai tô là thay thế cho bữa ăn trưa hoặc tối. Ở thành phố này những quán bán mì Quảng mở  từ sáng sớm đến chiều tối.

            Buổi chiều vang lên giữa hư không tiếng còi tàu vọng từ bến Cảng. Tôi hình dung thấy một con tàu đang rời bến. Ngày mai tôi ra Huế. Ngày mai, tôi về lại với gia đình. Còn lại buổi chiều nay cho tôi nhớ đến Ninh Hà. Trong giấc ngủ tôi mơ thấy nàng và giờ đã tan biến. Nhưng mà nàng vẫn còn đi từng bước chân qua trí tưởng của tôi. Tôi bỗng liên tưởng đến một tên gọi xa xăm.

            Tôi đạp xe ngang qua khu công viên, đối diện với trường tôi học. Bên trong sân trường, có một số học sinh đang chơi bóng chuyền.

            Gió thổi mát. Tôi dừng xe trước nhà Ninh Hà. Cửa hiệu luôn có khách ra vào mua các lọai mỹ phẩm. Tôi nghĩ là nàng có ở nhà. Nếu như có Duy vào, rất có thể giờ này nàng ở nhà Duy trong căn phòng riêng của chàng. Duy và nàng đã gắn bó nhau cả tâm hồn và thể xác. Tôi có ý nghĩ, thân xác của hai người luôn đầy đủ, có lúc dư thừa. Và, họ sẽ nói gì với nhau ngòai chuyện thân xác. Trên gương mặt Ninh Hà, tôi luôn nhận ra, nàng có một đời sống riêng, một câu chuyện riêng mà Duy không thể biết. Tiếng nói của Ninh Hà khi dành cho tôi như biểu hiện điều đó.

            Hai khách hàng rời cửa hiệu. Vừa lúc thấy tôi xuất hiện, ông Kha vui vẻ kêu lên. Tôi lên tiếng chào ông và bà Uyên.

-Cậu ngồi chơi. Tôi trở lại bây giờ.

            Tôi đáp dạ, ngồi xuống chiếc ghế rộng cầm tờ báo đọc. Ông Kha trở lên nhà, ông có vẻ thỏai mái sau công việc vừa mới pha chế hàng mỹ phẩm xong.

            Ông đưa gói thuốc mời tôi một điếu. Tôi cầm lấy, mồi lửa từ cây diêm vừa bật cháy. Có tiếng nhạc từ trên căn gác vọng xuống. Tiếng hát Thái Thanh nghe rõ và trong.

            Về đây khi mái tóc còn xanh xanh

            Về đây với màu gió ngày lang thang

            Tôi lắng nghe đến khi tiếng đàn đệm bản nhạc buông dần, rồi tiếng hát ngưng. Sau ít giây còn xúc động, tôi định thần trở lại, vừa lúc ông Kha hỏi:

-Các trường có nghỉ lễ Phục Sinh không ?

-Dạ có. Ngày  mai cháu ra nhà.

            Cửa hiệu chiếm hết một nửa phòng khách với nhiều tủ kính nhỏ dựa lưng tường. Ở ngòai mái hiên, một cái tủ lớn bày hàng và có bán cả thuốc lá.

            Khi chị giúp việc đem lên hai cái ly lớn có nước đá, vừa nghe giọng mời, tôi đóan chừng chị là người ngòai quê tôi.

            Bà Uyên nói:

-Cậu đây là người ở Quảng trị.

-Chào cậu.

-Chào chị.

-Ở Quảng Trị, cậu ở ngay tỉnh.

-Dạ, ngay tỉnh.

            Ông Kha rót bia vào hai ly.

-Tôi ở Trường Sanh, chị nói.

-Trường Sanh gần Hải Lăng, quê nội của tôi.

            Chị giúp việc tên Trà. Nói qua chuyện ít câu với tôi, xong chị xuống nhà. Ở cửa hiệu, thường có hai người đến giúp việc vào ngày thường trong tuần. Công việc của họ là súc rửa chai , rồi cho hàng vào chai và dán nhãn.

            Tôi cầm ly bia uống một ngụm đầy. Ông Kha nói:

-Các ông Tướng làm Cách Mạng bị quản thúc hết.

-Các ông bị đưa lên Đà Lạt.

-Tình hình vẫn chưa yên ổn.

-Bây giờ, ông Khánh được Mỹ ủng hộ. Ông ấy cũng là tay chân ông Diệm.

-Cậu có nghĩ là mấy ông Tướng trung lập không ?

-Cháu không biết. Nhưng cháu nghĩ những vị Tướng bị quản thúc thân với người Pháp.

            Nắng sáng lên ở ngòai. Lúc tôi rời khỏi nhà, trời còn âm u sau cơn mưa tự lúc trưa. Tôi nôn nao mong được gặp Ninh Hà. Bỗng tôi nhớ đến giấc mơ gặp nàng ở lớp học. Giấc mơ  hẳn còn đây, đang dâng lên mùi thơm chiếc áo trắng nàng mặc.

-Uống đi cậu.

            Tôi cầm ly bia ông Kha vừa rót thêm. Tôi nhìn lại gương mặt của ông. Mỗi lần nhìn ông, tôi như cố gợi nhớ trong đầu một con người tôi đã gặp ngày nào đó. Và, tôi luôn có cảm giác, lướt qua hình ảnh ông là một chuyến xe lửa trở về dừng lại bên tháp nước nhà ga. Dòng nước mạnh tràn chảy trên máng xối. Khói đầu máy tàu, buổi chiều xôn xao những tiếng động quanh vùng núi, rồi một lúc sau, con tàu rời ga xép ra đi.

-Uống bia tốt lắm cậu. Đỡ khát nước.

            Lòng tôi vui hẳn lên cùng với men rượu và nụ cười chợt sáng khi ngước mắt trông về phía cầu thang thấy bóng Ninh Hà đi xuống. Tiếng bước chân nàng gây tiếng động, và tôi nghĩ ngay đến những lời mình sẽ tìm ra được một câu chuyện để nói với nàng, và được ở lâu bên nàng.

            Ninh Hà đi xuống nhà dưới, rồi một lúc sau trở lên gặp tôi.

-Ba cho con một ly.

            Ông Kha khui chai bia lớn, rót vào cái ly nhỏ cho nàng uống.

-Anh có ra thăm nhà không ?

-Có. Ngày mai anh đi.

            Tôi và Ninh Hà đưa mắt nhìn nhau. Gần bên nhau, Ninh Hà luôn cho thấy vẻ đẹp của nàng. Nàng không chỉ đẹp với những tà áo dài tôi thường gặp nàng ở lớp học. Nàng đẹp giản dị và quyến rũ cả trong bộ áo quần nhẹ mặc ở nhà. Nàng mặc quần áo nhẹ như  gió mát và hương gió ấy ngây cây lá trong vườn. Hai cánh tay nàng để trần, vòng cổ thon thả và khuôn ngực để lộ ra một lớp sữa trắng đọng như thể là một phần của bức tượng nghệ thuật mà chất liệu sáng tạo là sự pha trộn các thứ trái cây.

-Em đang dọn lại căn gác.

-Xong chưa ?

-Em nhờ anh đưa chiếc kệ lên căn gác, được không ?

            Không giấu được xúc động, tôi nhìn người bạn gái. Nàng hiểu, mỉm cười.

            Ông Kha đứng lên nói:

-Tôi trở lại làm việc. Hết giờ nghỉ.

            Ông nói với tôi một câu tiếng Pháp. Còn lại tôi và Ninh Hà bên nhau:

-Hai tuần nghỉ, em có tính đi chơi đâu không ?

-Không.

            Khi thấy tôi nhìn nàng lâu, nàng ra vẻ nghiêm trên cặp mắt. Rồi nàng bảo:

-Lên gác đi.

            Tôi theo Ninh Hà xuống nhà dưới. Chiếc kệ chùi rửa xong được đặt cạnh bể nước. Tôi nhấc thử chiếc kệ, nói:

-Anh đem lên một mình được.

            Tôi nhấc chiếc kệ để lên vai. Vào lối cầu thang, Ninh Hà nhường tôi đi trước, một tay nàng đỡ phía sau. Từng bước chậm, chắc chắn. Khi lên khỏi cầu thang hẹp, tôi thực sự cảm thấy chiếc kệ đang dồn sức nặng nhưng cố gắng đặt xuống nhẹ nhàng. Sức nặng chùng xuống theo chiếc kệ vừa đặt, lòng tôi thực sự vui được ở bên Ninh Hà .

            Tôi nhìn qua lối cửa, hỏi:

-Em muốn đặt ở đâu ?

            Ninh Hà bên tôi, má ửng hồng làm tôi đắm say nhưng cố che giấu sự ngượng nghịu.

-Anh muốn đặt ở đâu ?

-Bên cửa sổ.

-Em theo ý anh.

            Tôi và Ninh Hà mỗi người một đầu nhấc chiếc kệ di chuyển đến cho đặt dựa vách tường sát cửa sổ.

            Hai người nhìn nhau qua ánh mắt. Tiếp đó, khung cảnh và những đồ đạc trên căn gác hiện ra. Chiếc giường ngủ, chăn màn, tủ đựng quần áo, bàn học, sách vở và báo. Chiếc radio nhỏ hiệu Nationale với cần ăng ten còn kéo lên.

-Em để lại anh một mình.

            Ninh Hà cười, xong bỏ đi. Tôi gật đầu với vẻ mặt lo âu. Nàng đã rời căn gác đi xuống cầu thang. Tôi bâng khuâng nhìn theo bóng nàng, lòng tiếc nuối, và ước mong chỉ được ở bên nàng.

            Ninh Hà không ở bên tôi nữa. Tôi chưa biết làm gì. Căn gác bỗng dưng trống vắng, lạnh lùng. Bất chợt, tôi đưa mắt qua nhìn những chiếc áo dài của Ninh Hà được để vào móc áo treo thành hàng trên một sợi dây kẽm bên lưng tường. Ánh sáng từ ngòai cửa lọt vào, cái vẻ sáng mở ra màu sắc những chiếc áo dài vừa dửng dưng, buồn lặng. Tôi biết mình không thể nói, đôi mắt bình yên nhìn từng chiếc áo của nàng với cảm giác đang nhìn theo con đường trên một dãy phố. Trong phút này, tình yêu thương người bạn gái của tôi thật đằm thắm, tôi đứng lặng yên nghe lời tự nhủ, mỗi chiếc áo là một hình bóng, một quãng đời đã in dấu lên trên đó bao nhiêu kỷ niệm thân thương của nàng. Đến cả tiếng nói nữa, mỗi chiếc áo đã gói lại nỗi buồn,  và tiếng nàng nói nghe như một lời gọi bâng quơ rất xa, rất nhớ trong tình mẫu tử. Nàng rất đẹp, quyến rũ biết bao nhiêu mỗi khi nàng lấy một chiếc áo dài để mặc.

            Bỗng có tiếng Ninh Hà thốt lên:

-Anh cất giữ của em, phải không ?

            Ninh Hà đang đứng ở cửa lúc nào tôi không hay. Trên tay nàng cầm hai ly nước đá chanh.

            Tôi đang tìm một câu hay để nói. Ninh Hà đến gần tôi, đưa một ly cho tôi. Hai người kéo ghế ngồi xuống bàn học. Khi chiếc muỗng khuấy nhẹ trong ly nước ngừng tiếng động, tôi nói:

-Anh có được những chiếc áo dài của em. Có được trong đó nữa, biết bao nhiêu là hình ảnh của em.

            Ninh Hà nhìn sang phía những chiếc áo đang treo ở sợi dây kẽm. Nàng bỗng hỏi tôi:

-Anh thương em, bạn anh có biết không ?

-Bạn bè anh và em, ai cũng biết.

-Anh thấy màu áo có sặc sở lắm không ?

-Không, màu nào cũng phác vẽ cho em một nét đẹp riêng.

-Em biết, những gì của em anh cũng đều thấy đẹp.

-Không lúc nào hình ảnh em vắng trong anh cả. Em vắng đi, anh cứ đợi chờ.

            Chúng tôi uống nước, cảm thấy đỡ khát. Ninh Hà làm nước chanh thật ngon. Rồi một lúc sau, tôi đứng lên bắt đầu công việc.

            Ninh Hà chuyền sách cho tôi sắp.

-Ở Huế, nhà anh ở đâu ?

-Ở gần chùa Từ Đàm. Hồi ở Quảng Trị, em có hay đi Huế không ?

-Có, một đôi lần. Em đi với ba bằng xe lửa.

            Tôi cầm cuốn sách truyện Ninh Hà mới đưa lật coi nội dung vài trang rồi gấp lại. Tôi bỗng nói với người bạn:

-Nhà anh ở Quảng Trị đối diện với tháp nước. Những năm sống ở đó, anh luôn nhớ rõ những chuyến tàu khi về đến ga. Thời kỳ đó, mẹ anh có mở một quán hàng cơm ngày nào cũng đông khách.

-Anh có phụ giúp cho mẹ anh không ?

-Có, bưng cơm nước phục vụ cho khách ăn. Công việc này, mẹ anh có cho anh tiền ăn quà.

-Anh giỏi lắm.

-Cám ơn em.

-Ninh Hà  ạ.

-Gì anh ?

-Anh nhớ thời xưa đó anh gặp một cô bé có cặp mắt giống em.

-Có em, anh lại tưởng tượng thêm nhiều hình bóng khác nữa.

-Có em, một hình ảnh thôi , chưa đủ.

-Anh ra Huế bao nhiêu ngày ?

-Hết kỳ lễ Phục Sinh.

-Anh có đi Quảng trị không ?

-Có. Anh muốn về thăm lại thành phố nhỏ đó.

-Anh nhớ thăm cả thành phố cho em.

-Anh nhớ đến em khi về lại ngòai đó.

-Nhưng mà...

-Sao em ?

-Thôi, chẳng có gì cả.

-Em thích thứ quà gì ở Huế.

-Hay quá. Lúc vào, anh nhớ mua cho em mè xửng.

-Anh sẽ mua mè xửng, cả bánh đậu xanh nữa. Em thích không ?

-Rất thích.

            Công việc đang làm như thể là cái cớ để cho tôi và Ninh Hà chuyện trò, được gần gũi nhau, và có được chút cơ duyên vừa buộc ràng tình bạn, vừa thắt tình yêu thêm một gút. Bên ngoài, mây trời và quang cảnh phố trôi đi trong bình yên. Khi câu chuyện ngừng hẳn, tự dưng tôi có cảm giác lâng lâng, lạ thường. Những cuốn sách sắp thành hàng ngay ngắn, đẹp mắt, tôi hài lòng và bạn tôi cũng cảm thấy vậy.Tiếng nói Ninh Hà hay lạ, rồi trong tiếng nàng xưng em dịu ngọt, tôi cố gắng ngăn chận cảm xúc ôm hôn nàng. Sau đó, tôi nghe âm thanh của hư vô và trong im vắng, tôi có cảm giác mình trải rộng cánh tay để đón lấy những tiếng nói từ  từ của người yêu nhẹ nhàng như những chiếc lá đang rơi.

            Bỗng Ninh Hà gọi tên tôi.

-Đây này, cho anh Thụy xem.

            Tôi vừa quay đầu lại, Ninh Hà đưa cho tôi cuốn album.. Tôi vội ngừng công việc đứng lên đi tới chỗ bàn học kéo chiếc ghế ngồi xuống. Ninh Hà ngồi bên tôi, gần hơn. Tôi cầm ly uống hớp nước, cố lấy sự tự nhiên.

            Chúng tôi cả hai cùng yên lặng. Tôi hơi run rẩy trên đầu hai ngón tay. Sau đó, sự rung động như muốn tôi bày tỏ bằng lời nói. Cuốn album lớn bằng khổ một cuốn sách. Tôi mở ra trang đầu, hạnh phúc ấm áp ùa ngập, tràn đầy lên cả mặt tôi. Rồi nhẹ nhàng, hơi ấm đó tan dần. Những bức ảnh đen trắng, lớn có, nhỏ có, được dán thành hàng ngay ngắn, và mỗi tấm cho tôi đoán được tuổi của Ninh Hà trên gương mặt. Mỗi cái nhìn từ ánh mắt tôi tỏa xuống trên bức ảnh người bạn, đó là tình yêu mà tôi biết nàng rất hiểu. Không để yên lặng lâu, tôi hỏi chuyện để được nghe tiếng nói của Ninh Hà. Có một bức ảnh chân dung rất lạ tạo nên gương mặt Ninh Hà một bức tranh sống động, gần gũi, đam mê. Giọng nói nhỏ, mắt tôi nhìn qua người yêu.

            Ninh Hà nói:

-Em chụp tấm hình này ở Quảng Trị.

-Anh cảm động nhớ em ngày trước ở đó.

            Tôi vẽ lại thành phố cũ, căn nhà xưa, qua sự  mường tưởng những âm thanh trong giọng nói củaNinh Hà , và tôi cố gắng tìm đúng trong lòng mình một giọng nói trung thực để tôi gửi hết quê hương tới cho nàng.

            Tôi lật xem những tấm ảnh khác. Ninh Hà đang ngồi bên tôi. Tôi có được Ninh Hà cả hình ảnh và con người. Từng phút giây thời gian cứ lũy thừa gấp nhiều lần cho tôi cảm tưởng rằng, hạnh phúc trong kỷ niệm, về sau sẽ được ghi nhớ rất là lâu.

            Cuốn album xem xong được gấp lại để trên bàn. Trở lại công việc, chúng tôi nói chuyện học hành thi cử. Ninh Hà nói với tôi nàng muốn theo ngành Dược khi lên Đại Học. Hình dung Ninh Hà với bao nhiêu nét trẻ đẹp, tươi vui, qua chiếc áo blouse trắng thời gian sẽ trở thành vùng ánh sáng, ôi, hạnh phúc cho bất cứ ai được lấy nàng làm vợ. Tôi nhận ra rằng, tôi chỉ là người bạn của nàng. Người bạn của nàng trong thời thơ ấu, và những kỷ niệm khi tìm kiếm, tôi luôn cố nhớ ra từng âm sắc trong tiếng nói của nàng.

            Ninh Hà bật đèn sáng. Những cuốn sách sắp hết trên kệ rất ngăn nắp, sạch sẽ, sáng sủa.

-Ngày mai anh ra Huế.

-Ngày mai anh về với ba mẹ và các em của anh.

-Anh có đi Quảng Trị không ?

-Có.

            Tôi nghe sự lập lại của bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu lời nói và ghi nhận thêm một thoáng ý nghĩ trong đôi mắt Ninh Hà . Thành phố quê hương tôi, Ninh Hà đã ở đó, đã qua một thời thiếu nữ với những lớp học, bạn bè, những con đường đi học thân quen.

            Khi thấy Ninh Hà mở cuốn album ra xem, tôi viết trong trí nhớ tôi một dòng chữ.  Đó là những dòng lưu luyến của tôi khi yêu nàng, và luôn nhớ đến nàng qua những chiếc áo dài nàng mặc.

-Em tặng anh.

            Tôi nhận tấm ảnh của Ninh Hà. Dưới nhà, có tiếng ông Kha nói với người vợ.

-Anh sẽ đi giao hàng ba nơi.

-Có kịp không ?

-Kịp chứ. Chừng một giờ thôi, anh về.

-Em đợi cơm.

-Nói với cậu Thụy ở lại ăn cơm.

-Vâng. Cậu đang ở trên gác.

            Tôi cất tấm ảnh của Ninh Hà vào cuốn sách học nàng cho tôi giữ. Nụ cười Ninh Hà làm cho căn gác như thể là nỗi vui của giờ ra chơi. Tôi thật muốn nấn ná ở lại bên nàng.

-Em có bài học nào cần anh giúp không ?

-Có.

            Ninh Hà rút ra một tờ giấy lớn. Khi tôi cầm bút, nàng nói:

-Cho anh đi trước.

            Tôi đánh dấu nhân lên ô giấy. Khi chơi, chúng tôi nghĩ đến nhau trên mỗi quân cờ. Tôi cũng còn mường tượng những tờ giấy mà chúng tôi thường chơi cờ ca rô, Ninh Hà vẫn giữ làm kỷ niệm.

            Ông Kha vừa rời nhà. Tôi nghe tiếng xe đạp lăn bánh ra ngòai thềm hiên.

-Anh đi tiếp.

            Tôi lơ đãng ghi một dấu nhân gần hàng ba.

-Anh lơ đãng rồi.

            Tôi nhìn lại Ninh Hà. Nàng cũng nhìn lại tôi và cuộc chơi như thể muốn ngừng.

-Anh chỉ muốn có em bên anh.

            Tôi viết lên mặt giấy điều tôi muốn nói.

-Em đang ở bên anh.

-Anh...

            Tôi chỉ viết được một chữ, tay run lên. Ninh Hà cười, nàng bảo:

-Anh đánh tiếp đi.

            Ván cờ chơi dở, lại tiếp tục. Trong lúc Ninh Hà cúi xuống với mái tóc, tôi đặt bàn tay tôi lên tay nàng. Nàng để yên.

            Cuộc chơi ngừng. Tôi đứng lên dịch chiếc ghế lại gần Ninh Hà. Ngồi bên nàng, tôi mở rộng cánh tay ôm lấy thân nàng. Nàng không có gì nôn nao, bối rối. Sự bình thản của nàng cho tôi hiểu rằng, nàng là một cô gái sống rất cởi mở.

 

 

                                                             II

 

 

            Khi biết Ninh Hà dành cho tôi một tình bạn, vừa cởi mở tình yêu tôi thật là hạnh phúc, ước ao luôn có nàng bên cạnh. Sự biểu lộ niềm vui của nàng những lần ở lớp, hay lúc đến nhà chơi cho thấy nàng thực sự đã yêu.

            Về phần mình, tôi có niềm ước mơ một ngày nào đó trong kỳ nghỉ hè, tôi mời Ninh Hà ra thăm Quảng Trị, thăm lại làng quê của tôi cả bên nội và ngọai. Hai chúng tôi sẽ đem theo xe đạp, và lên đường bằng xe lửa.

            Hãy nghĩ rằng, chúng tôi có một thời tuổi trẻ yêu nhau.

            Hãy nghĩ rằng, giấc mơ này như là một hiện thực.

             Buổi sáng sớm, tàu rời ga Đà Nẵng. Hình ảnh một chuyến tàu đã dừng lại và ra đi từ nơi đây, gợi nhớ trong tôi nỗi xúc động của tuổi nhỏ về kỷ niệm biệt ly giữa tình bạn học trò.

            Tàu chuyển bánh chậm rồi bắt đầu nhanh. Ngồi bên cửa toa, tôi và người bạn gái vui thích nhìn ra quang cảnh thiên nhiên, từ những mái nhà, các dãy đồi, rồi biển và núi. Câu chuyện của chúng tôi vui, ríu rít tiếng cười nghe như những tiếng chim hót, và đứa nào cũng giành nói, cũng muốn cho rằng những ý tưởng mình về sự quan sát cảnh vật như thể sẽ viết ra được ngay một bài luận về cuộc du ngọan trong lúc này. Rồi tới lúc mệt, chúng tôi cười lấy nước mời nhau uống xong chìa môi cho hôn nhau. Bỗng nhiên, con đường hầm Hải Vân bóng tối bao phủ, dài hun hút, nghe ồn lên trong tiếng động ầm ầm của chiếc đầu máy xe lửa.

            Những nhà ga ghé lại rồi rời xa. Bây giờ, trước mắt chúng tôi là đồng ruộng, những thị trấn miền quê. Hình ảnh miền Trung nghèo khó làm cho Ninh Hà cảm động, thêm biết bao nhiêu ý tưởng về tình người để sau này lớn lên nàng sẽ là một người mẹ rất đáng quí. Nàng cho tôi nghĩ đến mẹ tôi qua hình ảnh nàng. Ngày xưa đó, mẹ tôi còn trẻ, và nàng bây giờ có gương mặt rất giống mẹ tôi, nhưng nàng đẹp hơn.

            Tàu chạy hơn nửa ngày mới tới ga Diên Sanh. Đây là một ga nhỏ nằm trông ra cánh đồng trống, cách tỉnh lỵ Quảng Trị mười cây số. Hai chúng tôi xuống ga, dắt xe đạp đi  bên nhau tới cửa kiểm sóat vé. Một nhân viên hỏa xa vui vẻ chào chúng tôi. Anh là một cựu quân nhân giải ngũ, giọng nói nghe nặng như tôi,  nhìn anh tôi chợt nghĩ đến những người thân của mình.

            Đường Quốc Lộ I  Nam Bắc chạy ngang qua nhà ga và thị trấn. Đây là con đường tráng nhựa rất tốt. Ở quãng này, quốc lộ cùng song song với đường xe lửa. Tàu đã rời ga đang chạy hướng về cây cầu. Bên dưới cây cầu, con sông chảy qua , dòng nước rất sâu. Hồi còi tàu cất lên rộn rã, những cụm khói cao ngất tỏa rộng xám vùng trời.

-Ở đây có gần Quảng Trị không anh ?

-Mười cây số nữa em.

            Tôi và Ninh Hà cùng lên xe đạp. Trong tôi, còn giữ lại âm sắc giọng nói của người yêu. Nắng xế trưa lan rộng khắp các ngôi làng. Có vài đám khói lam lượn lờ vươn lên khỏi rặng tre. Ninh Hà rất vui khi có tôi bên nàng. Ninh Hà đội chiếc mũ vải màu lam, mặc áo sơ mi trắng, quần tây màu xám tro. Hai chúng tôi đem theo mỗi người cái túi xách treo trước ghi đông xe. Trong túi xách có quần áo, nước uống và thức ăn khô. Chúng tôi dự trù đi nghỉ hè mười ngày. Giờ đây, tâm hồn quê không trú ngụ nơi tôi mà dành hết cho Ninh Hà . Ninh Hà và tôi là hai người bạn rất thương yêu nhau và quí mến nhau. Tôi viết tên nàng trong tim tôi và nàng lúc nào cũng nhắc nhở đến tôi. Nàng có một mối tình với tôi được sơn son, thếp vàng đóng trong một khung cảnh với tất cả thời thanh xuân của nàng. Ngày mai đây ra sao, hoặc mai sau thế nào, tôi và nàng hòan tòan không biết được. Với tôi, hầu như đơn độc, trống không, vì tôi muốn rằng những gì tôi có, những gì tôi suy nghĩ, tất cả tôi đều muốn là của Ninh Hà , cất choNinh Hà , giữ cho Ninh Hà. Tôi chỉ còn có Ninh Hà để hiểu rõ thực trạng về tuổi trẻ của mình. Và, Ninh Hà rất hiểu tôi.

            Bên cạnh ngã ba có một ngôi trường tiểu học. Có đông em nhỏ chơi đùa, chạy nhảy và đá bóng trước sân cờ. Có hai cô giáo trẻ đứng dưới mái hiên nhìn tôi và Ninh Hà đang đạp xe ngang qua. Chỉ một thóang nhìn vào, tôi chợt nghĩ, hai cô gái ấy ước mơ gì về hạnh phúc của tôi và người bạn gái. Không đâu, hai chúng tôi không phải là đôi tình nhân. Tôi và Ninh Hà là hai người bạn sống hạnh phúc bên nhau cho hết thời thanh xuân. Rồi khi thực sự lớn lên, vào đời, mỗi chúng tôi ở xa cách một phương trời. Thời gian cứ vậy trôi qua. Nhớ nhau chăng nữa, chỉ có cuộc đời ôn lại bao nhiêu kỷ niệm, với chốn này hay chốn kia mà rũ thương một chút ngậm ngùi.

            Nắng hè thật là ấm. Tiếng Ninh Hà cất lên, nghe trong trẻo như dòng suối đang chảy, từ đâu vang vọng lên một âm thanh tưởng như đó là tiếng đàn.

-Em rất là vui.

-Em vui một mình thôi, hay sao ?

-Có anh Thụy nữa chứ.

            Tôi bụm miệng gọi tên Ninh Hà . Nàng cũng bụm miệng gọi tên tôi. Vang âm trôi giạt, lênh đênh giữa nắng. Chúng tôi cười ngây ngất súyt nữa làm ngã xe sau khi thả hai tay.

            Vui vẻ bên nhau, chúng tôi nói:

-Anh ước ao có được giọng nói hay như em.

            Ninh Hà bảo:

-Anh nên viết văn. Khi viết văn, anh sẽ tìm ra những tiếng nói rất đẹp, rất hay từ trong những tấm lòng các thiếu nữ.

            Gần tới phía cây cầu, chúng tôi nhìn thấy dòng sông và bờ sông. Nhưng hai người rẽ phải ở đầu ngã ba đi vào quận. Ngôi chợ giờ này còn nhóm họp đông người buôn bán và hai bên là các quán hàng ăn, giải khát. Đường qua chợ đông nên tôi và Ninh Hà cùng xuống xe dắt bộ.

-Em đói không ?

-Em đang tính hỏi anh.

            Hai chúng tôi lướt nhìn qua các quán. Bên trong, tiếng mời chào khách vọng ra. Đến chỗ bóng cây, chúng tôi mới dựng xe vào quán nghỉ chân.

            Tôi lấy cái bàn vuông và hai chiếc ghế thấp đưa ra ngòai, ngồi tách biệt với khách ăn trong quán. Cô bé con chị bán quán đi ra chào hỏi, tôi nói:

-Em cho hai dĩa bánh ướt chả.

            Cô bé đi vào. Ninh Hà ngước cả khuôn mặt với làn da trắng để cho tôi ngắm nàng. Nàng mỉm cười với đôi mắt nhỏ thật đẹp.

            Bữa ăn mang ra. Cô bé vừa đặt khay xuống, tôi nói:

-Gói riêng cho chú bốn cái bánh chưng.

-Dạ.

            Tôi lau muỗng đũa đưa qua cho Ninh Hà . Trước khi mời nhau ăn, tôi nói:

-Em biết không, món này thổ sản ở làng quê anh.

-Chỉ có món này thôi.

            Vừa bắt đầu ăn, tôi nói:

-Còn vài thứ khác nữa, nhưng thường thôi.

-Anh kể đi.

-Bánh nếp, bánh bột sắn, bánh tráng khoai.

            Hai chúng tôi đều đói nên ăn rất ngon. Nước mắm chanh ớt cay phả ra trong lời nói và làm vui thêm câu chuyện. Tim tôi đập đều nhịp, nhẹ nhàng, và tôi cảm thấy hạnh phúc của mình là Ninh Hà. Không ngừng trong ý nghĩ, và tôi muốn nói ra với Ninh Hà điều này. Hạnh phúc còn nói với tôi rằng phải luôn ở bên Ninh Hà không được rời nàng nửa bước. Ninh Hà chợt ngừng đũa, thốt lên:

-Ớt cay quá.

-Em sắp hết rồi. Gọi một dĩa nữa nghe.

-Anh gọi đi.

            Tôi gọi thêm,  dĩa bánh mới mang ra vừa mới được tráng hẳn còn nóng.

-Anh ăn đi, chừa lại em một ít thôi.

            Tôi và Ninh Hà chia nhau một nửa. Khi ăn xong, tôi cảm thấy no, chỉ vừa để dành bụng để uống nước chè xanh. Tôi rót chè tươi vào hai ly chờ để nguội.

            Ninh Hà cứ hít hà hơi cay. Nàng nhìn qua tôi với nụ cười trên cặp mắt. Tôi như cảm thấy hương vị ớt cay còn phảng phất. Nước chè đã nguội bớt, chúng tôi cùng cầm ly lên uống. Trong quán , khách ăn đang nói chuyện. Ninh Hà cố lắng nghe giọng nói người vùng quê. Tôi nghĩ tới một quê hương nghèo đã thương yêu  Ninh Hà với cả một tấm lòng.

            Sau một giờ nghỉ ở quán, chúng tôi đi.

            Khi lên ngồi xe đạp, Ninh Hà nói:

-Bây giờ mình phải đạp xe nhanh anh ạ.

-Đạp chậm thôi. Rồi em còn kể chuyện cho anh nghe nữa.

-Thôi, em mệt. Trời nắng, hơi đâu mà chuyện trò.

-Cũng không hề gì. Có em đi, con đường quê trở nên đẹp rồi.

            Ninh Hà sung sướng nhìn qua tôi. Chúng tôi đạp xe thong thả. Khung cảnh làng quê mà hôm nay tôi đưa Ninh Hà về thăm thật là thân thiết, đậm đà và mới mẻ.

-Em có ước mơ gì không Ninh Hà.

-Có chứ.

-Em nói cho anh nghe đi.

-Em mơ ước đến một ngày đất nước thống nhất.

-Em đã nói thay điều anh nghĩ. Anh ước mơ ngày thống nhất, ngày đó, anh được cùng em ra miền Bắc, thăm Hà Nội, và về tìm nơi sinh quán của em.

-Anh biết quê em ở đâu không ?

            Tôi biết rất rõ ngày tháng năm và nơi sinh của Ninh Hà nhưng giả vờ nói không. Tiếng Ninh Hà thật ấm:

-Em sinh ở Hải Dương.

-Hải Dương có xa Hà Nội không em ?

-Không xa lắm. Khỏang 60 cây số đường xe.

-Em có hay đi Hà Nội không ?

-Em ở Hà Nội chứ đâu.

-Vậy đó. Giọng nói em đúng là Hà Nội, phải không ?

-Thôi, được rồi.

-Em là cả nguồn vui trong anh, tôi nói.

            Ninh Hà đáp lời:

-Mỗi bức tranh, có cái khung của nó.

-Em nói đúng. Và, đây chính là làng quê chào đón em.

            Giọng nhỏ lại, Ninh Hà nói với tôi:

-Đây là mùa hè kỷ niệm của anh và em.

            Bỗng nhiên, tôi và Ninh Hà cùng dừng lại. Con kênh đào sâu với nước chảy dào dạt như dòng suối. Nước từ ngòai phía sông đang dẫn vào, trên  bờ ruộng, có hai cô gái đang ngồi trên xe đạp nước. Những tiếng bánh xe gỗ kéo nước lên nghe rất đều, thân thuộc .   Hai cô gái cứ đạp đều chân. Ninh Hà mở túi xách lấy chiếc máy ảnh chụp vài tấm. Sau khi chụp xong, nàng đưa máy ảnh cho tôi. Nhanh như con sóc, nàng nhảy qua bờ kinh đứng phía bờ ruộng có chiếc xe đạp nước. Tôi chụp cho Ninh Hà nhiều tấm khác nhau.

            Ninh Hà trở lại xe, chúng tôi đi tiếp.

-Em sẽ cảm thấy vui thêm với đời sống của mình.

-Đây là thuộc về đâu anh ?

-Hòa Phong. Ngôi làng này giàu nhất quận Hải Lăng.

-Hải Lăng. Tên nghe hay hay.

            Con đường quan trải ngôi làng này xa đến bốn cây số. Vì ngôi làng gần quận lỵ, nên sinh họat của người dân nhộn nhịp, đông vui như là ở thị trấn. Ruộng đồng xanh tốt. Nhà ở lợp ngói. Sau rặng tre, thấp thóang những ngôi nhà tranh. Tất cả, cho miền quê một sự yên bình.

            Lên ngã tư con dốc, Ninh Hà bảo tôi dừng lại. Nàng nói:

-Anh chụp cho em mấy tấm ảnh.

            Ninh Hà đứng tựa bên thành cầu, bên dưới là dòng nước đang chảy. Tôi nhắm qua ông kính, lấy góc độ, khi hình ảnh Ninh Hà hiện rõ nét, tôi mới bấm máy ảnh. Từng vị thế Ninh Hà đứng, tôi chụp theo góc cạnh. Và, sau đó tôi và nàng chụp chung vài tấm nhờ một người đi qua đường. Anh bạn đây là một giáo viên dạy học trên tỉnh về thăm quê. Khi chụp ảnh, Ninh Hà dành cho tôi tất cả sự thân tình của hai người bên nhau.

            Nghỉ chân bên cây cầu, tôi chụp được cho Ninh Hà nhiều tấm ảnh mà tôi nghĩ là đẹp. Rồi, hai người lại đi. Nhưng vì sợ nguy hiểm, nên chúng tôi không lên xe đổ dốc mà dắt bộ tới chỗ bằng phẳng rẽ trái để về làng.

            Con đường bằng phẳng rợp bóng tre im mát. Gió thổi lào xào. Mới vào hạ, thời tiết ấm và dịu.

-Còn xa không anh ?

-Hơn cây số nữa thôi.

            Hình ảnh làng quê quá yêu thương qua gương mặt hiền dịu của Ninh Hà . Tôi nói ra ý nghĩ đó, Ninh Hà bảo:

-Anh thương em rồi, cái gì anh cũng nhìn thấy em đẹp.

            Lòng tôi cảm thấy nôn nao. Tôi mơ nghĩ đến một căn nhà, đến những ngày tháng yên bình trong cuộc sống chúng tôi bên nhau. Ước mơ của tôi tựa một cuốn sách. Không cần nhiều trí tưởng tượng, một cuốn sách tôi viết ra chỉ có một ý nghĩa mong rằng, đây là câu chuyện của lứa đôi khao khát cuộc đời hạnh phúc.

            Chiếc cầu bắc qua con suối cạn. Bên đây cầu thuộc làng Đông Nghi, bên kia là của làng tôi. Và muốn vào làng tôi, ngôi chợ trước mặt là vị trí đầu tiên, bên cạnh chợ có một con đường cát nhỏ, hai bên trồng dứa, con đường dẫn sâu về đến làng và ra luôn đến biển.

            Ninh Hà cất tiếng reo lên như muốn hát một khúc hát. Tôi vui, đặt tay qua vai nàng khi xe hai người chạy song song.

-Coi chừng anh làm em té.

-Không đâu. Anh luôn giữ được em.

            Về tới trước cổng làng, tôi trông thấy anh Huề như mới ở ngòai đồng về. Anh cầm lưỡi hái trên tay, và anh nhận ra tôi ngay khi cả hai chúng tôi vừa dừng xe. Tôi giới thiệu Ninh Hà với anh. Rất vui, anh mời chúng tôi về nhà anh. Tôi và Ninh Hà đi theo .

            Nhà bà nội tôi là căn nhà gạch nằm bên trái, nhà anh quay lưng trông ra đồng ruộng, sân trước rất rộng có bầy gà vịt đang ăn, có tiếng heo kêu, dưới đồng ruộng có con trâu đang được thuê cày.

            Anh Huề có ba cháu nhỏ. Chị Huề làm việc nhà, coi sóc vườn, nuôi heo và gà vịt.

            Ánh sáng tràn vào nhà khi anh mở cửa. Anh mời chúng tôi dùng cơm nhưng tôi đáp lời là đã ăn no khi đi xe lửa, rồi ăn ở quận, giờ muốn được nghỉ ngơi.

            Ngồi không lâu, anh Huề  đưa tôi qua nhà bà nội. Kể từ khi bà nội mất, nhà đóng kín cửa, chỉ mở khi có khách trong gia đình về thăm. Vừa đi, vừa trò chuyện anh cho tôi hay nhà bà tôi nay thành nhà khách. Bên đó, có đầy đủ gạo, thức ăn khô, soong nồi, bình trà, bình thủy để chứa nước sôi. Anh cho biết, dự trữ như vậy để cho khách có được sự thỏai mái như là nhà mình.

            Anh Huề  tra chìa khóa mở cửa, xong giao luôn chìa khóa cho tôi. Khi ánh sáng tràn vào, tôi nhìn thấy tòan diện căn nhà cũ của bà tôi, và hôm nay, tôi hết sức xúc động với ngày về.

            Căn nhà đóng cửa nhưng không bị bụi bặm vì anh Huề vẫn luôn chăm sóc, quét dọn, và cúng quảy vào những ngày mồng một, rằm, hay có giỗ.

-Tôi mới thắp hương và cúng trái cây hôm qua.

-Vậy là tôi về đây hưởng lộc của bà.

-Chú gặp may. Mong bà phù hộ chú.

            Anh Huề phải về nhà ăn cơm để còn trở ra đồng phụ thợ gặt. Anh bắt tay tôi, nói lời chào với Ninh Hà. Nàng đáp lời chào anh rất lễ phép.

-Em mệt chưa ?

            Ninh Hà nhìn lại tôi nghiêm nét mặt. Rồi nàng cười nhìn tôi rất ý nhị. Tôi mở túi xách lấy ra ít bánh trái để lên dĩa quả trên bàn thờ thắp hương.

            Nàng đứng ở cửa, đưa mắt nhìn tôi. Sau khi thắp thương, khấn vái với lời nguyện thầm xong tôi trở ra.

-Em có đói không ?

-Không, anh đói, ăn một mình.

-Không.

-Em nghỉ đi một chút. Khi nào đói, thức dậy ăn.

-Còn anh làm gì ?

-Về quê, còn có cái thú đọc sách.

            Ninh Hà vào phòng thay quần áo. Nàng trở ra sau đó với bộ quần áo nhẹ. Tôi lấy chiếc gối đem qua giường đặt xuống. Chiếc giường đặt gần bên cửa sổ.

            Trước khi nghỉ trưa, Ninh Hà tháo chiếc đồng hồ đeo tay đưa cho tôi. Tôi cầm lấy và đeo vào bên tay trái. Kim đồng hồ, chỉ hai giờ chiều.

-Anh không đi nghỉ sao ?

-Không. Em nghỉ đi, anh đọc sách.

            Ninh Hà mặc quần áo nhẹ màu vàng. Có sẵn gối và chiếu trên chiếc giường gỗ. Chiếc giường đặt bên cạnh cửa sổ trông ra vườn. Ninh Hà vừa nằm xuống, tôi vội lấy tờ báo mang qua cho nàng đọc.

-Galant gớm.

-Em có muốn anh thức dậy không ?

-Tùy anh.

-Em ngủ ngon.

            Tôi quay bước, Ninh Hà gọi. Tôi tới gần, nàng nắm tay tôi kéo ngồi xuống bên nàng. Nàng nhỏm người dậy quàng tay qua cổ tôi, hôn tôi lên trán và môi. Tôi ôm giữ lấy Ninh Hà hôn xuống cặp môi chín đỏ của nàng. Rồi tôi để Ninh Hà nằm nghỉ. Tóc Ninh Hà xõa tràn trên mặt gối với gương mặt đầy đặn của nước da trắng in thành một vùng ánh sáng. Tôi luồn tay dưới mái tóc nàng, rồi cúi hôn lần nữa.

-Em ngủ ngon.

-Anh muốn thức em dậy lúc nào cũng được.

-Anh sẽ thức em dậy.

            Căn nhà im vắng, dịu mát. Trời đã quá trưa, cảnh vật yên tĩnh. Bên ngòai con đường bóng cây tre trải dài, mùi vị của cát có thể làm thơm giấc giấc ngủ của người mình yêu. Tôi trở về bàn, ngồi xuống ghế tôi đọc cuốn truyện dịch Le grand Meaulnes của nhà văn Pháp Alain Fournier. Vừa đọc, tôi nghĩ đến anh chàng Meaulnes, đến người bạn anh Francoise Seurel, và cô gái Yvonne de Galais trong chiếc áo đầm trắng, chiếc nón rơm rộng vành, tiếng đàn dương cầm vang lên nơi trang viện trong một buổi tối làm tôi nghĩ đến Liên An. Tôi luôn có Liên An với tất cả sự dịu dàng tuổi thơ. Liên An sẽ mãi mãi thơ dại với tuổi học trò. Tôi không bao giờ muốn Liên An lớn lên cả. Và, nếu ngày nào đó, khi đã lớn hẳn , Liên An sẽ đi xa không bao giờ gặp lại tôi nữa. Khi tôi nhớ đến Liên An, tôi sẽ nhìn thấy mây trắng bao phủ một góc trời.

            Tờ báo nằm yên lặng như một chiếc khăn đắp qua người Ninh Hà. Tôi ngừng đọc sách ngắm người yêu đang ngủ. Ninh Hà đã về tới quê tôi, và tôi mong dành được hết hạnh phúc cho nàng trong giấc ngủ.

            Tôi gấp cuốn sách lại để trên bàn rồi đi ra chỗ mái hiên. Tôi cảm thấy mình thực sự có hương vị cuộc sống. Chính hương vị đó tôi cảm nhận về tuổi trưởng thành như giờ đây tôi đã có gia đình, người vợ của tôi là Ninh Hà vừa mới cưới.

            Bà nội tôi mất cách đây đã bốn năm. Căn nhà này được sửa sang lại vào thời gian hai năm trước khi bà mất. Kể ra, căn nhà mới tu sửa cho bà trọn vẹn niềm vui trong lòng. Nhìn căn nhà, ánh sáng cùng màu sắc trở nên mới. Gạch gói ửng màu tươi, tường vôi quét lại sạch sẽ, nền đất được tráng bằng xi măng, và có hai cửa sổ mở thêm để đón lấy gió mùa hè từ ngòai vườn, xa nữa là gió biển. Ở gian bếp, bày biện ngăn nắp, có chạn tủ, vì muốn là chỗ vãng lai cho người thân về nên trong ở nhà kho cũng như nhà  dưới  đều có sẵn bếp, soong nồi, thức ăn khô và gạo.

            Tôi đứng dưới mái hiên nhìn ra ngòai nắng. Tôi nghĩ nhiều đến người thân nhưng lại có cảm tưởng hình bóng mỗi người đang nhập nhòa trong nắng. Rồi, bỗng dưng nhìn cây khế sai quả, những quả vàng chín, những quả còn xanh treo chùm lơ lửng, lá rụng xuống thềm gạch gần bên giếng nước tôi có ý nghĩ mơ hồ về tiếng động, về tiếng gọi của thời gian. Trưa vắng quá, không có tiếng chim hót. Không có nữa, tiếng ai gọi từ ngòai đồng ruộng. Rất xa trong khỏanh khắc của đời người, tôi vừa thấy bóng dáng một con tàu chạy qua trí tưởng và trỗi dậy âm thanh những hồi còi.

            Một lúc, tôi quay vào nhà. Ninh Hà vẫn ngủ ngon giấc. Tôi đến gần, dừng bước, đôi mắt thương yêu nhìn ngắm nàng ngủ. Trong tôi, tiếng gọi thầm em là người vợ quí giá suốt đời anh luôn mong mỏi, khát thèm. Giấc ngủ của Ninh Hà thật đơn sơ. Chiếc gối cũ, mái tóc xõa tràn, Ninh Hà ơi, giấc ngủ của em là hồn quê trong bao nhiêu hương sắc thanh bình.

            Tôi trở lại bàn, mở cuốn ra đọc. Sau giây lát, bất chợt Ninh Hà cất tiếng:

-Anh không đánh thức em dậy.

-Em ngủ ngon không ?

-Thật là dễ chịu.

            Từ một khỏang cách tôi và người yêu đưa mắt nhìn nhau. Không có một nỗi nhớ nào so sánh được với hạnh phúc của chúng tôi lúc này. Đôi mắt Ninh Hà lắng im, đẹp lạ thường. Đôi mắt tôi được hình dung qua cây lá, như có bóng im từ vùng ánh sáng đôi mắt người yêu nhìn tới.

-Em thức dậy nghe.

-Không ngủ nữa sao ?

-Đủ rồi.

            Tôi gấp sách lại, vừa lật cổ tay nhìn đồng hồ. Buổi chiều đã tới. Ninh Hà ngồi dậy đi ra chỗ bể nước gần gian bếp múc nước vào thau rửa mặt. Và giờ này, cảnh sinh họat làng quê lại bắt đầu với những tiếng động cùng nhiều âm thanh quen thuộc.

            Lên nhà, Ninh Hà hỏi tôi:

-Làm gì bây giờ ?

-Không làm gì nữa hết. Chỉ quanh quẩn bên em để nhìn ngắm em.

-Mới có một ngày đầu hè mà em cảm thấy êm đềm quá.

-Bởi vì đây là làng quê của anh.

-Không phải là của em sao ?

-Không, em là của anh thôi.

            Ninh Hà cười rung động mái tóc. Tôi lao người tới ôm gọn tấm thân của nàng. Nụ hôn của người yêu dành cho tôi có mùi vị sữa thơm lẫn với mùi trái cây. Tôi và Ninh Hà hôn nhau, hai cặp môi quấn quít, say đắm.

            Bóng im từ vườn cây nghiêng đổ ra sân.

-Anh đã đói chưa ?

            Tôi kéo áo lên để hở bụng. Ninh Hà cười to, vừa đánh tay nhẹ vào bụng tôi.

-Em đi thổi cơm. Ăn xong, anh đưa em đi ngọan cảnh.

            Tôi và Ninh Hà đi xuống nhà bếp. Để có ánh sáng, tôi lấy hộp diêm đánh một que thắp lên ngọn đèn dầu con. Đất ẩm xông lên mùi vị mốc, nhưng rồi tan loãng dần khi các lối cửa được mở.

            Ninh Hà rất nhanh nhẹn. Nàng tìm thấy soong nồi và thạp đựng gạo. Có sẵn mọi thứ, nàng bắt tay vào việc. Và cảm giác vui nhất trong lúc này là âm thanh trong tiếng nước.

            Trong khi Ninh Hà vo gạo, tôi ở bên nàng phụ giúp rửa chén bát, gạn lọc cát trong mớ cá khô. Sau đó, khi Ninh Hà vo gạo xong đi vào bếp tôi ra vườn hái ít rau để nấu canh.

            Buổi chiều xuống thật nhẹ nhàng. Khi tôi trở vào với rổ rau vừa hái đầy, gian bếp sáng lửa với bóng Ninh Hà ngồi ở đó. Tôi lên tiếng:

-Em trở thành thôn nữ như trong tranh vẽ.

-Thôi được rồi, ông anh.

            Tôi ngồi xuống bên người mình yêu. Rơm được đốt thay cho củi. Lửa tàn rồi lại sáng lên. Tôi có chút nghĩ ngợi mắt lặng nhìn ánh lửa. Tôi muốn nghe tiếng Ninh Hà nói. Nhưng sự im lặng trong chốc lát hiện lên trên vầng trán nàng một nỗi ưu phiền.

-Em tự nhiên nhớ đến quê hương của mình.

-Anh cũng như em, mơ ngày đất nước thống nhất.

-Đến  ngày đó ra sao anh nhỉ ?

-Đến ngày đó, ước mơ chỉ còn là dự tưởng.

-Sao thế anh ?

-Lúc ấy, chúng ta đã trưởng thành. Anh sợ rằng em và anh phải xa nhau.

-Không đâu.

-Em vẫn cứ tin tưởng chúng ta lúc nào cũng giữ tuổi thanh xuân cho mùa hè.

-Không, em không nghĩ thế.

-Đó, em thấy không, em cũng lo sợ ngày mai như anh.

-Nhưng chúng ta phải luôn nhớ đến nhau, cố gắng giúp nhau mà sống.

-Bao giờ anh cũng có em.

-Em luôn ở bên anh.

            Cơm đã chín. Hai món cá khô và canh nấu cùng một lúc, sau mười lăm phút là xong xuôi.

            Những giọt mồ hôi đọng lại trên vầng trán Ninh Hà , cả gương mặt cùng hừng đỏ vì lửa.

-Anh sọan bữa ăn, em rửa mặt.

            Tôi có ý nghĩ lạ lùng, vội cất tiếng.

-Khoan em.

-Gì nữa đây.

            Ninh Hà dừng lại dưới mái hiên. Tôi ôm chặt Ninh Hà trong hai cánh tay, hé môi đưa lưỡi thấm lấy những giọt mồ hôi trên trán và trên gương mặt nàng . Ninh Hà cảm động ôm lấy đầu tôi. Tôi chợt nghe tiếng nàng khóc. Tôi cứ để Ninh Hà khóc không dỗ dành, môi tôi hé mở ngậm lấy những giọt nước mắt nàng tuôn chảy. Hai đứa tôi ôm giữ chặt lấy nhau, một cảm giác nghẹn ngào cũng đã làm tôi ứa lệ.

-Em can đảm lên Ninh Hà.

-Anh, anh ơi.

-Anh đây em.

-Vâng, em cám ơn anh.

            Tôi để Ninh Hà múc nước rửa mặt. Vào bếp, tôi dọn cơm lên mâm rồi đem lên nhà. Ninh Hà trở lên, vẻ mặt tươi tỉnh hẳn.

-Ăn xong, chương trình anh sắp như thế nào cho em.

-Em đừng lo.

-Sao mà không được nào ?

-Anh đã ghi sẵn từng mục vào giấy.

-Tốt. Về sau, em để anh đi dạy học.

-Còn em.

-Em lo việc nhà.

            Cơm và canh còn nóng sốt. Dù là cơm gạo đỏ, thức ăn chẳng có gì nhưng chúng tôi ăn rất ngon. Ninh Hà hỏi tôi:

-Bà nội sống đến 80 không anh ?

-Vừa đúng tuổi em nói.

-Còn ông nội.

-Khỏang năm mươi.

-Anh nhớ gì về ông nội không ?

-Còn nhỏ quá, anh không nhớ.

-Ông bà nội em vẫn còn sống.

-Em nhớ ra được không ?

-Có chứ. Em rời ông bà năm em lên tám tuổi.

-Tại sao ông bà không vào Nam.

-Ông bà giàu lắm. Có của cải ruộng vườn, làm sao bỏ đi được.

-Mười năm, gia đình có nhận được thư ông bà cụ không ?

-Chỉ có hai năm đầu. Sau đó, hai bên không còn viết thư cho nhau nữa.

            Giọng Ninh Hà làm hiển hiện bóng hình hai người thân. Tôi nhìn lại nàng, muốn nghĩ đến một câu hỏi. Ninh Hà tiếp lời:

-Em vẫn mơ ngày trở lại đất Bắc.

-Có, vào mỗi đêm khuya.

-Em nhớ nhiều không ?

-Em khóc, em nhớ nhiều tuổi thơ của em ở Hà Nội.

-Đã mười năm đất nước chia cắt.

            Bữa ăn như trỗi dậy một giấc mộng đời. Sự bình thản trên gương mặt Ninh Hà, giọng nói ấy nữa làm tôi bâng khuâng nghĩ đến một chế độ Cộng Sản khắc nghiệt đối với tòan dân miền Bắc. Tôi đã được đọc cuốn Nhân Văn Giai Phẩm. Trước khi quen Ninh Hà , tôi gặp An. Hình ảnh thiếu nữ băng qua cánh đồng cỏ trong giấc mơ để trở về chốn làng quê của mình sau ngày rời xa Hà Nội, bóng dáng đó mãi hòai đem lại cho tôi một tình cảm thân thiết, nhớ nhung. Tôi hiểu rất rõ những tấn thảm kịch về cải cách ruộng đất, về những cuộc đấu tố dã man đối với những người ở lại như ông bà cụ của Ninh Hà bị ghép vào tội địa chủ, và tôi cũng đã được đọc những trang bút ký kiên gan bền chí của người dân Nghệ An trong cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu.

            Vậy là, biết bao nhiêu người thân của gia đình Ninh Hà đành giấu biệt đời sống khổ ải của mình trên đất Bắc. Liệu, có ai tìm đường trốn thóat vào miền Nam.

            Ninh Hà lặng im ngồi đó như pho tượng. Những giây phút qua với sự suy tưởng và bao nhiêu hình ảnh từ những trang sách trong văn chương miền Bắc hiện lên làm tôi tưởng thời gian đi qua lâu lắm.

-Thời gian sẽ làm cho chúng ta già đi, nàng nói.

-Em đừng bi quan. Ở đây đi ra biển chừng bốn cây số. Em có thích tắm biển không ?

            Ninh Hà vụt đứng dậy đưa tay qua nắm giữ lấy hai vai tôi.

-Em vào thay quần áo đi.

-Anh lúc nào cũng nói với em lời dịu ngọt.

-Với em, là hơn hết.

-Rồi sao nữa.

-Rồi anh sẽ có được tất cả.

-Không có gì hết. Hoàn toàn không .

            Tôi đem mâm cơm ăn xong xuống bếp. Ninh Hà mặc quần áo xong, chờ tôi. Tôi rửa mặt cho tỉnh táo, sửa lại quần áo một chút.

-Em xong chưa ?

-Anh hỏi một câu ngớ ngẩn.

            Tôi thấy cặp mắt Ninh Hà có vẻ lo ngại. Khi tôi tới sát gần, nàng vẫn đứng yên.

-Áo trắng em mặc là tiếng nói của anh.

            Đôi mắt Ninh Hà sáng lên một nụ cười. Và rồi, nàng để yên cho tôi đặt tay lên áo nàng mở nhẹ hai cúc áo trên.

            Khi tôi đưa hai bàn tay áp lên đôi má Ninh Hà, đầu tôi cúi xuống và tôi có cảm giác mình buông một giấc ngủ trẻ thơ trên ngực nàng. Tôi ngửi mùi vị thơm sữa ướt. Trên ngực Ninh Hà in lên một khỏang ánh sáng từ lớp sữa đọng. Tôi ngừng hôn sau giây lát, rồi lại hôn lần nữa trên ngực nàng.

            Vì có ý định đi tắm biển nên chúng tôi mang theo quần áo, máy ảnh, và cả bánh trái bỏ chung vào túi xách. Nắng chiều dịu hẳn. Gió mát, cảnh làng quê thoang thỏang vị mặn của muối biển trộn cùng  cát và lá cây. Không gian trôi giạt từng đợt sóng, từng tảng mây trời dâng lên cao trong cảnh khói lam chiều lan tỏa.

            Chúng tôi đi bộ, vui với câu chuyện. Khi gặp con đường chính của làng, một rặng tre trải dài. Nhà ở hai bên thưa thớt. Tôi đưa Ninh Hà ghé thăm gia đình mấy người bà con trong dòng họ còn ở đây. Những người thân của tôi, ai cũng hỏi chuyện về Ninh Hà, về gia đình nàng. Đây là một cô gái ở trên tỉnh mới về, lạ lùng, thân thiết. Nàng thật đẹp, rồi không biết người làng quê ở đây đợi chờ đợi bao nhiêu năm nữa nàng mới trở lại.

            Mỗi nơi, chúng tôi ghé thăm chừng nửa giờ. Áo trắng Ninh Hà mặc in dưới bóng tre và gây niềm vui cho ánh nắng. Con đường làng dài một cây số. Có một quán hàng nằm cạnh ngã ba. Về phía bên kia, gần với núi, một ngôi làng khác xuất hiện. Trong quán, có một vài người khách ăn. Chúng tôi vào quán mua bánh ướt, và mấy chiếc bánh lá. Lúc sáng ở quán hàng trên quận, chúng tôi có mua bánh chưng và đem theo trong túi xách. Bây giờ mới ăn cơm xong chưa thấy đói, nhưng ra biển tắm một hồi sau chắn là đói. Rất có thể, hai chúng tôi ở lại ngòai biển đến sáng mai mới về vì đêm nay có trăng.

            Bây giờ, con đường cuối làng sẽ đưa chúng tôi qua con suối, vượt khỏi đây, chúng tôi sẽ đi lên những đồi cát.

            Hai chúng tôi dừng lại nhìn con suối chảy, nhìn cảnh trí chung quanh rồi xắn quần lên để lội nước. Túi xách tôi quàng dây chéo qua người.

            Nhìn đôi bàn chân Ninh Hà mới tinh, trắng nõn, tôi nói:

-Ở đây ngày xưa có một trận lụt lớn.

            Nàng cười, hỏi lại tôi:

-Anh có bịa chuyện không ?

-Thật chứ.

-Không.

-Tại sao em nói không ?

-Em biết anh bịa chuyện ra để được nghe tiếng em nói với anh.

-Cũng đúng với ý anh. Quả thực ngày xưa ngôi làng này ngập nước vì một trận lũ lụt. Và sau nhiều năm vắng tin, có một cô gái từ nơi đâu xa lạ đã đến ngôi làng này.

-Đi bộ mệt đứt hơi. Làm gì còn sức mà trò chuyện với người mình không quen.

            Nước dòng suối trong vắt. Ánh nắng theo dòng nước trôi đi, nhưng đôi bàn chân Ninh Hà được giữ lại. Mỗi một dấu vết, vẽ lại y nguyên đôi chân của nàng. Thời gian đưa chúng tôi qua dòng suối tưởng chừng lâu lắm.

            Khi ngước mắt trông thấy những đồi cát đằng xa, tôi bỗng nhận thấy cảnh vật trở nên sáng hơn. Và nơi đó là đồi cát của khu nghĩa địa.

            Những ngôi mộ lớn nhỏ trải dài và rộng. Người khuất mặt nghe tiếng bước chân chúng tôi đi qua. Họ cũng biết, từ nơi đây chúng tôi tìm con đường ra biển. Và, chúng tôi cũng tưởng rằng, nắng càng về xa một xứ bạn nào đó, đi theo là bóng dáng những đàn voi.

-Anh có chiếc áo mới mặc Tết của mợ cho.

-Chà, anh đúng là con cưng của Ba Mợ.

-Em không hay gì cả sao ?

-Không. Hôm đó, em không có ở nhà.

            Ninh Hà đưa mắt nhìn qua tôi như dò hỏi. Tôi nói:

-Chiếc áo của mợ, cũng bảo anh ráng đợi chờ em.

            Đôi khi trên gương mặt Ninh Hà thay đổi một chút ánh sáng. Tôi nắm lấy bàn tay người yêu. Và, từng bước đi, lòng chúng tôi cũng đã làm cho cát dưới chân trở nên dịu mềm. Cát vẫn còn hơi nóng, vì đây là miền biển.

            Rồi không lâu, khung cảnh khu nghĩa trang im bặt cuối buổi chiều.

 

 

                                                                 XII

 

 

            Tối hôm ấy, Ninh Hà lịm ngất nhiều lần. Nàng tựa đầu ngủ trên cánh tay tôi. Mái tóc nàng xõa rộng, còn ướt át chưa khô. Trên thân người nàng còn dính những hạt cát trắng. Trên gương mặt và tòan thân nàng là một vùng ánh sáng. Dưới trăng, nàng đẹp như thiên thần. Biển mênh mông, vang dội bao nhiêu tiếng sóng nổi chìm trôi giạt lên bờ cát và lúc rút đi, như kéo theo một phần đời. Tôi để nàng ngủ yên với từng nhịp thở nhẹ đều. Yêu nàng, tôi không thể nói gì được. Có lúc, tôi cúi đầu xuống đặt cặp môi hôn khẽ lên vầng trán nàng.

            Vào lúc đứng trên đồi cát nhìn thấy biển, hai đứa tôi có cảm giác như mình tìm thấy sự tự do đích thực trong cuộc đời. Giọng reo vui, chúng tôi cùng cất lên tiếng gọi biển. Và, hơn thế nữa, tôi đã gọi lớn tên người mình yêu, Ninh Hà ơi, Ninh Hà ơi, theo biển về đi. Rồi tay nắm tay, chúng tôi kéo nhau chạy. Ninh Hà vấp ngã nhiều lần, tôi chỉ có bổn phận là đỡ nàng dậy. Khi chạy ra tới biển, đứng trước biển tầm nhìn đã bao quát tất cả, nơi rất xa cũng như chỗ thật gần. Biển rất xanh, cát vô cùng trắng, vậy mà chốn này rất hoang sơ.

-Sao, em vui không ?

-Anh đừng hỏi ngớ ngẩn.

-Anh yêu em

-Em không yêu anh thì sao

-Thì chẳng sao cả. Em muốn tắm ngay bây giờ chưa.

            Tôi chưa kịp phản ứng, Ninh Hà đã lao tới ôm người tôi. Hai đứa ôm chặt lấy nhau, hôn nhau với tất cả hạnh phúc vui mừng. Không cần đợi nghỉ mệt, tôi và Ninh Hà xuống biển tắm ngay.

            Nắm tay nhau ra một quãng vừa sâu, tôi và nàng nhào người lên sóng  sỏai rộng hai cánh tay bơi ra xa. Sóng ngược nên chúng tôi bơi chậm. Càng lúc, càng xa bờ. Dừng lại bên nhau, đứng nổi giữa sóng biển chúng tôi nhìn xa rất xa. Tôi mong đợi có bóng dáng một con tàu di chuyển. Hoặc là nơi xa đó, có một ngọn hải đăng.

-Em có nghĩ gì trong đầu không ?

-À, để em nhớ thử xem. Không, em không nghĩ gì cả.

            Tôi mỉm cười một mình, Ninh Hà hỏi:

-Còn anh ?

-Anh có được em.

-Thực không có ai nghèo nàn như anh.

-Có em, anh chẳng cần giàu.

-Anh chỉ sống trong tưởng tượng thôi.

            Nghỉ một lát, chúng tôi lại tiếp tục bơi. Với biển rộng, tôi tin rằng mỗi chúng tôi đều có một hòai bão sau này.

-Em không lập gia đình sớm chứ Ninh Hà?

-Em chưa biết.

            Mặt trời sắp sửa lặn. Hai đứa tôi ngừng lại bên nhau và nhìn ngắm mặt trời chờ đợi từng khoảnh khắc nó sắp lặn. Những đợt sóng vỗ nhồi chúng tôi dập dềnh lúc va vào nhau, lúc rời xa.

-Ngôi làng biển này có tên không ?

-Không.

-Tại sao không ?

-Dạ thưa cô giáo, vì em không biết.

-Em cho anh không điểm.

-Anh không nhớ ra, nhưng sau này có thể là anh nhớ.

-Anh không nhớ gì cả đâu. Em muốn đặt tên cho ngôi làng này.

-Hay đó. Biết đâu ở một phương trời xa, ngày nào đó em nhớ đến.

-Em chỉ nhớ biển thôi.

-Tại sao chỉ có biển làm em nhớ.

-Em có thể lấy chồng ở nơi xa.

-Em linh cảm sự việc này hay là chuyện có thực.

-Cả hai đều không rõ.

-Thôi, em đừng bận tâm. Anh không hỏi gì thêm chuyện này nữa.

            Mặt trời đã lặn. Từ ngòai xa, tôi và Ninh Hà nương theo con sóng bơi về bờ. Chúng tôi bơi nhẹ nhàng nhờ sóng nước đẩy nhanh.

            Hai đứa lên bờ cùng một lúc.

-Ai là người lo cho tiết mục tới.

-Anh chứ còn ai nữa.

-Nói nghe buồn quá. Hai cánh tay anh đã mỏi nhừ.

            Ninh Hà đi lấy túi xách. Nàng lấy tờ báo trải ra và bày thức ăn. Bánh chưng, bánh ú, bánh tày, bánh ướt.

-Em đói rồi.

-Ai đói nhiều, ăn nhiều.

-Ngày mai em có muốn trở lại đây nữa không ?

-Tùy anh.

-Chúng ta chỉ có mười ngày hè.

-Mọi việc, em để anh lo.

            Chúng tôi ăn ngon miệng. Những chiếc bánh chưng nhỏ, lá mỏng, nếp xanh in màu rêu tươi. Đang đói, ăn ngon miệng, hai đứa tôi sẽ ăn hết những thứ mang theo.

-Rồi đây, biển sẽ làm cho anh và em nhớ mãi đến những ngày hè.

-Chúng mình phiêu lưu tới đây là tưởng tượng hay đang sống thực bên nhau.

-Em phải nhớ rằng, đại dương có tiếng nói lớn hơn cả.

-Anh có ý nghĩ đó bao giờ vậy ?

-Không phải ý của anh. Anh đọc trong tiểu thuyết. Tiểu thuyết luôn cho con người một sự tưởng tượng phong phú trước khi tiếp xúc với cuộc sống thực giữa đời thường.

-Nếu sau này em xa anh.

-Anh vẫn không bao giờ quên em cả.

-Tuổi trẻ không thể nào có một cuộc đời đích thực.

-Sao mà không ? Biển là nơi vẫy vùng của tuổi trẻ.

-Đó là tưởng tượng. Ở trong sách vở, biển luôn mang một màu xanh cho con người dễ cảm nhận. Nhưng ở vào cái tuổi chính đáng với cuộc đời, biển làm cho người ta lo sợ.

-Rồi đây, mọi việc sẽ ra sao ? Có gì sẽ xảy ra với những điều chúng ta linh cảm.

            Chúng tôi ăn hết gọn. Có vẻ, từng miếng ngon trở nên vô tình vì câu chuyện của chúng tôi nói về biển có tính cách lo ngại, nghi ngờ. Ninh Hà để cho tôi dọn dẹp. Nàng mở chai nước, uống vài ngụm. Tôi nghe hơi thở nàng trút nhẹ ra sau cái cảm giác ăn uống đã no. Nàng cười, mắt nhìn tôi, rồi hướng về xa nơi đó khi bóng nắng mặt trời vừa tắt.

            Tôi đứng lên, cầm tờ giấy báo đã gói gọn đem tới bỏ vào thùng rác để ở gốc cây. Khi trở lại, tới gần người yêu tôi dừng một chút để ngắm nàng.

-Chúng mình về đây với biển vắng để vui hưởng những ngày đầu hạ.

-Anh không sợ em sẽ xa anh sao ?

-Không.

            Tôi tới ngồi xuống bên người yêu, nói:

-Có chứ. Ngày mai, không phải là sự mong chờ mà thực sự để nhớ. Ai cũng bồn chồn nghĩ tới ngày mai để được nhớ về mình. Luôn luôn, ngày sắp tới là như vậy. Bây giờ em đang ở bên anh.

            Ninh Hà đưa chai nước qua cho tôi. Đây là phần nước nàng để dành. Tôi chợt có ý nghĩ, trong tình yêu, hẳn nàng đã sắp sẵn cho tôi một chỗ nghỉ ngơi bên nàng, và lúc đó, chỉ có mình tôi là nàng nhớ thôi.

            Nước uống mang mùi vị vừa nhạt, ngấm hương thơm sau đó khi mình tìm lấy một cảm giác cho mình.

            Trời đất vẫn còn lãng đãng bóng dáng buổi chiều. Nơi đây hoang sơ, cả cát trắng và cây cỏ. Gió biển đang thổi lạnh. Người tôi yêu luôn đưa mắt ngắm biển. Khi gió biển đầy hơi, từng đợt gió phiêu bạt tràn vào bờ hất tung mái tóc của nàng làm tôi cảm thấy vui với ý nghĩ, nàng đi một mình trên biển với cánh buồm nâu căng gió. Gió thổi trùm kín mái tóc của nàng, tôi lại nghĩ cánh buồm này sẽ gợi cho tôi nhớ đến một bài hát. Hai đứa lặng lẽ bên nhau nhìn ra biển. Thế nhưng, chúng tôi chẳng chờ đợi, chẳng tìm một ý nghĩa nào trừu tượng trong tiếng nói của biển. Và, nếu mà nghĩ tới, tiếng nói đã xa mù, khuất dạng. Tối nay, trời sẽ có trăng sáng. Và, đang lúc này đây chúng tôi được nhìn thấy bóng đêm từ ngòai xa ùa tới, phủ lên bờ biển sự im lặng, sự đợi chờ, còn lại hai đứa tôi trong một niềm an ủi bên nhau. Hạnh phúc có thực. Tôi mở rộng bàn tay nắm lấy sự bao dung của biển, đây là phút Ninh Hà và tôi gần gũi nhất.

-Anh thương em không ?

-Anh thương em.

-Nếu em phải đi xa, anh buồn không ?

-Anh biết, anh không ngăn được em khóc. Nhưng anh luôn nhớ giọng nói của em, và khóc một mình.

            Ninh Hà khóc. Tôi có ý nghĩ đó, và nàng đang khóc. Những giọt nước mắt lăn xuống bên gò má nàng. Ngồi bên nàng, tôi bỗng lo sợ bóng tối phủ xuống, và đêm nay sẽ rất lâu với thời gian dự tưởng.

            Hai người đứng dậy. Bên nhau, chúng tôi bước đi và cầu mong sự yên bình. Những dấu bàn chân của tôi và nàng để lại trên cát không bày tỏ một duyên cớ, một cơ sự nào cả. Ngày mai đây, chúng tôi rời xa biển,  và tiếng nói của biển quá mênh mông.

-Một ngày nào đó, một mình em nhớ lại hết.

-Không đâu.

-Em có nghĩ là mùa hè vẫn tồn tại.

-Không.

-Thế nào mùa hè cũng trở lại với anh, dù về sau, anh không còn gặp em nữa.

-Anh đi đâu ?

-Anh muốn đi xa.

-Nếu em không mong lấy chồng nữa.

-Sao mà không được. Em đã chọn lựa rồi.

-Có thể là như thế thôi. Hòan tòan, em không mong đợi.

-Anh rất muốn em tự do theo ý mình.

-Nếu em lấy anh, anh bằng lòng không ?

-Anh chờ đợi em đến lúc nào cũng được hết.

-Em muốn anh nói bây giờ.

-Về nhà, sao ?

-Về chứ.

            Chúng tôi quay trở lại nơi chỗ cũ. Những bước đi nhẹ đều. Mỗi bước để lại trên cát, sóng sẽ xóa lấp đi. Những đợt sóng lên bờ nghe ấm áp, mỗi lần nó xóa dấu vết, chúng tôi cùng có ý nghĩ, nó sẽ vẽ lại từ tốn bằng ý nghĩ chân thực của chúng tôi.

            Trăng sáng đã đầy. Với ánh trăng, biển không muốn trải rộng. Trăng sáng xuất hiện bóng chị Hằng. Vậy là chỉ có một bóng sáng cho hai người. Tôi chẳng hề dám so sánh mình với biển. Biển quá rộng, mang mang mối tình lớn của vũ trụ. Chúng tôi đây chỉ có hai người.

            Hai người cùng ngồi xuống như thể là hai người khách đợi con tàu đến. Bỗng nhiên, tôi thấy một vệt sáng lạ lùng trên mái tócNinh Hà , tưởng chừng như vệt sáng này đổi màu tóc  nàng. Thì ra, đấy là nỗi buồn chị Hằng rọi xuống, có vẻ như chị ghen tuông một mối tình. Giữa biển bao la, trên trời cao chị rất sáng, nhưng một mình. Nỗi buồn này của chị, dù có phép lạ, chẳng thể nào chị biến hóa trời đất lúc này trở nên đen tối.

            Một giọng lạnh lùng, cô gái nói:

-Về thôi anh. Đêm đã lạnh.

-Em đứng lên đi.

-Anh ở lại một mình nghe.

-Ờ, anh ở lại đây.

            Tôi trả lời cô gái bằng một giọng ngái ngủ. Tôi khép mắt, chập chờn trong khỏanh khắc. Cô gái vừa bỏ đi, đã trở lại.

-Về, thôi anh.

            Tôi đứng dậy từ bàn tay nàng kéo lên. Bỗng dưng, nàng cười lớn.

-Anh không nhận ra em là ai sao ?

-Anh đã nhận ra em.

            Ninh Hà lao người tới.

-Anh sợ em không ?

-Có.

-Đừng sợ. Em không phải là biển.

-Nhưng, em bảo anh hãy đợi chờ.

-Thôi. Em là cuộc đời của anh.

            Bên nhau, tiếng nói đang thì thầm. Vậy là, từ buổi chiều rời khỏi làng quê, rời khỏi căn nhà của mình, chúng tôi đến đây với biển. Và, nàng bảo tôi ở lại đây với nàng.

            Tiếng nàng nói:

-Có lúc sự trống vắng làm cho con người cảm thấy hạnh phúc.

-Hạnh phúc trong cuộc đời ở trong giây phút muốn chúng ta nói thật.

            Cảnh trăng sáng trên biển thật mầu nhiệm.

-Anh và em luôn nhớ đến nhau.

-Bao nhiêu năm tháng sẽ qua đi. Rồi đến một ngày, anh nhớ lại hết những gì em đã nói với anh.

-Nhìn con trăng, anh tính được giờ không ?

-Có lẽ giờ này, đã nửa đêm.

-Anh nằm xuống đi. Gối đầu trên tay em.

            Tôi ngả nhẹ đầu trên cánh tay Ninh Hà. Hai người nằm bên nhau trên cát. Ninh Hà tháo chiếc đồng hồ đeo tay đưa cho tôi. Tôi ngồi dậy, mở túi xách bỏ chiếc đồng hồ ở ngăn phía ngòai.

            Tôi nằm xuống, lúc này tay cánh tôi trải ra để Ninh Hà tựa đầu. Một chút yên lặng, môi tìm môi, hai người hôn nhau cảm thấy ấm áp. Trên cặp môi Ninh Hà hồng tươi như cánh hoa. Không còn có cảm giác về sự nhiệm mầu của ánh trăng, yêu nhau, trong cặp môi quấn quít, trong vòng tay ôm chặt chúng tôi lăn mình trên cát. Những hạt cát mềm mại bám vào thân thể chúng tôi. Mỗi lúc, Ninh Hà càng thở nhanh. Nàng chuyển động rồi trườn mình như con rắn. Tôi cố gắng tự chủ, nén hơi thở nhiều lần. Tôi nghe tiếng Ninh Hà gọi tên tôi. Tôi đáp lời ngay bằng cái tên của nàng. Nàng đã qúa mê đắm, tột đỉnh với từng phút khóai cảm của ái ân, và trong cơn mê sảng, thác lọan nàng gọi tên tôi nhiều lần tưởng chừng tôi đang vắng mặt. Tôi không đáp lời, chỉ để cho nàng luôn cất tiếng gọi. Nhưng vẫn chưa hết, chưa thể nào ngưng, tôi vẫn còn giữ được sự chừng mực qua từng hơi thở của mình. Ninh Hà lịm ngất đi rồi. Nàng trôi giạt qua trí tưởng tôi như một con thuyền, và tôi đang cố bám giữ. Càng lúc, tôi siết chặt lấy nàng cho đến phút giây ngạt thở, bất ngờ, chúng tôi buông rời ra với hai cánh tay  lỏng lẻo.

            Ninh Hà nằm giấu mặt trên cát. Tóc nàng xõa tung. Nàng cất tiếng hỏi tôi, nàng ở đâu. Rồi thiếp ngủ, nàng nằm đó một mình lạnh lẽo. Hình ảnh nàng khỏa thân nằm trên cát biển dưới trăng đẹp lạ lùng. Tôi tưởng như nàng đã chết. Nàng rũ rượi, ỏai mình trong giấc ngủ.

-Anh yêu em, em quí giá vô ngần.

            Tôi cúi xuống hôn, nói nhỏ bên tai nàng. Nàng không nghe gì nữa cả. Nàng quá mệt, ngủ như chết. Tôi ngồi lại một mình bên nàng, nghĩ đến kiếp sau của nàng, nhớ lại khung cảnh lúc ban chiều khi hai chúng tôi tới đây. Chị Hằng vẫn để mắt nhìn xuống biển, nhìn xuống thấy người yêu của tôi nằm khỏa thân, nhìn thấy nỗi đơn độc của tôi. Chốc lát, bỗng dưng sóng trôi giạt không còn thấy dấu vết gì nữa. Trong trí tưởng tôi, tất cả trở nên xa vời, và tôi chỉ còn mường tượng thấy hai sợi tóc của tôi và Ninh Hà cột buộc lấy nhau, thấy quần áo chúng tôi gói lại với nhau giờ đang lênh đênh, vật vờ trôi trên biển. Tôi cũng nhớ lại điều tôi nói với Ninh Hà lúc nhìn cảnh mặt trời lặn.

-Ngủ đi em.

            Ninh Hà trở người, cựa mình rồi ngủ tiếp. Tôi ôm giữ chặt lấy tấm thân kiều diễm, yêu quí của nàng, và nếu nàng là một con thuyền thì tôi và nàng sẽ theo biển đi xa.

            Bình minh, ánh sáng hồng tươi của trời đất khẽ đánh thức nàng dậy. Chúng tôi mở túi xách lấy quần áo đem thay, mặc vào. Bây giờ, hai chúng tôi đã là vợ chồng rồi nên không có gì bẽn lẽn cả.

             Về đến nhà, Ninh Hà lại ngủ vì còn quá mệt. Tôi đọc sách, xong tự mình lo cơm nước. Một ngày lại hết, đêm về, và chỉ còn lại đêm này thôi.

            Khỏang ba giờ sáng tôi thức dậy. Một mình, tôi đun nước sôi để pha cà phê, rồi nấu cơm. Tôi cảm thấy mình đi tới tuổi trưởng thành và yêu Ninh Hà hơn hết. Ngày mai đây, nói khác đi là tương lai như thế nào chưa biết, nhưng từ nay, muôn kiếp sau nữa, tôi và Ninh Hà luôn có nhau.

            Trời sáng hẳn. Tôi đánh thức Ninh Hà dậy. Ninh Hà luôn có được một vẻ đẹp trên gương mặt lạ lùng, gợi cảm lúc vừa mới ngủ dậy. Nàng để cho tôi đặt môi lên miệng nàng hôn trước khi nàng đi rửa mặt. Hai người hôn nhau rất lâu, vì chốc lát nữa, chúng tôi phải đi, rời quê nội ra quê ngọai, đến cuối ngày mới có thể bên nhau để ôm ấp, ân ái. Tối hôm qua, vợ chồng tôi qua thăm anh Huề . Cả anh chị hết sức cảm động trong chuyến về thăm lần này của tôi, nhất là bên tôi có một người bạn gái đi cùng. Tôi không nói rõ với anh về cơ duyên này. Vì rằng, chỉ hai chúng tôi hiểu được nhau trong chuyện này thôi. Cũng như tôi, Ninh Hà tỏ ra sự ân tình với người thân của bạn mình, chồng mình. Nàng mở ví, lấy một ít tiền để cho ba cháu nhỏ con anh Huề.

            Vợ chồng tôi ra đi sớm. Đường làng quê trong buổi sáng còn sương ướt, hương quê thật là êm đềm. Vẫn giữ hồn quê trong lòng, nhưng chúng tôi không quá sức quyến luyến.

            Lên tới quận lỵ Hải Lăng, chúng tôi ghé vào quán ăn ở chợ. Buổi sáng sớm sực nức mùi vị các món bún, cháo, và các thứ bánh vừa mới nấu xong. Tôi và Ninh Hà ăn bún, sau đó, thêm một chiếc bánh chưng và uống cà phê. Mới qua đi ít ngày hè, tôi và Ninh Hà thấy đổi khác, ý thức được sự trưởng thành, tình nghĩa vợ chồng và đã hẳn từ nay chúng tôi lo nghĩ đến tương lai.

            Ngồi nghỉ nửa tiếng, ăn uống xong, vợ tôi trả tiền và chúng tôi rời quán ngay lúc này.

            Quốc lộ I song song với đường xe lửa. Con đường ra tỉnh vắng vẻ, chúng tôi đạp xe thong thả và vui trong tiếng chuyện trò. Tôi hỏi vợ tôi:

-Em thích con gái hay con trai ?

            Ninh Hà đâm ra ngượng ngùng, cười đáp:

-Mới lấy nhau có ít ngày mà đã mong rồi.

-Không, anh chưa mong. Nhưng anh muốn được biết chút riêng tư của em.

-Anh ước mơ như thế nào em cũng vậy. Em đã là vợ của anh, tất cả của anh.

-Cám ơn em. Anh có một ý nghĩ chân thực là anh và em thương yêu nhau hết kiếp này đến kiếp khác. Anh không mong gì con cái, cũng không mong trẻ mãi như thế này. Anh ước mong em và anh là vợ chồng suốt đời nhau. Anh ước mong em và anh có bên nhau không còn ai nữa khác. Anh và em ở bên nhau qua nhiều thế hệ, qua nhiều kiếp người, qua tất cả các dòng họ từ khởi đầu chúng ta vợ chồng, rồi là con cái, rồi là ông bà, tổ tiên, rồi trở về lại ban đầu theo hướng đi vòng tròn của quả đất.

-Em cũng có ý nghĩ đó, anh biết không ?

-Chúng ta thương yêu nhau vì chúng ta hiểu nhau. Trong anh, có em là một người mẹ. Trong anh, có em là một người bạn. Trong anh, có em là cô em gái. Trong anh, có em là người yêu, và giờ đây, em đã là vợ của anh.

-Thương em lắm, biết không ?

-Thương anh lắm, biết không ?

-Cả hai, không ai biết hết. Cả hai đã thuộc về con người của trời, của đất, và chúng ta rất giàu có thiên nhiên.

            Chúng tôi phá lên cười. Đòan tàu vừa chạy qua cầu ầm ầm, rồi mất hút. Có ai đó ngồi bên cửa toa nhìn thấy chúng tôi. Hạnh phúc không diễn tả hết được, vợ chồng tôi như thể muốn khóc.

 

 

                                                             III

 

 

            Tàu rời ga với tiếng còi ngắn. Khói lõang tan chập chờn qua bóng nắng. Khi cố gắng vượt lên con dốc, tôi lùi một chút ra sau vừa đạp, vừa đẩy phụ xe Ninh Hà . Ninh Hà đang gắng sức, cố đạp nhanh. Lên khỏi dốc, chúng tôi trông thấy rõ con tàu. Con tàu khá dài, kéo chừng khỏang mười toa cả hành khách và hành lý. Và rồi, chúng tôi buông chân đạp cho xe đổ dốc. Từ phía bên này con đường chạy theo cánh đồng, tôi trông thấy ngôi nhà cũ của tôi.

            Hồi còi đòan tàu đã trôi xa, nhưng hẳn còn vọng.

-Lúc này còn tàu chạy suốt vào miền Nam không anh ?

-Vẫn còn.

-Anh đã đi máy bay chưa ?

-Chưa. Em đi rồi ?

-Cũng chưa.

            Phong cảnh rừng, núi, rồi nhà ga hiện ra. Tới ngã tư quốc lộ, chúng tôi rẽ trái, từ quãng này đến nhà tôi nằm bên dưới ga chừng ba trăm mét. Nhà tôi ở, đối diện với tháp nước. Tàu suốt, hay tàu chợ đến ga đều ngừng lại lấy nước trong khỏang mười phút. Ngày trước, phía chái hiên có cây trứng cá mẹ tôi mở quán hàng ăn và bán giải khát. Ngày đó, sau buổi học ở trường về đến nhà, hoặc hai ngày nghỉ cuối tuần anh em chúng tôi luôn phụ giúp mẹ phục vụ cho khách ăn.

            Căn nhà cũ được nhìn thấy làm tôi xúc động. Và tôi thấy lại quán ăn như hồi đó của mẹ tôi. Tôi chưa nói gì cho vợ tôi biết cả. Hai người đẩy xe đạp vào quán, dựng xe ở gốc cây. Có khách ăn, nhưng bàn ghế còn trống nhiều. Chúng tôi chọn chiếc bàn ngay dưới tàng cây trứng cá gần chỗ hàng rào. Bóng nắng in đậm ngòai sân. Một cô bé đến, đang chờ chúng tôi. Vợ tôi gọi cơm phần hai người, nước uống là trà đá.

            Lúc này, ngòai đường thưa vắng nhưng đây là sự yên lặng bìng thường đối với cư dân vùng này mỗi khi có đòan tàu đến rồi lại rời nhà ga. Hình ảnh con tàu, nhà ga, bạn sẽ cảm thấy trong tiếng động quen thuộc này làm người ta nhớ đến vẻ lạnh lùng của nắng và khói tàu.

            Ninh Hà cầm chiếc nón vải quạt nhẹ. Trời bắt đầu nóng gắt. Tôi cầm cổ tay Ninh Hà lật nhìn đồng hồ.

-Mình đi lâu không anh ?

-Mình đi gần hai tiếng đồng hồ.

-Đi xe đò mất chừng nửa giờ.

-Không đâu. Cũng lâu, vì xe còn ghé nhiều trạm gác và đón khách dọc đường.

-Anh đi nhiều nên chi tiết nào cũng nhớ.

            Tôi nhìn lại Ninh Hà, sung sướng biết bao nhiêu với niềm vui. Và nay, Ninh Hà đã là vợ của tôi.

            Bữa ăn mang ra. Khi cô bé dọn xong, lễ phép mời vợ chồng tôi dùng bữa, Ninh Hà cảm thấy vui với nụ cười thân thiện.

            Hai người bắt đầu bữa ăn. Tôi nói:

-Ăn xong, mình nghỉ quanh đây. Chiều mát đạp xe xuống phố, thăm lại cảnh cũ của thành phố ...

-Sao lại ngừng, nói tiếp đi. Khi mà nói về em là anh say sưa, không bao giờ hết chuyện.

-Về đây, em tìm lại được nhiều kỷ niệm thân thiết của mình. Căn nhà cũ em ở, các ngôi trường em đã học, những người bạn của em, những con đường em thường hay dạo chơi.

-Em có cảm tưởng từng chi tiết anh nói giống như tàu đến từng ga xe lửa.

            Bữa ăn ngon và câu chuyện vui, vừa cảm động. Tôi đọc thấy hạnh phúc in dấu trên gương mặt Ninh Hà bằng sự hồi nhớ với nhiều nét thời gian lúc đậm, lúc nhạt.

-Về quê ngọai, còn xa nữa không ?

-Chúng ta về tới quê trước khi mặt trời lặn.

-Anh tính ở lại bao nhiêu ngày ?

            Nhìn Ninh Hà, một giọng vui tôi nói:

-Em rất giống mẹ khi bà còn trẻ. Và mẹ còn nói, em đẹp hơn mẹ hoàn toàn.

            Giọng nhấn mạnh, Ninh Hà lên tiếng:

-Em chỉ hỏi anh thời gian ở quê bao lâu ?

-Anh chưa nói hết ý. Anh nói về mẹ trước, rồi đến quê mẹ, sau đó là con dâu thương quí của mẹ. Khi các chi tiết đầy đủ, lúc đó thời gian quê ngoại là tấm lòng của em đối với mẹ cũng như bây giờ, dù sau này không ở chốn quê nữa nhưng mẹ luôn nghĩ tới em.

            Niềm vui của tôi hòan tòan gởi hết cho người vợ mình mới cưới. Nụ cười trên đôi mắt Ninh Hà lúc này như thể phác vẽ qua trí nhớ tôi một quang cảnh đồng quê, buổi sáng mờ khuất sương mù trên sông, buổi trưa nghe quen thuộc tiếng người gọi từ một mái nhà tranh, từ ngòai cánh đồng, trên con đường cái của làng, buổi chiều, mang mang một sự ngóng trông nhìn bóng nắng mà đợi những chuyến đò có ai sắp về, và cuối cùng, tôi nhớ ra, mỗi buổi chiều như vậy trên con đê làng, từ phiên chợ buôn bán xong mẹ tôi gánh hàng trở về và khi xuất hiện trên đường đê là đã thấy nhà ở của mình.

-Ăn  nữa đi em.

-Còn anh, sao không ăn. Anh ngồi đâu cũng mơ mộng cả.

            Khi thấy chúng tôi ăn xong, cô bé bưng khay trà ra để cho tôi châm thêm nước vào ly. Vợ tôi nhìn cô bé, lòng nàng vui.

            Bên kia bãi đất trống, tháp nước đầy nắng. Nắng cháy khô cả một vùng. Hồi đó, ở đây nhà ở thưa thớt, nhưng từ dạo có cuộc di cư từ miền Bắc vào Nam nhà ga trở nên nhộn nhịp, số cư dân mỗi năm một nhiều. Tôi đưa mắt nhìn qua chỗ tháp nước, và nó, như là bóng dáng người bạn gợi tôi nhớ đến một thời kỳ đã sống ở đây, đã ở căn nhà này. Khi ba tôi bị đổi vào miền Nam, tôi theo ba tôi, rồi khi ở hẳn trong Huế, thì căn nhà này được bán đi. Nhà mua, nhà thuê, gia đình tôi ở nhiều nơi, nhưng nơi đây, với nhà ga cũ, kỷ niệm của đời tôi dường như luôn chìm nổi , vang vọng trong những hồi còi con tàu. Xưa cũ ấy, giờ đây, tôi đã tới tuổi trưởng thành.

            Cuộc đời tôi, có một khỏanh khắc vĩnh cửu đó ù là lúc, tôi nhớ đến tháp nước con tàu dừng lại để lấy nước.

-Ăn nữa đi. Em đang nghĩ chuyện gì đó ?

            Một thóang hiện của thời gian trên gương mặt hiền dịu của nàng.

-Em nhớ lại nơi này anh ạ. Vào một buổi trưa đó, em và ba xuống tàu và đã ghé quán ăn cơm, đâu như chỗ này đây.

-Cô bé là em, bao nhiêu tuổi ?

-Đó là năm di cư.

-Còn chi tiết gì nữa không ?

-Còn chứ, nhưng em không nhớ.

-Mười năm, em ở đây bao nhiêu năm ?

-Khỏang hơn sáu năm. Như vậy, em xa tỉnh này mới vài năm.

-Vậy là em vẫn còn nhớ được nhiều.

            Tôi nhìn qua Ninh Hà, nói thầm với nàng trên cặp mắt trìu mến của mình:

-Bây giờ, em đã là vợ của anh. Chỗ này đây, nhà cũ ngày xưa của gia đình anh. Anh biết, anh đã gặp em rồi. Và, kỷ niệm cũ là cả một tâm hồn bao dung, chân thật, đón em trở lại nơi này.

            Chúng tôi rời quán. Vợ tôi trả tiền, còn thừa tiền lẻ cho đứa bé. Khi chúng tôi đẩy xe ra khỏi cổng, chợt quay đầu vợ tôi trông thấy con bé nhìn theo có vẻ nghĩ ngợi.

Rồi vợ tôi nói:

-Con bé dễ thương quá.

-Em về đây, gặp em, ai cũng dễ thương hết.

-Thôi, nước đường em uống nhiều rồi.

-Không, em là hương thơm của trái cây.

            Nói xong, vô cùng sung sướng tôi nắm lấy bàn tay Ninh Hà . Tiếp lời, tôi nói:

-Anh quá mừng vui, hạnh phúc. Đời anh, có được em là đủ. Em là cả một giấc mơ. Anh ước mơ có em không chỉ kiếp này thôi, mà bao nhiêu kiếp sau nữa.

-Có hai tuần lễ nghỉ hè mà anh mơ đến cả trái đất.

-Đúng rồi, tên em, trên trái đất này chỗ nào cũng tìm thấy. Và tên em, là những hoa thơm cỏ lạ.

-Em cám ơn anh. Em sẽ ở mãi bên anh, không còn xa anh nữa đâu.

-Em ạ. Thực ra, chỉ có giấc mơ cho anh ở gần bên em thôi. Với cuộc đời, chúng ta mỗi người mang lấy một số phận.

            Tôi đưa Ninh Hà lên nhà ga. Chỉ có một vài thay đổi trong cách bài trí ở ngòai phòng đợi, còn hầu như vẫn nguyên vẹn. Ngày trước, bác T. làm Trưởng ga này là bạn thân với ba tôi. Nhờ bác, ba tôi có được miếng đất để làm nhà, và từ ngày ấy, sự gần gũi của chúng tôi với gia đình bác vô cùng thân thiết.

            Tôi nói với Ninh Hà:

-Bác gái mất trong thời kỳ chiến tranh. Chuyến xe lửa bị giật mìn.

            Với cặp mắt ngây thơ, cái nhìn ngơ ngác , người vợ của tôi có một vẻ đẹp lạ lùng. Cửa bán vé mở. Một giờ nữa có chuyến tàu từ Đông Hà vào, sau đó, đi Huế, rồi chuyển tiếp hành khách đi tàu suốt vào miền Nam.

-Em đến Sài Gòn chưa ?

-Chưa.

-Anh đã đến Sài Gòn. Thành phố đó to lớn, đông vui lắm.

-Anh biết nhiều nơi nhỉ.

-Anh biết Đà Lạt nữa. Đó là thành phố đẹp nhất trên vùng cao nguyên.

-Anh đi nhiều nên suốt đời cứ sống trong mơ mộng.

             Phía ngòai phòng đợi, những hành khách đi tàu đã đến. Có xe lam và xe xích lô từ dưới phố đưa khách lên.

            Đã hai giờ chiều. Chúng tôi rời ga, lên xe đạp thong thả theo con đường Trần Hưng Đạo đổ xuống dưới phố xa chừng độ bốn cây số. Khi trên đường ngang qua nhà cũ, vẫn là quán ăn như hồi trước, tôi nhìn lại bóng dáng ánh nắng trên sân, mái tôn, cây trứng cá ,  hàng rào cây ngăn với xóm nhà bên cạnh nằm dưới bên cạnh con dốc đi ra phía sau hồ nước và gặp lại cánh đồng hướng lên quốc lộ,  chỉ trong giây lát nhìn lại, tôi biết thời gian đã thay đổi quá nhiều.

            Có tiếng còi tàu vang vọng, trôi giạt, như thể hẳn còn xa lắm.

            Khi vượt qua khỏi ngã tư,  Ninh Hà đạp xe chậm lại. Tôi hỏi:

-Em có muốn ghé thăm những bạn cũ của em không ?

-Không, em chỉ thích ở bên anh thôi.

-Chốc lát nữa, em phải mời anh uống nước sinh tố.

-Sinh tố không ngọt bằng nước đường.

-Ấy, anh thích mùi vị thơm của trái cây.

-Giọng nói của em chua lắm.

-Nước trái cây, thêm chút giọng nói của em cho vào uống ngon lắm.

            Giọng đùa vui và nhỏ, Ninh Hà nói bên tôi:

-Hai ngày nay, anh uống sữa của em nhiều rồi.

-Anh uống thật ngon, cảm giác lúc nào cũng lâng lâng, ngây ngất.

            Giọng bình thường trở lại, vợ tôi bảo:

-Em chỉ muốn nhìn lại khu phố cũ và căn nhà mình ở.

-Anh và em sẽ đến nơi đó.

            Ngôi nhà bệnh viện có sân cỏ rộng, mái ngói đã cũ. Chúng tôi đang trên đường đi xuống tỉnh.

-Anh biết em có một người bạn rất thân ở đây.

-Hẳn nhiên, không chỉ một thôi mà nhiều lắm.

-Có một người thôi.

-Thôi, đừng có đố tìm. Làm như hồi đó, em có quen anh.

-Cô bé Ninh Hà ơi.

-Chà, nghe lạ không ? Nhớ cô nào đó ngày xưa, gọi tên cô ấy đi.

-Em có nhớ câu chuyện lúc nãy em nói không ?

-Sao mà không nhớ.

-Có bé à.

-Nữa. Bộ muốn trêu em hay sao ?

-Hãy nghe anh nhắc lại những điều em đã nói, để em biết rằng, quán hàng chúng ta vừa ghé chỗ đó là nhà cũ của anh. Ngày xưa đó, mẹ mở quán hàng cơm và giải khát. Rồi vào một buổi trưa, có một người đàn ông đeo kính mát và một cô bé khỏang 8 tuổi vào gọi cơm. Người đàn ông mang chiếc cặp đen, cô bé mặc áo hồng, chiếc quần tây xanh và đeo bên vai túi xách màu vàng. Em là cô bé ngày đó, gặp em hôm đó, suốt đời anh nhớ mãi cặp mắt em.

-Thực vậy sao ?

-Hoàn toàn trung thực. Với cơ duyên chứ không phải là nợ cuộc đời, anh hạnh phúc biết chừng nào khi em là vợ của anh.

            Ninh Hà im lặng không nói gì. Tôi cũng không giãi bày thêm nữa. Nhưng sự yêu thương cho tôi có cảm tưởng, Ninh Hà đang nghĩ đến trọn vẹn đời mình từ một tuổi ngây thơ ngày đó, và thành phố hôm nay tôi và nàng trở về tìm lại. Hai chúng tôi đã trở về trong trí nhớ, cũng như trong tưởng tượng.

            Phía bên trái, nằm trên quốc lộ là chiếc cầu bắc qua sông Thạch Hãn. Sông này phát nguyên từ Như Lệ, một ngôi làng nằm ở cạnh Trường Sơn cách thị xã chứng 5 cây số. Nước sông sâu và xanh, đến ngã ba gặp sông Định Giang rồi đổ ra biển. Cửa Việt, nơi cửa biển này còn có nhiều con sông khác nữa tụ về.

            Hai người đạp xe thong thả. Trần Hưng Đạo là con đường dài nhất từ nhà ga xuống đến Cổ Thành. Vào mùa đông, gió từ phía núi và cánh đồng trống thổi tới lạnh buốt  vì ở quãng này không có nhà ở mà chỉ nhìn thấy đồng ruộng phía dưới.

            Khu bệnh viện tọa lạc trên một diện tích đất rộng, tòa nhà xây lợp ngói đỏ, có một sân cỏ là nơi chúng tôi thường chơi đá bóng vào buổi chiều. Trên sân này, cũng có một vài trận đấu dành cho người lớn, hai đội có mặc áo cầu thủ,  có trọng tài, đông khán giả và cũng là buổi chiều cuối tuần giải trí cho bệnh nhân được giờ phút thư giãn. Bây giờ, nhìn thấy lại cảnh cũ chỉ là sự hồi nhớ, và trong tôi hầu như vắng lặng. Tôi muốn nói với Ninh Hà, chính anh, mong em về thăm lại thành phố cũ của anh và cả thành phố đang mang nỗi nhớ mong, chờ em. Nắng trưa hơi ngầy ngật, uể ỏai như dòng nước chảy chậm theo con sông.

-Em có vui không khi trở về thăm lại chốn cũ ?

-Không, buồn quá sức.

-Đừng có giả bộ. Tôi biết lòng cô vui.

-Anh nói sai. Em đang buồn quá sức.

-Còn anh rất vui.

-Tại sao anh không khóc.

-Uûa, khóc để làm gì ?

-Người ta thường khóc vì xúc động trở về quê nhà.

-Đúng rồi. Anh khóc lúc về lại căn nhà cũ của mình.

-Tiếng khóc thành niềm vui khi anh có được em.

-Anh đừng xúc động quá, trời mưa bây giờ.

            Chúng tôi vui trở lại câu chuyện. Lúc nãy, sự buồn nhớ trong tơ vương, trong tình cảm cổ điển gây mối chạnh lòng. Về thăm lại Quảng Trị, tôi hồi nhớ những kỷ niệm tuổi nhỏ, thời đi học, nghe những tiếng nói luôn thuộc về nơi chốn mình đã sinh ra và lớn lên. Về lại Quảng Trị, thành phố này cũng đã bao dung một tâm hồn khắc khỏai. Gia đình Ninh Hà rời miền Bắc vào miền Nam theo một triệu người di cư bỏ quê hương ngòai đó. Từ năm tám tuổi, Ninh Hà đã sống ở đây với những năm tháng lớn lên qua các trường tiểu học, trung học. Khi lên học Trung học, Ninh Hà không còn bé bỏng nữa, đã trở thành một thiếu nữ duyên dáng, xinh đẹp làm bao nhiêu anh học trò lớp trên cũng như bao nhiêu cậu học trò cùng lớp trồng cây si trên những con đường cô từ nhà đến trường cũng như từ trường về đến nhà. Không chỉ có một con đường ấy thôi, mà những đường phố trong tỉnh, nơi nào cũng có bóng bao chàng trai đứng lại trên vỉa hè nhìn ngắm cô dạo chơi vào ngày cuối tuần. Ai đó, ở trong lòng cô như là một tấm ảnh nhỏ mà tự tay tay cô viết một đôi giòng gởi tặng tôi. Và, bạn ngạc nhiên vô cùng, ngày đó, tôi không hề quen biết cô, mối cơ duyên để tôi và cô quen nhau và trở nên vợ chồng lúc này đây là hình ảnh chiếc áo nâu cô mặc vào một buổi sáng đó trong học giờ học chung môn tiếng Pháp, bởi rằng, chiếc áo đó, cô nhắc tôi nhớ lại hình ảnh mẹ tôi lúc còn trẻ. Về sau này, rất nhiều lần tôi nhìn tấm ảnh của mẹ tôi mà nhớ đến cô gái. Có lẽ, với đức tin về cái duyên trong đạo Phật, cô cũng tin rằng, hình ảnh người thân của tôi đã mang rất nhiều cái bóng dáng đích thực của cô trong một kiếp trước về sự liên hệ giữa hai người. Vào buổi sáng đó gặp cô, tôi có sự linh cảm về một mối tình tôi đã gặp cô đâu kiếp trước, và buổi gặp đầu tiên ấy, lại gợi nhắc tôi nhớ đến thành phố cô đang ở một ngày đó tôi đã dừng lại bước chân. Bởi vậy, tôi là người Quảng Trị duy nhất sống trong lòng Ninh Hà . Ít ra, tôi cũng nên nói rõ với bạn về cô, về những người thương yêu cô gái, và khi rời khỏi nơi này cô đã để lại không mang theo. Tuy nhiên, những kỷ niệm gồm thư từ, hình ảnh, những dòng lưu bút cô gái vẫn còn giữ. Tôi đã đọc, đã tìm lại những kỷ niệm đó thay cho cô trong những buổi chiều chúng tôi ở bên nhau trên căn gác. Với tấm lòng cởi mở của mình, tình yêu đối với cô luôn có thêm tình bạn. Nếu thiếu tình bạn, không bao giờ bạn được cô nhắc đến tên về sau này.

            Bóng cây đổ xuống, che bớt nắng trên đường. Chúng tôi đã bắt đầu vào trung tâm thị xã. Xe cộ qua lại, những người đi bộ trên vỉa hè, và cả dãy phố đang buôn bán tấp nập. Tôi thấy lại những cảnh cũ còn nguyên vẹn, hơn nữa có sự đổi mới làm sáng sủa hơn. Trước đây, nhà ở hai bên vỉa hè thấp, có khỏang cách, giờ gần nhau hơn và có  một số nhà xây dựng thêm một hai tầng làm cho dãy phố càng trở nên thanh lịch. Tôi thấy lại tiệm chụp ảnh Vĩnh Phúc, nhà sách Sáng Tạo, nhà sách Lương Giang.

-Anh đã ghé tiệm thuốc tây nhà em bao giờ chưa ?

-Có chứ. Tiếc là hồi đó không thấy em ?

-Em đâu có bán hàng. Tiệm thuốc tây của bác Trác mà.

-Thời kỳ đó, công việc của ba ra sao ?

-Ba làm trong phần hành quảng cáo.

            Nhà thuốc tây Giơ Neo nằm ở trung tâm chợ thị xã. Bên trái con đường nhỏ là Ty Thông Tin, và đối diện con đường vào chợ là nhà sách Tùng Sơn.

            Khu chợ giờ này còn đông nên vợ chồng tôi phải gởi xe. Dù biết trước sự đổi thay, nhưng nhìn lại căn nhà cũ vợ tôi có một nỗi buồn in dấu trên gương mặt. Nếu như tiệm thuốc tây sang lại còn họat động, chúng tôi có thể ghé vào, mua một lọai thuốc cảm cúm phổ thông để tiện dịp xem lại bên trong căn nhà ở trước đây, nhưng chủ mới đã sửa sang lại thành nhà ở và có xây thêm một tầng lầu nữa.

             Tôi và Ninh Hà đi bộ trên con đường nhỏ đến trạm thông tin để nhìn phía bên hông nhà. Khi vợ tôi đứng lại nhìn khung cảnh cũ, tôi im lặng bên nàng. Tôi hiểu được những gì nàng suy nghĩ. Dù đây không phải là nhà riêng, nhưng đã có nhiều năm tháng nàng sống bên cạnh người thân thích của mình.

            Thời gian cũ đã làm phai hết thảy mọi dấu vết. Có một quán nước rất là tiện để cho chúng tôi vào đấy nghỉ chân.

-Em còn nhớ gì thêm về thành phố này không ?

-Có chứ.

-Không biết rạp hát Đại Chúng có đổi tên. Ở đây, có trường trung học Nguyễn Hòang, có sân vận động, vui nhất là những ngày hè đi tắm sông.

-Em thấy anh rất là hạnh phúc.

-Không hòan tòan cho anh, nếu không có em đi cùng.

-Anh cứ nhắc mãi.

            Tôi cầm ly nước đưa lên miệng uống cùng hướng cặp mắt theo vợ tôi nhìn qua căn nhà cũ. Thực sự căn nhà đó không phải của gia đình mình nên đối với nàng cũng chỉ là một quang cảnh gợi lại ít nhiều về cuộc đời, về những người bạn, về một sự rung động có thể cảm thấy vui hơn là buồn.

            Bên ngoài, tự dưng mang vẻ ủ dột với màu trời xám đi. Không lâu, một trận mưa đổ xuống. Mưa lúc đầu nhẹ nhàng, sau đó nặng hạt.

-Ngồi đây ngắm mưa thành phố cũ.

-Anh tưởng tượng nhiều quá.

-Không đúng sao. Trời đang mưa, anh được ngồi bên em.

-Mưa lớn, chắc lâu tạnh.

-Em thích đi dưới mưa không ?

-Đi.

            Tôi trả tiền nước. Rời quán, chúng tôi đi qua một cưả hiệu tạp hóa mua hai chiếc áo mưa lọai rẻ tiền. Tôi chọn màu thuốc lá, Ninh Hà màu xanh lam. Trời đang mưa, hai chúng tôi đi bên nhau đến chỗ gởi xe đạp. Mới đầu buổi chiều, từ tỉnh lỵ về quê ngọai của tôi có hai con đường đi. Con đường ngắn nhất là về lối đường quận Triệu Phong, qua đò ngang An Dạ tuy nhiên trời mưa nặng hạt rất là khó đi. Đường thứ hai, ra thị xã Đông Hà rồi theo đò dọc trên sông Hiếu Giang. Tính ra, đi con đường này phải hơn hai giờ đường.

            Không có mục đích gì ngòai chuyện đi chơi phố nên khi lấy xe đạp, chúng tôi đi lang thang, tiện thấy quang cảnh lạ và hay của phố nào chúng tôi đi qua phố đó. Rồi chúng tôi sẽ đi ra con đường bờ sông, và dọc theo con đường này ngắm lại dòng sông cũ.

            Tôi nói với Ninh Hà :

-Thành phố này rất là nhớ em.

-Anh phải làm loãng bớt tình cảm lãng mạn đi.

-Không bao giờ anh nghĩ sai về em. Ngày xưa em sống ở đây, con đường nào cũng có bóng dáng em, cũng có người gọi tên em. Mỗi nơi, tên em là nỗi nhớ, kỷ niệm,  ngày tháng đi liền nhau. Ngày xưa cũ, hình ảnh em ở khắp mọi nơi.

-Anh quá yêu em, rồi cái gì của em cũng đẹp hết.

-Hơn bao giờ hết, có đôi tình nhân đi dưới mưa.

-Bây giờ em và anh cùng cất tiếng hát.

-Tuyệt vời.

            Mưa càng nặng hạt. Thành phố đang chịu trận hứng mưa. Nước mưa chảy tràn giữa lòng đường. Gió thổi rào rạt, những tiếng động của bầu trời, những nơi xa gần trong thành phố, những hình ảnh lúc hiện, lúc khuất, ở trong tâm trí chúng tôi là quá khứ, là hiện tại, và ít nhiều mộng ước tương lai. Thế nhưng, tất cả thuộc về tuổi thơ mà không nhớ ra được ngày tháng của mình.

-Trong mưa, có tiếng nói của em.

-Có đúng thế không ?

-Bao nhiêu lần anh đã nghĩ, nghe âm thanh tiếng em nói là nghe những cơn mưa trong buổi chiều.

-Anh có luôn tin rằng, tiếng em nói là nhịp đập tim anh.

-Đó là một câu hát. Câu hát này, mỗi khi em hát lại, cho anh một bài hát khác. Ít ngày tới đây nữa thôi...

            Lúc này, giọng nói Ninh Hà như thể là những giọt mưa trên lá. Tôi nghe tiếng nói của nàng và hình dung những hàng cây hai bên đường, những chiếc lá xanh  ướt, những nụ cười của tuổi hai mươi đầy ắp mộng ước và tan biến rất nhanh. Nàng nói với tôi bằng một giọng dịu dàng và hơi buồn, như thể bầu trời này là một sự hòa hợp nghiêm trang để những chuyện nàng nói ra, về sau này, sẽ được ghi chép lại trong nhật ký. Tôi đang nghe, đồng thời,  dành cho cặp mắt mình như là một tấm gương để in dấu vẻ đẹp  gương mặt Ninh Hà qua ánh sáng cơn mưa buổi chiều ngòai thành phố.

            Bên kia sông, thành phố đã khuất dạng. Nếu có ngỏanh đầu lại chỉ còn nhìn thấy những lớp mưa dày đặc trùm kín tất cả bóng lá tối xanh dài theo những hàng cây trên con đường ven theo dòng sông. Tuy nhiên, rồi chúng cũng có thể nhận ra khi trông thấy một phần những viên gạch nhô lên dọc theo bờ tường khu  Cổ Thành.

            Ninh Hà nói:

-Nếu sau này xa nhau, anh đừng có luyến tiếc.

-Không đâu.

-Không được nhớ nhung gì cả. Hãy nghe lời em.

            Ở ngọai ô không có con đường trải nhựa. Những con đường đất lớn nhỏ, ngang dọc hay cắt chéo, hoặc tới các ngã ba mỗi lúc như thể hình dung ra được trên một tấm bản đồ. Trên mỗi con đường đều có nhà ở, có lạch, suối, sông và đồng ruộng. Với cảnh trí này, chúng tôi cảm thấy một sự bình yên, thanh thản trong tâm hồn. Câu chuyện của chúng tôi có khi lan man, nhưng dù vậy, đôi lúc cũng buồn vì sự thương yêu và nỗi nhớ dành cho nhau. Bây giờ đây nghĩ đến chúng tôi, hẳn ra, bạn không sống trong tưởng tượng mà với những cảm xúc chân tình bạn thấy rằng tình yêu của chúng tôi được bày tỏ như thể chúng tôi hiện diện với cuộc đời. Mưa làm cho thời gian chậm và lâu. Chúng tôi đạp xe thong thả. Bên nhau, mưa buổi chiều trọn vẹn với bao nhiêu kỷ niệm và mối tình đang hạnh phúc. Sự đợi chờ của tôi là muốn được nghe những điều Ninh Hà nói. Tôi chẳng có gì phân vân, bối rối cả. Hòan tòan tôi ưng thuận theo mỗi ý định của nàng. Thực sự một chiều mưa như thế này làm chúng tôi nghĩ ngợi nhiều. Đến lúc nào mới xa nhau chưa biết, nhưng một ngày đó sẽ đến. Và ngày đó, hai chúng tôi hòan tòan bặt tin nhau.

-Em chỉ cần giữ lại tiền mua vé tàu thôi, tôi nói.

-Có, và trong này còn có tiền của anh nữa.

-Em giữ hết đi. Em muốn để hết cho em. Em nhớ hôm nay là mình về quê của mẹ.

-Về đâu cũng xa xôi cả.

-Em đừng quá lo lắng. Mẹ, người mẹ luôn phải lo lắng cho bản thân mình bằng nghị lực và sự che chở.

-Em biết.

-Bây giờ em có thể nhớ lại những ngày cũ đó.

-Anh nói sao ?

-Những ngày mưa bão trong năm đó. Lúc này, anh nhớ ra và nghe được rõ tiếng mưa, tiếng gió, cùng nước lũ trong mùa bão ?

-Làm sao anh hình dung được.

-Em đã nói với anh, em không nhớ sao ? Bây giờ, anh chỉ cần nhắc lại, và em sẽ nhớ ra tất cả trong giọng nói của mình.

-Những ngôi làng này, ngày đó, em đã theo đòan học sinh đi cứu trợ.

-Anh luôn đặt hết niềm tin nơi em.

-Anh cứ mãi sống với nỗi phiền muộn. Hãy để cho thời gian đi nhanh.

-Vậy là thời gian cứ bỏ mặc chúng ta bơ vơ sao ?

-Anh đừng nghĩ gợi.

-Em cũng thế. Anh yêu em.

            Quang cảnh ngôi làng dưới cơn mưa với những cánh đồng ngập nước đang trở lại trong trí nhớ Ninh Hà . Ninh Hà đang nhớ đến và cố gắng tìm lại những câu chuyện mà trước đây nàng đã nói ra với những người bạn của nàng. Nước mưa tràn ướt lên mặt, bầu trời xám, những tiếng động sấm sét có lúc trỗi dậy. Con đường làng vẫn ven theo các đồng ruộng. Có lẽ chúng tôi bị lạc đường, nhưng mà, những nhà ở hai bên cho chúng tôi nhận ra được từng dấu hiệu để tin rằng, mình đi đúng con đường mong tìm lại quê nhà. Mưa không lớn, nhưng đều hạt. Tôi cảm thấy ướt át.

-Em có lạnh không ?

-Không, nhưng quần áo ướt cả đây.

-Có cần nghỉ chân chốc lát không em.

-Không, mình cứ đi.

-Anh nghĩ là em rất mong gặp mẹ.

-Anh cứ luôn đặt em vào trong sự hồi tưởng của anh.

-Chẳng phải anh và em là một.

-Không, hai người khác nhau. Mỗi người ở một nơi.

-Vậy mà anh chẳng hay gì cả.

-Không được ví von, ẩn dụ.

            Bên trong tâm tưởng chúng tôi luôn nghĩ đến một con sông và dòng nước đang trôi chảy. Bây giờ, con sông xuất hiện. Nước mưa theo dòng sông tràn chảy, nơi chốn về trở nên xa. Tới một ngã ba, tôi hơi phân vân định hướng. Ninh Hà theo xe tôi rẽ trái, tôi định hướng về dòng sông. Càng lúc, dòng sông trở nên gần, trông rõ hơn.

-Anh không muốn đi nữa.

-Sao vậy ?

-Em không thấy dòng sông chảy mà lại không ngồi nghỉ chân sao ?

-Em hiểu ý anh.

            Chúng tôi dừng xe, và dựng bên một lều quán bỏ trống. Bạn nhận ra sự hợp lý của quang cảnh buổi chiều mưa ở vùng làng quê. Nào con sông chảy, nhà cửa đìu hiu vắng lặng, quán chợ bỏ hoang, nỗi buồn viễn khách, vậy nên đây cũng là cơ hội cho tôi và Ninh Hà nói thêm biết bao lời tâm tình.

            Không vào quán trú mưa, chúng tôi ra bờ sông ngồi. Ninh Hà nói:

-Em đã ngồi bên anh. Nói gì thì nói đi.

-Mình còn hai cây số nữa, về tới nhà.

-Anh đừng có dẫn dắt kẻ khác.

-Em thích ở lại đây một mình không ?

-Đừng bỏ em tôi nghiệp.

            Đôi mắt Ninh Hà nhỏ đẹp sau nụ cười.

-Anh và em cùng uống nước mưa.

-Hứng đi.

             Tôi cầm lấy bàn tay Ninh Hà để ngửa. Tôi cũng ngửa rộng bàn tay để hứng mưa. Nước mưa chảy đầy, chúng tôi uống. Tôi uống nước mưa từ bàn tay Ninh Hà , và nàng uống nước trên tay tôi.

-Nước mưa ngọt quá anh.

-Nước mưa ở tay em có mùi vị trái cây.

-Nói tiếp đi.

-Em không giải thích cho anh.

-Không.

            Ninh Hà bảo tôi nhích lại gần để nàng tựa đầu.

-Em ngủ dưới mưa, nàng nói.

-Em ngủ đi. Ngồi bên em, anh nói chuyện với mưa.

            Mưa lớn, con đường dọc theo sông trở nên vắng, chỉ nghe tiếng gió và những hàng cây ràn rạt làm rớt rụng những cành lá rớt xuống đường. Và, ở quãng này, lòng sông mở rộng. Bên kia, ngôi làng nhỏ mỗi lúc trông thấy cái bóng bị mưa gió đẩy lùi, càng xa khỏi cánh đồng. Trời mưa, những căn nhà ngói cũng như nhà tranh ở ven đường đều đóng cửa. Tuy nhiên, vẫn có bóng người đi và tiếng họ gọi nhau vang xa, rồi bạt khuất theo cơn gió đổi chiều.

            Trên cao, mây trời xám bạc.  Dòng sông, nước cuốn mạnh chảy rất xiết. Những cơn mưa mỗi lần trút đổ, kéo nhau, cuồn cuộn trên dòng sông. Ninh Hà đã ngủ yên giấc. Nàng ngủ dưới cơn mưa, tôi ngắm gương mặt nàng đẫm ướt nước mưa.

            Bỗng tiếng nàng cất lên hỏi:

-Anh đang mơ nghĩ gì đấy.

-Tối nay trời có trăng chứ em nhỉ.

-Em không phải cuốn lịch thời gian.

-Em là của anh. Lúc nào, em cũng là riêng của anh.

-Anh thực quá mơ mộng.

-Em cũng thế.

            Tôi thèm hôn  lúc mưa càng nặng hạt chảy tràn ướt xuống gương mặt nàng.

-Em không uống nước mưa nữa sao ?

-Anh hứng đầy tay cho em uống.

-Ngày trở về, em nhớ đi bằng xe lửa.

-Một mình, em đi phương tiện nào cũng được.

-Anh mong tối nay trời có trăng. Bây giờ, em ngủ đi. Ngủ đi đến lúc nào mưa tạnh.

-Mặc cho mưa ướt, em không ngủ nữa.

-Tối nay, trước cảnh miền quê thanh bình, anh và em ngồi ở thềm hiên ngắm trăng.

-Trăng đêm, anh và em cùng đi ngắm cảnh làng quê.

            Cả hai người cùng đứng dậy. Chúng tôi tới chỗ gốc cây bên lều quán lấy xe đạp. Ngôi làng và cánh đồng đang ngập nước. Không có một ai quen để chúng tôi nói lời tạm biệt.

            Dòng sông nước vẫn chảy xiết, và con đường về miền quê ướt át, hiu quạnh, cả hai hình ảnh đã trở nên xa cách như hai người bạn đem một ý nghĩa về sự mong nhớ, đợi chờ của thời gian trong mỗi chúng tôi. Tôi đạp xe chạy phía ngoài, Ninh Hà đi bên trong.

-Em không hiểu sao muà hè ở đây mà lại có những trận mưa lớn như mùa đông.

-Có em về, chiều nay cơn mưa lũ tới là vui với những kỷ niệm ngày tháng đó em đã đi theo các đoàn học sinh cứu trợ đến các vùng lũ lụt ở miền quê.

-Anh biết không, đi suốt một ngày trong mưa lạnh.

-Ngày đó, em có nhiều bạn bè. Thời học sinh lúc nào cũng vui như bài hát.

-Ngày đó, em hát hay lắm.

-Ngày đó, không có anh.

-Có anh cũng vô ích.

-Tại sao ?

-Anh đâu thích làm công tác từ thiện. Anh là mọt sách, suốt ngày mộng mơ.

-Ngày đó, em đã thay thế anh rồi.

            Tới đây, chúng tôi gặp đoạn suối, trời vẫn cứ mưa , lòng suối xiết trôi theo mưa. Không thể vượt qua suối, chúng tôi hướng về phiá con đê nên đường đi phải xa hơn. Câu chuyện hai người lại nối tiếp.

-Em về thăm lần này, biết là không còn gặp anh nữa.

-Không sao đâu. Em đừng buồn. Hình ảnh em, anh cất giữ ở tim mình.

-Anh có nghĩ tại sao chúng ta xa nhau không ?

-Không, anh không nghĩ tới, vì gặp em buổi sáng đó, anh biết đời anh được sống với em.

            Từ trên đường đê, bóng dáng làng quê của mẹ tôi hiện ra. Chiều hôm đã tới, chuông nhà thờ đổ vang một hồi lâu.

-Nơi đây, những làng quê đã nằm về cuối sông. Có nhiều con đường ra tới biển.

-Nơi những miền quê này, quang cảnh đã đổi khác.

-Em đâu biết tên làng quê của mẹ, phải không ?

-Sao không ?

-Em nói đi.

-Xuân Thành.

-Ủa, sao mà tài vậy.

-Em về đây, về làm dâu của mẹ từ thuở ấy. Và, bao nhiêu lần, anh bảo rằng em rất giống mẹ lúc mẹ còn trẻ.

            Chúng tôi xuống xe đạp, dắt bộ. Mưa nhẹ hạt, rồi tạnh. Ánh mặt trời bừng dậy, sáng hẳn. Ninh Hà reo lên, như trẻ thơ. Nhìn xuống đồng hồ đeo tay, nàng hỏi tôi:

-Anh biết mấy giờ rồi không ?

-Chừng bốn giờ.

-Trật lất. Năm giờ chiều rồi.

            Một giọng vui, tôi bảo Ninh Hà :

-Anh biết chứ. Giọng em nói, vui hay buồn, cả nước mắt nữa đều làm cho mọi cảnh vật trở nên đẹp, tươi hồng trong ánh sáng. Khi một ai đó ở xa, thời gian dừng cánh lại, và nơi đâu cũng nghe tiếng gọi của một người nhớ đến em. Gió miền quê này anh thuộc lòng. Chúng mình đã về tới làng quê của mẹ, ở đây, em đã trông thấy đồng ruộng, cây đa, bến nước, tất cả đó trỗi dậy trong màu khói lam lan toả cảnh buổi chiều.

-Anh lúc nào cũng nói những lời văn vẻ.

-Em sẽ cảm thấy, sẽ hiểu thấu lòng mẹ anh thương em biết nhường nào.

-Em đã làm dâu người khác.

            Giọng Ninh Hà trở nên xa xôi.

-Anh biết chứ ?

-Biết vậy, nên trong lòng anh luôn cảm thấy nặng với nỗi buồn.

-Nhưng em hãy giấu mẹ, đừng nói ra.

-Không đâu anh. Em luôn vâng lời anh.

-Mẹ đã sống bao nhiêu năm ở miền quê như từng lời ca trong mỗi bài hát. Còn anh, lớn lên từ buổi đầu gặp em và được em thương anh.

-Anh thuơng em không ?

-Không, anh ghét em lắm.

-Vì sao ?

-Vì em bỏ anh.

            Câu chuyện về một miền quê cứ vậy đưa chúng tôi về tới nhà với bao nhiêu hạnh phúc được chờ đón. Cậu Bính là con nuôi của ông bà ngoại tôi. Vợ chồng tôi hôm nay về thăm quê là để nhớ cảnh cũ. Những người thân trong gia đình, đã rời xa chốn  này từ những năm đầu xảy ra cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp. Bà ngoại tôi đang ở Sài Gòn. Mẹ tôi, các dì, các cậu ở các tỉnh từ Quảng Trị vào trong các tỉnh phiá Nam mỗi người một nơi, thời gian ở xa quê chỉ khi nào nhớ ra được đích thực cái tên của mình trong giọng nói lúc ấy mới có được một phong cảnh dấu yêu cho đời mình.

-Hai cháu ở Sài Gòn ra ?

-Dạ không, ở Đà Nẵng.

-Hai cháu về chơi lâu không ?

-Ít ngày thôi, cậu.

-Ở cho hết tuần trăng này cháu. Qua tuần sau, có giỗ ông ngoại rồi.

            Tôi và Ninh Hà đưa mắt nhìn nhau. Căn nhà này, bà ngoại tôi để lại giao cho cậu Bính trông nom, quản lý hết. Cậu là người trung tín.

            Từ lúc chúng tôi về đến nhà, cậu tiếp đón, trò chuyện, hỏi han những người thân để nghe tôi trả lời. Cậu vẫn khoẻ mạnh. Nhưng tôi đổi khác nhiều, và khi nhìn Ninh Hà ở bên tôi, cậu nghĩ rằng, rồi đây chúng tôi sẽ sống với nhau rất hạnh phúc.

            Cậu nói:

-Cô này rất giống mẹ cháu.

-Bạn học rất thân của cháu.

            Tôi đưa Ninh Hà ra giếng tắm. Trên lối đi phía sau, chúng tôi thấy cảnh vườn rộng rãi. Giếng sâu, nước trong, quanh thành giếng có lát gạch. Lúc này, hai đưá tôi cảm thấy lạnh thực sự vì dầm mưa suốt con đường từ tỉnh đi xe đạp về.

            Giọng nói củaNinh Hà , thật vui và rất hồn nhiên. Sau khi tắm xong, chúng tôi chỉ dùng khăn lau khô mặt, và cứ mặc quần áo ướt đi lên nhà để thay quần áo khô.

-Nồi khoai mới luộc.

            Con bé út bưng nồi khoai lên đặt xuống bàn khách. Tôi reo lên, tưởng như hát một câu hát. Vào phòng thay quần áo rất nhanh, chúng tôi trở ra ngoài.

            Ngồi xuống trước nồi khoai, Ninh Hà bảo:

-Anh hát một bài dân ca đi.

            Tôi hát nho nhỏ. Ninh Hà vừa nghe, vừa lấy khoai ăn. Hát xong, tôi nói, tay vừa lấy một củ khoai.

-Em và anh mới về thăm quê. Em có nghĩ, mình về, để sống với sự thích thú, với không khí lãng mạn, và tâm hồn chúng ta có những ý nghĩ hay đẹp hơn cả những bài luận trong các cuốn quốc văn giáo khoa thư.

-Ngày nào đó, những kỷ niệm cảm động nơi làng quê sẽ nhắc nhở em ghi vào một cuốn nhật ký.

            Buổi chiều bắt đầu ấm trở lại. Khoai nóng ăn với hương vị miền quê, nó còn đầy ứ hơi khói và mùi vị ấm trong cổ họng. Ninh Hà  ăn hết hai củ vừa, thêm một củ nhỏ. Còn để dành bụng cho bữa ăn tối, cậu mợ nuôi của chúng tôi sẽ cho chúng tôi ăn cháo hến. Đây là món cháo  tôi rất thích.

            Ninh Hà thôi ăn, đi ra thềm hiên ngồi hong tóc. Nắng lên trải rộng trên sân và chiếu vào thềm hiên. Nàng im lặng nhìn cảnh miền quê từ ngôi nhà của một người mẹ trong dĩ vãng. Tôi ăn xong, đứng lên thở nhẹ một vài hơi lấy thư giãn, rồi đi ra cửa.

-Em đi chơi không ?

-Đi chơi đâu anh ?

-Đi dạo quanh làng.

            Cậu Bính xuất hiện, lên tiếng bảo:

-Hai con ra thăm mộ ông ngoại.

-Dạ.

            Chỉ có Ninh Hà vào thay lại quần áo. Nàng trở ra trong chiếc áo dài lụa nâu, tóc chải suông xuống bờ vai. Hình ảnh này lại gợi nhắc tôi nhớ buổi đầu tiên hai chúng tôi gặp nhau ở lớp học, và từ đó, nàng đã cho tôi cả một bầu trời bình yên với ánh sáng của những đám mây lơ lửng, nhẹ nhàng. Khi nhớ đến nàng, tôi luôn nghĩ nàng có một gương mặt đầy đặn giữ được lâu thứ ánh sáng vào lúc bình minh.

            Vợ chồng tôi cất tiếng chào cậu Bính rồi mới đi. Những lời nhắc nhở của cậu như còn vẳng vọng bên tai. Ninh Hà cầm lấy bó nhang khi cậu đưa. Có vẻ cậu có ý muốn được nàng dâu của mẹ tôi quan tâm đến linh hồn gia tộc.

            Ninh Hà thật hạnh phúc bên tôi. Nàng đẹp, sẽ đẹp mãi suốt đời tôi.

-Em là người vợ vô cùng quí giá.

-Anh thương em, bằng lòng lấy em rồi phải không ?

-Em là tất cả. Hình ảnh em qua áo dài là một khuôn mặt thời gian.

            Chúng tôi dừng lại trên con đường trước cổng nhà đưa mắt nhìn quang cảnh con sông và cánh đồng phiá trước. Chúng tôi cùng thấy con đê, thấy nhà ở các làng mạc bên kia, và bóng dáng cả ngôi chùa và ngôi nhà thờ. Và trên con đường dài này, căn nhà chúng tôi nằm đầu làng. Và từ  đây, đường ngược ra bến đò đi qua khu nghĩa trang, qua ngôi đình làng có trồng quanh đó những cây bàng cao và lớn.

            Nắng bên kia sông đã lùi xa. Bóng nắng trôi giạt về phiá lũy tre của ngôi làng bên dưới ngôi nhà thờ. Hồi chuông đã đánh lên cách đây chừng một tiếng đồng hồ khi chúng tôi xuất hiện đầu con đê. Có thể tới đêm, hoặc sáng sớm mai chuông mới lại khởi sự cho một ngày từ buổi rạng đông. Còn chuông chùa nữa, hồi chuông chùa đánh vào lúc ngày bắt đầu tàn, hoàng hôn xuống. Bây giờ đây buổi chiều chìm nổi giữa một vùng không gian trống rộng, và chúng tôi nhìn thấy bao quát hết các ngôi làng gần xa. Nơi đây, làng tôi là điểm cuối vùng dân cư của quận lỵ, đất rộng, đồng ruộng nhiều, nhà ở thưa thớt nên qua một vùng trống trải trước mắt chúng tôi nhìn đâu cũng thấy bóng dáng xa của các ngôi làng phiá trên. Ngày xưa, vào những lúc thời tiết sáng sủa, trời rất quang đảng nhìn lên thị trấn chúng tôi có thể trông thấy bóng dáng cây cầu bắc qua sông Hiếu Giang. Đó là cầu H. cũng nằm trên quốc lộ I. Đường đi ra Bắc qua cây cầu này, đến cầu giới tuyến Hiền Lương, chạy qua hai quận lỵ Gio Linh, Vĩnh Linh nữa là qua địa phận tỉnh Quảng Bình, rồi Vinh, Hà Tịnh, Thanh Hoá.

-Về đây, em ở bên anh bao nhiêu ngày ?

-Tùy em. Anh không nghĩ đến thời gian, một phút bên em là anh được sung sướng rồi.

-Cảm động quá. Chết em mất.

-Chốn này riêng biệt cho anh và em.

-Còn chốn nào nữa không ?

-Không. Nếu sau này xa cách, mỗi chúng ta chỉ còn một giấc mơ được trở lại quê hương ở nơi này.

-Về được, anh và em sống mãi mãi.

            Bên nhau, chúng tôi bước thong thả. Gió lộng nghe lâng lâng, vừa thổi mát, vừa cho cảnh chiều một nỗi buồn dịu dàng đã hất tung mái tóc nàng lên, rồi như bàn tay vuốt khẽ gương mặt, rồi như đưá trẻ thơ đột nhiên vụt cắm đầu chạy một hơi, đến từ phiá đó bỗng nó quay đầu chạy nhanh trở lại đâm vào người nàng hất tung thân áo lên đánh phần phật.

-Gió cũng biết làm em đẹp.

-Thôi, được rồi. Mai mốt chết đi, về gặp Diêm Vương đầu thai kiếp khác, em xấu như ma trơi.

            Tới ngã ba, chúng tôi nhìn thấy khu nghĩa trang. Khu nghĩa trang nằm bên cạnh đình, có hai cây bàng cao lớn. Buổi chiều xuống trong yên lặng khi chúng tôi đi tới, càng gần, tự dưng lòng chùng xuống.

            Có khoảng chừng 20 ngôi mộ. Những ngôi mộ của gia đình bên mẹ tôi có bia, và xây thành. Tôi đưa Ninh Hà đến thăm mộ ông Cố, lớn nhất. Với lòng thành kính khi thắp hương, tôi đứng nhìn nàng mà gợi nhớ, hình dung biết bao nhiêu người xưa đã qua đời. Tôi nghĩ đến hai bà cố của tôi là hai chị em ruột rất thương nhau. Sau khi thắp hương và khấn xong, Ninh Hà nhường chỗ tôi đến vái. Tôi nói với ông cố tôi những lời nguyện ước.

            Tấm bia ông cốâ tôi dày và cao. Bức ảnh lớn được tráng men in lên tấm bia rộng. Tôi và Ninh Hà lặng yên, chăm chú đọc những lời ghi chú về ông ở trên tấm bia. Bỗng tôi thấy đôi mắt Ninh Hà vui lên như định nói điều gì. Tôi hiểu, và nói một đôi lời giải thích về dòng họ mẹ tôi.

-Em hiểu. Và, có thể cụ cố là người cùng quê với em.

-Em cũng mang họ của mẹ đấy. Ông ngoại anh có bốn người con gái, chết đi một còn ba.

-Có lẽ chúng ta gặp nhau là do cơ trời, duyên số phải không ?

-Em nói gì, anh cũng tin.

            Rời mộ ông cố, tôi đưa vợ tôi qua thăm hai bà cố, rồi đến mộ của hai ông bác, sau cùng là mộ ông ngoại tôi. Ông ngoại tôi mất năm 1947. Ông làm quan đến hai mươi năm từ khi đỗ đạt. Ông đỗ Cử Nhân, nơi đầu tiên ông nhậm chức là huyện Nga Sơn, Thanh Hoá. Sau đó, ông về phiá trong làm các quận Thăng Bình, Lý Sơn, đến năm 1945, ông cáo quan về làng quê nghỉ dưỡng tuổi già.

            Ninh Hà nắm giữ bàn tay tôi khi tôi nói về ông tôi. Tôi nói bằng sự thành kính, gợi nhớ, trân trọng từng lời nhớ thương ông tôi. Trong các con, ông ngoại rất thương mẹ tôi, vì mẹ ít học chỉ ở nhà lo việc đồng áng giúp bà ngoại tôi. Bây giờ, nhớ lại khuôn mặt mẹ tôi thời con gái, tôi nhận ra vợ tôi có nét mặt gần giống, nhưng nàng đẹp trội hơn, và mãi mãi với vẻ đẹp này nàng mong ước tôi suốt đời yêu nàng.

            Chúng tôi ngồi bên nhau đợi hương tàn. Nhìn qua cánh đồng trống, những ngôi làng xa đã bắt đầu mờ dần trong bóng dáng sương chiều phủ xuống. Chúng tôi im lặng để cùng có một tâm hồn với cảnh vật. Và, như mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.

            Bỗng Ninh Hà nói:

-Em đã có đến đây một lần rồi.

            Tôi chợt nói:

-Đến hôm nay, em về trở lại.

-Không, không phải thế, nàng đáp.

 

 

                                                                     IV

 

 

            Từ một căn nhà đầu phố Gia Long gần bùng binh ngã sáu, vừa thấy xuất hiện một chiếc taxi đang chạy chậm, rồi ngừng lại, vào lúc ấy xuất hiện bóng một cô gái đứng bên đường, ít phút sau, cô mở cửa bước lên xe. Cũng còn ở nơi đó, trên lề đường một người đàn ông, hai người đàn bà, cả ba người cùng vẫy tay chào theo  cô gái lúc xe lăn bánh.

            Người tài xế mặc chiếc áo sơ mi đã cũ, có nhiều đường sọc, trạc tuổi chừng hơn bốn mươi. Trên mái tóc để dày, và những sợi tóc như đã  khô cứng. Hai cánh tay ông ta trông khỏe, vừa lớn, bao kín hết vòng tay lái của chiếc taxi nhỏ. Vừa lúc xe đang chạy, ông ta chỉnh lại đồng hồ cây số ghi giá tiền. Mỗi quãng, đồng hồ nhảy lên một nấc. Và, chiếc xe vẫn đang chạy chậm trên con đường cũng nằm trên khu phố thuộc căn nhà gia đình cô gái ở.

-Cô được đi du học ?

-Vâng.

-Cô du học nước nào ?

-Dạ, Hoa Kỳ,

-Cô mới đi lần đầu, phải không ?

-Đúng, ạ.

            Rồi đột nhiên, xe rẽ lối trái, sau đó chạy qua một con phố nhộn nhịp, đèn điện sáng trưng. Người tài xế mỉm cười, nói:

-Đấy, cô nhìn lại Sài Gòn để nhớ lần cuối khi ở xa.

            Cô gái cười, thốt lên:

-Hay quá. Ông thật là người có tâm hồn.

            Người tài xế giữ nhẹ chân ga cho xe chạy thong thả. Ngồi trong xe, cô gái nghe ra những tiếng động xe cộ qua lại trên đường phố chính, nghe tiếng bước chân người đi trên lề đường, và cả những tiếng chuyện trò của họ, sau cùng, cô thấy nơi đây là thành phố cô đã dừng chân từ hôm rời Huế vào đây, và tối nay cô lên đường đi xa.

            Người tài xế lại nói:

-Tôi cũng đã có nhiều chuyến đưa tiễn khách lên đường đi tới một xứ khác.

-Vâng.

            Rồi ít giây sau, cô gái hỏi:

-Ông chỉ đưa thôi, có vào phi trường không ?

-Không. Nhưng lần nào tôi cũng cảm thấy lòng mình vui.

-Cám ơn ông.

            Lúc này, xe đang chạy trên đường Catinat, hướng về khu nhà thờ và nhà Bưu Điện. Trong đôi mắt cô gái, ánh sáng của nụ cười thật là hiền dịu. Khi trông thấy quán cà phê Pagode, cô nhớ đến Thụy. Trong bóng dáng của Thụy, có cả bóng những người nghệ sĩ thường ngồi ở quán này, và anh luôn làm cho cô vui khi anh kể cho cô nghe nhiều chuyện về một người thiếu phụ trẻ đẹp, như thể đấy là bức tranh anh đã vẽ ra được và ghi nhớ mãi.

-Hết Sài Gòn rồi, giờ tôi cho xe chạy nhanh nhé.

-Vâng, ạ.

            Tiếng cười nhẹ, và cô gái cảm thấy thực vui, háo hức về chuyến đi của mình.

-Gia đình cô ở Huế, phải không ?

-Đúng, sao ông hay vậy ?

-Không, tôi không hay đâu. Chỉ muốn nhắc lại những lời mấy người thân của cô lúc tiễn cô đi.

-Vâng, ông nói phải.

-Tôi cũng mang một tâm trạng gần giống như họ.

            Cô gái chợt có cảm giác lo ngại, một thoáng nghĩ về điều gì đó, nhưng rồi vội vàng cô xóa ngay đi. Và, trong sự lặng im, cô đang lo sợ.

            Mười lăm phút sau, chiếc taxi đưa cô gái đến phi trường. Vừa thấy bóng dáng Liên An lúc xe ngừng, Thụy liền chạy đến.

            Cô gái vẫy tay chào mừng Thụy, vừa hỏi người tài xế :

-Thưa ông bao nhiêu tiền ?

-Hai trăm, cô.

            Cô gái trả đủ tiền, nói lời cám ơn rồi mở cửa xe. Thụy chờ sẵn bên cạnh xe để đỡ hành lý cho Liên An. Ngay lúc đó, anh thoáng để ý từ cái nhìn lạnh lùng của người tài xế.

            Rồi, hai người dời bước không quay đầu nhìn lại. Người tài xế như có vẻ bất bình, cặp mắt nóng đỏ trong cái nhìn dõi theo bóng cô gái đi bên cạnh người lính đang khuất dần phía trong.

            Mưa đêm xuống, nhẹ hạt.

-Em đổi tiền được không ?

-Có, nhưng đổi theo giá ngoài.

            Liên An chỉ cầm tay cái túi xách nhỏ, chiếc túi lớn của cô Thụy đeo ở vai bên trái, còn tay phải anh  kéo chiếc va ly lớn có gắn bánh xe. Hai người vui chuyện lúc đi bên nhau. Bỗng Liên An nói:

-Em vẫn còn cảm thấy sợ.

-Sao vậy em ?

-Hình như ông tài xế mắc bệnh tưởng ?

            Câu nói của Liên An làm Thụy bâng khuâng. Lúc bước đi chậm hẳn, Thụy hỏi:

-Em ngồi trên xe ra sao ?

-Không có gì, nhưng ông ấy hỏi em những điều có vẻ là lạ.

-Em có trả lời những câu ông hỏi.

-Có. Nhưng rồi, không hiểu sao em ngờ ngợ có chuyện gì đó.

-Và em cảm thấy lo lắng.

-Vâng.

            Nhìn qua Liên An, Thụy nói:

-Em đừng nghĩ ngợi. Hãy bình yên , để thanh thản với chuyến đi của mình.

-Vâng, có anh em yên tâm.

            Hai người đi theo những  hành khách phía trước đến quầy số 4, để ghi vé và ký gởi hành lý.  Tới đó, hành khách dừng lại, thứ tự đứng sắp hàng. Thụy nhìn đám đông hành khách tìm thử người quen, và trong số này, có bốn vị Sĩ quan và hai SVSQ, những người này mặc đồ vét màu xanh của binh chủng Không Quân. Hai chàng SVSQ là đi du học, còn bốn ông Sĩ quan là đi tu nghiệp. Bốn vị này đều là Sĩ quan kỹ thuật, vì không có người nào đeo cánh bay trên túi áo.

            Thủ  tục ghi vé và nhận hành lý rất nhanh chóng. Mỗi hành khách chỉ mất hơn mười lăm phút là xong phần việc của mình.

            Bên cạnh quầy ghi vé có một quầy bán rượu , thức uống và đồ ăn nhẹ. Bây giờ, ai cũng thảnh thơi ngồi nghỉ, chờ ra sân bay.

            Cùng với hành khách khác, Thụy đưa Liên An đi vào quán .

-Em uống cà phê nghe ?

-Cà phê , uống em không ngủ được.

            Một giọng vui, Thụy nói:

-Nhưng mà đi, là để thức chứ có ai mà ngủ.

-Không, em không thức nổi. Nhưng thức để làm chi ?

-Thức để mà nhớ.

            Liên An cười nhìn Thụy. Thụy đứng lên, đi đến quầy mua cà phê pha sẵn, trong chốc lát đã quay trở lại. Thụy đặt chiếc khay giấy xuống, trên khay đã có sẵn mấy gói  đường nhỏ.

            Liên An rất muốn tạo nên một dáng đẹp, dễ thương để cho Thụy tha hồ mà ngắm, nghĩ ngợi và tưởng tượng. Với cặp vui, cô nhìn Thụy săn sóc mình. Thụy đang cho đường vào ly cà phê, xong cầm thìa khuấy nhẹ.  Rồi, anh đặt ly cà phê trước mặt Liên An:

-Em uống đi.

-Em chờ anh.

            Trong lúc Thụy cho đường vào ly cà phê của mình, Liên An hỏi:

-Ngày mai anh có đi làm không ?

-Có chứ.

-Bao giờ khóa học của anh mới bắt đầu.

-Anh chưa biết.

-Đừng nhìn em lâu quá.

-Em uống cà phê đi.

-Anh ở Sài Gòn một mình.

-Ngày đó, anh vào đây tìm kiếm việc làm.

-Anh làm công việc gì ?

-Vào thời gian ấy, việc làm không có nên anh tình nguyện đi lính.

            Hai ly cà phê còn để nguyên, chưa uống vì còn quá nóng. Ngồi ở bàn chỉ có riêng hai người, một lúc sau, cà phê bớt nóng uống được hai người mời nhau uống và nhìn mưa bên ngoài. Mưa làm cho bóng tối trở nên dày hơn, nhưng tiếng mưa đổ không nặng hạt. Người lính chợt cảm thấy lạnh, lạ thường. Cô gái mở to cặp mắt nhìn anh, chợt nghe anh ta nói:        

-Khi đi xa là một dịp để cho mình nhớ. Đêm nay, ngồi trong phi cơ, lúc phi cơ bay trong trời đêm em chẳng nhìn chi những vì sao ở ngoài trời, mà cần sự hồi tưởng về một thời nào đó của mình để nhớ. Hạnh phúc nhất của mỗi người là được nhớ. Trong bao nhiêu kỷ niệm về em, gia đình em, và một nơi em sinh trưởng là hiện ra rõ nét hơn cả.

-Cũng có anh trong đó nữa phải không ?

-Anh nghĩ là cũng có.

-Còn anh thì sao ?

-Anh thấy mình đơn độc khi em đã khuất trong chân mây.

-Lãng mạn quá. Trên đường đưa em tới đây, và lúc này có anh, em nhớ ra thật rõ điều người tài xế nói, và em hiểu vì sao ông ta muốn cho em được nhìn một đêm cuối ở Sài Gòn trong giờ phút ra đi.

-Thế đó mà em lo sợ.

-Em sợ, vì ông ta như là người sống trong bệnh tưởng.

-Rất có thể, em là một khuôn mặt nào đó trong đời, ông ta có sự liên hệ.

-Biết đâu, điều anh nói ra là đúng.

-Nhưng mà, em phải để sự bình yên cho mình. Hay là, em nghĩ đến sự chờ đợi em và Ngọc gặp nhau.

-Không, em chưa nghĩ đến Ngọc. Em nghĩ nhiều đến anh.

            Thụy nói:

-Anh vẫn là người lính của một ngày đó về phép. Và, tối nay, anh phải mặc đồ lính để qua được bên đây mà tiễn em.

-Em nghĩ đến anh, vì chúng ta sắp chia tay.

-Em có đói không ? Gọi một món cho em ăn nghe.

-Đừng gọi, uống cà phê với anh được rồi.

            Trời vẫn đang mưa. Tiếng hành khách trò chuyện vang lên trong niềm vui vừa thật ấm cúng. Thụy đã hút hết điếu thuốc thư ba. Anh đang châm điếu thuốc thứ tư. Liên An nói:

-Anh hút thuốc cũng nhiều.

-Trong buổi tối nay thôi.

-Không hút nữa, đưa điếu thuốc cho em.

-Em thích hút thuốc sao ?

            Liên An gật đầu. Thụy nói:

-Em hút đi. Có khói thuốc em hút, anh thấy em bay trong mây.

            Liên An mỉm cười. Nàng ngậm điếu thuốc khô trên môi, hít nhẹ một hơi rồi thở ra làn khói. Có thêm nhiều xe du lịch và xe taxi đang đưa khách đến. Mới được bên nhau khoảng thời gian chưa đầy nửa tiếng, vậy mà trong ký ức, trong kỷ niệm, hai người cùng cảm thấy có một sự dằng xé vì nỗi buồn của ngày tháng. Thụy nhìn ra mưa, trong lúc tiếng Liên An đang nói bên anh.

            Từ nãy giờ, bạn nghe rõ một câu chuyện về bên gia đình Liên An. Cách kể câu chuyện, giọng nói của Liên An dần dần sắp xếp cho bạn nghe thấy, đó là tất cả những gì nàng mang theo , mỗi sự vật đều đã xếp gọn để vào trong chiếc va ly hành lý gởi đi theo chuyến bay cho nàng.

            Thụy nở một nụ cười  hiền hậu, anh nói:

-Em đã có được một khuôn mặt thời gian.

            Thụy uống cà phê thật chậm. Anh đang uống một chút men trong hương vị của một mối tình.

            Liên An tháo chiếc đồng hồ tay đưa qua cho Thụy. Thụy cầm lấy chiếc đồng hồ, anh chỉnh lại  ngày và giờ sau khi đã so giờ bên Việt Nam và giờ ở tiểu bang Cali bên Hoa Kỳ.

-Lúc này là mấy giờ bên Mỹ ?

-Sáu giờ sáng. Em qua bên đó, đến tháng mười là đổi giờ vào mùa đông.

-Em biết.

-Có ai đón em không ?

-Có chứ.

-Người thân bên Ngọc.

-Không. Người của trường ra đón.

-Vậy là em ở nội trú.

            Liên An mở túi xách, lấy ra một phong bì thư khá dày đưa cho Thụy xem. Thụy mở thư đọc, đây là thư của ông bà Smith , người bảo trợ cho Liên An. 

            Liên An nói:

-Có lá thư này em đỡ lo.

            Với một nụ cười dễ thương, Thụy nhìn Liên An. Cô gái cũng nhìn lại anh, màu mắt của cô thật đẹp như  màu một viên kẹo sô cô la.

-Anh cứ mãi nhìn em, thôi nhé.

-Chung quanh em niềm vui như là ánh sáng, Thụy nói.

-Bây giờ là đêm, với ánh sáng là màu vàng.

-Đèn sáng vẫn đợi giây phút em lên đường.

-Anh vẫn luôn mơ mộng.

-Em vẫn là Liên An, cái tên anh rất thích gọi

-Chỉ có tên thôi, phải không ?

-Em vẫn là Liên An, Thụy khẽ nhắc.

            Từ máy vi âm trong phòng phát thanh chợt vang lên tiếng nói của nhân viên phi trường. Đã tới giờ Liên An, ra đi. Thụy chợt rùng mình, ngẩn ngơ. Khi anh và cô gái cùng đứng lên, giọng cô xướng ngôn viên đã thay đổi, và giọng nói trở nên nhanh với hai thứ tiếng Anh và Pháp dành cho những hành khách nước ngoài.

            Lối cửa ra phi cơ mang tấm biển số 4. Những người kiểm vé đứng chờ. Thụy và Liên An chưa dời bước, mắt nhìn nhau bối rối.

-Em đi nghe, tiếng cô gái nói và nước mắt tuôn chảy.

-Anh nhớ em lắm.

-Em hiểu.

-Anh nói với em một lời được không ?

-Anh cứ nói đi.

-Anh yêu em.

            Liên An gật đầu, rồi đưa tay ra cho Thụy bắt.

 

 

                                                                   V

 

 

            Tám giờ sáng, đoàn xe khởi hành. Từ sân phòng tuyển mộ đến phi đoàn vận tải chừng hơn mười phút. Khi đoàn xe tới, rẽ vào lối cổng và ngừng lại trên bãi đậu trống, gần đó có nhà kho. 218 khóa sinh xuống xe, tập trung thành bốn khối theo danh sách đã có ghi sẵn tên. Mỗi khối, sẽ đi một chuyến bay. Thụy ở trong khối 4, sẽ đi chuyến sau cùng.

            Trong lúc chờ, anh em chia nhau thuốc hút, chuyện trò ồn ào, rất thoải mái. Chen lẫn giữa số đông khóa sinh mặc đồ trận, đội mũ vải, có khoảng mười SVSQ niên trưởng mắc đồ vàng đeo giây biểu chương, người nào trông cũng sáng sủa, đầy niềm tin. Và, có người đứng kẻ ngồi, chuyện trò thân mật với khóa sinh.

            Tới 9 giờ, khối 1 và 2 lên phi cơ. Hai chuyến bay kế tiếp được thông báo sẽ đi lúc 10giờ. Số khóa sinh còn lại được tự do, nhiều người đứng dậy rời hàng đi về phía câu lạc bộ của phi đoàn. Khi trở ra, trên tay mỗi người có mua bánh mì, cà phê.

            Thụy mở nắp túi áo lấy gói thuốc. Đây là điều thứ tư anh hút trong buổi sáng nay. Bất chợt, Thụy nhận ra mình già ghơn các bạn chung quanh. Cũng dễ hiểu, anh đã đi lính, được đi học Sĩ quan nhớ có bằng Tú Tài, còn những bạn kia ngoài đời là học sinh, sinh viên đến tuổi nhập ngũ. Cũng mặc áo lính từ những ngày vào quân trường, nhưng họ vẫn giữ cái tươi vui, mới lạ của tuổi trẻ. Với sự trầm lặng của mình, Thụy có đôi chút mặc cảm với các bạn trẻ giờ đây cùng chung một khóa học. Những bạn trẻ này, tuổi lính mới có vài tháng nên trông xem họ thất háo hức, lãng mạn. Và, rồi đây, khi trở thành phi công, cuộc đời của mỗi người sẽ có những nét riêng, đặc biệt như là nhân vật trong tiểu thuyết.

            Vừa lấy cuốn truyện ra khỏi ba lô, Thụy đã vội cất khi có lệnh tập trung ra phi cơ. Vào hàng, điểm danh đếm số xong, cả hai khối được lệnh bước tiến về chỗ hai chiếc phi cơ đang đậu.

            Người áp tải viên nhìn Thụy, hỏi:

-Nhớ tao ?

-Nhớ.

-Sao, được đi học Sĩ quan hả.

-Ờ, được đi học.

            Thụy vừa đáp lời, nhìn gương bạn cũ cố nhớ tên. Lần lượt, khóa sinh lên tàu. Trong chốc lát, cả khoang tàu chật kín hai dãy ghế ngồi, một số anh em phải ngồi xuống sàn. Đây là chiếc vận tải, loại C119. Nếu đi C130, chỗ ngồi thoải mái hơn.

            Cửa sau đóng, đèn trong phi cơ sáng lên, rồi tiếng động cơ nổ, một lát sau từ từ lăn bánh.

            Phi cơ cất cánh rời Sài Gòn mười giờ. Người bạn đi tới chỗ Thụy, gặp bạn cũ Thụy vui mừng lấy gói thuốc ra mời.

-Ra Nha Trang học bao lâu ?

-Học ba tháng quân sự, xong về đây học Anh ngữ.

-Lấy xong Tú Tài II chưa ?

-Chưa, lấy không nổi. Nếu biết lận đận thi cử, tao đi sớm được ba năm rồi.

-Nãy giờ nói chuyện, mày nhớ ra tên tao không ?

-Thực tình không nhớ.

-Tao nhớ tên mày.

-Cám ơn.

-Tao là Huy.

-À, nhớ rồi. Nhớ cả bài thơ của mày đăng trong đặc san của khóa.

            Huy gật đầu cười, hài lòng.

-Mày là chủ biên tờ Đặc San mà.

-Anh em mình cùng làm, tao chỉ lo bài vở rồi đánh máy, quay ronéo.

-Còn giữ tờ báo không ?

-Còn, lần nay ra Nha Trang cũng cố làm tờ Đặc San nữa.

-Mày viết khá lắm. Truyện mày đăng báo Lý tưởng, tao có đọc.

            Huy đang đứng bên cạnh Thụy. Bên người bạn cũ, Thụy có được niềm tin. Trong khoang tàu, câu chuyện trong anh em cũng gần gũi, mỗi người đều nói ra lời tâm sự của mình. Thụy cảm thấy phân vân, vừa lo lắng khi nghĩ đến một ngày mai của mình. Có tiếng chuông reo, chừng mười phút nữa, phi cở sẽ hạ cánh. Huy đi lên phía phòng lái, lấy ống nghe mang vào để liên lạc với phi công.

            Lúc này , tất cả đều im lặng. Thụy nhìn ra bên ngoài, trông thấy rặng núi, rồi biển ở biên dưới và trong ánh nắng vàng rực, thành phố biển xuất hiện.

            Phi cơ đã đáp rất êm. Từ ngoài phi đạo định hướng, phi cơ lướt nhanh một quãng xa rồi giảm tốc độ chạy chậm dần , đến lúc ngừng hẳn .

-Nhanh lên, các anh còn tà hả.

            Thụy đeo vai ba lô, tay phải nhấc túi xách marin, anh điềm nhiên chờ lệnh lạc. Huy mở cửa sau, từ trong khoang tàu đám khóa sinh vội vàng, hối hả lao ra ngoài.

-Các anh tập trung nhanh lên.

             Giữa những tiếng la hét dữ dội, bất chợt có một hình ảnh như áng mây làm Thụy chú ý, đó là cái bóng in đậm nét viên Đại úy phi công còn rất trẻ trong bộ đồ  bay màu cam đứng dưới nắng riêng một mình và lặng im không nói gì.

-Các anh vào hàng ngay.

            Người nào cũng đều khiếp sợ, tối mặt tối mày chẳng thấy gì cả, chỉ nhìn bóng  những chiếc áo treillis và những cái túi sac marin mà chạy  đến chỗ sắp hàng.

-Đếm số.

            Người đứng đầu cất tiếng lớn một, hai, ba, bốn, đến Thụy là số 68 đứng ở hàng cuối.

-Sac marin lên vai, chuẩn bị.

-Sẵn sàng.

-Chạy.

            Mới đầu, đoàn quân còn chạy đều bước, đều hàng. Nhưng chỉ vượt được chừng hai trăm thước, các toán bắt đầu rời ra, rồi người trước kẻ sau không còn thành hàng lối nữa. Trên vai Thụy chiếc sac marin mỗi lúc càng đè nặng, và anh cứ chạy hoa mắt, không nhìn thấy quân trường đâu cả.

-Chỗ  các anh đến còn xa lắm. Các anh rõ chưa ?

-Rõ.

-Chạy nhanh lên.

            Khoảng cách của đoàn  quân, mỗi lúc một rời rạc, xa cách thêm. Và dưới nắng trưa, anh nào cũng thấm mệt, mồ hôi ướt đầm. 

            Đến khi quá mệt lả  không chạy nổi nữa, thấy có bóng cây Thụy sà vào buông người xuống. Và trước anh năm, mười mét  nhiều bạn cũng đã xỉu,  rơi dài dài.

-Tại sao anh không chạy nữa ?

-Mệt xỉu rồi cán bộ ơi.

            Nghe Thụy  đáp vậy, anh ta bật cười, nhưng liền nín ngay và làm mặt nghiêm.

-Ông chống thế chờ, xuống cho tôi trăm cái hít đất coi.

            Vừa được nghỉ qua ít phút, Thụy tuân lệnh chống thế chờ hít đất. Được hai chục cái, niên trưởng cán bộ bảo anh đứng lên, sac marin trên vai tiếp tục chạy. Thụy bạo dạn hỏi:

-Gần tới chưa cán bộä ?

-Còn xa lắm,  ông. Nhà trại các ông ở trên núi kìa. Chỗ có vọng gác ông thấy không ?

            Thụy nghĩ anh này xạo, nhưng ông ta hỏi lại lần nữa, anh đáp rõ . Giờ Thụy đang cố gắng chạy, bị đứt quãng mấy đoạn, rồi sau cùng  về tới khu doanh trại.

            Về đây anh em tưởng được nghỉ mệt, đâu ngờ, một trận dã chiến ra trò. Trên mặt sân cát, anh thì bò, anh thì lăn thùng phi, anh nhảy xổm, và còn cả một đám đông đang đếm nhịp hít đất. Cảnh tượng diễn ra trong tiếng la hét không lúc nào ngừng. Rồi cả bọn bị bắt lột con cá alpha, bị làm thịt từng đứa một. Bọn lính mới đứa nào cũng nín câm, lầm lì thi hành lệnh phạt. Mấy ông niên trưởng cứ thay nhau quần thảo từng toán một,  và mắt cứ lăm le anh nào thi hành không đủ tiêu chuẩn.

            Sau đoạn đường bò dã chiến trên cát hai vòng, nóng bỏng cả hai cánh tay, đến lượt  Thụy phải nhảy 30 cái nhảy xổm đúng thế. Hai tay để lên đầu, thế chân trước, chân sau, anh cố gắng nhảy, cuối cùng cũng đủ. Lúc Thụy đang sửa lại quần áo để báo cáo thi hành lệnh phạt xong,  bất ngờ , một niên trưởng ở toán bên kia bước nhanh sang, rồi dừng trước mặt Thụy, nạt nộ hỏi:

-Ông có biết tôi là ai không ?

-Dạ, là niên trưởng cán bộ.

-Trời, ông dạ. Quân đội không có thưa dạ, ông ơi.

-Là niên trưởng cán bộ.

            Người kia hỏi:

-Ông có quen biết niên trưởng này không ?

-Không ?

-Ông có quen tôi không ?

            Thụy đã nhận ra Phạm Đắc Giáp, bạn học cũ, chỉ gật đầu.

            Tiếng Giáp quát lớn:

-ÔÂng có quen tôi không ?

            Sợ quá, Thụy đáp:

-Không.

-Ông không quen tôi hả.

-Không.

-Hai chục cái hít đất.

            Thụy không  đáp lời, tuân lệnh thi hành. Xong, anh đứng lên nghiêm chỉnh chào kính và trình diện. Một giọng từ tốn, Giáp hỏi:

-Cho ông nhìn lại mặt tôi, có quen không ?

-Không, tôi đáp.

-Ông không xứng đáng là SVSQ/KQ.

            Thụy lặng im nhìn Giáp. Giáp nói:

-Binh chủng Không Quân, tình bạn là trên hết. Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè. Ông là bạn học với tôi thời xưa, mà giờ vào đây ông lại không dám nhìn tôi. 50 chục cái nhảy xổm.

            Thụy  thi hành lệnh phạt lập tức. Và anh  chỉ biết mình còn gắng sức, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Nắng trưa càng gắt, trên bãi cát, đám khóa sinh đã xỉu nằm dài, nhưng tiếng mấy ông cán bộ la hét vẫn còn chói tai nhức óc. Bất thần, Giáp cất tiếng:

-Cho ông đứng dậy.

            Thụy chỉ mới nhảy được10 cái, Giáp đã cho đứng dậy. Lúc anh sửa quần áo để trình diện, tiếng Giáp bỗng  nhẹ nhàng nói:

-Tao là Giáp, nhớ ra không ?

-Nhớ, Thụy đáp nhỏ tiếng mắt vừa nhìn lại người bạn cũ.          

-Có biết  thằng Định không ?

-Biết.

-Hắn mới về Sài Gòn tuần trước. Cuối tháng này hắn đi Mỹ.

-Còn ai bạn quen ở đây nữa không ?, Thụy hỏi.

-Không.

            Dưới nắng, mồ hôi ra ướt đầm áo Thụy mặc. Niên trưởng lúc nãy bắt anh thi hành lệnh phạt, đã bỏ đi. Thụy và Giáp nói chuyện nhỏ tiếng, nhắc lại tên mấy người bạn học cũ  với giọng khàn đục khơi trong nỗi nhớ  một chút ngậm ngùi, cay cay trên cặp mắt. Từ khi xuống máy bay lúc mười giờ, đến lúc này đã mười hai giờ trưa, 218 tân khóa sinh chịu đựng hai giờ huấn nhục trong ngày đầu đã ngất ngư , mệt nhừ rồi, chỉ mong được nghỉ ngơi. Vừa trông mong như vậy, bỗng có lệnh tập trung toàn khóa để nghe Niên trưởng Phước SVSQ/CB trong chức vụ Không đoàn trưởng nói chuyện. Vị niên trưởng này đứng trước hàng quân, dáng uy nghiêm, miếng vải  cà rốt mang trên cổ áo có đến bốn lằn gạch trắng nghiêng, trông ra vẻ là một vị chỉ huy cấp tá. Bằng một giọng trầm, vừa nghiêm, sau lời chào mừng đón tiếp, Phước lần lượt giới thiệu thành phần SVSQ cán bộ phụ trách tân khóa sinh trong thời gian huấn nhục, tiếp theo đó, là những điều lệ, nội qui của quân trường.

Không nhiều lời, rất ngắn gọn, cụ thể, rồi  kế tiếp ngay là lập danh sách khóa sinh cho bốn phi đội A, B, C, D. Mỗi phi đội,    bốn hoặc năm  SVSQ cán bộ phụ trách hướng dẫn. Thụy thuộc vào phi đội B, vàø lấy làm vui khi biết có bạn Giáp ở trong toán hướng dẫn phi đội này.

Đã tới giờ cơm.  Từ ngoài sân, lần lượt tân khóa sinh đi hàng đôi vào nhà ăn. Rồi đứng nghiêm trước mỗi bàn,  lặng  im như cầu kinh, tất cả cùng lắng tai nghe những lời hướng dẫn cách ăn uống dành cho SVSQ. Năm phút sau, tất cả mới được phép ngồi.

            Bữa ăn chỉ có cơm, món canh và cá kho. Mệt và đói, nên người nào ăn cũng nhiều. Hết thức ăn, có người lấy nước trà thay canh để ăn cho đủ sức. Lúc này, tất cả niên trưởng thay vì la hét , nạt nộ, người nào cũng lời lẽ nhẹ nhàng, luôn có mặt từng bàn, vừa trò chuyện, vừa thúc các tân khóa sinh phải gắng ăn thật nhiều, thật no, vì thời gian huấn nhục còn kéo dài đến bốn tuần. Trong khoảnh khắc ấy,  ai cũng cảm động, vơi dần đi nỗi mỏi mệt.

            Bữa ăn thong thả, kéo dài hơn nửa tiếng. Khi trở ra ngoài, với túi sac marin trên vai, từng phi đội đi nhận phòng. Bên trái khu nhà  ăn, một tòa nhà dài hai tầng, có lối cầu thang ở hai đầu. Được phân chia và hướng dẫn trước, hai phi đội C và D tầng dưới, A và B lên tầng trên.

Hai dãy giường sắt đôi  song song, một lối đi rộng ở giữa, bên mỗi giường có đặt chiếc tủ nhỏ cao hơn một mét, lúc các tân khóa sinh đi vào cứ theo thứ tự hàng đôi mà nhận chỗ. Thụy ở dãy giữa, giường trên, bên cạnh là bạn Trương Vinh, đối diện có một bạn người Quảng tên Đặng Chứng, gần đó là  ba bạn người Huế, Trương Ngọc Hiệp, Trần Vê, Nguyễn Hữu Định.

            Hôm nay là ngày chủ nhật, giờ này, có nhiều  SVSQ niên trưởng bắt đầu ra phố, cũng có một số người trở về trại.

            Thụy ngả lưng xuống giường chợp mắt được một giấc. Khi anh thức dậy, các bạn chung  quanh đang ngồi đánh giày, soạn sac marin sắp xếp quần áo,  hoặc viết thư. Trong cảnh sinh hoạt giờ nghỉ ai nấy đều yên lặng, nhưng cũng trong giờ phút này, anh em có dịp hỏi chuyện làm quen nhau. Khi nhìn thấy những người bạn ngồi cúi đầu lặng yên theo ngòi bút viết thư về cho gia đình,  tự  dưng lòng Thụy nao nao khôn kể.  Trong thoáng nhớ, anh nghĩ đến cha mẹ, những đứa em, và bao nhiêu người thân cùng bạn bè. Anh cũng bất chợt nhớ đến bóng dáng một cô gái Huế cùng anh đi trên chuyến xe buýt, rồi cùng anh xuống một trạm ở nhà ga. Không biết tận phương trời xa, Liên An có nhớ lại một chút gì về  anh không, hay buổi gặp gỡ tình cờ đóù, đối với cô thật bình thường, dửng dưng, chẳng hề gọi là kỷ niệm . Riêng anh, bóng dáng chiếc áo nâu như gió mát tâm hồn, phút giây này, lòng anh thực muốn gửi về Huế, thành phố thân yêu ấy một mối tình. Sau cùng, ánh sáng trong trí nhớ Thụy hiện rõ một hình bóng hiền dịu của Ninh Hà, anh như nghe tiếng nàng nói và đem lại cho anh một nỗi buồn,  và từ nay anh chỉ biết giữ mãi sự thầm kín của một câu chuyện tình mà chỉ có riêng hai người biết nhau thôi.

            Bỗng nhiên, từ ngoài lối cửa vào Giáp xuất hiện trên tay cầm một gói giấy báo. Vừa đến bên Thụy, Giáp lên tiếng:

-Ông vừa mới vào quân trường mà đã có thân nhân gởi quà rồi.

            Các bạn chung quanh nhìn Giáp va øThụy. NhưngThụy  biết ngay gói quà nhỏ là Giáp mua ở khu cantine,  chứ không hề có ai gởi cả. Thụy nói với người bạn tiếng cám ơn rất nhỏ, hơi rụt rè, rồi lúc Giáp ngồi xuống cạnh giường mình, Thụy mới mở gói giấy. Đó một chiếc khăn mặt, cái bàn chải mới và một phong kẹo nhỏ.

            Giọng xúc động, Thụy hỏi:

-Gia đình anh còn ở Đà Nẵng không ?

-Vẫn ở ngoài đó.

-Anh sắp  đi Mỹ học lái chưa ?

-Không đi Mỹ, đang học khóa Cessna ở đây.

-Vậy cũng được. Anh đã bay solo chưa ?

-Rồi, mới xong tuần trước.

-Như vậy, trên ngực áo anh có nửa cánh chim rồi.

            Giáp cười nhẹ nhàng. Có bạn khác hỏi:

-Chừng nào niên trưởng mới ra trường ?

-Chưa biết, suông sẻ thì còn khoảng sáu tháng.

            Giờ nghỉ trưa qua mau. Vừa có một hồi kẻng đánh lên, trong lúc nó còn ngân vọng trôi nổi từng âm thanh, thì ngay lúc đó bao nhiêu tiếng la hét như trời sập từ bên dưới cầu thang dội lên, và lập tức, cả trăm tên lính mới ào chạy xuống sân tập họp, mặt mày tái mét.

-Mới có ngày đầu vào quân trường mà các anh cứ tà tà. Tất cả chống thế chờ.

           

                                                               VI

 

 

            Phượng, một thiếu nữ đẹp trong tiểu thuyết đã không xuất hiện ở trong thành phố này. Ngày thứ bảy, đường phố chính ồn ào, nhộn nhịp. Dọc phố độc lập SVSQ và lính quân trường đổ ào ra rất đông. Vào buổi sáng nay , các cô gái cũng ăn mặc đẹp, thướt tha những chiếc áo dài, và rất là hạnh phúc khi bạn thấy họ đi bên cạnh người. Nha Trang không chỉ đẹp với biển, với các thắng cảnh chung quanh thành phố, mà còn là một thành phố nơi đóng đô các quân trường. Trường Hải Quân, mang lễ phục trắng, trường Không Quân mang lễ phục vàng có gắn nửa cánh chim bay trên nắp túi áo trái, trường Đồng Đế cũng lễ phục vàng và đội nón béret đen. Từ sáng sơm, các cửa hiệu đã mở, giờ này, mới hơn tám giờ mà các quán ăn, tiệm phở, tiệm mì, quán cà phê, quán giải khát đã đông chật, có một vài tiệm khách ăn còn đứng đợi chờ có bàn trống.

            Với một cách tạo dáng, bên tay trái kẹp tờ báo, trên miệng ngậm điếu thuốc vừa nở nụ cười làm duyên, Thụy đứng một mình dưới mái hiên rạp hát nhìn quang cảnh trên phố chính Độc Lập rất đông người qua lại. Có vẻ, người lính trẻ quân trường, anh nào cũng lộ vẻ tươi vui, dễ thương, khi bên cạnh mình đang có bóng dáng và tiếng nói người yêu. Sáng hôm nay, các cô gái cũng tha thou, đùa vui trong những chiếc áo dài dễ thương và đẹp, trên gương mặt hạnh phúc ấy Thụy cũng cảm thấy mình vui lây, thế nhưng anh vẫn không tìm ra được một cô gái nào để liên tưởng đến Phượng.

            Tối hôm qua, toàn khóa 69B dự lễ gắn alpha. Trong không khí trang nghiêm ở hội trường, buỗi lễ gắn alpha rất trang trọng, đầy ý nghĩa. Hai vị Liên đoàn trưởng, Đoàn trưởng cùng chủ tọa buổi lễ. Vị Liên đoàn trưởng mang cấp bậc Thiếu Tá, ông thuộc thế hệ những phi công đầu tiên của Không lực Việt Nam học ở Pháp, vị Đoàn trưởng, cấp bậc Đại úy, tốt nghiệp ở trường bay Hải Quân Hoa Kỳ, và đã là một trong những phi công hào hùng, dũng cảm thực hiện những phi vụ ném bom chính phạt miền Bắc. Một tân khóa sinh đại diện khóa được hai vị trên gắn cùng gắn cặp alpha danh dự , sau đó, lần lượt những SVSQ các khóa đàn anh lần lượt gắn alpha cho toàn thể các tân khóa sinh.

            Lời thề cất lên dõng dạc, kết thúc buổi lễ toàn khóa đi về khu nhà ăn là nơi tổ chức tiệc vui. Từ đầu giờ buổi sáng, một phi đội được cắt đặt lo sắp đặt bàn ghế, trang hoàng hoa giấy và đèn, cùng dựng một bức vẽ biểu tượng cho khóa ngay phần ngoài sân khấu. Và, khoảng sáu giờ, trong lúc tân khóa sinh dự lễ gắn alpha, thì thân nhân và khách mời đạ được Ban tiếp tân đón từ cổng Loang Hoa dẫn vào đên khu trại của sinh viên.

            Buổi trình diễn văn nghệ sống thật là sinh động. Các màn trình diễn đơn ca, đồng ca, hợp ca gay niềm phấn khích cho buổi tiệc vui. Trong lúc hát, an hem ngồi bên nhau cũng chuyện trò sôi nổi. Yêu cầu quan trọng nhất của vị Đoàn trưởng là phải có màn khiêu vũ. Mới đầu, an hem trong khóa còn rụt rè chưa dám đi ra sàn nhảy, nhưng lớp SVSQ đàn anh tỏ ra xông xáo, vui hết mình, anh nào cũng mời đào chính, đào secour của mình ra lả lướt theo điệu nhạc với từng bước nhảy. Có màu đèn xanh thông sáng, an hem trong khóa mới bắt đầu hào hứng, và chỉ chốc lát, là cả sàn nhảy đầy kín những cặp tình nhân thoải mái dưới ánh đèn.

            Trong khóa của Thụy, nhiều an hem chơi đàn, chơi trống và hát rất hay. Tối nay, trong khóa biểu hiện nhiều khuôn mặt hào hoa của binh chủng Không quân.

            Người bạn thân của Thụy duy nhát là Giáp, bạn học cũ ở trường Sao Mai. Hiện giờ, Giáp là lớp đàn anh trên Thụy hai khóa. Giáp đang học khóa 35 Cessna, đã bay solo và được gắn nửa cánh bay rồi. Giáp cũng ở trong thành phần sinh viên làm cán bộ, hướng dẫn trật tự kỷ luật khóa đàn em, nhưng làm việc vào buổi tối. Ban ngày, sáng chiều Giáp học hai buổi bên trường phi hành. Từ hôm gặp nhau ở đây, Giáp và Thụy có sự gần gũi với kỷ niệm một thời nuên thiếu đã qua.

            Từ đầu buổi chiều đến giờ, Thụy không có mặt ở sàn nhảy. Anh làm một người bạn xin chia vui ngày vui hôm nay với bao nhiêu bạn bè khác. Bản nhạc Việt theo điệu Tango vừa kết thúc, tiếng vỗ tay vang lên, rồi những cặp tình nhân lùi về chỗ ngồi của mình. Tuổi trẻ và tình yêu, dù chỉ mới quen nhau thôi, nhưng cũng cho nhau chút hạnh phúc để gọi là một thời để yêu. Thụy bỗng trông thấy Giáp vừa nắm tay cô gái, Thụy ngạc nhiên, nãy giờ anh có ý mong tìm nhưng chẳng thấy đâu cả. Và, lúc này, Giáp cũng đưa mắt nhìn quanh tìm Thụy.

            Vừa bụm hai tay lên miệng, nhưng chưa kịp gọi thì hai người kia đã trông thấy, và cô gái theo tay Giáp tới gần chỗ Thụy. Lòng Thụy thực sự vui, Giáp giới thiệu:

-Anh Thụy, bạn học cũ của anh.

-Anh giới thiệu như vậy, không có le cho anh Thụy.

-Ủa, phải giới thiệu sao ?

-Đây là Sinh viên Sĩ quan Nguyễn Quốc Thụy.

            Cả ba người rộ lên tiếng cười. Thụy lấy thêm ghế, ba người cùng ngồi. Trên bàn đã có sẵn nước ngọt, Thụy rót đầy hai ly mời  bạn và cô gái. Trong lúc Thụy rót nước vào ly, cô gái nhìn gương mặt Thụy cố nhớ ra anh là người mà cô đã có lần gặp. Mời cô gái xong, đến lượt mời bạn, Thụy nói:

-Nãy giờ ngóng tìm bạn.

-Mình ra ngoài đón Liên Hương.

-Nhớ rồi.

            Cô gái gật đầu. Giáp hỏi:

-Quen phải không ?

-Đúng.

-Bạn nói về cô này đi.

-Có giọng hát hay lắm.

            Giáp đưa tay cho Thụy bắt.

-Vậy lá lý lịch được xác nhận rổi phải không ?

-Đúng.

-Chưa đủ. Cho bạn biết thêm, ngày trước Liên Hương học ở Đà Lạt, trường Việt Anh, và tôi cũng học ở đó hai năm.

-Thì ra thế .

-Chứ sao .

            Cô gái cười, trên cặp mắt sáng lên cả một vùng sương mù thành phố cũ. Nơi thành phố ấy ấy, những kỷ niệm cô lạnh và ấm cả tâm hồn.

-Hai người nói chuyện đi, t6i ra ngoài gặp Quang một chút.

            Khi Giáp đi khỏi, Thụy hỏi cô gái.

-Liên Hương còn ở Đà Lạt không ?

-Gia đình em vẫn ở trên đó.

-Liên Hương ở Nha Trang một mình.

-Em dạy học ở trường Nữ.

            Thụy châm điếu thuốc. Liên Hương cầm ly nước chanh lên uống từng ngụm. Chiếc áo dài màu hoa cải của Liên Hương nổi bật lên trong không gian lễ hội và sáng dịu dưới ánh đèn. Nàng đang lắng tiếng Thụy nói, vừa nhìn qua gương mặt và đôi mắt nàng. Tối hôm  ấy, buổi ra mắt  lớp học của Liên Hương. Tại hội trường rất đông học sinh tham dự, và ai cũng cảm thấy vui thích khi chương trình văn nghệ bắt đầu.

            Từ một khoảng hẹp trên sân khấu lúc bức màn vừa hé mở,  Liên Hương xuất hiện với chiếc áo dài tím rất đẹp dưới ánh đèn màu. Nhạc dạo một đoạn thật êm ái, rồi tiếng hát cô gái cất lên cao và rất trong. Bản nhạc có tên Mấy độ thu về , trong từng giây phút, tiếng hát của cô gái làm cho mọi người lắng đi, êm ả, để cùng với sự luyến nhớ mà đi tìm một mùa thu về nơi đâu không rõ. Khi tiếng hát dứt, riêng tôi thật mơ màng. Tôi giữ lại ảnh hình đầu tiên của cô gái cho đến khi bức màn trên sân khấu che khuất lấp.

            Về phòng, Thụy không ngủ được. Bản nhạc buồn như tiếng đàn vĩ cầm,  mùa thu ấy  trở về từ nơi nao, xa vắng quá. Hình dung lần nữa với cặp mắt, Thụy  thấy lại Liên Hương trong chiếc áo tím, ánh đèn màu vẫn giữ rất lâu hình ảnh cô gái trên sân khấu, dù cho tiếng hát không còn nữa.

-Liên Hương có quen với Thùy không ?

-Quen chứ. Chị Thùy cũng học ở trường mình, trên em một lớp.

-Anh có gặp Thùy, nhưng cách đây hơn ba năm.

-Em mới dạy năm ngoái.

-Liên Hương gặp anh Giáp lần đầu.

-Em cũng mới quen ít tháng nay thôi. Ngày hôm đó, anh đi tìm một người bạn cùng dạy ở trường em.

            Nơi này, đứng nhìn đường phố đông vui, Thụy chợt nhớ đến một hai câu trong bài nhạc của Trịnh Công Sơn

            Có đường phố nào vui cho ta qua một ngày

            Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi

            Tối hôm qua, Thụy đã gặp lại Liên Lương, kỷ niệm đã cùng nhắc nhở anh và nàng về một mối tình cũ. Sau nhiều năm xa cách, cô gái ngày xưa đã lớn thay đổi nhiều.  Liên Hương được mời lên hát.  Cô đã hát lại bản nhạc Mấy độ thu về một thuở cho mối tình học trò , sau đó, tiếp lời yêu cầu, cô hát bản Gợi giấc mơ xưa. Tiếng hát nghe thiết tha, buồn lặng, như mối tình ấy vẫn mãi đẹp trên dòng sông thành phố cũ. Trên cặp mắt Thụy đỏ hoe, anh đang biết mình nhớ Ninh Hà da diết.

            Khi chiếc xe khách xuống hết đèo Hải Vân, trời bắt đầu mưa nhẹ hạt. Tự dưng qua cơn mưa Thụy nhìn thấy cảnh vật trở nên buồn, lặng lẽ dưới bầu trời xám.

            Còn hơn 70 cây số nữa mới tới Huế,  ít ra xe đò Tiến Lực còn chạy hai giờ nữa. Nhưng ngay bên này con đèo đã thuộc  địa phận của tỉnh Thừa Thiên nên bạn sẽ thấy khung cảnh, nếp sinh hoạt, và nhất là giọng nói hoàn toàn đổi khác. Ngồi bên cửa xe, Thụy hút thuốc. Khói mỏng tan nhanh, đồng thời những ý nghĩ trong anh lại gây một cảm giác băn khoăn, lạ lùng. Thụy đã vào Đà Nẵng học một tháng nay rồi. Xa nhà, anh có được mấy ngày về nhưng xét ra không có gì nao nức, bồn chồn lắm. Mới khởi sự vào năm học, cái  bỡ ngỡ lúc đầu cùng với tâm trạng buồn hỏng thi dần dần nhẹ vơi trong một thứ tình cảm thật dễ chịu của thành phố mà anh đón nhận được ở nơi đây một niềm an ủi , vừa cảm động. Hình ảnh những ngày qua còn rõ nét trong trí nhớ anh với căn phòng học, tiếng nói trầm ấm của dì Vân, tình cảm hồn hậu của bác Hội, và những tiếng cười vui thích thú, đùa nghịch đuổi nhau vang lên trong căn nhà rộng của mấy cô chị nhỏ con dì Vân. Bác và dì, hai vợ chồng chỉ có một cậu con trai út đang nằm nôi, còn mấy cô gái đang theo học trường tiểu học người Hoa. Bác và dì, hai người tuy chênh lệch tuổi, nhưng sống chung với nhau thật hạnh phúc, thủy chung. Còn riêng mình, Thụy cũng bắt đầu có bạn thân ở lớp như Cát, Há, Hùng, Định, Giáp, Thanh, những bạn này quen nhau sớm vì chúng tôi ở cùng đường Trưng Nữ Vương. Buổi sáng cũng như chiều, các bạn hay đến đầu ngã ba rồi chúng tôi cùng tới trường. Và, câu chuyện vui của chúng tôi là những cuốn phim hay, những trận túc cầu sôi nổi trong các kỳ giải thế giới. Đó là bạn trai cùng lớp, còn bạn gái, chỉ có một người duy nhất tôi mới quen là Ninh Hà. Ninh Hà ở bên lớp Nhị A, chỉ học chung với tôi mỗi tuần  6 giờ hai ngoại ngữ Anh và Pháp. Tối hôm đó đi chơi về ngang qua nhà nàng, nghe tiếng nàng hỏi, rồi được làm thân vào nhà nàng chơi, Thụy đã trở thành một người bạn mới của nàng. Trong hai người đôi mắt được diễn tả và nói nhiều hơn cả. Chắc hẳn rồi, nàng biết tôi yêu nàng, và tôi như cũng hiểu nàng có yêu tôi. Vào tuần lễ đầu tôi gặp, nàng còn ngồi riêng với mấy cô bạn ở dãy bàn bên kia, qua hai tuần lễ sau, nàng đổi qua dãy bên này và chọn chỗ ngồi ngay phía trước  tôi. Có chăng, đấy là tình yêu hay sự quen thân muốn tỏ bày, hạnh phúc tuổi trẻ của tôi là những điểm tựa  lấm tấm như từng nụ hoa phơi trên áo nàng, và nàng còn đẹp, uyển chuyển với mái tóc mượt mà luôn buông xõa xuống hai vai. Có vậy, nên tôi rất vui, thích thú khi đến giờ học ngoại ngữ, rồi hôm nào cũng vậy, nàng luôn thấy tôi ngồi đợi nàng với cặp mắt trông chờ nhìn ra cửa lớp. Có nàng, tôi sẽ cố học chăm, hiểu bài chín chắn, bình tĩnh, chừng mực  đo lường sự tự tin nơi mình để chắc chắn năm nay thi đậu, rồi năm tới cùng lên lớp học chung với nàng, và tôi cũng thầm ao ước chúng tôi hiểu nhau thêm để sau này mong có được duyên may làm bạn đời với nhau. Không khí lớp học, tình bạn bè, những bài giảng của thầy dạy ở lớp tự nhiên đem về cho tôi trọn một thuở tình đầu mới mẻ, bây giờ tôi muốn mình là một chiếc va li học trò với bao nhiêu kỷ niệm cất giữ chỉ muốn riêng  cho nàng, đó là những chiếc áo màu nàng mặc mỗi ngày đi học, đó là mái tóc nguyên vẹn trên bờ vai ấy, mỗi khi nàng cất tiếng nói vui trong đôi mắt nàng những  ánh sao, những hạt cám của nụ cười dần dần nhỏ bé lại.

            Thường, mỗi buổi học chung vào giờ ra chơi một ít nhóm học sinh vẫn hay ngồi lại trong lớp chuyện trò hay chơi cờ ca rô. Bây giờ chúng tôi đã thân nhau hơn, dễ dàng nói chuyện với nhau. Biết nàng có ở Quảng Trị nên thành phố nhỏ ấy trở nên đề tài phong phú cho tình bạn chúng tôi hôm nay và cả ngày xưa. Tôi cho nàng biết, hồi đó, gia đình tôi ở ga, tôi học trường Nam tiểu học với một cô giáo rất xinh đẹp, lên trung học vào trường Phước Môn một năm, rồi qua trường Nguyễn Hoàng và sau ba năm  học ngoài đó tôi đi xa vào miền Nam. Tôi cũng có  hai năm học ở Đà Lạt. Nơi thành phố cao nguyên này tôi đã sống hồn nhiên, có nhiều kỷ niệm đẹp, dễ thương. Nàng hay mỉm cười nhìn lại cặp mắt tôi mỗi lần nghe những lời tôi tâm sự. Và cái nhìn ấy cũng đã làm tôi cảm thấy ấm áp, dịu một mùi hương dưới bóng im tỏa ra từ cặp mắt nàng. Rồi đến lượt  mình, nàng cũng kể cho tôi nghe chuyện một cô bé vào học tiểu học ở trường Thérésa, sau đó lên trung học ở trường Thánh Tâm(và trở thành hoa khôi của trường đó, nàng cũng  biết rằng tôi đang nghĩ như thế). Giờ ra chơi chỉ mười lăm phút, nhưng mà khoảng thời gian này, đích thực là hạnh phúc của hai đứa tôi.

            Xe ra tới Huế,  gần trưa. Xe vừa đỗ bến, đã có những anh em bốc vác, chạy xích lô  chờ  để rước khách về nhà hoặc chở hàng cho mấy người  đi buôn tới chợ. Tôi chỉ có cái túi xách nhẹ, lúc anh xích lô mời đón tôi lắc đầu, vừa đáp lời là nhà tôi ở gần đây trong khu vực nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Nắng trưa gắt, tôi khát nước nên vào quán ở bến ngồi ăn ly chè đậu xanh có đá bào. Bên dưới chiếc xe khách  đậu ở bến, mấy người đi buôn vẫn còn  chờ đợi lơ xe chuyền hàng, và cứ từng bao đưa xuống được chồng chất ngay lên những chiếc xích lô đã đợi sẵn.

            Hai người đàn bà ngồi gần tôi đang nói chuyện với nhau về một vụ tự thiêu vào tối hôm qua ở chùa Diệu Đế. Giọng kể chuyện rất bình thản, không có sự nguyền rủa, than van, xót xa, nhưng từng sự kiện ở trong biến cố này như đã hình thành  một bản luận trạng tố cáo sự bất công của chính quyền,  và cái chết tự thiêu vì đạo pháp của một thiểu số người ở đây không còn là thảm kịch nữa, nó đã trở thành một thái độ đấu tranh bất bạo động của Phật Giáo ngày càng kiên trì, quyết liệt.

            Tôi mua ly nước đậu ván uống thêm rồi đứng dậy trả tiền. Từ bến xe, tôi đi bộ về nhà. Trên con đường trưa vắng xe cộ thưa thớt, và khi trông thấy pho tượng Đức Mẹ tôi cùng nhận ra lối ngã ba bên nhà thờ rẽ vào đường kiệt nhà tôi. Ngôi nhà thờ  xây dựng hoàn tất sau khi gia đình tôi đến ở một năm. Trong khu vực này, hầu hết là nhà người Công Giáo, chỉ có một số ít gia đình theo đạo Phật . Vì chỗ nhà thuê rộng rãi, thoáng mát, nên tuy trong tình cảnh khó khăn, không khí ngột ngạt, nhà tôi vẫn không dời đi nơi khác. Khi biến cố Phật Giáo xảy ra, ba tôi báo động ngay cho cả nhà biết nên giữ im lặng, phòng thân, và đừng nên lui tới với các gia đình người công giáo xóm giềng. Năm ngoái, tôi học trường Bình Linh, lớp tôi, chỉ có mấy bạn gia đình theo đạo Phật, còn hầu hết là Công Giáo. Năm học qua, mỗi sáng chiều vào lớp, hay mỗi lần đổi giờ học, trước khi khởi sự bài học chúng tôi đều phải đọc kinh, ngoài ra còn phải học môn giáo lý mỗi tuần vào hai ngày thứ tư, thứ sáu. Những hôm có lễ lớn, giờ giáo lý được giảng ở nhà nguyện, và tuy là Phật Tử nhưng tôi chẳng kiêng cữ chuyện đọc kinh, hay lễ rước mình khi ăn bánh thánh . Thường ở nhà nguyện, linh mục Thích làm chủ lễ. Linh mục Thích vừa dạy học ở trường tôi, vừa dạy ở Viện Hán Học.

            Về tới nhà, chỉ có mẹ tôi đang soạn đồ đạc ở gian bếp. Cả nhà vắng, mấy em tôi đi học,  ba tôi đi làm chưa về.

-Anh Nguyên đâu mẹ ?

-Không biết nữa.

-Anh có tới trường không ?

-Có, nhưng chưa học hành gì cả.

            Nhà tôi xây trên nền đất cao, có bốn bậc thềm tam cấp. Ngồi ở phòng khách trông ra, bên dưới là đường kiệt chạy vòng quanh xóm rồi ra gặp một con đường chính trước bến sông. Bên trên nhà tôi, phía đối diện là tòa nhà sang trọng của một Viên Đại úy làm việc trong ngành truyền tin. Nhà ông ta có vườn rộng, nhờ cây cối tỏa bóng im nên che bớt nắng trên  đường kiệt nhỏ này.

-Ngoài này tình hình ra sao, mẹ ?

            Tôi hỏi lúc thấy mẹ tôi lên nhà. Bà đáp:

-Trên chùa Từ Đàm, người ta vẫn cứ tuyệt thực.

-Hôm qua có vụ tự thiêu nữa, phải không ?

-Có, một đoàn viên Phật tử tự nguyện.

            Tôi mở túi xách để dưới chân lấy gói thuốc rút một điếu châm hút. Khói thuốc từ trong cổ họng thở nhẹ ra nó đã làm tôi suy nghĩ nhiều về tình hình hiện tại. Tôi đã về lại nhà và có cảm tưởng  ở đây luôn, cùng với biết bao nhiêu sự nôn nóng bừng dậy như thể tôi cũng đang chờ đợi một ngày phán xử cuối cùng.

            Mẹ tôi nói:

-Tình hình khó khăn lắm. Hôm qua, mẹ ra Quảng Trị.

-Mẹ về làng ngoại.

-Không, ra tính chuyện bán nhà.

-Bán cho ai ?

-Người chủ thuê họ muốn mua.

-Giá cả sao ? Nhưng sao lại bán đi.

            Mẹ tôi lặng im suy nghĩ gì đó, không trả lời . Ba tôi đi làm đã về. Rồi cùng lúc, mấy  em tôi đi học cùng về tới. Tiếng cười của Dung vang dòn lên. Trong nhà tôi, tôi và đứa em gái kế giống bên ngoại. Tôi giống mẹ tôi, em tôi lại giống dì Vân, còn lại từ anh cả tôi đến mấy đứa em trai đều giống bên nội, nhất là ba tôi. Bên trai, anh Nguyên dáng hào hoa, đẹp trai, còn bên gái, Dung xinh nhất nhà.

            Không khí trong gia đình vui hẳn lên khi có tôi về. Ba tôi hỏi:

-Con về được mấy ngày ?

-Ba ngày. Trưa chủ nhật con vào .

-Trong đó tình hình ra sao ?

-Trong đó bình thường, yên ổn hơn. Tuần trước, các trường học tập trung để nghe hóa giải vấn đề Phật Giáo. Ông Trung tá tỉnh trưởng Quảng Nam là người Công Giáo.

-Ở tỉnh nào cũng vậy, cấp cao là người công giáo thôi, ba tôi nói.

            Bữa ăn vừa dọn lên thì anh Nguyên về. Kỳ thi vừa qua, anh  đậu  được Tú Tài II làm cả nhà rất mừng. Bà con bên nội tôi cũng mừng, vì anh là người khai khoa. Gia đình chúng tôi các chú, các bác hầu hết làm nghề nông chỉ có hai người được đi học là ba tôi đậu bằng tiểu học, chú tôi, Nguyễn đặng Anh có bằng Thành Chung làm công chức Tòa án được ít năm thì kháng chiến bùng nổ , chú theo cách mạng, chết trong một trận đánh ở chiến khu Ba Lòng. Khi hay tin chú chết, bà nội tôi khóc nhiều ngày đêm, và cái chết của chú đã làm sụp đổ niềm hy vọng gia đình vì cả nhà riêng mình chú được nuôi ăn học đến ngần đó.

            Tôi đứng dậy khi anh Nguyên vừa từ bậc thềm bước lên cửa:

-Anh đi đâu về đó ?

-Anh tới nhà thằng bạn.

            Anh Nguyên vỗ nhẹ vai tôi, rồi nói mấy lời hỏi thăm bác Hội, dì Vân. Tôi rất vui khi nhìn vào cặp mắt  quyến rũ, thật dễ thương của anh. Hai anh em ngồi xuống ghế ở phòng khách cùng chuyện trò với ba tôi. Một lúc, theo đà câu chuyện về tình hình hiện tại tôi hỏi:

-Anh có tham gia sinh viên Phật tử không ?

-Không có. Nhưng lúc này sinh viên đang quyết tâm tranh đấu.

-Giáo sư Đại Học bị bắt được thả ra chưa ?

-Chưa.

            Cả nhà bắt đầu  bữa ăn. Gia đình tôi hôm nay đông đủ làm cho bữa ăn thấy ngon. Chỉ có ba tôi, tôi và anh Nguyên bàn tiếp chuyện biến cố Phật Giáo, còn mấy em tôi thì cứ chuyện học ở trường với bạn bè, thầy cô mà nói. Trong giọng nói của mấy em tôi, hoàn toàn ngây thơ, trong sáng. Đôi khi trong im lặng, tôi nghĩ đến cái chết của Nghi Lâm em gái Hân và Nguyệt. Tôi vẫn còn nhớ rõ buổi trưa đó, từ Huế, Dung mặc áo đầm trắng đi ra Quảng Trị tìm đến nhà bác tôi, tin cho  hay Nghi Lâm đã chết trong số   bảy em bị lựu đạn nổ và xe tăng cán chết ở Đài Phát Thanh vào tối lễ Phật Đản. Tôi bàng hoàng, mất đi mấy ngày bỏ học thi.

            Sau bữa ăn, anh  Nguyên đi nghỉ.  Ở phòng khách chỉ có ba tôi và tôi. Tôi hỏi:

-Mẹ nói bán nhà ở Quảng Trị, phải không ba ?

-Ờ, thôi bán mà đi nơi khác ở.

-Ba tính đi đâu ?

-Ba tính xin đổi vào miền Nam, đem cả gia đình  theo luôn.

-Tình hình này còn lộn xộn, đã đi đâu được.

-Nhưng cũng phải tính trước. Càng ngày, ở đây càng khó khăn.

            Tôi lặng im. Ngồi không lâu, ba tôi và tôi cùng đi nằm nghỉ trên bộ ghế ngựa đặt sát bên cửa sổ.

            Khi tôi thức dậy, ba tôi đã đi làm. Anh Nguyên cũng rời nhà đến chơi với mấy người bạn, hoặc lên các chùa theo dõi tình hình. Tôi rửa mặt xong, mặc quần áo, rồi lấy xe đạp em tôi đi chơi phố. Khi tới đường Lê Lợi ở góc cầu Trường Tiên tôi dừng xe bên bờ đường, nhìn qua vòng rào kẽm gai mắt chú ý đến những người lính gác bảo vệ khu vực Đài Phát Thanh. Họ đi lại trong khuôn viên của Đài, dáng vẻ ưu tư.  Tự dưng, tôi chợt nghĩ mình đứng ở đây, hay bất cứ nơi đâu cũng đều ngửi thấy mùi vị khói lựu đạn cay ngột ngạt, bao trùm làm cả thành phố không vùng dậy nổi.

             Tôi không qua bên phố Trần Hưng Đạo mà đạp xe chạy lên hướng nhà ga. Trên con đường, càng lúc càng đông thêm người đi bộ và xe đạp, họ cứ bươn bươn đi mặc dù có lính gác. Trong lòng tôi tuy có nỗi lo sợ, nhưng thấy đồng bào lũ lượt kéo nhau đi, tôi cũng nô nức, và rồi tôi cũng theo họ qua từng đoạn đường sau đó hướng về con dốc Nam Giao đi lên chùa Từ Đàm. Lên tới đây, người đông chật như nêm. Tôi đứng dưới bóng cây nhìn qua chùa, trông thấy cảnh tượng trên sân những người Phật tử ngồi yên lặng tuyệt thực, những hàng cờ Phật Giáo treo từ ngoài sân vào đến các mái hiên chùa, và tiếng máy phóng thanh đọc bản thông báo chính thức về việc phản đối chính phủ. Tôi bỗng tự hỏi, mình làm được gì ? Câu hỏi đó đến với tôi, rồi giống như viên sỏi nó rơi chìm xuống đáy sông. Tôi nhìn qua chùa, những người đang tuyệt thực ngồi ở ngoài sân , họ thực can đảm, vì biết rằngï phải đương đầu một cách khắc nghiệt với chính quyền, và còn nữa, biết bao nhiêu người thân của họ đang sống sẽ chịu liên lụy với họ trong biến cố này. Và, hầu như cả thành phố đều sôi sục oán thù, bừng bừng trỗi dậy để đấu tranh cho tự do và sự sống còn.

             Bỗng dưng, không khí đang nung nóng  làm cho tôi có cảm giác sợ hãi. Không trở về nhà mình, tôi đạp xe đến nhà Hân.

             Sau cái chết của Nghi Lâm, gia đình Hân dọn đi ở chỗ mới. Căn nhà trông ra con đường Phan Bội Châu,  bên dưới là bến sông. Ở đây, gần nhà ga và thường nghe rất rõ tiếng còi của các đoàn tàu đến hoặc ra đi. Tôi và Hân có sự liên hệ qua tình thông gia. Dì Cúc mẹ Lăng là em mẹ tôi, lấy chồng, người này là anh  ông Thụy ba của Hân. Sự liên hệ giữa chúng tôi không chỉ ù thế thôi, mà còn có thêm tình cảm thân thiết vào những năm tản cư sống gần nhau nơi quê ngoại chúng tôi, vì vậy, hai bên rất thân nhau. Hân nhỏ hơn tôi năm tuổi, còn Nguyệt là chị lớn hơn tôi một tuổi. Nguyệt mới đậu Tú Tài I năm rồi, nên giờ học trên tôi một lớp. Vì mặc cảm với bạn bè, tôi muốn xa Huế đi vào Đà Nẵng học.

              Tôi đến, gặp Hân và Nguyệt ở nhà. Vừa trông thấy tôi, hai chị em cùng reo lên vui mừng. Lúc ấy, chúng tôi đều tưởng như ai cũng đi xa lâu ngày, giờ mới gặp lại.

-Mới ra hôm nào ?

-Lúc trưa nay.

Nhà vắng, lúc này cả ba chúng tôi đều mong có rất nhiều chuyện để nói hết với nhau.

Nguyệt hỏi tôi:

-Thụy thấy sao ?, chính phủ gia đình nhà Ngô có sụp đổ không ?

            Tôi do dự, hỏi lại nhỏ tiếng:

-Chị nghĩ sao ?

            Nguyệt  đáp:

-Ảnh hưởng của Đài B.B.C đối với dư luận quốc tế rất là lớn.

            Giọng chậm rãi, tôi nói:

-Ở Đà Nẵng quá yên tịnh. Ngoài này là Trung tâm Phật Giáo nên hai bên đều găng nhau. Phía chính quyền, họ không dám tấn công mạnh nữa, ngay cả bên Công Giáo dù cho Đức Cha Thục đang nắm quyền.

-Bây giờ các chùa trở thành trung tâm tranh đấu.

-Chị biết tin thầy Thích Trí Quang ?

-Ông đã được Tòa Đại Sứ Mỹ che chở.

Tôi nhìn qua Hân, cô gái  mỉm cười nhìn lại tôi thoáng hiện một vẻ đẹp quí phái trong tuổi thiếu nữ. Hân học giỏi, thông minh. Năm học vừa qua, tôi và Hân có với nhau một mối tình học trò. Tôi yêu Hân qua hình ảnh của đôi mắt, qua những câu nói ngập ngừng, những cử chỉ săn sóc, và sự lo ngại trong niềm bâng khuâng, mối tình này có vẻ mang đôi chút dáng dấp các nhân vật trong tiểu thuyết  Tự lực văn đoàn.

             Tôi ngồi chơi với hai chị em Hân hết buổi chiều mới đứng lên kiếu từ. Nguyệt rời ghế đi theo tiễn chân tôi ra lối cổng. Lúc dừng bước để chào nhau, bỗng nàng nói với tôi, giọng trách móc như của người chị:

-Sao không học ngoài này mà vào trong đó. Hãy nghĩ là hai bác trên nhà rất buồn, đúng không?

            Không đáp lời, tôi chỉ nhìn đôi mắt nàng. Ngày hôm sau chủ nhật, tôi đi chuyến xe giữa trưa vào Đà Nẵng. Từ bến xe, tôi đi bộ về nhà. Không có gì gấp vội nên một mình, tôi bước thong thả. Bên vai tôi, có cái túi xách và nhét tờ báo ở ngoài. Sau chuyến về thăm nhà, lòng tôi vơi nhẹ hẳn mối lo. Và giờ đây, trở  lại thành phố này hình ảnh đầu tiên tôi nhớ đến la øNinh Hà. Giữa chúng tôi, cả hai đã cùng biết là có tình yêu làm cho mỗi người bối rối trong cái nhìn đằm thắm,  thân thương. Chúng tôi luôn muốn trao đổi tình cảm với nhau, nhưng chỉ có cặp mắt là nói được nhiều hơn cả.

              Khi tới đầu phố Độc Lập, tôi ghé vào hiệu sách Lam Sơn. Tôi vẫn thường hay đến hiệu sách như một thói quen. Lúc bước vào, tôi chợt bắt gặp một cô gái có vẻ quen  nhưng nếu cố nhớ ra, tôi cũng chỉ mường tưởng là đã gặp cô một nơi nào đó ở thành phố khác. Có thể, đó là Nha Trang nơi tôi còn giữ kỷ niệm trong mùa hè năm ấy. Cô gái nói giọng miền Nam khiến tôi lại hình dung, gợi nhắc đến một chuyến đi  xe đò từ Đà Lạt về Sài Gòn.

               Tôi rảo quanh các hàng kệ mắt tìm xem có những sách gì mới về. Bên cạnh người bạn của mình cô gái vẫn tiếp tục trò chuyện, và trong lúc loáng thoáng nghe tôi biết cô ở Sài Gòn vừa mới về đây thăm nhà.

               Tôi mua một cuốn tập và cây bút nguyên tử mực xanh để chép bài. Tới quầy, trả tiền xong tôi đi bộ về nhà. Lòng tôi lại vui lên khi nghĩ đến Ninh Hà, và lúc này, tôi như có cảm tưởng tôi sẽ đến thăm nàng. Tôi vui nghĩ đến người bạn gái của mình , chốc lát nữa đây tôi sẽ nói về Huế cho nàng nghe, nhưng mà cuộc hẹn lâu hơn hết của chúng tôi vẫn là những giờ học chung ngọai ngữ ở lớp. Hình ảnh  nàng luôn đọng lại nơi đôi mắt. Trong đôi mắt của nàng tôi tìm thấy những hạt mưa nhỏ gây niềm vui hay ánh sáng một ngày vừa mới tắt, và lúc ấy, cũng là lúc tôi nhận ra được âm thanh  tiếng nói của nàng. Và, đôi khi nàng sẽ hiếu thấu cuộc đời tôi.

            Tôi cũng không nên giấu với bạn là tôi đã có được xem ảnh nàng. Tình cờ thôi, một hôm  tôi xuống văn phòng để trả tiền học, bỗng thấy có một xấp học bạ để ở trên chiếc bàn dài , thoáng nhìn không có ai để ý tôi liền lật ra xem, vừa tìm kiếm,  rồi lòng chợt vui xiết kể khi tôi đọc được tên nàng. Tôi khẽ mở cuốn học bạ , ngay trang đầu có tấm ảnh căn cước của nàng và những dòng lý lịch ghi tên cha mẹ và nơi sinh quán. Tôi lặng im, cúi mắt chăm chú nhìn xuống gương mặt nhỏ bé của nàng trong tấm ảnh. Biết bao nhiêu điều muốn nói ra, nhưng rồi, tôi vội lướt xem qua thôi, tuy nhiên tôi ghi nhớ được hết tất cả những gì tôi mong được biết về nàng.

             Nắng ấm trên đường phố. Phố Độc Lập luôn quang đãng, sạch sẽ. Tôi đi bộ qua nhà thờ Chánh tòa. Bên trong khuôn viên nhà thờ là màu vàng của ánh nắng, màu trắng của tường vôi và có dáng linh động với  những con chim đang nhảy nhót. Lúc này, trong tôi biết bao nhiêu hình ảnh, biết bao nhiêu niềm vui trở thành những câu chuyện kể , và  cứ tha hồ tưởng tượng, tự do liên tưởng đến tên nàng, giọng nói của nàng cứ  mang tôi ra đi tới một chốn xa lạ ở phương trời nào đó dù cho tôi không biết nàng ở đâu. Không biết nữa, những ngày qua tôi về thăm nhà thì ở đây nàng làm gì.

              Nàng có người yêu chưa nhỉ ? Có rồi đấy, tự dưng tôi lặng im suy nghĩ, vừa phân vân lo sợ. Nàng đã có người yêu, tôi biết nói lên điều gì để so sánh với nỗi buồn. Tôi chợt nghĩ thế nhưng rồi cố quên, và bây giờ tôi đang đến gần nhà nàng rồi.

              Cửa hiệu Xuân Dung đang có hai người khách vừa trở ra. Khi đi ngang, tôi gặp Hoàn cậu bé tóc quăn em nàng ngồi đọc báo trước nhà. Vừa trông thấy tôi, cậu bé cười hỏi:

-Anh đi đâu đó ?

               Tôi dừng bước, sau ít giây ngập ngừng tôi bước tới gần cậu bé, nói:

-Anh mới về thăm nhà ?

-Ở đâu anh ?

-Anh ra thăm nhà ở Huế.

-À, nhà anh ở Huế.

-Em ở nhà, không đi chơi đâu ?

-Em mới đi đá banh bàn.

             Tôi nhìn ánh sáng đèn néon chiếu xuống tủ kính. Cậu bé nói:

-Có chị Hà em trong nhà.

             Tôi rất mong gặp lại Ninh Hà , nhưng ngại ngùng. Ngay lúc đó, tôi chợt trông thấy nàng từ trong nhà đi ra. Vừa gặp nhau, tôi lên tiếng chào, nàng nhìn lại tôi bằng một nụ cười thân thiện nhưng không nói gì cả. Cả cậu em và nàng mời tôi vào nhà chơi. Tôi lên tiếng chào với ông bà, vừa đáp lời chào lại bà mẹ hỏi tôi: 

-Cậu đi đâu mà đeo túi xách .

-Cháu mới ra Huế thăm nhà, tôi đáp.

-Ông bà có khỏe không ?

-Dạ, ba mẹ cháu thường luôn.

             Tôi đã ghé đến đây một lần rồi, nên lần này tôi có được sự tự nhiên . Tôi ngồi xuống ghế, cầm tách trà đưa lên miệng uống một hớp nhỏ.

            Ông Kha hỏi tôi:

-Ở ngoài đó, tình hình ra sao cậu ?

            Giọng chậm rãi, tôi nói:

-Ngoài đó, giờ cả thành phố rất ngột ngạt. Trên các chùa Từ Đàm, Diệu Đế, đâu cũng có lính gác và vòng rào kẽm gai.

-Có báo động không ?

-Rất căng thẳng, thưa bác. Nhưng phía chính quyền không còn dám tấn công sợ bùng nổ, còn bên Phật Giáo vẫn kiên trì chống đối đòi chính quyền thực hiện nguyện vọng. Chắc chắn sẽ còn nhiều vụ tự thiêu nữa.

-Sáng nay đài B.B.C loan báo kết quả tường trình của Phái đoàn Liên Hiệp Quốc.

-Tin tức ra sao, bác ?

-Họ yêu cầu chính quyền phải cho tự do tôn giáo.

-Ở Huế, tất cả quyền hạn trong tay ông Ngô Đình Cẩn và Đức Cha Ngô Đình Thục.

             Trong lúc  nói chuyện với gia đình, tôi vui thích được dịp ngồi gần bên Ninh Hà. Hạnh phúc cho tôi giống như  cả vụ mùa, từ sự bao dung làm tôi cảm thấy mình dịu mát trong ngọn gió, trong chút hương thơm và tràn đầy biết bao nhiêu hình ảnh mơ mộng giữa cánh đồng quê. Tôi cũng vừa mới về thăm quê nội tôi cách đây hai ngày.

-Gia đình cậu còn ở Quảng Trị không ?

-Dạ vào Huế cả rồi. Căn nhà ngoài đó hiện giờ cho thuê.

-Người Quảng Trị chất phác lắm cậu ạ.

-Dạ.

            Bên ngoài, buổi chiều bắt đầu xuống có vẻ vội vàng. Ngồi trong căn nhà người bạn gái lúc này tôi vui hưởng một  chút hạnh phúc như tưởng mình đang có người yêu. Vừa cảm thấy nôn nao, vừa cố gắng giữ sự tự nhiên trên vẻ mặt, tôi đọc được rất nhiều mối thiện cảm gia đình của người bạn. Và, tôi cũng được biết tên cả nhà từng người. Hai ông bà tên là Kha và Uyên. Ninh Hà , chị cả trong nhà, đến Hòan cậu bé tóc quăn, Thu Hiền, Hạnh, rồi Hằng là cô út. Tôi hơi chú ý đến Thu Hiền, cô em gái này luôn nhìn tôi với nụ cười sáng dịu trên cặp mắt còn ngây thơ. Nhưng bạn cũng biết rồi đấy, tôi yêu Thu Hải hơn hết. Nãy giờ ngồi bên tôi, Thu Hải không nói gì , nàng chỉ nghe tiếng tôi nói và rất vui với nụ cười trong cặp mắt. Một đôi lúc, tôi nghe âm thanh trong trẻo tiếng của nàng nói với ba mẹ nàng.

            Bỗng nhiên, có một người trẻ xuất hiện. Vừa trông thấy anh ta bước  vào, rồi cả nhà cùng lên tiếng, tôi chợt hiểu ngay anh là người quen trong gia đình và có lẽ là người yêu của cô gái. Tự dưng tôi lặng im, bối rối.

            Chàng trai và cô gái cười nhìn nhau. Một chiếc ghế trống, anh ta kéo lại gần bàn ngồi xuống cạnh bên tôi. Ông bà giới thiệu tôi với người con trai:

-Cậu Thụy đây là bạn học cùng lớp với em Hà.

            Tôi và chàng trai chào nhau. Có lẽ trong nhà hiểu được sự bối rối của tôi nên ông bà luôn tiện  nói về chàng trai này cho tôi biết, và đúng như  tôi vừa mới chợt  đoán nhận, anh ta là người yêu của Ninh Hà . Không khí trong gia đình trở lại bình thường. Và, ông Kha khơi lại chuyện tình hình đất nước.

            Chàng trai nói:

-Tình hình ngoài Huế nghiêm trọng lắm bác ạ.

-Anh ở Huế mới vào ?, tôi hỏi.

-Vâng.

            Ninh Hà giới thiệu với tôi:

-Anh Duy học ở Đại Học Khoa Học .

            Chàng trai là sinh viên. Duy mặc ngoài  áo jacket xám để hở chiếc  sơ mi trắng. Tôi nhìn gương mặt Duy qua dáng vẻ  thư sinh, thanh lịch,  hẳn là con nhà giàu. Ngồi bên tôi anh nói chuyện cởi mở , còn với cô gái là người yêu tiếng nói của anh thật nhỏ nhẹ, thì thầm. Một lúc sau, tôi đứng dậy xin kiếu từ để ra về. Ông Kha  bắt tay tôi thật nồng ấm. Ông nói:

-Thỉnh thoảng cậu ghé chơi.

-Dạ.

            Bỗng nhiên, tôi dừng lại khi bàn tay ông Kha đặt lên vai tôi,  bối rối trước sự thân tình của ông. Rồi, tôi cầm lấy gói thuốc  ông cho và nói lời chào cả nhà lần nữa trước khi dời bước. Về đến nhà, lòng tôi cảm thấy buồn tưởng lần đầu tiên tôi nhận ra sự xa lạ của chính mình. Mặc dù, tất cả trong lòng mình cũng như với người bạn gái tôi hiểu được hết. Thế nhưng đã vỡ mộng tình yêu  tuổi trẻ làm sao không tránh khỏi sự suy sụp tinh thần.

             Sau bữa ăn tối,  về phòng tôi coi qua loa bài vở rồi đi ngủ sớm.

            Ngày hôm sau, tôi gặp lại Ninh Hà ở giờ học môn tiếng Pháp.                                                             

            Vừa xuất hiện trước cửa lớp , Ninh Hà nở nụ cười chào tôi. Qua nụ cười đó, đôi mắt cô gái thấy rõ tôi hơn ai hết và cô có hạnh phúc được một người bạn trai luôn yêu thương mình. Và buổi sáng nay  dáng nàng qua áo dài trắng làm tôi nhớ Huế, nhớ trong buổi sáng những hàng cây xanh trên đường Lê Lợi, nhớ trong buổi chiều nữ sinh Đồng Khánh tan học về nghe tiếng cười vui như chim hót. Hôm nay, hay mãi là nỗi nhớ về sau. Nàng là thành phố, hay nàng đến đây để tìm tôi vì biết tôi yêu nàng. Ninh Hà ơi, tôi sẽ cố quên đi chuyện tối qua, đúng hơn đó là một khung cảnh buổi chiều ở nhà em mà tôi hay biết em đã có người yêu.

             Giờ ra chơi còn đến mười lăm phút nữa. Mới bước vào,  thấy tôi ngồi lại trong lớp một mình ở bàn, nàng hiểu tôi đang đợi chờ. Vậy nên, sau ít phút nói chuyện với cô bạn bên cạnh nàng quay lại gặp tôi, hỏi nhỏ:

-Hai giờ đầu học môn gì ?

-Vạn Vật.

            Trên cặp mắt Ninh Hà nhỏ bé luôn luôn vui, thật đẹp. Tôi cũng còn vụng về, không biết tiếp lời ra sao cho câu chuyện trôi chảy. Rồi sực nhớ đến chàng trai, trong tình thân tôi hỏi:

-Anh Duy học ở Huế.

            Ninh Hà gật đầu, nói:

-Anh học ở Đại Học Khoa Học.

-Lúc này, nghe nói ở Huế còn bãi khóa.

-Tình hình ngoài đó ngột ngạt lắm.

-Ninh Hà có hay đi chùa không ?

-Có, hay sinh hoạt trong đoàn Phật Tử.

-Tuần trước, Ninh Hà mặc áo dài lam trông rất lạ.

             Cô gái nhìn lại tôi với cặp mắt vui. Rồi tiếng chuông reo, chúng tôi im lặng để chờ thầy vào lớp. Và, trong khi đợi thầy đến người nào cũng mở tập vở và sách ra xem lại. Qua gần  năm phút, thầy Vinh, phụ trách môn tiếng Pháp vẫn chưa có mặt. Đang có tiếng xì xào thì ông Giám thị xuất hiện cho cả lớp biết là các giáo sư đang họp, chừng nửa giờ nữa mới xong.

            Nói xong, ông bỏ đi. Cả lớp hơi ồn, nói chuyện. Tôi nhìn lên thấy Ninh Hà yên lặng nghe các bạn nói chuyện. Bất chợt, tôi gọi tên nàng.  Lập tức, nàng   quay lại làm tôi vui vừa nói nhỏ, vừa chỉ vào tờ giấy vở.

-Chơi cờ ca rô nghe.

            Không đáp lời tôi, nàng vội quay về bàn mình cầm cây bút máy. Tôi cảm thấy hạnh phúc trước vẻ đẹp của nàng. Mái tóc xõa xuống vai,  chiếc áo dài trắng rất mới nàng mặc hôm nay dậy lên mùi hương  thơm nhẹ nhàng.

-Ninh Hà đi trước đi, tôi nói.

            Nàng đánh dấu nhân vào ô nhỏ trên khoảng giấy rộng. Tôi vòng số không ngay cạnh đó. Rồi bắt đầu, nàng mở nước. Tôi nhìn cách đánh này, biết nàng đánh cao. Và, mỗi lần nàng mở nước, tôi theo chặn lối, nhưng rồi đến những nước sau, hàng ba và bốn mở ra nhiều đường, tôi chỉ chận được một ngả, còn ngả kia đành buông.

-Thua ván đầu, rồi.

            Ván thứ hai, đến tôi đi trước. Tuy là có nước tiên, nhưng rồi, cũng rất khó tôi mới gỡ hòa.  Qua ván thứ ba, chúng tôi so tài nhau bằng những nước cờ sắc sảo và cuối cùng, Ninh Hà cũng mở được nước rộng để thắng. Rồi, không ngừng, hết giấy, nàng quay lại bàn mình lấy một tờ giấy khác chúng tôi chơi tiếp trọn luôn giờ nghỉ vì các thầy còn bận họp.

            Tự dưng, tình thân của chúng tôi tăng lên từng phút với giọng nói nhỏ nhẹ, ấm ấp dễ thương của nàng. Và, rất gần, thật gần lúc khuôn mặt nàng cúi xuống trên trang giấy, với mái tóc bên vai, tất cả đó, để dành cho tôi một sự lơ đãng, nhớ nhung. Tôi ngắm thật lâu hình ảnh này, chợt bàn tay tôi đưa ra chạm nhẹ để vén lên mái tóc đang bao phủ khuôn mặt nàng.

            Lúc ấy, hai cặp mắt chúng tôi nhìn nhau thật nghiêm trang, lắng đọng trong sự bối rối. Và rồi, tôi chợt nghe như tiếng nói của mình bị nén lại, còn nàng bỗng dưng bày tỏ một nụ cười.

            Ngày hôm sau, tôi nghỉ học trọn ngày. Buổi sáng, hai người bạn ở gần nhà qua rủ tôi đi học nhưng tôi nói nghỉ ở nhà để phụ giúp dì tôi dọn một căn phòng trên  cho người khách thuê ở. Ông ta là Sĩ quan đeo lon Trung úy,  từ miền Nam mới đổi ra ngoài này. Hôm nay có giờ học Anh Văn và tôi cũng nghĩ rằng, Ninh Hà thấy vắng tôi.

            Sau bữa ăn sáng, tôi và anh Năm người bà con bên gia đình bác Hội bắt đầu dẹp bớt bàn ghế ở căn phòng đầu nhà trên rồi quét dọn, lau chùi sạch sẽ . Hôm nay, không chỉ riêng phòng cho thuê mà các phòng khác cũng như đồ đạc trong nhà đều được dọn dẹp, sắp xếp chỗ lại một lần luôn thể. Đến chiều, công việc hoàn tất. Căn nhà rộng rãi, một ngày thật sáng sủa làm tôi hài lòng. Thực sự ra tôi không cần nghỉ trọn ngày đi học, vì công việc  cũng có mấy người làm công bên lò bánh mì qua phụ,  nhưng tôi vẫn muốn ở nhà giúp dì tôi. Vào lúc sáng nay, vừa làm công việc lau chùi dọn dẹp, tâm trí tôi luôn bị xâm chiếm bởi bóng hình và cái tên thân thương của người bạn gái. Tôi cũng nghĩ rằng, vắng tôi, Ninh Hà cũng buồn lây và chắc nàng sẽ nghĩ là tôi bị ốm đau.

            Buổi chiều, bên ngoài nắng dịu ấm, hiền hòa. Tôi và dì Vân ngồi ở bàn tròn uống nước trà trò chuyện, nhắc nhở đến người thân. Đã quá lâu, dì không trở về quê . Nhưng trong câu chuyện của hai dì cháu, hình ảnh một làng quê hiện ra, quê nội  bên dì và quê ngoại  bên tôi. Ngày xưa đó, căn nhà của gia đình dì nằm cuối con đường làng, một khu vườn lớn rộng bao quanh hết và lối cổng sau trông qua thấy bờ đê và con sông trải dài. Bây giờ, trong giọng nói của dì không hẳn là một sự hồi tưởng điều ấy khiến tôi có ý nghĩ những  âm thanh thân thiết đang trở thành cái bóng dáng êm đềm đi theo bước chân người đàn bà trên con đường trở lại chốn xưa với cả giấc mơ  đầy trọn một thứ tình quê . Còn tôi, quê ngoại đã làm tôi nhớ những đồng ruộng khô, trên một khoảnh đất  rộng  tiếp với bãi ngô nơi ấy tôi và lũ bạn cùng xóm thường tập trung chia phe đá bóng, đó là những quả bóng được bện bằng thứ lá chuối khô. Khi một quả banh chuối xơ xác, bung dây cột và banh ra hết, chúng tôi thay trái khác và đá mải miết, say mê cho đến chiều tối. Tôi cũng rất thích thú với lối chơi thả diều trên con đường lớn của làng trông ra bờ sông và, một đôi lần,  tôi chợt mừng rỡ khi ngước mắt nhìn về phía bờ đê  trông thấy bóng dáng mẹ tôi trong vạt áo nâu đang gánh hàng buôn ở chợ phiên trở về nhà. Tôi đã gợi nhớ được tuổi thơ của mình,  ngoài hình ảnh đậm nét về mẹ tôi,  ngày ấy, cũng vẫn còn âm thanh những hồi chuông  nhà chùa,  nhà thờ vang vọng trong tôi nữa.

            Hai dì cháu đang chuyện trò, bỗng thấy người lạ xuất hiện trước cửa với túi xách marin và cái túi nhỏ đeo bên vai. Tôi hết sức ngạc nhiên, nhìn người khách thốt lên.

-Anh Châu.

-Em là Thụy, phải không ?

-Dạ phải, em đây.

            Tôi vẫn còn nhớ tên anh Châu nên giới thiệu với dì Vân và cho dì biết qua sự tình giữa anh và gia đình bên tôi vào năm đó ở Quảng Trị.

            Anh Châu đặt chiếc sac marin xuống dựa lưng tường, túi xách nhỏ bên cạnh rồi ngồi vào bàn uống nước theo lời mời của dì tôi. Tôi nói:

-Căn phòng anh thuê em đã dọn sạch sẽ.

-Cám ơn em.

            Rồi sau những phút hàn huyên, mừng rỡ, tôi để lại chuyện thuê nhà giữa dì tôi và anh Châu trao đổi với nhau. Anh Châu trả tiền thuê nhà trước hai tháng. Dì tôi nhận lấy và rồi chúng tôi cùng đứng dậy. Tôi cầm lấy cái túi xách nhẹ đi trước, anh Châu theo tôi tới căn phòng đã dọn sẵn để cho thuê.

            Lối vào phòng là một cánh cửa cài chốt có móc ngoài để khóa khi khách cần đi đâu. Phòng cũng có một cửa sổ mở ra để đón ánh sáng từ con đường đổ xuống lò bánh mì và bãi đất trống gần cạnh kho xăng. Nơi chỗ đó, không có xây dựng nhà cửa vì người ta sợ hỏa hoạn. Trong căn phòng đã có sẵn cái giường gỗ, nếu khách thuê muốn dùng thì giữ, còn không thì đem cất. Căn phòng sáng sủa làm anh Châu rất thích. Trên tường mới quét vôi để trống trơn, như vậy tiện cho anh muốn treo tranh vẽ hoặc những bức ảnh chụp của gia đình.

            Dì Vân nói chuyện với khách không lâu rồi kiếu từ, chỉ còn tôi ở lại phụ giúp anh Châu sắp xếp căn phòng. Hai anh em vừa dọn phòng, vừa trò chuyện . Anh Châu thật là người tốt, hôm đó anh chỉ là khách qua đường nghỉ nhờ một đêm mưa ở nhà tôi để đợi chuyến tàu hành quân vào vùng Qui Nhơn, vậy mà, sau đó, bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm, bao nhiêu thư từ thăm hỏi giữa anh và gia đình tôi, dần dần cột chặt lại thành một mối cơ duyên. Anh Châu hỏi thăm từ ba mẹ tôi, anh Khả đến các em tôi với tên từng đứa, anh vẫn còn nhớ . Bây giờ, anh  hơi khác  lúc trước, nhưng giọng anh nói vẫn ấm, lúc nghe tiếng anh cười sau  câu nói, tôi bỗng ước mong cho mình làm sao cũng linh hoạt, tươi vui giống anh. Tôi có sự vụng về mà tôi hiểu rõ. Thường những cái gì hay ho, sâu sắc,  nó chỉ có trong ý nghĩ  thôi, còn bộc phát ra ngoài bằng lời nói hay cử chỉ, tôi thường vấp váp, đôi khi bối rối, hoặc mất sự tự chủ. Những người bạn quen tôi, khi hiểu ra được cái nhược điểm ấy  họ rất thương mến thương tôi.

            Căn phòng  này rộng hơn căn phòng tôi ở. Ngoài va li, túi xách marin đựng quần áo ra, anh Ngọc còn nhiều sách báo, và kể cả các tập giấy làm bản thảo do chính anh viết đủ các loại thơ, truyện ngắn, chính luận.

            Buổi chiều xuống mau. Đến giờ ăn,  anh Châu rủ tôi đi phố chơi và ăn cơm tối luôn. Tôi có hơi ngần ngại, nhưng anh bảo tôi cứ đi với anh cho vui. Tôi vội trở về phòng thay quần áo, xuống nhà nói qua với dì Vân và bác Hội rồi trở lại với anh Châu để cùng đi.

            Trời hơi trở lạnh. Hai anh em bước ra đường đợi chuyến xe lam. Đà Nẵng, thành phố này còn xa lạ với anh Châu. Ở các tỉnh miền Nam anh  đã sống nhiều hơn. Anh tới đây còn hai ngày nữa mới hết phép. Đến ngày thứ hai anh vào trình diện đơn vị để nhận phần hành của mình.

            Xe lam chưa tới. Trong lúc chờ, hai người đứng nói chuyện .Lúc lấy gói thuốc trên túi áo, anh Châu hỏi tôi:

-Em biết hút thuốc không ?

-Dạ có. Anh cho em một điếu hút cho đỡ lạnh.

            Tôi cảm thấy ấm khi rít một hơi thuốc đầy.

-Anh còn nhớ Quảng Trị không ?

-Nhớ chứ. Anh đi nhiều nơi, nhưng chỉ có Quảng Trị  cho anh nhiều kỷ niệm nhất.

-Chị người ở đâu ?

-Nha Trang.

-Sao anh không lấy vợ người Bắc.

            Anh Châu cười bảo tôi:

-Đâu phải mình người Bắc là phải lấy vợ ở ngoài đó đâu.

-Em thích tiếng nói của mấy cô gái Bắc.

            Anh Châu cười hơi lớn tiếng,  tự nhiên đứng bên anh tôi cảm thấy mình nhỏ bé như thuở nào của ngày xưa. Rồi nhìn gương mặt tôi, một giọng vui anh hỏi:

-Em có quen cô bạn nào người Bắc không ?

            Nhớ ngay đến Ninh Hà, tôi đáp  liền:

-Có. Bạn học cùng lớp với em. Giọng nói cô ấy hay lắm, anh ạ.

-Cô ta có cảm tình với em không ?

            Trong sự rụt rè, tiếng tôi nhỏ đi.

-Em với cô bạn biết nhau ở trường thôi. Nhưng em vụng về lắm. Với lại, tiếng nói của em nó nặng  và khô quá.

            Xe vẫn chưa tới. Bên con đường chờ xe, chúng tôi vẫn trò chuyện với nhau mà lúc này chuyển qua vấn đề thời sự về biến cố Phật Giáo đang mỗi ngày trở nên căng thẳng giống như  mức nước đầy trong  ly cứ dâng lên chờ tràn ra. Tiếng nói anh Châu thật trẻ trung, đầy nghị lực, và những điều anh suy luận cho thấy sự xác đáng, sáng tỏ các vấn đề. Anh nhận định rằng, chế độ Ngô Đình Diệm chỉ muốn biến Việt Nam trở thành một quốc gia của Vatican, ông không ý thức được giá trị lịch sử của dân tộc, và biểu tượng quyền lực của ông là cây thánh giá. Dinh Độc Lập, nơi đó không khác gì  giáo đường  của Vatican.

            Chúng tôi chờ xe đến nửa tiếng. Chuyến xe không đông khách, hai anh em vừa bước lên vào chỗ ngồi, xe chạy ngay. Xe chạy trên đường Trưng Nữ Vương, đến ngã ba Viện Cổ Chàm  rẽ trái xuống đường Độc Lập. Tôi chỉ ngôi trường Sao Mai cho anh Châu thấy, rồi lúc qua ngôi nhà Ninh Hà, tôi đưa mắt chăm chú nhìn vào để tìm nàng. Có lẽ, nàng không trông thấy tôi, nhưng tôi đã trông thấy nàng đang ngồi học bài bên chiếc bàn đặt ở cửa sổ. Nàng ngồi đó, mái tóc xõa xuống vai trên chiếc áo len hồng nhạt . Từ buổi sáng đầu tiên gặp nàng, tôi mến nàng, yêu nàng, nên mỗi một hình ảnh của nàng đều đến với cặp mắt tôi một cách tự nhiên, và nó luôn nói với tôi rằng, nàng đẹp, một vẻ đẹp thu hút tâm hồn để cho bạn cảm thấy mình đang bước đi trên con đường tình yêu.

            Xe xuống phố chính, ngừng lại bên phía chợ Hàn đối diện với nhà sách Lam Sơn. Xuống xe, anh Châu trả tiền, và trước khi dạo chơi phố hai anh em vào thăm nhà sách. Tôi đi bên anh, cùng anh tìm những cuốn tiểu thuyết mà có lẽ cả hai cùng thích.

            Khi trở ra, một cái túi nhỏ anh Ngọc xách có hai tờ tạp chí, tờ tuần báo, và một cuốn truyện dịch Về miền đất hứa của nhà văn Léon Uris. Rồi, hai anh em thư thả đi bộ, tiếng nói nhỏ vừa đủ nghe trong câu chuyện về gia đình, hay cuộc sống. Và mỗi câu chuyện, khi  hiểu rõ những ý tưởng của anh tôi có cảm giác mình đã tới tuổi trưởng thành. Tự dưng, với ý đó, tôi nhớ nghĩ nhiều đến Ninh Hà người bạn gái đã làm cho tâm hồn  tôi  đầy ắp một tình yêu lãng mạn.

            Tiếng anh Châu chợt hỏi:

-Ở đây, tiệm ăn nào ngon em ?

-Em cũng không biết nữa .

-Em ở đây lâu chưa ?

-Mới có hơn tháng nay thôi anh. Với lại, em đâu có tiền mà vào tiệm ăn để kéo ghế.

            Đi ngang một tiệm ăn của người Hoa, hai người ghé vào. Tiệm ăn rộng sạch sẽ, nhiều bàn ghế sắp sẵn, và nhiều khách đang ăn. Anh Châu chọn chiếc bàn trống ở góc bên trái, nhìn xéo qua cửa sổ thấy một dãy phố khác. Người hầu bàn tới đưa hai tấm bìa menu. Tôi cầm lấy, nhưng chẳng mở ra xem. Anh Châu mở ra coi lướt, rồi bảo tôi:

-Em thích ăn gì ?

-Anh gọi đi.

            Anh Châu gọi hai phần cơm , nước uống là bia. Trong yên lặng, hai anh em nhìn nhau như để tìm kiếm lại một quãng thời gian đã qua. Tôi có nhiều cảm nghĩ trong đầu muốn bày tỏ với anh lúc này nhưng tôi cần chuẩn bị cố tìm cách sắp xếp sao cho nó ngắn gọn, đủ nghĩa. Tôi muốn nói với anh, người ta hiểu cuộc sống và yêu cuộc sống như thế nào khi gặp một người đồng hành, một người xa lạ rồi quen biết, hoặc là một chuyện gì đó dẫn đến cái cơ duyên hay số phận cho con người. Với ý tưởng đó thúc đẩy tôi ngỏ lời, nhưng rồi tôi chẳng nói.

            Bữa ăn dọn ra. Mùi vị thức ăn ngon làm tôi thèm nhưng  tôi cố kìm giữ . Tôi nói:

-Mừng ngày gặp lại anh.

-Bao nhiêu năm rồi, em nhớ không ?

-Hơn sáu năm.

- Ăn đi em.

            Anh Châu  mời tôi, hai anh em cầm đũa. Tôi có đôi chút ngượng ngùng muốn giấu, còn anh Châu lúc nào cũng tự nhiên. Tôi uống một hớp bia sau chén cơm đầu ăn xong, cảm thấy ngon lạ. Vị cay của món cải xào, thịt chiên bột, nước xốt, canh cá, và cơm nóng càng ăn, càng thấy ngon miệng vô chừng.

-Anh còn nhớ đến mấy đứa nhỏ ở nhà, hay thật. Em rất ngạc nhiên, cảm động.

-Anh nhớ các em như nhớ đến gia đình anh .

-Ở miền Bắc, quê anh là tỉnh nào.

-Phúc Yên.

-Có xa Hà Nội không anh ?

-Không xa lắm, chừng gần bốn chục cây số.

-Năm di cư, anh vào Nam một mình.

-Anh đi một mình. Cũng năm đó, anh nhập ngũ.

-Có người thân nào của anh đi vào Nam không ?

-Có thể có, nhưng anh chưa hề gặp hay biết tin.

-Năm di cư, em còn nhớ từng chuyến xe lửa đến ga mỗi sáng sớm cũng như chiều. Và hồi đó, nhà em cũng là một mái ấm cho những gia đình tạm cư trước khi họ vào phía trong miền Nam.

            Tôi bắt đầu nhận ra bữa cơm ngon đưa dẫn tôi sâu vào câu chuyện tâm tình,  trong đó, giọng nói của tôi như có được nỗi niềm  trắc ẩn thấm đượm, nó khiến anh Châu lặng im suy nghĩ.

             Một lúc rất lâu, tôi bỗng nói với anh Châu:       

-Tối hôm đó, trời mưa lớn.

            Anh Châu nhìn tôi, nói giọng thật trầm:

-Lúc xuống tàu ra khỏi ga, anh tìm nhà khách để ngủ nhưng không có. Đi ngang qua nhà em, thấy đèn sáng nên anh đi vào.

-Tối đó, anh cũng chơi giây thun chẵn lẻ với tụi em. Và, cả nhà chỉ có thằng Khanh nhỏ ăn hết.

-Nó học tới lớp mấy rồi ?

-Lớp Đệ Ngũ rồi anh.

            Anh Châu nhớ ra một chuyện gì đó về mấy đứa em tôi, trên cặp mắt anh sáng lên nụ cười. Giọng nói của anh, cách anh cư xử với chúng tôi như người anh cả làm tôi cảm động. Và lúc này, tôi nghĩ tới một câu chuyện trong gia đình để kể lại, vì tôi còn nhớ rõ buổi sáng đó trời mưa nặng hạt nhưng đòan tàu chở quân lính trong đơn vị anh Châu vẫn lên đường vào Qui Nhơn.