*
Notes


1
2
3

30.4.1009
30.4.2005

Virus VC
vs
Lưu Manh Hóa

Vietnam Now











tháng tư
người. đây khuôn mặt. vách. ngăn
tháng tư. về đốt. mùa đông. thắp. người
tàn chưa. một nén. thời gian
thanh xuân. lờ. lượn. lẫn. qua bên. đời
tháng tư. khập. khễnh. khóc. cười
tháng tư. in. dấu cuối. người. nứt. đôi
Đài Sử
*

Người Mỹ nghĩ gì về Nỗi buồn chiến tranh
PXN

Note: Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh không phải dễ đọc, ngay cả đối với độc giả Mỹ. Lối viết theo “dòng ý thức” của nhân vật Kiên, đảo lộn trình tự thời gian, chắp nối, đứt đoạn sự kiện, lồng “truyện trong truyện”, đã khiến nhiều người khó theo dõi nội dung tác phẩm.
PXN, trong bài viết trên

1. Câu trên, là của PXN, hay trích dẫn từ những nguồn của bài viết?
2. Trước “Nỗi buồn”, đã có cái gọi là ‘dòng ý thức’ trong cõi văn Bắc Kít?
NQT

*

Chuyện tình Mít kể, đương thời, thì có NNT. Truyện số 1 của nữ văn sĩ “miệt vườn, đặc sản Miền Nam”, là Một Mối Tình. Truyện ngắn mới nhất:

Lâu rồi mới viết chuyện tình mà chẳng hay ư?
Chuyện tình lồng trong chuyện tình, lồng trong chuyện tình. Cái cô Bê phải có một mối tình lớn, vì nó mà bỏ xứ mà đi, và mối tình trắc trở này chắc là mắc mớ tới một người đàn ông có vợ, và bị vợ bỏ chạy theo thằng khác [đây là "mô típ đặc sản" của NNT, như trong Một Mối Tình, trong Cánh Đồng Bất Tận]. nếu không, cô không để ý tới anh chàng có đứa con bị sốt], rồi còn mối tình thương hại anh học trò em trai cô chủ nữa.
Thú thực, viết như thế, thì Gấu này phải chịu là Thầy!

Đặc sản Miền Bắc thì có em Phương, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, chửi anh Kiên, Yankee mũi tẹt, mày ngu quá, đâu còn đêm nào như đêm nay….
Hay em gì gì đó, trong Trăng Goá, do sặc sụa mùi nước đái tại Ga Hàng Cỏ khi tiễn Yankee vào Nam chiến đấu mà nhận lời cầu hôn Thủ Trưởng, hay anh cu Sài của Nê Nựu, Đảng bảo lấy ai thì lấy người đó!
"Chẳng còn đêm nào như đêm nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến này".
Gấu đọc War Sadness
*

Tại sao Bảo Ninh tịt ngòi?
Gấu tin rằng, chỉ Gấu mới trả lời nổi câu hỏi hắc búa của đám mũi lõ, về nhà văn nổi tiếng nhất xứ Mít.

Why Vietnam's best-known author has stayed silent
Fifteen years after Bao Ninh's admired war novel, he explains his fears about publishing a sequel
Suzanne Goldenberg in Hanoi
Sunday November 19, 2006

The Observer

Nhật Ký TV

**

Tại sao nhà văn nổi tiếng của Việt Nam im tiếng sau cuốn đầu tay?

Đây là câu chuyện của một người lính được đặt để trong khung cảnh của những trận đánh, và chiến trường thì đầy những xác chết đã thối rữa, và thêm vào đó, là linh hồn bị tra tấn đến rách bươm ra, của một chàng trai trẻ, lên đường phục vụ xứ sở của mình, và khi nó ra lò vào năm 1991, lập tức tác giả nổi lên như cồn tại Việt Nam.
Tác giả không hề in gì nữa, mặc dù người ta tin rằng, ông đã hoàn tất một cuốn tiếp theo về chiến tranh mà ông đặt tên là Steppe, và ông ngần ngại chưa đưa in.
'I stopped myself. I kept holding myself back,' Ninh told The Observer in a rare interview at his home in a section of central Hanoi favoured by middle-ranking officials. 'I compared everything I wrote to everything I wrote in the past, and it's not natural like it was before.'
"Tôi tự kìm tôi lại, tôi tự kìm tôi lui về phía sau", Bảo Ninh nói với phóng viên tờ Người Quan Sát, trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi tại nhà của ông, trong một khu trung tâm Hà Nội, nơi được đám nhân viên nhà nước bậc trung ưa thích. "Tôi so sánh mọi chuyện tôi viết với mọi chuyện tôi viết trong quá khứ, và nó không có vẻ tự nhiên như trước."

**
Về kỹ thuật viết, Nỗi Buồn là một hồi ức lộn xộn, một cách hết sức tự nhiên, như tình trạng “da beo”, của cuộc chiến. Người đọc có thể nhẩy vô bất cứ đoạn nào và lập tức toàn bộ cuốn sách phơi mở, mời gọi. Chất thơ của hồi tưởng, kỷ niệm, ở, ngay cả những đoạn tàn nhẫn nhất, khi viết về pháo bầy, bom trải thảm.
Tác giả nhận diện đứa con tinh thần của ông: “Đây chỉ là một sáng tác dựa trên cảm hứng, [được] chỉ đạo [bởi] của sự rối bời”.
Sartre, đọc Âm Thanh và Cuồng Nộ, của Faulkner, nói, đây là kỹ thuật của sự hỗn độn, và ông khẳng định: Kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui chiếu về một siêu hình học của tiểu thuyết gia. Với Faulkner, một siêu hình học về thời gian.
Đọc Nỗi Buồn, độc giả có thể mường tượng ra trục thời gian của nó, của chuyện tình đẹp, nghẹn ngào, đó là chuyến tầu định mệnh, khi Kiên đi vào Nam chiến đấu, và Phương chạy theo, rồi “tai nạn” xẩy ra.
Và, đây mới là ý nghĩa đích thực, mang tính “uyên nguyên, bi đát” của cuốn truyện, của nỗi buồn: “Kiên có thể tha thứ cho cuộc chiến, nhưng không thể tha thứ cho cuộc tình”.
Như chúng ta đã biết, truyện lúc đầu có tên “Thân phận tình yêu”.
Cái tít này mới đúng với nó.
Và còn đúng cho cả một miền đất.
Toàn truyện, mọi hồi tưởng, về chiến tranh, lập tức kèm theo, một hồi tưởng về cuộc tình, về tai nạn, về nỗi đớn đau một lần để lỡ. “Chẳng còn đem nào như đêm nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến này


*

cc 1906

Cái sự bành trướng về phía Nam là số phần của giống dân quần tụ tại đồng bằng sông Hồng, lúc nào cũng nơm nớp hai hiểm họa, giặc Bắc và lũ lụt. An Nam nhất thốn thổ, mảnh đất sông Hồng nhỏ quá, người cứ đẻ mãi ra, đất thì chỉ có thế, ruộng thì càng ngày càng co lại vì bờ nhiều hơn ruộng, ruộng thì ngày càng cằn cỗi vì con đê sông Hồng chặn hết mọi phù sa mầu mỡ, nước sông ngày càng đục ngầu, mầu như mầu máu. Kể từ khi có Đàng Trong, là toàn thể cộng đồng Bắc Hà nhìn về nó, như là Miền Đất Hứa. Thành ra giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, hai miền chan hòa, là giấc mơ đẹp nhất của xứ Bắc Kít.
Nhưng không ai có thể ngờ được, nằm bên dưới giấc mơ đẹp nhất, là Cái Độc, Cái Ác của một miền đất.
Chỉ đến khi lấy được Miền Nam thì Cái Ác mới lộ diện.
Phải đầu hàng, không có bàn giao bàn giếc mẹ cái gì hết! Bố khỉ!
Mày phải đầu hàng, vì tao là kẻ chiến thắng, đất đai của mày, nhà của mày, vợ con của mày, của cải của mày, căn cước của mày… tất tất của tao, của chúng ông, tất tất đều chiến lợi phẩm. Hiểu chưa, chú gà tồ Big Minh!
Source
   


Trời ở nơi nào ta ở đây…
Nguyễn Ngọc Tư 

"Wherever I am, Germany is"
Thomas Mann
Gấu ở đâu Mít ở đó!

And I step ashore in a fine rain
To a city so changed
By five years of war
I scarcely recognize
The places I grew up in,
The faces that try to explain.

But the hills are still the same
Grey-blue above Belfast.
Perhaps if I'd stayed behind
And lived it bomb by bomb
I might have grown up at last
And learnt what is meant by home.
Derek Mahon

Giận dữ lưu vong

Và tôi bước xuống bến tầu Xề Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn màng
Về với thành phố quá đỗi đổi thay
30 năm nội chiến từng ngày
Tôi không làm sao nhận ra
Những nơi chốn mà tôi đã từng lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích

Nhưng bến tầu thì vẫn bến tầu
Những ống khói tầu thì vẫn mệt lả
Nơi tôi ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông thì cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn thế!
Có lẽ nếu tôi đừng đi, và cứ lì ở lại
Và sống với Xề Gòn từng trận hỏa tiễn VC réo ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh thành phố
Sau cùng tôi sẽ trưởng thành

Và biết ‘nhà’ nghĩa là cái quái gì


Note: Có thể, cái tít bài viết Cô Tư được ‘gợi hứng’ từ Thomas Mann.
Và nếu như thế, Cô Tư thường ghé... TV?


&

Karl Marlantes, cựu binh Mẽo, đã bỏ ra 30 năm để viết tác phẩm đầu tay về cuộc chiến mà anh trải qua tại Việt Nam.
Matterborn,
dầy 650 trang, nhà xb Grove/Atlantis, 2010.
Nó đã bị hơn một nhà xb vứt vô thùng rác.

GNV không mê truyện viết về chiến tranh. Chẳng cần chuông gọi hồn ai, mà cũng dư biết kẻng gọi hồn Gấu đó.

Kẻng tù VC, và cái kỷ niệm tuyệt cú mèo, lần phê thuốc lào tại nông trường Phạm Văn Cội Củ Chi, ngay sau Phỏng Dái. (1)
Nhưng, nhân tiện VC đốt pháo hoa mừng ngày 30 Tháng Tư, TV sẽ giới thiệu bài viết về cuốn trên, trên tờ Poets & Writers May/June 2010. Thử coi, có hách hơn của bạn văn VC của GNV, Bảo Linh, với cuốn Lỗi Buồn Chiến Tranh!
(1) 

Sá gì mấy cuộc bể dâu

Câu thơ "Nhớ bạn như đang nhớ thuốc lào", [bạn ở đây là Phan Lạc Phúc, tức ký giả Lô Răng], của Thanh Tâm Tuyền, tuy thoát thai từ ca dao (nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên), nhưng chỉ những ai đã từng ở tù Vi Xi, thì mới cảm thấy hết được cái nỗi nhớ, và cùng với nó, là cái nỗi say, và kẻ hèn này cũng đã từng có một kỷ niệm huy hoàng (kinh hoàng, đúng hơn), về nó.
Ở trong tù hút thuốc lào bằng khẩu ba zô ka, và, tôi không biết trại tù miền bắc ra sao, chứ ở trại tù miền nam, thường là cả lán chỉ có một khẩu, và, bạn biết rồi đấy, cái bi thuốc lào đầu tiên buổi sáng, khi đang còn mắt nhắm mắt mở (đang còn say ke), nó mới ngon làm sao, say làm sao, và mới nhớ làm sao, những ngày sau này, khi không còn được ở trong trại tù!

Nhà văn gốc Do Thái viết văn bằng tiếng Hung, Imre Kertéz, được giải Nobel năm rồi, đã nói đến những giây phút hạnh phúc ngắn ngủi, ở một nơi thỉnh thoảng có mặt trời là Lò Thiêu, tôi cứ thử tưởng tượng, nếu ông đi tù vi xi, chắc chắn phải thêm vào "một chỗ dưới mặt trời" - mượn cái tên phim có cô đào Taylor và chàng Monty Cliff – tức khoảnh khắc hạnh phúc mà điếu thuốc lào mang lại.

Như trên đã viết, cả phòng chỉ có một khẩu ba zô ka, thành thử trước khi đi ngủ, "trại viên" thường tìm cách giấu khẩu súng, riêng cho mình, để sáng sớm hôm sau, là người đầu tiên nhét bi thuốc, châm que diêm bắn một phát, rồi ngã lăn đùng ra, mặc kệ trời đất xoay mòng mòng...
Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền cũng đã tả cái thú bắn thuốc lào này, trong Thơ Ở Đâu Xa:

Thơ thuốc lào

Ngồi chơi hút điếu thuốc lào
Tạm quên những lúc gian lao ưu phiền
Điếu thông đóm nỏ thuốc êm
Thử coi sẽ thấy đảo điên đất trời
Bạn tù ơi lửa châm rồi
Rít cho ròn rã mê tơi cõi lòng
Tựa lưng nhả khói thong dong
Tít say lú lấp cả mong với chờ
Kể chi vợ dại con thơ
Sá gì chuyện cửa chuyện nhà mai sau
Sá gì mấy cuộc bể dâu
Loay hoay chỉ tổ bạc đầu mà thôi
Này đây trà đậm chén mời
Long Giao còn thú tuyệt vời nào hơn

Sáng bữa đó, "bạn tù", "trại viên", tức kẻ hèn này hân hạnh là người đầu tiên nạp đạn. Vừa nhả khẩu súng, chưa kịp ngã lăn đùng ra để phê, thì tiếng kẻng "tập hợp, chào cờ!" rùng rợn đã ré lên!

Thế là "chàng" cứ thế bò, lăn, lê, mắt nhắm tít, để "kìm" cơn say, nhằm hướng sân trại, đâu biết rằng tất cả bạn tù, lẫn quản giáo, đang "chiêm ngưỡng" từng bước "lăn trầm" của "chàng"!
Trong Tuyển Tập Tạp Ghi cũng có những dòng "sám hối, giải oan cho một trận thuốc lào này," của Lô Răng, khi cô con gái út khuyên ông, "Đừng hút thuốc lào nữa bố ơi, con chịu không nổi." (trang 66).
Đấy là cô "lịch sự", không nói thêm, "... vì nó ‘hôi’ lắm"!
Source


Ngô Tự Lập
Khoa Quốc tế - Đại học Quốc gia Hà Nội 

Ông Hồ, như ở đây được NTL thổi là cha đẻ của văn học viễn tưởng Mít, thực sự chỉ là một ‘phóng tác gia’. Và những truyện mà Cụ Hồ chôm của người rồi viết lại theo ý của ông, là đều nhằm mục đích chính trị cả.
Miền Nam có HHT được gọi là ông vua thể loại này, chỉ khác, ông cho biết, ông chôm của ai, còn Bác, thì để lại một nghi vấn, hy vọng đời sau có kẻ cố tình lầm, thổi Bác thành cha đẻ của văn học viễn tưởng Mít! 

Gấu này, hồi nhỏ đọc Ngọn Cỏ Gió Đùa, của Hồ Biểu Chánh, mê quá, đến khi đọc Những Kẻ Khốn Cùng của Victor Hugo, cứ lầm bầm chửi anh Tây Mũi Lõ thuổng anh Mít Nam Bộ, ấy là vì truyện của HBC tuy phóng tác, mà đặc chất Miền Nam. Borges cũng đã gặp tình trạng này, khi đọc một bản dịch -dịch chứ không phải phóng tác – và khi đọc nguyên tác, lắc đầu, không hay bằng bản dịch, là vậy. Đây là những phép lạ của ngôn ngữ, và tài năng của người phóng tác.
Trường hợp Bác Hồ, Bác nhắm một ý đồ ở bên ngoài văn chương.
Vào thời đó, Bác cũng không nghĩ đến chuyện thuổng hay không thuổng. Giống trường hợp Khái Hưng, cũng đã từng phóng tác một truyện ngoại, của Langelaan, thành Bóng người trong sương mù, (1) câu chuyện anh lái tầu hoả, được hồn vợ nhập vào một con bướm cứu mạng, khi cố ngăn xe lửa vì cây cầu phía trước đã bị bão đánh sập.
NTL còn thổi Bác thành nhà tiên tri. Không hiểu Bác có tiên tri ra một đất nước băng hoại như hiện nay?

(1)
Lần đó, đi cùng với ông bạn thân. Ông này sau đi với Gấu, xuống Ba Xuyên đưa xác thằng em Gấu về Sài Gòn. Lượt về Gấu đi máy bay C.130 cùng cái xác thằng em, trong chiếc quan tài, ngoài gỗ, trong kẽm. Cũng nhờ tài xoay sở của một ông cố vấn Mẽo tại phi trường Sóc Trăng. Thằng em, sĩ quan Thủ Đức, ra trường biệt phái đơn vị địa phương quân lo an ninh phi trường. Ông bạn, nhà giáo bị động viên, đi xe đò trở về Cần Thơ, nhiệm sở của ông lúc đó. Xe của ông thứ nhì. Xe thứ nhất xơi nguyên một trái mìn VC. Gấu có kể qua truyện này một hai lần rồi. Nó làm Gấu nhớ tới câu chuyện Bóng Người Trong Sương Mù của Khái Hưng. Hồi nhỏ, đọc truyện này, Gấu hơi bị ấn tượng [thuổng cách nói của VC], nhưng hóa ra rằng thì là, ông thuổng truyện ngoại quốc. Của tay Langelaan, tác giả một truyện ngắn được coi là kinh dị số một của thế kỷ,
Con Ruồi , đã từng được dịch đăng trên tờ Bách Khoa, Sài Gòn, trước 1975.
Gấu tin rằng thì là, thằng em trai của Gấu, đã xúi ông bạn đừng đi chuyến xe đầu.
Cũng như Gấu đã từng mường tượng ra cái chết của thằng em, ngay từ khi nó bị gọi đi Thủ Đức.
Đúng ra, ngay từ khi Gấu chết hụt ở nhà hàng Mỹ Cảnh.
Như thể, Thần Chết, bắt hụt thằng này, thì tóm thằng kia.
Chính vì vậy mà ông bạn HPA không làm sao đọc ra "cái tầng hầm", của đoạn văn sau đây, bởi thế, ông mới chửi, sao lại có một thằng mê gái thê thảm đến trở thành lố bịch, như mày, hử Gấu?

Gấu cũng đã từng bị lừa, như NTL.
Với NTL, thì ông giả đò bị lừa, còn Gấu, bị lừa thực tình, khi đinh ninh Sến cô nương là tác giả Thiên Sứ.
Hoá ra truyện phóng tác.
Phóng tác, nhìn một cách nào đó, thì cũng là một hình thức đạo văn, nếu cố tình không cho biết nguyên tác.

Giấc ngủ mười năm có thể khiến ta liên tưởng đến chuyện Từ Thức, nhưng tôi muốn so sánh nó với Rip Van Winkle của văn hào Mỹ Washington Irving.
NTL

Chắc chắn là Bác thuổng Irving, vì Bác mê Mẽo lắm, như PXA.
Bác đã từng thuổng Mẽo, để viết bản tuyên ngôn độc lập, không nhớ sao?
Trong số những người làm sống lại nhân vật Rip Van Winkle này, có Koestler.
Trong Bóng đêm giữa ban ngày, có anh tù tên là Rip Van Winkle, suốt ngày lảm nhảm câu “Vùng lên, hỡi những nô lệ ở trên thế gian này”, nhưng do bị công an nện nặng quá, bị mát cái đầu, thay vì “Vùng lên…”, thì là, “Tùng lên…” (1)
Gấu nghi, tay NTL này cũng đang ‘giả đò’ là một Rip!
Hay "thực sự" là?
*
(1)
…. Chiến tranh ngăn chặn quá khứ một quê hương phải rời bỏ, ngăn chặn tương lai, và cùng với nó, tất cả những ước mơ khiến chúng tôi nhìn rõ nỗi thất vọng của nhau, cùng cách thức mà từng đứa lựa chọn để biểu lộ nỗi phiền muộn của mình… Lãng tìm cách tự cứu, tập Yoga, ăn cơm gạo lức muối mè, xa lánh bạn bè, những bức thư của anh thường tận cùng bằng câu, "Bao giờ thì hoà bường?" Không bao giờ anh dùng từ "hoà bình", như sợ hãi, ghê tởm… hoà bường, hoà bường, trong trí tưởng tượng của tôi, người bạn những năm trung học trở thành Rip Van Winkle, nhân vật của Koestler, gã tù nhân khốn khổ suốt ngày lảm nhảm khẩu hiệu ghê gớm nhất thời đại, "Bebout les Damnés de la terre!"; "bebout" thay vì "debout", "Vùng lên hỡi những kẻ trầm luân…" biến thành "Tùng lên, tùng lên…". Còn Vưu đọc đi đọc lại một cuốn sách cũ nát bấy, khi tôi hỏi tìm gì, anh trả lời, "Les pages érotiques" (Những trang khiêu dâm). Tường tự tạo cho mình những cơn khoái lạc, tưởng tượng trên thế gian không còn đàn bà… Chúng tôi không chết vì đã chót sinh ra, đã chót già, nhưng chết vì cuộc chiến không phải do chúng tôi gây nên, và không phải chúng tôi muốn tiếp tục, "Tôi năm nay hai mươi tuổi và không cho phép bất cứ một ai được nói, đó là tuổi đẹp nhất trong đời một người"....
Những ngày ở Sài Gòn
*
NTL là một trong những tay phán nhảm nhất, về đủ thứ trên đời, chỉ vì anh nghĩ là anh có cái khiên chống đỡ những lời chỉ trích, là cái mảnh bằng to tổ bố của anh, những gì gì “khoa cuốc tế, đại học cuốc da’, thí dụ!
GNV, lần về Hà Nội có gặp. Ở ngoài đời thấy có vẻ cũng được, tuy hơi nổ!
Có lần anh viết về bạn anh là nhà phê bình lớn NTS, nhảm quá, Gấu nực, bèn đi một đường sửa sai.
Được cái, không giận, còn gửi mail, cám ơn, và chúc tết.

NTL giống hệt một tay ở hải ngoại, nhưng tay này thì không có cái tính không giận như NTL.
Độc hơn nhiều!
Cũng dựa vào mảnh bằng tiến sĩ gì gì đó, phán tứ lung tung loạn cào cào.
Có một cái blog, và có một bầy đệ tử.
Đọc, có cảm giác, một thứ Mộ Dung Phục, sau khi thất bại giấc mộng hưng quốc, phục quốc, bèn thành lập vương quốc ảo, với một bầy con nít, mỗi lần vua phán là bầy tôi hoan hô, xong, ngửa tay xin kẹo!

Làm gì có thứ văn hóa quyền lực ở Foucault!

Suốt đời Foucault băn khoăn nhiều chuyện, trong có chuyện discours & pouvoir.
Discours: Bản văn viết/văn nói.
Không phải văn hóa, culture.

Theo ông, bất cứ một thứ "đít cua", cho dù hiền hoà cỡ mấy, thì đều ẩn tàng quyền lực, ít, hoặc nhiều.

Nói, ta bắt ngươi phải nói,
Nghe ta bắt ngươi phải nghe,
như Blanchot phán.

Gấu này, trong bài viết từ đời xửa đời xưa, về ‘ông anh của ông ta’ ["anh thì anh"], là Võ Phiến, đã lèm bèm về chuyện này một lần, nhân phải phân biệt hai cõi văn, một, Miền Bắc, một Miền Nam, trong thời chiến tranh, và một nữ văn sĩ ra đi từ Miền Bắc khen nức nở, chú phân tích đúng quá!

Tiện đây, post lại
*
Khi đọc Alain, Võ Phiến không nhìn ra một Weil ở phía sau. Do đó, ông không đọc được Đỗ Long Vân, một người cũng say mê Alain. Cuộc sống ẩn dật, từ chối mọi đặc quyền của Đỗ Long Vân (suốt đời sống ẩn dật, khi bị bắt đi trình diện nhập ngũ đã không trưng bằng cấp, giấy tờ chứng minh giáo sư đại học, bằng lòng làm binh nhì...) có thể bị coi là không bình thường, nhưng chưa trầm trọng như Weil: ngay cả người thân của bà, André Weil, cũng kết luận, tính khí của bà vượt quá mức bình thường. Còn tướng de Gaulle nói thẳng thừng: người đàn bà này khùng.
Đỗ Long Vân, theo tôi, không chọn con đường tự huỷ, có lẽ vì đã đọc, rất mê, và đã từng viết về Kim Dung, và đã nhận ra, chỉ ở trong thế rỗng ruột (hư trúc), mới giải được ván cờ ma quái. Hư Trúc (nhân vật trong chuyện chưởng của Kim Dung) khi đi nước cờ, không hề nghĩ chuyện thua thắng: đấy mới là vấn đề. Võ Phiến khi đọc Zweig, không thấy Dostoevsky, không nhận ra sự thiếu sót của phân tâm học, muốn đơn giản con người như một sinh vật bị bịnh. Theo như tôi được biết Võ Phiến không chịu được những trào lưu "thái quá", không phải chỉ về tư tưởng, mà cả ở trong ngôn ngữ. Có vẻ như ông không chịu nổi thơ dịch. Không chịu nổi Thanh Tâm Tuyền.
Võ Phiến rời Việt Nam ngay 1975, ông không có "cơ hội" ở lại chịu chung với cả miền Nam những cay đắng khổ nhục sau đó. Ở lại là chết, nhưng do bỏ đi "sớm", ông không cảm nhận được nỗi vinh quang và nhục nhằn của kẻ ở lại: một cách nào đó, ông không cảm nhận sự thực, về "thất bại trong chiến thắng", đối với những người Cộng Sản, và do đó ông không "trực giác" cơ hội thống nhất đất nước, không phải theo kiểu chiếm đoạt Miền Nam: chỉ ở trong nhục nhã cay đắng của Miền Nam thất trận, chúng ta mới có thể hiểu những năm tháng ghê rợn cả một miền đất sống dưới tai trời ách nước là chủ nghĩa Cộng Sản; và ôm lấy những đồng bào ruột thịt Miền Bắc.
Đây là một tất yếu lịch sử. Những chuyện Bắc Tiến, giải phóng Miền Bắc, những ngày 1954 chỉ để nói cho vui, để lên tinh thần... tại sao vậy? Bởi vì nếu coi ngôn ngữ mới là căn phần của con người, văn chương Miền Nam không hề mang chất đế quốc, không hề nhắm tới quyền lực. Từ một văn chương như thế làm sao có thể đi xâm chiếm Miền Bắc, cho dù là để giải phóng?
Văn Học Tổng Quan của Võ Phiến, đoạn nói về nhà văn Miền Bắc thoắt chốc vào Nam ra Bắc, dưới những bút hiệu khác nhau, rồi giả dụ Miền Nam cũng làm như vậy, là quá tếu và không hiểu cả hai miền, còn hạ giá (hay quá đề cao?) nhà văn Miền Nam. Bởi vì, văn chương Miền Nam, bản chất của nó, không mắc mớ gì đến tinh thần chiếm đoạt, tranh ăn thua, còn Miền Bắc, vẫn nằm trong dạng khai hoá, vẫn tự coi như là quyền năng chính thống, theo kiểu, cần dậy cho mày một bài học, và phải trả bằng xương máu, bằng đất đai: Đấy là ý nghĩa của nhiệm vụ khai hoá!
Một cách nào đó, nếu chúng ta nhìn ra tương quan dây mơ dễ má, giữa Cách Mạng Pháp, và chủ nghĩa Cộng Sản, cùng lúc chúng ta nhận ra tính thực dân của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa: đây vẫn là một thứ văn chương quyền lực. Nhìn theo cách thế đó, chúng ta còn nhận ra tính giai đoạn của dòng văn chương phản kháng ở trong nước. Nó phải qua đi, để lộ ra con người với ngôn ngữ, những lời nói lành lặn của nó...
"Tại sao ta không thể yêu, những gì chúng yêu, nếu chúng chiếm được cuộc đời, ta đành chọn hư vô", mê cung dành cho nhân vật trong Cát Lầy của Thanh Tâm Tuyền là vậy. Đừng nhìn thơ tự do, dòng văn chương Sáng Tạo, Văn Chương Kinh Nghiệm Hư Vô (Huỳnh Phan Anh), như là một "cái đuôi" của dòng văn chương hiện sinh Pháp. Chúng là những con chim báo bão, cho một hư vô huỷ diệt, của những trại tù sắp tới... Khi bị những nhà phê bình Miền Bắc "tra hỏi" (Trong khi họ xây dựng miền bắc xã hội chủ nghĩa, những nhân vật tôi mọi nô lệ này đi đâu?) tác giả Bếp Lửa đã "nhẹ nhàng" yêu cầu, hãy đặt những câu hỏi đó ra cho chính các ông. Nên nhớ, những nhà văn Miền Nam, những tác phẩm "chống Cộng" của họ chỉ có, khi "bị đòn": Giải khăn sô cho Huế, Địa Ngục Có Thực, Mùa Hè Đỏ Lửa, Vòng Đai Xanh... Ngay cả Võ Phiến cũng vậy; sợ Cộng Sản, sợ mất Miền Nam quá ông mới la làng, còn nhẩn nha được là ông lại nghiên cứu chiều sâu con người, dò tìm cội rễ của một bài chòi!
Chúng ta đã lầm một cách thê thảm, Mac Namara nói vậy, không đúng mà cũng không sai: người lính Việt Nam Cộng Hòa không thua trên chiến trường, mà thua vì tính người: họ chưa bao giờ coi người lính Miền Bắc là kẻ thù tuyệt đối. Họ không hề được trang bị bằng một thứ văn chương quyền lực.
Nhìn theo cách đó, chúng ta mới thấm được những dòng thơ "thiền", giọng điệu cảm khái, tráng sĩ "biên đình" của những Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên... hay những lời ca "đồn anh đóng bên rừng mai, nếu mai nở làm sao biết mùa xuân đã về". Đánh giặc, súng nổ ầm ầm, thần chết hỏi thăm từng giây, từng phút, bất cứ lúc nào, nhưng cứ hở ra được một chút là lại "thiền"! Vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hòa là đúng, chẳng có gì chuế cả, nhưng cố vực họ dậy, giữa vòng dây oan nghiệt của lịch sử là bi thảm hoá một huyền thoại, là tự hài lòng với nỗi bi thảm: nạn nhân của phi nhân.
Thua trận, nhục nhã thật, nhưng thà rằng thua, mà vẫn giữ được "con người"! Làm người lính thiền, chắc chắn là hơn làm đao phủ thiền!
Thi sĩ không bao giờ là nạn nhân (J. Brodsky). Mỗi người lính, như Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên, Khoa Hữu, Cao Thoại Châu, Luân Hoán... là một nhà thơ, người lính bảo vệ ngôn ngữ, và trong khi bảo vệ ngôn ngữ, chống lại những điều dối trá, phi nhân, họ bảo vệ con người.
Nhà văn một kẻ sống sót, là vậy.
VP: Nhà văn BD

Có lần, Foucault giải thích cho một sinh viên:
Quyền lực không phải là cái nghĩa [le sens] của bản văn/nói. Bản văn/nói là một chuỗi những phần tử thao tác ở bên trong một cơ chế tổng quát của quyền lực, le discours est une série d’éléments qui opèrent à l’intérieur du mécanisme général du pouvoir. Hậu quả là, phải coi bản văn/nói như là một chuỗi những biến động, như những biến động chính trị, và qua chúng, quyền lực được chuyên chở và hướng về [véhiculé et orienté].
TV sẽ đi vài đường giới thiệu Foucault, nếu rảnh!

Điều Foucault lèm bèm về liên hệ giữa bản văn và quyền lực, Mít nói ra, một cách thật là giản dị, qua câu chuyện cái lưỡi.
Một bữa ông chủ ra lệnh cho đầy tớ mổ lợn, và phán, mang về cho tao cái ngon nhất.
Ông hầu đem về cái lưỡi.
Lần sau, ra lệnh, cái khốn nạn nhất.
Ông hầu đem về lại cái lưỡi!

Luỡi không xương, nhiều đường lắt léo, là vậy!
Hà, hà!

Thành thử làm gì có thứ văn hóa ‘là’ quyền lực, văn hóa [là] chiến tranh, mà có thứ văn hóa phục vụ chiến tranh, văn hóa xúi người ta đi giết người.


30.4.2010

Si tu lis les premières pages du Manifeste communiste, c'est le plus fameux éloge du capitalisme qu'on ait jamais vu.
Nếu bạn đọc những dòng đầu tiên của Tuyên ngôn CS, thì đó là những dòng vinh danh hiển hách nhất chủ nghĩa tư bản mà người ta đã từng đọc.
Hannh Arendt

Cái cú 30 Tháng Tư 1975, ngay VC thổi nào là những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử…. gì gì đi nữa, cũng chưa xứng với nó!
Dân Mít, Bắc Kít, đúng hơn, được ông Trời cho phép có mặt ở trên cõi đời này, là để có giấc mơ này, và làm sao thực hiện nó.
Chỉ đến khi thực hiện được nó, thì mới hỡi ơi, vì đúng lúc đó, mất nó!

“Nó” liên quan đến cái cực tốt, và cái cực xấu của cái gọi là Bắc Kít.
Cái cực tốt của Bắc Kít tạo ra hình ảnh Thiên Sứ của Sến Cô Nương. Nhờ nó có giống dân Bắc Kít, ở kế ngay tên Đại Hán[g] Gian Ác mà vẫn trường tồn!
Cái cực xấu, là Cái Ác Bắc Kít, tạo ra Lò Cải Tạo!
Tạo ra…  Anus Mundi, mang cái thúi Bắc Kít đi reo rắc cùng khắp thế giới, biến cả thế giới thành bãi đánh hàng, khiến cả thế giới khiếp sợ gọi là họa Hoàng Quỉ.
Và sau cùng hủy diệt giống Mít!

Giống dân nào, được nhân loại nằm mơ, sáng ngủ dậy, biến thành nó: Bắc Kít.
Giống dân nào, ngủ dậy thấy mình biến thành bọ: Bắc Kít!
* 

Một lần, cũng đã lâu, Gấu đi giang hồ vặt, cùng vài bạn văn, tới thăm một ông chưa từng quen biết.
Chủ nhân, ông bạn chưa từng quen biết, là một tay sành rượu. Nhất là rượu bồ đào.
Ông khoe, rượu của ông là từ bên Pháp gửi qua, thứ quí, hiếm, lâu đời. Trong khi chén chủ chén khách, ông cho biết, có một ông bạn [Gấu đoán, chắc là ông ta], rất khoái những bài Tạp Ghi của Gấu, và chưa từng bỏ qua một bài nào [thời gian Gấu giữ mục Tạp Ghi cho báo Văn Học của NMG].
Được khen, khoái quá, mũi phổng quá, Gấu quên cảnh giác, tố thêm, Gấu này thường là đoán ra đoạn chót, không cần phải coi hết một cuốn phim, khi được biết chủ nhân là một tay mê phim, và mê làm phim.
Ông có vẻ bực, thằng khốn này huênh hoang quá, nhưng, nói đến phim nào là nó biết phim đó, hay là thử phim này...
Ông lôi ra một phim, dựa theo một câu chuyện Nhật.
Tuyệt, tuyệt. Gấu tỉnh cả rượu, và xin lỗi chủ nhân, Gấu này chịu thua, không thể nào đoán ra đoạn kết của phim.
*
Sau này, được coi nguyên tác, chuyện anh chàng hôi chi, Gấu mới càng phục tay đạo diễn phim.
Đoạn cuối của phim khác hẳn nguyên tác.
Thần kỳ hơn nhiều.

**

Cái chương chót, hay đúng hơn, cảnh chót, của phim Hoichi cụt tai, chính là cái lễ 30 Tháng Tư đúng ra là phải như thế, thế mới ly kỳ!
Gấu đã đòi phen, tính kể ra, nhưng lại sợ làm bực người chưa coi phim.
[Mày nói mẹ nó ra hết rồi, còn cái đếch gì mà coi nữa! Ui chao, lại nhớ tới ông Trạng Quỳnh và câu chửi của ông, đụ má thằng nào bảo thằng nào!] (1)

Kể ra, một cách nào đó, cũng là một cách tưởng niệm 30 Tháng Tư.
Năm tới chắc gì còn thằng cha Gấu nữa, và biết đâu, nhà nước ta khi đó lại biến giấc mơ của GNV thành hiện thực!

Ui chao đúng là… Ngụy không biết thân Ngụy, đũa mốc đòi mâm son, tiền ít muốn hít đồ thơm….! 

Hay, muộn quá chăng?
Muộn còn hơn không!

(1) Hồi còn con nít đi xem ciné, Gấu có cái tật không làm sao bỏ được, bô bô kể cảnh sắp sửa xẩy ra, vì đã coi rồi, ciné thường trực [permanent] mà, cho tới một lần, bị một ông ngồi phía sau, kéo tai Gấu, xách lên, như xách một con gà, phán, mi mà không câm miệng lại, tao nhét cái NHT nhét vô miệng sĩ phu Bắc Hà bi giờ!


30.4.2010

Đề nghị công nhận Nghĩa trang Quân đội Việt Nam Cộng hoà là Chứng tích Lịch sử Quốc gia
Tạ Chí Đại Trường

Cái chương chót, hay đúng hơn, cảnh chót, của phim Hoichi cụt tai, chính là cái lễ 30 Tháng Tư đúng ra là phải như thế, thế mới ly kỳ!
Gấu đã đòi phen, tính kể ra, nhưng lại sợ làm bực người chưa coi phim.
[Mày nói mẹ nó ra hết rồi, còn cái đếch gì mà coi nữa! Ui chao, lại nhớ tới ông Trạng Quỳnh và câu chửi của ông, đụ má thằng nào bảo thằng nào!]
Kể ra, một cách nào đó, cũng là một cách tưởng niệm 30 Tháng Tư.
Năm tới chắc gì còn thằng cha Gấu nữa, và biết đâu, nhà nước ta khi đó lại biến giấc mơ của GNV thành hiện thực!
*
Gấu bật mí thêm một nấc nữa: Cái xen chót, có tí liên quan tới đề nghị của TCDT, trên!

'It's a problem people have had to come to terms with at different times in history: what do you do in a period of defeat?'
Khi Miền Nam thất trận, bạn làm gì?

Khi Miền Nam thất trận, GNV đi tù, và nhờ đi tù, Gấu khám phá ra Miền Nam, và đó là thời gian tuyệt vời nhất trong đời Gấu, chán thế. Đành phải cám ơn VC một phát!

Trước 1975, Gấu chưa từng đi ra khỏi Sài Gòn, theo cái nghĩa bị đánh bật ra khỏi nó, sống cái đời tù nắng mưa mưa nắng trên các nông trường cải tạo, nào Phạm Văn Cội Củ Chi, nào Đỗ Hoà, Nhà Bè, nhờ vậy mà tìm lại được cuộc sống, hòa mình vào được với cuộc sống. Nhờ một bạn văn ở trong nước, Gấu mới đây được đọc lại một số bài viết trước 1975, và bồi hồi sống lại những ngày ở Sài Gòn, ban ngày cầy hai job, quanh quẩn với công việc, tối về đọc sách, nghe súng, nghe bom nổ đâu đó, và tưởng tượng ra cuộc chiến ở bên ngoài cuộc đời của mình, và nếu có ảnh hưởng tới nó, thì chỉ là nỗi sợ.

Ra hải ngoại, đọc Brodsky viết về những ngày tù của ông tại Hắc Hải, và tâm sự của ông những ngày đó, cũng có phần giống GNV. Ông cũng bị tống đi tù vì là thành phần ăn bám, có hại cho đất nước, cho nhân dân, ông cũng tìm ra hạnh phúc trong khi đi tù, khi bị đánh bật ra khỏi thành phố quê hương của ông là St. Petersburg:

Khi được hỏi ông nghĩ gì về những năm tháng tù đầy, Brodsky nói cuối cùng ông đã vui với nó. Ông vui với việc đi giầy ủng và làm việc trong một nông trại tập thể, vui với chuyện đào xới. Biết rằng mọi người suốt nước Nga hiện cũng đang đào xới "cứt đái", ông cảm thấy cái gọi là tình tự dân tộc, tình máu mủ.
Tôi hết còn tin vào nơi chốn ấy
*
Cái cuộc chiến vừa qua, ngay đám Bắc Kít, thì cũng chưa có một tên nào nhìn ra cái đẹp thần sầu của nó. Cái đẹp thần sầu này là kết tinh của tất cả những gì làm nên con người Mít, và khiến cho giống dân này còn trường tồn cho đến ngày này, trong khi nhiều giống dân bảnh hơn nó, tạo ra những nền văn minh hiển hách hơn nhiều cái thứ văn minh sông Hồng, vậy mà cũng chìm vào quên lãng.
Chính cái làm cho nó không bị tiêu diệt, đến đúng ngày 30 Tháng Tư, trở thành cái tiêu diệt nó, hai mặt của một đồng tiền, là vậy.

Moi, je traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.

Gấu cũng có thể nói như thế [Bảnh thật!]: Tớ mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải chúng!

Gấu đọc ba cái “nhìn lại cuộc chiến” của chúng là thấy tởm, là vậy!

30.4.2010

Old dogs have more dignity
Comfort them since you pity them
Chó già giữ giá
An ủi chúng, kể từ khi cám cảnh chúng.
Beckett: Waiting for Godot (1)

Giả như sau 30 Tháng Tư 1975, chúng ta có cái nhà Mít đàng hoàng, thì không thể nào có những tác phẩm như Ba Người Khác của Tô Hoài, Đi tìm cái tôi đã mất của Nguyễn Khải, Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, hồi ký Tô Hải…
Chính nỗi thất vọng sau 1975, về đất nước, khiến những tác giả đó phải nhìn lại đời của họ, và đều nhận ra một điều, họ đều đã phải chịu nhục, chịu khổ, chịu hèn.. với một điều kiện: giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước cùng xúm nhau lại xây cái nhà Mít.
Old dogs have more dignity, chó già giữ giá, có nhiều phẩm giá..  là theo nghĩa đó.
Chính cái sự thú nhận tôi là thằng hèn, là "dignity" của họ!
Thành thử chúng ta không thể có một thái độ nào khác, mà là:
Comfort them, since you pity them.
[Trong them, có us. NQT]
(1) Mấy câu trên, là từ nhật ký của Gấu, những ngày ở trại tị nạn Thái Lan, 1989-1994.
Mấy câu trong nhật ký những ngày đầu đến Xứ Lạnh, liên quan tới dignity:
The ideal death takes place amid loved ones
The greatest dignity to be found in death is the dignity of the life that preceded it
Hope resides in the meaning of what our lives have been.
Ba câu trên đều nói về cái nhà Mít sau chiến tranh:
Cái chết lý tưởng là chết giữa những người thân thương.
Phẩm giá lớn lao nhất kiếm thấy được ở trong cái chết là phẩm giá cuộc đời trước khi cái chết xẩy ra.
[Đường ra trận mùa này đẹp lắm?]
Hy vọng thì nằm ở trong ý nghĩa cuộc sống của chúng ta.
*
Quái thật, không lẽ lúc nào Gấu cũng bị cuộc chiến nó hành, chỉ trừ những lúc nghĩ đến một BHD, hay một cô bạn, hay một cô học trò?
To have seen nothing or almost nothing except the face of a girl from Buenos Aires, a face that doesn't want you to remember.
Borges: Labyrinths Epilogue
Chẳng thèm nhìn ai, ngoại trừ khuôn mặt BHD, và cô nói, ta cấm mi không được nhớ tới ta.
*
V/v trong "them" có "us".
Cái phẩm giá mà Miền Nam có được, là khi đi tù VC, đi tù cải tạo!
Cái phẩm giá mà VC có được, là ở trong những hồi ký, những tự vấn, như của Tô Hải.
Có người đặt vấn đề, tại sao cuối đời, họ mới dám nói ra? Tại sao Víp Va Ka hấp hối mới dám xì ra "một triệu người vui nhưng cũng có một triệu người buồn"? Tại sao "Thượng đế thì cười" với Nguyễn Khải, khi ông sắp sửa đi, tại sao bánh vẽ Chế Lan Viên....?
Ấy là vì cái chiến thắng đỉnh cao tuyệt vời quá. Không dễ gì mà thoát ra khỏi cái bóng của nó đổ xuống cả nửa hậu thế kỷ!
Và còn kéo dài qua tân thế kỷ!
Đúng như Trần Văn Toàn phán, về Hegel: Cái bóng của Hegel phủ kín Marx, và còn kéo dài ra mãi!
Chúng ta sở dĩ để mất Miền Nam vì nghĩ lầm, tưởng bở, anh Yankee mũi tẹt tốt hơn anh mũi lõ, một nưóc Mít thống nhất hơn hai nửa nước Mít, thành thử để cái bóng của Marx phủ quá xuống cả Đàng Trong!
NKTV 


Tôi tin rằng, có một sự huỷ diệt Miền Nam. Chiến thắng của Miền Bắc đã huỷ diệt nếp sống nhân bản hài hòa của Miền Nam.
Sự huỷ diệt còn được đám VC miệt vuờn hỗ trợ, ăn theo. Những cuộc biểu tình đòi đất của đồng bào Miền Nam như đang xẩy ra, sự nghèo khổ đến tận cùng, phải bán con, qua những vụ lấy chồng người nước ngoài, bán cả con nít qua nước láng giềng...  đó là những bằng chứng hiển nhiên của tội ác huỷ diệt.
Khủng khiếp hơn cả, là sự huỷ diệt niềm tin, vào người anh em ruột thịt Miền Bắc.
*
Khi nào văn chương trong nước dám đụng vô những chuyện như trên, về "Trái tim của bóng đen" [Hà Nội], về Khải Huyền Dối Trá [Giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước], về Con Bọ [hiện tượng Chúa Sẩy Thai], thì lúc đó, mới có thể nói đến phê bình văn học.

Theo nghĩa trên, Steiner đã từng phán về Lukacs: Vào thời của ông, thật khó mà làm, một phê bình gia. Bởi vì, đúng như đồng chí Nguyễn Văn Linh đã từng nói, có quá nhiều việc khẩn cấp cần phải làm ngay.
*
GEORG LUKACS AND HIS DEVIL'S PACT

In the twentieth century it is not easy for an honest man to be a literary critic. There are so many more urgent things to be done. Criticism is an adjunct....
.... Lukacs has always held himself responsible to history. This has enabled him to produce a body of critical and philosophic work intensely expressive of the cruel and serious spirit of the age.  Whether or not we share his beliefs, there can be no doubt that he has given to the minor Muse of criticism a notable dignity. His late years of solitude and recurrent danger only emphasize what I observed the outset: in the twentieth century it is not easy for an honest man be a literary critic.
But then, it never was.
G. Steiner: Georg Lukacs và tờ hợp đồng với quỉ

Vào thế kỷ 20 thật khó mà là một phê bình gia nếu là một người lương thiện.
Và, quả như thế thực!
NKTV


*

****

*

TV sưu tầm

Đọc mấy bài dưới đây:
Rồi đọc tờ báo Tây, viết về xã hội bên Tây.

Andrew Lam
Ba mươi lăm năm sau cuộc chiến, câu chuyện của Việt Nam là sự phản bội

And even Ho Chi Minh, father of Vietnam’s Communism, it turned out, wasn’t safe from betrayal either. According to a few in Vietnam who knew the inner working of the party, Uncle Ho apparently spent the last few years of his life under house arrest, his lover murdered and children taken away from him. It is what the novelist Duong Thu Huong, now living in exile, wrote about in her latest book, “Au Zénith,” a novel based on the unofficial history of Ho Chi Minh’s last years. Huong herself knew betrayal intimately. Once a member of the youth brigade in the Communist movement, she later was under house arrest for her books criticizing Communism, especially in “Paradise of the Blind.” Government officials called her “traitor slut.”
[Và ngay cả Hồ Chí Minh, người cha của Chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam, hoá ra cũng không thoát khỏi sự phản bội. Theo một số ít người Việt hiểu biết nội tình của đảng, Bác Hồ đã trải qua những năm cuối của đời mình trong cảnh bị quản thúc tại gia, người yêu của ông bị giết chết và con cái bị lấy đi. Đấy là những gì tiểu thuyết gia Dương Thu Hương, hiện sống lưu vong đã viết trong cuốn sách mới nhất của bà là "Đỉnh cao chói lọi", một tiểu thuyết dựa trên lịch sử (2) không chính thức về những năm cuối đời của Hồ Chí Minh. Bản thân bà Hương nếm mùi bị phản bội một cách sâu đậm (1). Từng là đoàn viên thanh niên trong phong trào Cộng sản, về sau bà bị quản thúc tại gia vì những cuốn sách phê phán Cộng sản, đặc biệt là cuốn "Những thiên đường mù." Các quan chức chính quyền gọi bà là "con mẹ phản quốc."]

(1)
Từ "intimately", “mật thiết”, dịch là "sâu đậm" thì không ra ý của tác giả.
Phải làm sao kiếm ra một từ diễn cảnh phòng the, mà bị bội phản, mới ra cái ý
"Huong herself knew betrayal intimately"!
Mít ta có một "hình ảnh", áp dụng vô đây hết sẩy con cào cào: Trao duyên lầm tướng cướp.
Đúng là trường hợp DTH. Ngay từ thời còn con gái, là đã một lòng một dạ theo Đảng. Rồi bị Đảng lừa, ngay đúng đêm động phòng, thế mới hết ý "betrayal intimately"!
Còn Bác Hồ, ngoài chuyện bị bội phản, còn mắc đòn gậy ông đập lưng ông: Suốt đời Bác tự khoe một lòng một dạ với dân, đến không màng chuyện trai gái, thành ra há miệng mắc quai, đành để chúng làm thịt vợ, lấy mất đứa con, không cho gặp mặt bố.
(2)
history, ở đây, nên dịch là “tiểu sử”, của Bác. Dịch "lịch sử", sợ hiểu sai đi, thành lịch sử nước Mít, thì bỏ mẹ cả lũ Mít chúng ta!

Cái tít bài viết, nguyên tác tiếng Anh mạnh hơn nhiều, so với cái tít tiếng Việt: 35 năm sau cuộc chiến, phản bội là câu chuyện của Việt Nam; Thirty Five Years After The War, Betrayal is Vietnam's Story.
*

Intimate:
-thân mật, mật thiết, thân tính, quen thuộc
-riêng tư, riêng biệt; ấm cúng
-chung chăn chung gối; gian dâm, thông dâm
-(thuộc) bản chất; (thuộc) ý nghĩ tình cảm sâu sắc nhất; sâu sắc (lòng tin...)

Từ điển trên net

*\

LUXE OU LUXURE? Alcool, sexe et drogue font souvent partie des soirées de la Côte d'Azur (ici, au VIP Room, à SaintTropez). Une consommation mondaine difficile à quantifier.

L’Express, 12-18 Mai, 2010: Les folies des milliardaires


Cận cảnh chuyện ăn chơi của các thiếu gia Sài thành
May 20, 2010

Việt Nam trong thì hiện tại là một Việt Nam ở phía cuối của xã hội không tưởng của Orwell, như được miêu tả một cách châm biếm trong Trại Súc Vật, nơi mà "mọi súc vật đều bình đẳng nhưng một số súc vật thì bình đẳng hơn những con khác."
Andrew Lam [Bài đã dẫn]

Tờ Asia Literary Review, [Đọc văn Á châu] số mới nhất, có bài viết của Andrew Lam, Love your Parents, Follow Your Bliss, kể câu chuyện ông chọn viết văn thay vì làm y sĩ, ngược lại ý muốn của cha mẹ, và một số bài dành cho Miến điện.

Bài xã luận, Editor’s Notes, viết:
Rangoon, người ta nói, Orwell viết câu chuyện của Miến điện trong ba cuốn tiểu thuyết, không phải một, và họ gọi ông là Nhà Tiên Tri. Những ngày Miến, Burmese Days, là câu chuyện quá khứ thực dân thuộc địa của Miến, Trại Loài Vật, Animal Farm, những năm khủng khiếp dưới chế độ độc tài của tướng Ne Win, và 1984: Ác mộng ngày hôm nay, tạm dịch cụm từ “the soulless dystopia of today”.

GNV lèm bèm hoài về con bọ VC, thì cũng là để nói về “the soulless dystopia of today”!

30.4.2010

Phim Thái Lan giành giải Cành cọ vàng

Đề tài phim 'cũng' liên quan tới Lễ Tưởng Niệm 30 Tháng Tư năm tới!
Hiện giờ chúng ta có 3 “mấu chốt”, clues, để tiên đoán lễ tưởng niệm 30 Tháng Tư 2011, nếu đúng như sự tưởng tượng của GNV:
1. Phim Chàng Hôi Chi Cụt Tai [cú thần kỳ chót phim]
2. Đề nghị của Tạ Chí Đại Trường liên quan tới mồ mả lính Ngụy.
3. Phim Thái Lan mới ẵm giải Cọ Vàng, và đề tài của nó [The director thanked "all the spirits and all the ghosts in Thailand. They made it possible for me to be here."]
"bố lếu bố láo một cách thật là tuyệt vời", wonderfully eccentric, chữ của tờ L.A. Times, sẽ là ý nghĩa của lễ tưởng niệm 30 Tháng Tư 2011!

It was a great night for a guy named Joe, as Apichatpong Weerasethakul's "Uncle Boonmee Who Can Recall His Past Lives," a film as wonderfully eccentric as it sounds, won the Palme d'Or at the 63rd Festival des Cannes.
Thai director Weerasethakul, who tells people to call him Joe because of the difficulty Westerners have pronouncing his name, has made a one-of-a-kind dreamy ghost story about a man who is on speaking terms with all manner of supernatural beings.
"This is like another world for me. This is surreal," the director said on accepting the prize at the Palais des Festivals on Sunday night.
After telling jury president Tim Burton, "I really like your hairstyle," he thanked "all the spirits and all the ghosts in Thailand. They made it possible for me to be here."
Source
*

Truyện chàng Hôichi cụt tai

Nguyên tác :  Hirai Teiichi dịch Lafcadio Hearn (từ Anh ra Nhật)
Người dịch   :  Nguyễn Nam Trân (từ tiếng Nhật)

Vài trăm năm trước ở vùng Akamagaseki có một chàng mù tên gọi Hôichi (Phương Nhất). Hôichi nổi danh về tài đánh tì bà và hát theo điệu đàn. Cái tài đánh đàn kể truyện anh chàng vốn có từ ngày còn bé. Khi hãy còn là một gã thiếu niên, tài chàng đã vượt cả thầy học. Chả thế mà mấy chốc Hôichi đã trở thành nhạc sư tì bà, sở trường về khúc "Truyện hai nhà Minamoto-Taira tranh hùng (1). Người ta bảo khi Hôichi chơi đến đoạn nói về cảnh thủy chiến ở Dan no Ura thì não nùng ai oán đến "quỉ thần cũng phải cảm thương nhỏ lệ".
Lúc Hôichi chưa có danh chi, chàng ta rất nghèo. May nhờ có một người tri kỷ nâng đỡ anh. Người ấy là hòa thượng trụ trì chùa A Di Đà, một nhà tu hành tinh thông cả thi ca âm luật, lâu lâu vẫn gọi Hôichi đến chùa đánh tì bà cho cụ nghe. Hòa thượng thấy chàng trẻ tuổi tài cao, thường mến muốn giúp đỡ đến độ mời chàng đến trọ hẳn. Hôichi cảm lòng tốt của cụ, bèn nhận lời. Từ đó, Hôichi vào ở hẳn một gian hậu liêu. Cảm cái ơn cho nơi ăn chốn ở, hễ đêm nào không có khách mời chơi đàn, Hôichi vác tì bà đến đánh để hòa thượng giải sầu, và như thế thành lệ.
Chuyện xảy ra vào một buổi chiều mùa hạ. Hôm đó, một đàn việt có tang ma, sư cụ phải đi đọc kinh suốt đêm, mấy chú tiểu chú điệu đều tháp tùng. Hôichi ở lại canh chùa một mình. Trời nóng hầm, Hôichi lò mò ra ngoài hàng hiên trước phòng ngủ để kiếm chút hơi mát. Hàng hiên này nhìn ra khu vườn nhỏ phía sau chùa. Hôichi ra ngồi đây với ý định chờ sư cụ về nhưng ngồi một mình mãi không làm gì cũng buồn, chàng mới bắt đầu dạo một khúc tì bà. Quá nửa đêm mà sư cụ vẫn chưa về. Hôichi dợm vào phòng nằm duỗi tay chân một chút thì thấy không khí trong phòng hãy còn nóng, chàng ta mới ra ngoài lại. Vừa trở ra, Hôichi bỗng nghe tiếng chân người từ cánh cổng sau tiến lại gần. Ai đó đi xuyên qua cảnh vườn con, tiến về phía hàng hiên. Đang phỏng đoán như thế thì chàng ta thấy bước chân kia đã tới sát trước mặt mình, đứng sựng lại. Nhưng người đó không phải là hòa thượng. Một giọng to, khỏe cất lên gọi tên chàng mù. Giọng trịch thượng, kẻ cả như giọng samurai gay gắt gọi người dưới:
- Hôichi!
Hôichi quá kinh hoàng đến độ trong một chốc không cất thành tiếng. Giọng nói kia lại như ra lệnh:
- Hôichi!
- Thưa vâng!
Chàng mù lí nhí trả lời chả bù với giọng nói nhanh như gió cuốn của người lạ. "Thưa tôi mù loà, không thấy đường. Vị nào đang gọi tôi đấy ạ..."
- Ngươi chớ sợ.
Giọng nói bỗng có phần dịu lại, người lạ tiếp lời: "Ta nhân đóng quân ở gần vùng này, có việc mới ghé qua đây. Chủ quân của ta là bậc cao quí, xưa vẫn ra vào chỗ cung cấm. Nay bề trên và đoàn tuỳ tùng của ngài ghé trọ qua đêm ở vùng Akamagaseki này, biết đến trận quyết chiến ở Dan no Ura nên ghé vãng cảnh. Bề trên nghe đồn tài kể chuyện của ngươi rất cao diệu, ngài muốn nghe một khúc. Vậy ngươi hãy mau mau lấy đàn theo ta đến chỗ dừng chân của các bậc tôn quí. Các vị ấy đang chờ ngươi đó!"
Thời ấy, samurai đã ra lệnh thì mọi người phải răm rắp tuân theo. Hôichi vội vội vàng vàng xỏ dép, vác đàn, đi theo người lạ. Người vũ sĩ nắm tay Hôichi một cách gọn gàng, kéo chàng ta đi nhanh như tên bắn. Bàn tay người lạ rắn như thép nguội, mỗi bước đi, bên sườn có tiếng lách cách như thể đang mang giáp trụ. Có lẽ người lạ là vũ sĩ cận vệ của một nhà quyền thế nào đó. Cái sợ hãi buổi đầu đã bớt dần. Hôichi điềm tĩnh trở lại và trong lòng bắt đầu rộn lên một niềm hãnh diện. Bởi vì anh chàng nhớ ra lúc nãy người lạ có nhắc đến mấy chữ "một bậc cao quí ngày xưa vốn ra vào chỗ cung cấm", như vậy tài đàn của mình đã lọt đến tai một bực đệ nhất công hầu nào rồi. Vừa nghĩ đến đó thì người vũ sĩ bỗng dừng bước. Hôichi lắng tai nghe và có cảm tưởng hai người đang đứng trước một cánh cổng lớn. Ở chốn xa thành thị phố xá như thế này, ngoài chùa A Di Đà chắc không làm sao có một cái cổng lớn cỡ này. Hôichi đang nghi hoặc thì tùy giả đã cất tiếng dõng dạc:
- Khai môn!
Không phải đợi lâu, có tiếng song hồng mở nặng nề, hai người đã bước vào bên trong cửa. Đi qua khỏi một khu đình viên khá rộng, cả hai đến một cánh cửa khác. Dừng chân ở đó, tuỳ giả lại hô lớn:"Có ai trong đó không, xin được bẩm đã đem Hôichi về đến đây rồi". Nói xong, có tiếng chân người từ bên trong đi ra, lại có tiếng vách giấy mở ra, tiếng rèm cửa cuốn lên, giọng đàn bà con gái xì xào. Nghe họ trò chuyện với nhau, Hôichi thầm nghĩ những người này phải là bọn thị tỳ trong một phủ đệ. Chàng mù đâm ra lo lắng không biết người ta sẽ dắt mình đi đâu. Chưa kịp nghĩ ngợi gì, có người đã đưa tay dắt chàng ta đi lên năm sáu bậc thang. Đến bậc cao nhất, có lệnh phải cởi dép. Bàn tay đàn bà lại tiếp tục dắt Hôichi đi qua những khu hành lang lát gỗ nhẵn thín và dài tưởng chừng bất tận. Chàng mù rẽ quặt không biết bao nhiêu lần ngõ ngách, cột trụ, xuyên qua mấy gian phòng trải chiếu rộng thênh thang trước khi được đưa vào trong một gian đại điện. Hôichi nghĩ ôi chao, đại điện này hẳn là nơi tụ tập các vị tôn quí vì hắn nghe tiếng vạt áo lụa chạm nhau sột soạt như tiếng lá trong rừng xao động, tiếng người đông đảo đang trò chuyện với nhau. Họ đang thì thầm những gì, Hôichi không hiểu rõ nhưng ngôn từ họ dùng là của nơi gác tía lầu son.
Hôichi được lệnh cứ tự nhiên. Người ta bày trước mặt chàng một tấm nệm tròn, mềm mại và bảo ngồi lên. Hôichi đang nắn lại giây đàn thì một giọng đàn bà đã cất lên, dường như tiếng của lão chủ quản trong cung:
- Mi hãy so dây, bắt đầu dạo khúc "Truyện Heike" cho bề trên thưởng thức đi. Nhưng nếu bà ta chỉ nói chừng đó thì Hôichi không biết phải bắt đầu từ đâu. Truyện nhà Taira dài lắm, kể biết mấy đêm mới xong. Hôichi mới đánh bạo:
- Dám thưa Truyện Heike khá dài, một buổi không sao kể hết. Chẳng hay bề trên muốn nghe đoạn nào?
Hỏi đến đây thì giọng lão bà lại trả lời:
- Hãy kể cho ngài nghe đoạn quyết chiến ở Dan no Ura. Trong cả một Truyện Heike, đoạn này nghe buồn thấm thía nhất đấy.
Hôichi bèn từ từ cất giọng, kể lớp nói về trận thủy chiến khủng khiếp. Tiếng đàn khéo làm sống lại nào là tiếng mái chèo quạt nước, tiếng đoàn thuyền lao lên xung trận, tiếng tên bay xé gió, tiếng chân rầm rập xen với tiếng quân reo hò, tiếng đao kiếm giáp trụ chạm vào nhau soang soảng, tiếng người bị đâm ngã ùm xuống nước. Trong lúc Hôichi đang ra sức trình tấu, chung quanh người nghe đã bắt đầu xuýt xoa tán thưởng. "Làm sao lại có tay đàn tuyệt vời như thế nhỉ" , "Ngay ở kinh đô, cũng chưa nghe ai đánh hay đến vậy", "Dưới gầm trời này, hỏi ai hơn được Hôichi!", bao nhiêu lời khen tặng lọt vào lỗ tai chàng mù. Trong lòng Hôichi rộn một niềm tự hào, chàng lại ra sức đàn hát. Tán thưởng tưởng còn như không dứt thì chung quanh bỗng nhiên trở lại im lặng như tờ. Lúc ấy, khúc đàn đã tiến dần đến đoạn tả thảm cảnh nhà Taira, một đoàn người đẹp, trẻ thơ, bỗng nhiên gặp cảnh tuyệt mệnh, thương tâm, nhất là cảnh hai bà phi bồng ấu chúa trầm mình dưới giòng nước bạc. Người nghe ai nấy ngậm ngùi thở dài, chợt nổi lên đâu đây tiếng nấc tức tưởi nghẹn ngào rồi tiếng khóc oà vang. Tiếng khóc vỡ ra như không cầm lại được, chính Hôichi cũng phải ngạc nhiên không ngờ mình đã động mối thương tâm của người nghe đến thế. Tiếng khóc kéo dài một hồi lâu rồi như vơi đi, bốn bề bỗng yên tĩnh trở lại. Trong cái im lặng đó, giọng bà lão lại cất lên:
- Người đàn như thế thật trên đời có một không hai. Đã đành từng nghe tiếng người đồn dãi nhưng hôm nay xem mi trổ tài mới biết lời đồn kia còn thua sự thật. Đức vương thượng rất hài lòng. Ngài còn giáng chỉ cho chúng ta bảo phải ban cho mi nhiều tặng vật để thưởng công. Vậy kể từ đêm nay, trong suốt sáu đêm, mỗi đêm ngươi phải tới đây đánh đàn tiếp cho chúng ta nghe. Nếu đức ngài không phải lên đường thượng kinh gấp, thì ngày mai, cũng vào giờ khắc này, sẽ có người gọi mi tới dinh nầy. Kẻ dẫn đường cho mi hôm nay ngày mai sẽ đến đón. Ta chỉ có một điều căn dặn ngươi là chuyện bề trên ngự đến vùng Akamagaseki này, ngươi không được hé môi cho ai. Đức Ngài vi hành tới vùng này nên không muốn trong hay ngoài biết. Hôm nay như thế là xong, ngươi có thể lui về chùa được rồi.
Hôichi rạp mình chào xong, bàn tay thị nữ lại dắt chàng ta ra tận cửa, ở đó, người tùy giả lúc nãy đã đợi để đưa hắn về chùa. Vũ sĩ đưa Hôichi trở lại mái hiên chùa, rồi từ giã quay về. Lúc Hôichi trở lại chùa trời đã sáng bạch nhưng việc anh ta qua đêm ở ngoài, chẳng có ai để ý. Hòa thượng coi bộ đêm đó về khuya lắm, tưởng là chàng mù đã đi ngủ từ lâu nên chẳng bận tâm. Sáng hôm sau, Hôichi có nằm nướng một chút lấy sức nhưng cái chuyện kỳ lạ đêm qua, anh ta không để lọt ra ngoài một tiếng. Nửa đêm hôm đó, người vũ sĩ lại đến tìm Hôichi đi trình tấu ở chỗ các bậc tôn quí hội họp, và cũng như đêm trước, chàng thu lượm được muôn ngàn lời tán tụng. Tuy nhiên, trong lúc Hôichi đi đánh đàn, ở chùa người ta bỗng phát giác sự vắng mặt của chàng mù. Khi về chùa lúc hừng sáng, chàng ta được gọi đến trước mặt sư cụ. Sư cụ không bằng lòng chút nào, luôn miệng trách mắng:
- Hôichi, ta nói điều này chỉ vì ta lo cho ngươi thôi. Đã mù lòa, một thân một mình mà bỏ chùa đi đâu suốt đêm đến sáng. Thật không có gì nguy hiểm hơn. Nếu có đi đâu sao không bảo tụi nhỏ đứa nào nó dắt đi mà tự ý đi một mình như vậy. Thế chớ đến nay, người đã đi những đâu?
- Bạch sư cụ thứ lỗi cho con. Chỉ vì con có chút việc riêng mà ban ngày ban mặt không thu xếp xong phải kéo đến tối đấy ạ.
Hòa thượng coi mòi Hôichi không chịu nói thực, cụ không bực mình mà chỉ ngạc nhiên. Đây là chuyện không bình thường chút nào, hẳn có lý do chi đây. Hoặc giả chàng mù này đang gặp chuyện gì chẳng lành, bị ai lừa lọc gì chăng. Lo thì lo nhưng hỏi thêm không tiện, hoà thượng chỉ còn biết ra lệnh cho mấy điệu phải trông chừng nhất cử nhất động của chàng mù. Hễ mà đến đêm Hôichi còn bỏ chùa đi đâu nữa thì phải tức tốc theo dõi.
Đêm ấy, khi Hôichi vừa ra khỏi chùa thì đã có người biết. Mấy chú tiểu chú điệu liền xách lồng đèn theo dấu anh chàng. Thế nhưng trời đang mưa, đường tối mịt. Bọn nhà chùa vừa ra tới ngõ lớn thì đã hút mất bóng Hôichi. Làm như thể Hôichi có chuyện phải nhanh chân đi gấp. Không thấy đường mà đi được nhanh như thế thật có trời mới hiểu, nhất là đường sá gập ghềnh. Bọn nhà chùa bèn thử xuống dưới xóm, đến những nhà Hôichi quen biết xem hắn ta có ghé đó không. Họ điểm từng nhà hỏi thăm, không sót đâu cả thế mà chẳng ai rõ tung tích chàng mù. Lúc không còn biết đi đâu mới theo ven bãi lui gót trở lại chùa thì họ chợt hoảng kinh. Trong khu nghĩa địa chùa A Di Đà, bổng văng vẳng tiếng tì bà dồn dập. Phía khu mộ địa tối om vẫn chập chờn đôi ba ánh lửa ma trơi như mọi hôm. Theo ánh lửa đèn lồng, bọn trai trẻ nhà chùa rốt cục tìm ra Hôichi trong nghĩa địa. Giữa cơn mưa tầm tã, Hôichi đang ngồi thẳng lưng trước lăng Thiên Hoàng Antoku, tay đàn miệng hát, dáng điệu đau đớn thiết tha, kể sự tích cuộc tranh chiến ở Dan no Ura. Chung quanh Hôichi toàn là bia, là mộ, ngổn ngang gò đống, và trên đó, hàng hàng lớp lớp những ngọn lửa quỉ lạnh lẽo chập chờn. Từ trước đến giờ, chắc chắn chưa có ai thấy một nơi nào mà ma trơi tụ tập nhiều như ở đây.
- Chú Hôichi ơi, chú ơi!
Bọn trai trẻ gào lên. "Chú Hôichi ơi, ma nó ám chú rồi!"
Chàng mù như không đếm xỉa gì đến lời nói đó. Không những thế, chàng ta càng mạnh tay đàn, cao giọng hát, dồn hết tâm lực như kể truyện trận quyết chiến Dan no Ura. Bọn nhà chùa nắm vai Hoichi, lay lấy lay để và nói như thét vào tai :"Chú Hôichi, chú Hôichi ơi, theo bọn tôi về chùa thôi!" Bỗng lúc đó, Hôichi quay lại chúng, nói như mắng:
- Trước mặt bậc cao quí như thế này mà chúng mày dám ồn ào. Coi chừng mất đầu đấy nhé!
Lời nói chẳng ăn nhập gì đâu vào đâu làm bọn trai trẻ nhà chùa không khỏi phì cười. Đã đến mức này thì họ biết Hôichi gặp đúng của gì rồi. Họ bèn hè nhau dùng sức kéo Hôichi dậy và bốc hắn về chùa. Theo lời dạy của sư cụ, họ thay quần áo khô và cho hắn ăn hắn uống. Thế rồi hòa thượng giục Hôichi phải tường trình về hành vi lạ lùng của hắn.
Ban đầu, Hôichi còn trù trừ không muốn nói nhưng cuối cùng, nghĩ đến sư cụ xưa nay vẫn chu đáo với mình, mà mình lại làm phiền, mới đem tình thực giãi bày. Từ chuyện người samurai nửa đêm đến tìm mình cho đến những chuyện gì đã xảy ra từ đó đến nay, đều thuật lại cho nhà sư.
Hòa thượng lúc đó mới nói:"Hôichi, thật tội nghiệp cho ngươi. Ngươi đang gặp nạn lớn đấy. Khổ nỗi là ngươi không chịu kể cho ta chuyện này sớm hơn. Trăm điều nguy khốn xảy đến cho ngươi cũng vì do cái tài đánh đàn tì bà. Tuy nhiên, lúc này ngươi phải tỉnh táo để tìm cách chấm dứt cơ sự này. Mấy đêm nay ngươi chẳng đi đánh đàn ở nhà ai cả, chỉ ra ngồi ở khu mả họ Taira trong nghĩa trang nhà chùa đó thôi. Thật ra, hồi hôm, bọn nhỏ nó tìm ra ngươi giữa đêm mưa trước lăng thiên hoàng Antoku đấy. Có thể là ma dẫn lối quỉ đưa đường cho ngươi nhưng những gì ngươi đã gặp đều là huyễn ảnh thôi. Một khi đã nghe lời ma quỉ thì chúng sẽ trói buộc ngươi mãi mãi. Nay đã đến tình cảnh này chỉ còn có cách không bao giờ chịu nghe theo chúng nữa, nếu không có ngày chúng phanh thây. Thật đấy, chẳng chóng thì chầy chúng sẽ giết ngươi thôi... Mà này, Hôichi, hôm nay lại có đàn việt mời đi cầu siêu suốt đêm, bắt buộc ta phải rời chùa, không thể ở bên ngươi được. Dầu sao, trước khi đi ta cũng sẽ viết kinh lên trên người để làm bùa hộ mạng cho ngươi.
Trước khi tắt nắng, hòa thượng bảo Hôichi phơi trần ra rồi cùng tăng sĩ trông việc sổ sách kho đụn, cả hai lấy bút lông xúm lại viết kinh lên người chàng mù. Từ ngực đến lưng, cả trên đầu, trên mặt, tay chân, cùi chỏ... ngay cả gan bàn chân cũng được chép đầy Ban Nhược Tâm Kinh, coi như toàn thân không thiếu chỗ nào. Chép kinh xong, hòa thượng mới ôn tồn:
- Đêm nay, khi ta đi xong, ngươi nhớ ra ngồi chỗ hàng hiên hậu liêu mà chờ. Tất nhiên ma kia sẽ đến đón. Thế nhưng dù có chuyện gì xảy ra chăng nữa, nhất thiết ngươi không được trả lời, không được động đậy. Cứ câm như hến, ngồi đấy thiền định theo phép Tam Muội, chuyên tâm vô niệm cho ta. Hễ ngươi rục rịch hay mở mồm là ngươi tới số đó nhé. Nói vậy chứ ngươi đừng sợ hãi gì, có gì xảy ra cũng chớ mở miệng kêu cứu, kêu cứu chỉ tổ chết sớm. Cứ làm đúng từng li từng tí lời ta căn dặn thì ngươi sẽ thoát hiểm từ đây.
Tối đến, hòa thượng cùng tăng sĩ thủ kho ra đi. Hôichi đúng lời sư cụ dặn, ra ngồi trước hàng hiên. Chàng mù đặt cây đàn tì bà trên sàn ván, ngồi nghiêm trang nhập định. Tâm thần yên ắng, không một tiếng ho khẽ, không một hơi thở mạnh. Cứ như thế, Hôichi ngồi chờ từ giờ này sang giờ khác. Dần dà, đã nghe tiếng chân bước từ chỗ phía khách vãng lai tiến về phía mình. Tiếng chân đi ngang cửa gỗ, thông qua khu vườn đến bên hàng hiên, dừng lại trước mặt Hôichi.
- Hôichi! Vẫn cái giọng khỏe, oang oang, cất tiếng gọi. Thế nhưng lần nầy, chàng mù nén thở, im tiếng, châu thân bất động.
- Hôichi! Tiếng quát lần thứ hai lanh lảnh rợn người. Lần thứ ba nó trở nên hằn học.
- Hôichi!
Hôichi vẫn ngồi im như tượng đá. Giọng nói kia không giữ được sự bực bội:
- Không trả lời! Quái! Thằng khốn nạn kia nó biến đi đâu nhỉ?
Tức khắc đã nghe tiếng chân bước thô bạo lên hiên. Tiếng chân xáp gần Hôichi rồi bỗng nhiên khựng lại. Hôichi cảm thấy trống ngực đập thình thịch, người run lẩy bẩy. Bên cạnh, vẫn không có một tiếng động nào.
Thoạt nhiên , cái tiếng nói thô bạo kia bỗng ghé sát bên tai chàng mù:
- Tì bà thì có mà nhạc sĩ tì bà không thấy. Chỉ có hai cái lỗ tai treo ở đây! ... Có tai mà không nghe để trả lời. Chắc muốn trả lời mà không có miệng. Cả người chỉ còn lại cặp tai! ... Được rồi, đến thế này thì ta chỉ còn cách đem cặp tai này cho bề trên để có chứng cứ là ta đã làm đúng mệnh lệnh của ngài.
Chỉ trong một sát na, Hôichi đã cảm thấy hai ngón tay cứng như thép nguội giật lấy tai hắn ta, rồi xoẹt, hai tai đã đứt lìa. Khỏi phải nói chàng mù đau nhói đến tâm can nhưng cắn răng không thốt nửa lời. Tiếng chân kia từ từ bước xuống khỏi hàng hiên, đi qua khu vườn, xa dần về phía cổng hậu rồi mất hút. Hôichi cảm thấy hai bên đầu có cái nước gì nóng nóng đang ròng ròng chảy xuống nhưng vẫn không dám đưa tay lên sờ.
Tờ mờ đất, hòa thượng mới khăn gói về chùa. Đến nơi, cụ đã tức tốc chạy xuống phía hiên hậu liêu. Bỗng sư cụ dẫm lên cái gì nhờm nhớp, trượt chân suýt ngã. Rồi cụ bỗng hoảng hốt vì dưới ánh sáng ngọn đèn lồng, đó là một vũng máu. Nhìn ra thì trên hàng hiên, Hôichi vẫn ngồi chính tọa trong tư thế nhập định, từ vết thương, máu nhỏ xuống nhuộm đỏ cả người.
- Hôichi đó hả ! Sư cụ ngạc nhiên kêu "Trời Phật ơi, làm sao đến nỗi bị thương thế này ? "
Nghe tiếng hòa thượng, Hôichi biết nguy hiểm đã qua, bật lên khóc rồi bù lu bù loa kể sự thể những gì xảy ra đêm qua.
- Tội nghiệp ơi là tội nghiệp !
Hòa thượng không cầm được tiếng than. "Trăm sự cũng tại ta bất cẩn. Viết kinh lên khắp người của ngươi mà lại không viết lên tai. Thấy chỗ tai hẹp, khó viết ta mới cậy thủ kho viết giùm, mà chính ta cũng chẳng chịu kiểm xem hắn có viết cho chưa. Để đến nỗi này là do ta sơ ý... Nhưng có hối cũng đã muộn, điều gấp rút bây giờ là trị liệu cho ngươi chóng bình phục. Hôichi, chớ có buồn nữa, phải vui lên vì kể từ nay, tai qua nạn khỏi rồi. Chắc chắn ma quỉ chẳng còn đến đây hạch sách quấy nhiễu ngươi nữa đâu ."
Nhờ lương y tận tâm, chẳng bao lâu, vết thương của Hôichi đã lành lặn. Câu chuyện kinh dị xảy đến cho chàng mù được đồn đãi nhanh chóng, danh tiếng chàng nổi lên như cồn. Bao nhiêu nhà giàu có cao quí đua nhau tới vùng Akamagaseki để thưởng thức ngón đàn của chàng, thi nhau cho vàng tặng lụa. Chẳng mấy lúc Hôichi trở thành giàu có. Thế nhưng vì câu chuyện quái dị kể trên mà Hôichi mang cái hỗn danh là "chàng Hôichi cụt tai". 

Nguyên tác : Hirai Teiichi dịch Lafcadio Hearn (từ Anh ra Nhật)
Người dịch : Nguyễn Nam Trân (từ tiếng Nhật)
(đã đăng ở Hợp Lưu)
Chú thích
(1) Cuộc thư hùng giữa hai giòng họ quyền thần Taira, (Bình, còn gọi là Heike (Bình gia)) và Minamoto (Nguyên, còn gọi là Nguyên thị (Genji)) thời trung cổ Nhật Bản, cũng giống như những cuộc tranh phong Trịnh Nguyễn, Lê Mạc của ta. Tháng 3 năm 1185, danh tướng Yoshitsune nhà Minamoto đánh tan đoàn chiến thuyền Taira ở Dan no Ura và mở màn cho chính trị mạc-phủ Kamakura. Cả một nhà Taira bị diệt vong, thiên hoàng Antoku (cháu ngoại họ Taira, tuổi hãy còn thơ) cũng chết trong trận thủy chiến. Sinh hoạt của hai giòng họ đã để lại những cổ điển bất hủ như Genji monogatari (Nguyên thị vật ngữ), một tác phẩm phong lưu được coi như truyện Kiều của Nhật, hay anh hùng ca Heike monogatari (Bình gia vật ngữ).

Kết cục của truyện như trên, khác hẳn trong phim, đại khái như sau:
Ngày hôm sau, tất cả triều đình, hồn ma quân cán chính… của cả một miền đất, ban ngày ban mặt, cứ như diễn binh, tới trình diện họ Trịnh, nghe họ Trịnh hát rong kể lại cuộc oan khiên là giải phóng mà biến thành ăn cướp, là trận đánh làm thịt Miền Nam.
Nghe xong, bao nhiêu hồn ma, như được thanh tẩy, cứ thế chìm dần vào “vương quốc bên kia”, từng hồn ma, chờ đến lượt mình đầu thai… 

"Giữa những 30 Tháng Tư", sẽ có một 30 Tháng Tư, là ngày hội Rửa Oan, Thanh Tẩy, Tảo Mộ, Xá Tội, Người Chết Người Sống Gặp Nhau, nghe đọc ca dao, nghe kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai, nghe tiếng guốc mộc gõ lạch cạch át tiếng đô la...!
Như cú chót trong phim chàng Hôi Chi Cụt Tai.
Hà, hà!


30.4.2010

Dân Thái chiến đấu đòi dân chủ mấy tháng nay.
Bây giờ, tới lúc đếm xác chết!
Hình Paris Match, 20-26 Mai, 2010

Sun, May 30, 2010 1:36:44 PM
Ông đúng là 1 kẻ vô học
From: Thái Du Trương
To: TV

Hà, hà!
Cóc mở miệng!

Gấu này, sợ có học hơn ông Thái Dúi!
Nhưng với một tên VC mất hết nhân tính, như ông, thì đành phải tỏ thái độ vô học thôi. (1)

(1)
Ngoài bài này, còn bài của anh Trương Thái Dúi, cũng cùng một tông, đem đủ thứ anh hùng vĩ nhân trong lịch sử ra đọ với Bác.
Lịch sử quả có nhiều vĩ nhân.
Nhưng những huyền thoại về họ thường là được đám đệ tử, hậu thế phịa ra, để phù hợp với vĩ nhân, và sự nghiệp để lại cho đời.
Cứ giả như Bác Hồ là vĩ nhân, thì cái sự nghiệp của ông là cái gì nếu không phải là những tai ương, những điêu tàn, đổ nát, lòng nguời ly tán?
Yêu hay ghét Bác Hồ thì cũng đâu có thay đổi được thực tại đất nước?

Cần mở ngoặc thêm về Ngô Đình Diệm và sự thất bại không thể nào khác của ông ta ở đây. Một lãnh tụ không có huyền thoại đã là không ổn, ngoài ra họ Ngô lại còn là một giáo dân Thiên Chúa.
Thái Dúi (1)

(1) Bạn phải đọc ngược, thì mới ra tên của anh này. 

Diệm thất bại, là đúng. Ông không có huyền thoại, theo cái kiểu tự đút ống đu đủ vào đít mình thổi mình, mà chỉ có bi thoại, như cả một Miền Nam có bi thoại, là một lòng một dạ tin vào thằng anh ruột Bắc Kít của nó.
Nhân vật Diệm này, là do niềm tin về một lực lượng thứ ba, và một Mít hoàn toàn Mít, theo nghĩa quốc gia, dân tộc, không Việt gian, Pháp gian và nhất là không Cộng sản. Đây là đề tài cuốn Người Mỹ Trầm Lặng của Greene. Khi tác giả viết truyện đó, ông không thể ngờ, nó tiên tri ra thời hậu chiến Mít, chứ không phải là ở thời khi bắt đầu, với cú bom xe đạp ở Catinat.

Đây cũng là điều dân Miến nói về nhà tiên tri Orwell:
Tờ Asia Literary Review, [Đọc văn Á châu] số mới nhất, có bài viết của Andrew Lam, Love your Parents, Follow Your Bliss, kể câu chuyện ông chọn viết văn thay vì làm y sĩ, ngược lại ý muốn của cha mẹ, và một số bài dành cho Miến điện.
Bài xã luận, Editor’s Notes, viết:
Rangoon, người ta nói, Orwell viết câu chuyện của Miến điện trong ba cuốn tiểu thuyết, không phải một, và họ gọi ông là Nhà Tiên Tri. Những ngày Miến, Burmese Days, là câu chuyện quá khứ thực dân thuộc địa của Miến, Trại Loài Vật, Animal Farm, những năm khủng khiếp dưới chế độ độc tài của tướng Ne Win, và 1984: Ác mộng ngày hôm nay, tạm dịch cụm từ “the soulless dystopia of today”.
*

ngoài ra họ Ngô lại còn là một giáo dân Thiên Chúa.

Đúng là đồ khốn kiếp!
Obama đen thùi lùi mà làm tổng thống Mẽo đấy!

Tín hữu Ky Tô không phải là Mít.
Dân Nam Bộ cũng không phải Mít.
Chỉ Bắc Kít là Mít.
Đó là lý luận của những tên Thái Dúi, Đông B này.

Đọc blog của chúng, giọng đầy hận thù với Ky Tô giáo, chúng gọi là Kiêu dân.
Kiêu sao bằng Bắc Kít?
Ác sao bằng Bắc Kít?
Độc sao bằng Bắc Kít?
Cứ coi tình trạng đất nước bây giờ thì rõ.

Bác Hồ, như hồ sơ mật Điện Cẩm Linh ngày càng làm lộ ra, là một người bán mình cho Đệ Tam Quốc Tế. Người ăn lương của Đông Phương Cục, và là nhân viên của cơ quan này, suýt mất mạng trong vụ Stalin thanh trừng đám cựu trào. Những điều trên bây giờ đều là những sự kiện, facts, không phải huyền thoại. Bác Hồ có thể là vĩ nhân, nhưng không phải hoàn toàn của dân Mít chúng ta. Chán thế.

Ngô Đình Diệm mang trong ông huyền thoại về một con người Mít hoàn toàn Mít, không đảng phái, không Đệ Tam, Đệ Tứ, không Việt gian bán nước cho Tây, cho Tầu, cho Liên Xô. Cùng với huyền thoại về một vĩ nhân Mít hoàn toàn Mít đó, là huyền thoại về một lực lượng thứ ba, như Gấu đã từng lèm bèm nhiều lần, đây là đề tài của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng của Greene. Fowles khuyên anh chàng Mẽo ngây thơ, trầm lặng, mang Phượng về Mẽo, quên mẹ nó lực lượng thứ ba đi: lịch sử diễn ra đúng như vậy, nước Mẽo đã dang tay đón bao nhiêu con người Miền Nam bị cả hai bên bỏ rơi, những cô Phượng ngày nào.
NT vs HCM

Từ trước giờ Gấu viết Gấu đọc, bạn văn VC chắc có đọc, chẳng dám lên tiếng, rồi VC không phải bạn văn, hẳn là đọc, nhưng cũng vờ. Vậy mà hai cú chúng lên tiếng liền tù tì, là cú dám đụng vô Hoàng Cầm, bây giờ là Bác Hồ, và cháu ngoan của Bác là anh Thái Dúi!
Cũng thú!

Cái nick Thái Dúi này, Gấu mượn của một anh bạn tù. Do tên tiếng Việt rất dễ trùng, nên đám tù phải đặt nick để phân biệt. Một trong những cái nick tuyệt vời nhất mà Gấu còn nhớ là Sơn Mê Ô, tức Sơn Méo; rồi Thái Dúi, Hùng Võ Sĩ, Thành Tô Ma… Gấu, không có nick, và bởi vì Gấu là tên già nhất, chúng gọi là Bố, thời gian ở Đỗ Hòa, Nhà Bè. Một phần còn là vì Gấu lo công việc y tế trong Đội, anh nào muốn nghỉ một ngày lao động, là phải năn nỉ Gấu.
Anh Thái Dúi này, mơ biết mấy, thì cũng chẳng mong có 1 ngày đuợc làm người tù cải tạo!
Ban cho đặc ân như vậy, mà còn chửi Gấu là kẻ vô học!
*
Nhưng, Gấu thực sự không tin, tay Thái Dúi này hiểu được nỗi đam mê, thèm 'hỗ trợ thế giới', thèm có được 1, chỉ 1, và chỉ 1 mà thôi, 1 ngày cải tạo, như TCS thèm 1 ngày lính, như anh chàng Kiệt trong Bếp Lửa của TTT, thèm trở về để kịp chết vì cuộc chiến, như là một anh sĩ quan VNCH bị lầm là VC!

Cái anh tù Thái Dúi, Gấu nhớ ra rồi. Đó là thời gian tù ở nông trường Phạm Văn Cội, Củ Chi, cũng rất ư là thiên đường. Nông trường nằm lẫn trong dân, ngay đằng sau lều là nhà dân, thành thử tắm rửa, đánh răng, rửa mặt gì gì cũng chạy qua bên đó; ngược lại, do dân đói hơn tù, nên bao nhiêu phần ăn tù, thường nhường hết cho dân, vì tù khi đó, mới giải phóng mà, còn có thăm nuôi đầy đủ, và cũng không xa thành phố.

Kỷ niệm thật tuyệt, lần Gấu Cái lần đầu tiên thăm nuôi. Đám tù túa ra nhìn ngắm, tấm tắc, có anh còn có vẻ tủi thân. Thái Dúi bỗng chêm một câu giữa những ồn ào, lần sau chị đi thăm nuôi, nhớ mặc áo dài, tụi này thèm nhìn cái áo dài thành phố quá!
Nhưng lần đầu Gấu Cái đi thăm nuôi tại nông trường Đỗ Hòa, thì thật quá thê luơng, nhưng về già, nhớ lại vẫn thấy tí tức cười!
*

Những Bí Ẩn Về Nguyễn Tấn Dũng
Hoàng Dũng Cập nhật : 01/06/2010 01:28

Ông Hoàng Dũng ký tên dưới bài này không biết có thực không, song những "bí sử thâm cung" mà ông kể, chúng tôi đã được nghe từ cửa miệng của một cộng tác viên trực tiếp của ông Nguyễn Văn Linh (khi ông Linh làm tổng bí thư). Tất nhiên, cũng phải thêm là chúng tôi xin giới thiệu bài này với "sự dè dặt thường lệ". Nhân tiện, cũng xin "bật mí" he hé một sự việc khác. Việc này không do ông Linh nói với ai cả. Bạn đọc có thể vào mục hình ảnh của Google, bảo nó bấm hình ông Nguyễn Văn Linh và hình ông Lê Hồng Anh (đại tướng công an, bộ trường bộ công an). Xin cứ so sánh hai nét mặt, rồi rút ra kết luận, hay ít ra là một giả thuyết.

Note: Cái Sa Pô này là của "người chúng ta ở Paris"!
Cũng một thứ nằm gầm giường như nhà đại phê bình mà thôi!
Dân Mít đâu cần mấy thứ chuyện "bật mí" này?
Con thằng chó chết nào dân Mít cũng từ chết đến… chết!

Đặc biệt, từ thuở còn thanh niên cụ Hồ đã có một mối tình đầu rất đẹp với một người con gái miền Nam (sự thật này đã được nhà văn Sơn Tùng sưu tầm và công bố trong bài viết “đi tìm Út Huệ”), do vậy cụ Hồ có một ấn tượng và thiện cảm đặc biệt với những người phụ nữ Nam bộ. Biết thế nên Bộ chính trị đã chỉ đạo cho Trung ương cục miền Nam, mà lúc này Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung ương cục, phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ chính trị. Thời điểm đó thì Võ Văn Kiệt đang là ủy viên Trung ương cục được cụ Nguyễn Văn Linh tin tưởng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt này. Trong số vài cô gái tuyển lựa được lúc đó đang chuẩn bị bố trí bí mật đưa ra miền Bắc, có một cô còn trẻ và rất sắc sảo họ Phan. Giữa lúc đó thì tình hình chiến sự đang diễn ra khá ác liệt nên không thể đưa các cô đi ngay được và rồi không hiểu thế nào mà ông Kiệt lại quan hệ dan díu với chính cô gái họ Phan kia. Đến lúc sự việc vỡ lở thì cô gái đã có thai được mấy tháng rồi. Thế là cô ta phải ở lại và cái bào thai đó chính là vị tổng Giám đốc Tracodi : Phan Thanh Nam sau này.

Quà Miền Nam dâng Bác mà Sáu Dân cũng nếm trước. Giả như cô gái không dính bầu, thì đúng là Bác hưởng sái!
Hay là cũng tính buôn vua, như Lã Bất Vi?

Ôi chao, bây giờ thì Gấu giải ra được cái thai đố ẩn tàng trong câu phán khủng khiếp của Kafka rồi:
"Trong cuộc chiến đấu sinh tử tay đôi giữa mi và thế giới, hãy hỗ trợ thế giới."
“Dans le combat entre toi et le monde, seconde le monde”
“In the duel between you and the world, back the world.”
Franz Kafka, “Suy nghiệm về tội lỗi, đau khổ, hy vọng và con đường thực sự, le vrai chemin”.
*
“Trước kia, tôi không hiểu tại sao người ta không trả lời câu hỏi của tôi, bây giờ tôi không hiểu tại sao tôi lại cho rằng tôi có thể đặt câu hỏi. Nhưng thật ra tôi không tin gì cả, tôi chỉ hỏi để hỏi, vậy thôi”
«Autrefois je ne comprenais pas qu'on pût laisser ma question sans réponse, aujourd'hui je ne comprends pas que j'aie pu croire possible de questionner. Mais je ne croyais pas du tout, je questionnais seulement.»
(Franz Kafka, « Méditation sur le péché... »)

Mi phịa ra nỗi đau Lò Cải Tạo, mi đúng là thằng khùng!
Mi phịa ra Cái Ác Bắc Kít, mi thuổng Anus Mundi, Hậu Môn Thế Giới, của Milosz, mi…
*

« Tu peux t'abstenir des souffrances du monde, tu es libre de le faire et cela répond à ta nature; mais cette abstention est peut-être précisément la seule souffrance que tu puisses éviter. »
(Franz Kafka, « Méditation sur le péché ... »)
Mi có thể tránh né khổ đau của thế giới, mi vô tư làm chuyện đó, bởi vì mi là như thế; nhưng biết đâu đấy, cái sự tránh né này chính là nỗi đau khổ độc nhất mà mi có thể tránh né!

NAISSANCE D'UN ADJECTIF

« Kafkaïen, ienne, adj. (v. 1950). Qui rappelle "atmosphère oppressante des romans de Kafka. "
L'adjectif qualificatif - reconnu officiellement par le Petit Robert - est le reflet d'une gloire ambiguë, mais certaine, qui n'a pas toujours servi l'écrivain, à la fois célèbre et méconnu. Alexandre Vialatte, le premier traducteur en français, s'en irritait déjà il y a vingt ans. "En 1926 ( ... ), je croyais lancer un des princes de l'humour. Je retrouve un roi des ténèbres."
Tôi tưởng tôi giới thiệu một trong những ông hoàng tiếu lâm, hóa ra là vì vua của đêm đen
Vialatte, dịch giả Kafka ra tiếng Tây, 1926

Un homme souterrain
L'écrivain praguois était un rat de l'écriture qui n'avait besoin que d'une plume et d'une lanterne pour survivre
Người dưới mặt đất
Nhà văn Prague là một con chuột chữ chỉ cần một ngòi viết và một ngọn đèn soi để sống sót.

Ui chao lại nhớ lần đầu tiên đến nhà bạn C…. (1)
Ui chao lại nhớ những lần len lén bò dậy trong khi cả nhà yên giấc, mò ra cái bàn, bật ngọn đèn, y chang một tên ăn trộm...

(1)
Ngay từ những ngày đầu tới chơi, thấy anh T. ngồi co cả hai chân lên ghế, trước một cái bàn nhỏ ở góc nhà, tôi đã tưởng tượng, phải nói là đã mơ ước, tương lai của mình sau này rồi sẽ y hệt như vậy...
Một Người Anh


&

Hình căn cước


*

Trong hồi ký của Nguyễn Hiến Lê, khi về già, sau 1975, ông có kể, về một lần ông bị đau, mà không làm sao tìm ra căn do, sau nhờ một ông bác sĩ khám phá ra, da qui đầu của ông chưa được cắt.
Gấu nhớ chuyện này, khi đọc cuốn La Circoncision, của Bernhard Schlinh, tác giả Người đọc chuyện, The Reader.
Gấu khám phá ra ông khi đọc truyện trinh thám, policier, Mùa hè ở Mã nhật tân, có lúc tưởng là có hai ông khác nhau, nhưng chỉ một.

Qua một nhân vật trong La Circoncison (1), một thứ "tân truyện", dài hơn truyện ngắn, ngắn hơn truyện dài, kiểu Kẻ Xa Lạ, Bếp Lửa, tác giả cho rằng, người Do Thái đã phát minh ra cái trò cắt da qui đầu, để có con chim “thật ra trò”, [không mềm như bún, thì cứ nói đại ra ở đây].
Ở Tây phương, theo như Gấu được biết, khi bé trai sinh ra, là họ cắt da qui đầu liền tù tì, để ngăn trường hợp như đã xẩy ra với NHL.
Lễ cắt da qui đầu, La Circoncision, là câu chuyện 50 năm sau Đệ nhị chiến, Andi, một anh cu Đức, và Sarah, một hĩm Do Thái, gia đình sống sót Lò Thiêu, thử sống tình yêu, mặc dù gánh nặng quá khứ.
Đọc, GNV lẩn thẩn tự hỏi, hay là mình phịa ra cái trò ‘đau đáu nỗi đau Lò Cải Tạo’ cho Bắc Kít, Yankee mũi tẹt?
Chúng có bao giờ đau nỗi đau này đâu!

(1) Gấu coi lại, đây là một trích đoạn từ truyện dài, Tình trốn chạy, Amours en fuite

De même, tandis que j'écrivais sur Auschwitz et la torture, je ne comprenais pas encore clairement que ma situation ne pouvait se ramener entièrement au concept de "victime nazie" ; ce n'est qu'en arrivant à la fin de mon travail et en méditant sur la nécessité et l'impossibilité d'être juif que je me reconnus aussi dans l'image de la victime juive.
Jean Améry
Chỉ một thằng Bắc Kít di cư 1954, thí dụ như Gấu, thì mới đau cái 'đau thắng trận 30 Tháng 4 1975', tới hai lần: Một, như là ‘nạn nhân Nazi’, một, như là ‘nạn nhân Do Thái’!

Moi, je traine le fardeau de la faute collective, pas eux.
Jean Améry
Tớ, Gấu Nhà Văn, vác gánh nặng Lò Cải Tạo, không phải chúng!