*
Notes



Viet nam lưu manh hóa














Thú thực, Gấu ngu này không làm sao chịu nổi cái từ "trồng người", được VC sử dụng để chỉ việc giáo dục.
Bây giờ lại thêm cái gọi là ‘virus phi nhân” nữa!

Mỗi đứa trẻ, khi ra đời, là có một phần số riêng, chỉ Thượng Đế mới hiểu được, biết được. Nhà trường giáo dục, dậy dỗ nó, rồi khi nó lớn, tới tuổi thành nhân, tự nó trồng nó!
Trồng người?
Ghê rợn chưa là cái thứ giáo dục sỉ nhục con người, khi, ngay từ khi đứa bé còn nhỏ xíu đã dậy nó hận thù?
Thử hỏi, cái ông nhà văn, khi viết ra hai từ “trồng người” đó, có nghĩ là, hiện cũng đang được nhà nước, hay ai đó, “trồng” ông ta không?

*

A Pedagogy of Hatred

Displays of hatred are even more obscene and denigrating than exhibitionism. I defy pornographers to show me a picture more vile than any of the twenty-two illustrations that comprise the children's book Trau keinem Fuchs auf gruener Heid und keinem Jud bei seinem Eid [Don't Trust Any Fox from a Heath or Any Jew on his Oath] whose fourth edition now infests Bavaria. It was first published a year ago, in 1936, and has already sold 51,000 copies. Its goal is to instill in the children of the Third Reich a distrust and animosity toward Jews. Verse (we know the mnemonic virtues of rhyme) and color engravings (we know how effective images are) collaborate in this veritable textbook of hatred.
Take any page: for example, page 5. Here I find, not without justifiable bewilderment, this didactic poem-"The German is a proud man who knows how to work and struggle. Jews detest him because he is so handsome and enterprising" -followed by an equally informative and explicit quatrain: "Here's the Jew, recognizable to all, the biggest scoundrel in the whole kingdom. He thinks he's wonderful, and he's horrible." The engravings are more astute: the German is a Scandinavian, eighteen-year-old athlete, plainly portrayed as a worker; the Jew is a dark Turk, obese and middle-aged. Another sophistic feature is that the German is clean-shaven and the Jew, while bald, is very hairy. (It is well known that German Jews are Ashkenazim, copper-haired Slavs. In this book they are presented as dark half-breeds so that they'll appear to be the exact opposite of the blond beasts. Their attributes also include the permanent use of a fez, a rolled cigar, and ruby rings.)
Another engraving shows a lecherous dwarf trying to seduce a young German lady with a necklace. In another, the father reprimands his daughter for accepting the gifts and promises of Solly Rosenfeld, who certainly will not make her his wife. Another depicts the foul body odor and shoddy negligence of Jewish butchers. (How could this be, with all the precautions they take to make meat kosher?) Another, the disadvantages of being swindled by a lawyer, who solicits from his clients a constant flow of flour, fresh eggs, and veal cutlets. After a year of this, the clients have lost their case but the Jewish lawyer "weighs two hundred and forty pounds." Yet another depicts the opportune expulsion of Jewish professors as a relief for the children:
"We want a German teacher;' shout the enthusiastic pupils, "a joyful teacher who knows how to play with us and maintain order and discipline. We want a German teacher who will teach us common sense." It is difficult not to share such aspirations.
What can one say about such a book? Personally I am outraged, less for Israel's sake than for Germany's, less for the offended community than for the offensive nation. I don't know if the world can do without German civilization, but I do know that its corruption by the teachings of hatred is a crime.
[1937]
Borges

Gấu đã có lần kể chuyện, đi thi Trung Học đệ nhất cấp, rớt, trượt vỏ chuối, không đỗ, không đậu, chỉ vì làm bài luận văn, trong đó nói lên “giấc mơ”, sẽ có một ngày về giải phóng quê hương Đất Bắc!
Ông thầy, và là vị giám khảo, đã đánh rớt Gấu, và sau đó, ông anh rể của Gấu, ký giả nhà văn Hiếu Chân, đã giải thích lý do cho thằng em vợ:
Mày còn nhỏ, hãy lo học. Khi nào lớn khôn, thì lúc đó, tự quyết định cái gọi là “ý thức chính trị” của mày!
*

 “Chúng em muốn một vị thầy giáo” đám trẻ háo hức, sôi nổi nói, “một vị thầy giáo vui vẻ biết vui đùa với chúng em, và gìn giữ kỷ luật, trật tự. Chúng em muốn một vị thầy giáo dậy chúng em lẽ sống ở đời”.
Thật khó mà không chia sẻ với trẻ em những khát vọng như thế.
Người ta có thể nói điều gì về một cuốn sách [dậy hận thù] như thế? Bản thân tôi, tôi phát điên lên được, không phải vì cái dân tộc bị sỉ nhục, mà chính vì cái dân tộc sỉ nhục kẻ khác, khi trồng con em của họ, bằng “vi rút hận thù”.
Tôi không biết, giả như nhân loại không có thứ văn minh đồng bằng Sông Hồng, thì có làm sao không, có bị huỷ diệt hay là không, nhưng tôi biết, cái sự trồng người khốn kiếp của nó, bằng hận thù, là một tội ác.
*

V/v dậy hận thù ở xã hội Miền Bắc, trong thời kỳ chiến tranh.
Con nít, mỗi khi làm bài tập toán, là, bữa nay, làm thịt được bao nhiêu tên Mỹ, Ngụy; hạ được bao nhiêu Thần Sấm, Con Ma…. Học sinh tiên tiến thì được lên bảng, cắm cờ giải phóng thành phố Miền Nam… như PTH viết:
Mùa xuân năm 1975, từ giữa tháng Ba với Buôn Ma Thuột, mỗi buổi sáng trước giờ khai giảng một học sinh tiên tiến được vinh dự cầm cây cờ đỏ sao vàng bé xíu lên cắm trên tấm bản đồ đất nước, đúng ở điểm vừa được giải phóng, vừa hoàn toàn thuộc về ta“. Huế 26.3, Đà Nẵng 29.3, Phan Rang 16.4, Xuân Lộc 21.4... Mầu đỏ san sát, tiến ào ạt xuống phiá Nam tới mức tôi sợ đến lượt mình thì không còn đất cắm. Ngày 27.4, cầm lá cờ làm bằng giấy mầu và tăm tre tiến vào Bà Rịa, tôi cũng khóc như bao người, nhưng không phải nước mắt của chiến thắng. Tôi có biết gì đâu về cái giá của chiến thắng. Đó là nước mắt của chia tay. Chiến tranh đã làm quen với tôi, nay tôi phải làm quen với sự ra đi của nó. Ai sẽ thay nó, nháy mắt chào? Còn lại gì, sau chiến tranh?
Còn lại gì
*
V/v virus phi nhân.
Tri thức nhân loại nhận dạng, có Cái Ác Nazi là do con virus này gây nên, và hậu quả của nó là Lò Thiêu.
Gần đây, có tên Gấu Nhà Văn đề nghị thêm vô, Cái Ác Bắc Kít, cũng do con virus này gây ra, và hậu quả là Lò Cải Tạo!
Hà, hà!
*

Một nền sư phạm, giáo dục của hận thù

Phô bầy hận thù thì tục tĩu, phỉ báng hơn cả thói khoe khoang. Tôi thách mấy ông viết sách khiêu dâm chỉ cho tôi một bức hình đê tiện hơn bất cứ tấm nào trong số 24 bức minh họa ở trong cuốn sách Trau keinem Fuchs auf gruener Heid und keinem Jud bei seinem Eid [Don't Trust Any Fox from a Heath or Any Jew on his Oath, đừng tin lũ cáo trong rừng, hay lời thề của một gã Do Thái], dành cho thiếu nhi, ấn bản lần thứ tư của nó thì đang làm độc Bavaria. Lần xuất bản lần thứ nhất năm 1936 đã bán ra 51 ngàn ấn bản. Mục đích của nó là tiêm, chích, tẩm vào cơ thể, tâm hồn của những đứa trẻ Đệ Tam Reich một sự không tin cậy, và thù nghịch đối với những người Do Thái. Thơ, vè, ca dao, tục ngữ (chúng ta quá rành những đức tính dễ thuộc dễ nhớ của cái gọi là vần, điệu, nhịp), và hình vẽ, tranh khắc có mầu (chúng ta cũng thật rành hiệu quả của những hình ảnh mầu mè hoa lá cành lên đầu óc trẻ thơ), cả hai, kẻ xứng, người họa trong cuốn sách giáo khoa đích thực của hận thù này.
Borges

Ui chao, liệu những nhà văn Bắc Kít thời chống Mỹ cứu nước cũng đã được Đảng giáo dục, và trưởng thành, từ những cuốn sách giáo khoa như thế?
Có tất cả bao nhiêu thế hệ Bắc Kít được "trồng" từ thứ giáo dục của hận thù như vậy?
Muốn biết, thì cứ nhìn vào cái mức băng hoại vô phương cứu chữa hiện nay.

Và trong một bài báo, «Nhân nghĩ về hội hoạ», 1956, Thanh Tâm Tuyền khước từ lối «văn chương có thể đặt tên là văn chương của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò» (Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem Bếp lửa ra giảng dạy ở học đường là việc khó, vì khó tìm ra một vài trích đoạn tiêu biểu gọi là «trích diễm». Kinh nghiệm của tôi: yêu cầu sinh viên phải đọc toàn bộ tác phẩm, rồi đưa ra những chủ đề tổng hợp, về hình thức, nội dung. Ví dụ lối kể chuyện đơn tuyến, một mạch theo dòng thời gian, không một lần quay lại quá khứ – cho dù có rơi rớt một vài kỷ niệm – về người mẹ và bà ngoại. Lối dùng từ bình dị, ưu tiên cho từ đơn âm, ít từ kép, càng ít từ Hán - Việt. Lối đặt câu ngắn, có khi cụt ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô đúc, có lúc khó hiểu, như là lời nói nén chặt nội tâm: «Một bên đường cỏ hoang và núi đóng đồn binh» (tr. 47). «Ngọn núi bắt đầu thấy cứng mình vì nghe nắng sắp về dữ dội» (tr. 87). Câu được nhiều người nhắc: «Buổi sáng mùa đông ngây ngất vào lối 10 giờ» (tr. 11). «Buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngã» (tr. 28).

«Tôi công nhận nghệ thuật như một nghề như mọi nghề khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ thuật người ta cũng cần học hỏi, luyện tập như tập sự bất cứ nghề gì. Đến đó thôi. Khi những nhà nghệ sĩ chân chính, để bảo đảm sự thành thực của tác phẩm, đã mang sinh mệnh chính mình ra thách đố, thì lúc ấy nghệ thuật không còn là một nghề nữa, nó là hành động siêu việt của nhân loại trong cuộc tìm kiếm đời sống chính đính» (Văn, số đặc biệt đã dẫn, tr. 78).

Đặng Tiến viết về sự ra đi  của Thanh Tâm Tuyền

I don't know if the world can do without German civilization, but I do know that its corruption by the teachings of hatred is a crime.
Borges
Tôi không biết, giả như nhân loại không có thứ văn minh đồng bằng Sông Hồng, thì có làm sao không, có bị huỷ diệt hay là không, nhưng tôi biết, cái sự trồng người khốn kiếp của nó, bằng hận thù, là một tội ác.

Gấu tin rằng, Cái Ác Bắc Kít gây họa băng hoại nước Mít như hiện nay, nhưng Borges cho rằng chính cái thứ giáo dục dậy hận thù mới là một thứ Đại Ác!

Vấn nạn ở đây là, liệu "cái thứ" văn chương Miền Nam, như trong Bếp Lửa, Tôi Cùng Gió Mùa, Thơ Ở Đâu Xa… một ngày nào đó, sẽ tạo nên một nền giáo dục, một sư phạm học, mới, thay cho cái vụ trồng người 100 năm, chỉ có được bọ VC?

Borges, vẫn ông, nói được, khi phán:
Mọi văn chương thực sự là để cho con nít
All literature is really for children
Alastair Reid trích dẫn, trong bài Tựa cho cuốn Bẩy Đêm, Seven Nights, [Bẩy bài nói chuyện của Borges về Divine Comedy, Kịch Trời, Nightmares, Ác mộng, Một ngàn lẻ một đêm, Phật giáo, Thơ, The Kabbalah,  Blindness, Mù lòa.] 

Thế giới con người trong Cát Bụi Chân Ai, lạ thay, là đảo ngược thế giới loài vật Tô Hoài mô tả, những ngày trước Mùa Thu. Những con vật của ông "người" hơn, so với những con người sau này (so với cách ông miêu tả con người sau này). Vẫn theo bài viết của Levi, từ tiếng nhạc dế có thể suy ra khí hậu của môi trường sống. Người ta còn nhận ra một điều: dưới những điều kiện thiên nhiên bình thường, dế đực và dế cái cùng một nhiệt độ, nhưng nếu thân nhiệt của dế đực (thí dụ vậy) tăng lên chỉ một hay hai độ, tiếng nhạc của nó tăng lên bán-cung, và bạn lòng của nó sẽ không trả lời: con cái không còn nhận ra dục tính ở con đực. Môi trường thay đổi chút xíu, thế là có một "thảm họa", một bất toàn, một khiếm khuyết, một bất xứng đôi, nẩy sinh: phải chăng chúng ta có một mầm (germ) tiểu thuyết ở đây? Levi tự hỏi.
Nguyễn Tuân buông một câu: Không hiểu sao, tôi cứ loay hoay tìm cách giải thích "vấn nạn này", và đành phải mượn Levi, mượn Kim Dung. Bằng một cách nào đó, Nguyễn Tuân đã giữ thân nhiệt của mình không bị môi trường Mùa Thu làm thay đổi. Và nếu ông nghĩ đến Két, thực ra là (còn) nghĩ đến bạn mình. Ở đây, ta lại thấy vị thiền sư xén tóc, và anh chàng võ sĩ dế mèn hăm hở với giấc mơ trừ hết ác ôn tề nguỵ. Và cái câu "Cứ đến ngồi đây..." đâu có khác gì hành động của vị sư già chuyên việc quét dọn Tàng Kinh Các, khi thấy hai ông sư giả cầy Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn xào xáo lung tung kinh kệ tìm cho đủ 72 tuyệt kỹ võ công Thiếu Lâm, đã cố nhét những kinh Phật xen vô, để hy vọng cải hóa...

Một chuyến đi

Đoạn trên, trích từ một bài tạp ghi cũ, trên tờ Văn Học, khi GNV còn là một anh làm công cho ông chủ NMG! Đó là bài bye bye cái chức làm công, cái mục tạp ghi do Gấu phụ trách, nhưng đúng ra, là một viết tạm biệt hai ông bạn nhà văn mà Gấu rất quí trọng, của băng đảng Văn Học, là Trúc Chi và Tạ Chí Đại Trường.
Phải đến mãi sau này, khi đọc Grass, nhất là sau cái cú ông thú nhận đã từng tình nguyện tham gia “thành đoàn Nazi”, đọc Sebald, đọc… rồi tới khi đọc Ba Người Khác, thì Gấu mới nhìn ra, một cách đọc khác, Tô Hoài.
Chẳng khác gì Grass và đồng bọn, ông tự nhận, ông có ‘ăn có’ trong cái ác làm nên Lò Cải Tạo, từ cái thuở cải cách ruộng đất, tạm tính từ thời điểm đó.
Rồi tới khi đọc Chuyện Kể Năm 2000, thì Gấu lại thấy ra một cái mặt khác của Cái Ác Bắc Kít. Nhất là khi đọc những lời sám hối của tác giả của nó, khi bị nhà nước cho đi tù, nhờ đó viết được Chuyện Kể Năm 2000: Nếu không có cái chính sách “pha lê hóa” đó, thì làm sao lấy được Miền Nam? (1)
Ngay trong bài tạp ghi trên, GNV đã băn khoăn về cái chuyện làm sao Nguyễn Tuân thoát được Cái Ác Bắc Kít, làm thế nào ông giữ được sự điều hòa của thân nhiệt.

Một số vấn nạn, nhân bài viết Việt Nam một xã hội bị lưu manh hóa của LDD:
Tại làm sao mà xã hội Việt Nam lại bị lưu manh hóa đến mức ghê rợn như thế?
Tại VC ư?
Tất nhiên rồi. Tuy nhiên, ngay cả khi khẳng định thì vẫn còn tra hỏi:
Tại sao VC, ngày nào tốt như thế, đến nhân loại nằm ngủ, mơ, chỉ mong sáng thấy mình biến thành VC, mà bây giờ tệ như thế?
NQT

(1)
Tôi viết về những người cam chịu lịch sử

Đây là thứ lịch sử "của đám đông" mà Cao Hành Kiện rất tởm.
*
Cái vụ đạo đức băng hoại mà cái diễn đàn blog gì gì đó đang bàn tới, và đang cố tìm ra nguyên nhân của nó, làm Gấu nhớ tới cái vụ nhà văn Phi châu da đen Chinua Achebe chửi Conrad là một tên thực dân khốn kiếp, một tên phân biệt sắc tộc [racist], do cái cách mà ông ta mô tả người Phi Châu: như những con vật!
Mấy đấng Yankee mũi tẹt hải ngoại, khi viết về chuyện băng hoại đạo đức ở trong nước, cứ làm như đang mô tả về một xứ sở đếch có mấy đấng đó ở trong đó.
Cái đó cũng làm Gấu tởm!
Sao ghét talawas
*

Ha Jin khởi sự nghề văn [viết một cách nghiêm túc] sau cú Thiên An Môn, 1989, mà ông gọi là sự bắt đầu cuộc đời của ông như là một nhà văn, ‘nguồn của mọi nhiễu nhương’ [‘source of all the trouble’]. Tác phẩm đầu tay bằng tiếng Anh của ông là một bài thơ, “The Dead Soldier’s Talk”, cuộc nói của người lính chết, cho một xưởng thơ, poetry workshop, ở Brandeis. Ông thầy, thi sĩ Frank Bidart, đưa bài thơ cho Jonathan Galassi, lúc đó là tay chủ biên thơ của tờ The Paris Review. Ông này vồ ngay lấy, in liền tút suỵt! Với sự hối thúc của Bidart, Jin xin gia nhập chương trình MFA, học viết giả tưởng, của Đại học Boston. Tốt nghiệp, đi dậy ở Emory University ở Atlanta, vừa dậy học vừa viết truyện ngắn, tiểu thuyết, được mấy cái giải thưởng, PEN/Faulkner Award, the Flannery O’Connor Award dành cho truyện ngắn, một cái Guggenheim fellowship, và The National Book Award.

Vào cái thời ông sống dưới chế độ CS, ông có cảm thấy ngột ngạt không?
Không. Tôi cũng bị tẩy não vậy.
Làm thế nào mà trở thành không còn bị tẩy não?
[How did you become un-brainwashed?]
Đó là một tiến trình dài. Thoạt đầu, tôi không thể tưởng tượng thế giới quá biên giới TQ: như hầu hết những người TQ trẻ, tôi trở thành rất ái quốc và tin tưởng ở cái phải, cái đúng của cách mạng và của đảng. Nhưng, trong khi tôi theo học tại Đại học Shandong, tôi bắt đầu đọc một lố văn học Mỹ từ nguyên tác, và dần dần nhận ra có rất nhiều đường hướng giao tiếp, thông cảm, và có những dân tộc sống khác hẳn [người TQ]. Và, viết bằng một ngôn ngữ khác thay đổi tôi.
Tại sao những cuốn sách của ông lại bị biếm [banned]?
Tôi viết về những đề tài cấm kỵ: Tibet, Cuộc Chiến Korean, Cách Mạng Văn Hóa, cú Thiên An Môn. Sau cú TAM, tôi trở thành một gã lớn họng, a outspoken…. Tôi chẳng hề muốn dính đến chính trị, nhưng những nhân vật của tôi chạy trời không khỏi nắng [my characters exist in the fabric of politics]. Nói vậy để thấy rằng, thật vô phương tránh né chính trị, nhất là ở TQ.
*
Sự thực mà nói, Gấu chưa hề đọc được bất cứ một nhà văn Mít, Bắc Kít, trong nước cũng như hải ngoại, dám nhìn lại chính họ, như những Đại Hán, thí dụ, Ha Jin, Ma Jian…  và nhất là Cao Hành Kiện.
Có lần Gấu đành phải phán thật khốn nạn, miệng họ đều có mùi chiến lợi phẩm ["phẩn" cũng được!], thành thử không làm sao cất lên tiếng nói, hay viết ra như những đấng Đại Hán trên, là vậy!

*
Giấc mơ giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước là giấc mơ tuyệt vời nhất của Miền Bắc, và nó càng thêm tuyệt vời khi rong ruổi với giấc mơ Mác Xít về một con người hoàn toàn, l’homme total, con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng nằm dưới đáy sâu lịch sử của một miền đất, nằm nơi đáy sâu của bất cứ một con người Miền Bắc, vừa đẻ ra là đã có rồi, kể từ khi có Đàng Trong, còn là con thú săn mồi sống mà nhân loại có từ thời ăn lông ở lỗ, và cùng với con thú đó, là cơn đói khát, ao ước được thoả mãn, thành thử rong ruổi với cái tốt, còn là cái xấu, cái đại ác của một miền đất, quá cằn cỗi vì thiên nhiên khắc nghiệt ảnh hưởng tới lòng người hà khắc, chai đá.

Tới thời điểm 30 Tháng Tư, thì cái tốt mất hết, chỉ còn cái xấu, con thú xổ chuồng, khi đẩy được Miền Nam vào thế bại trận, biến cả một miền đất thành chiến lợi phẩm. Đó là sự thực về cuộc chiến, theo Gấu.

Câu nói của DVM, chúng tôi chờ mấy ông để bàn giao, và hành động trước đó, đuổi Mỹ ra khỏi Miền Nam trong vòng 24 tiếng, bắt VNCH bỏ súng, nói lên tấm lòng của người Miền Nam, nhưng câu nói của Bùi Tín, cũng nói lên "tấm lòng" của người Miền Bắc. Sự thực của cuộc chiến, chỉ cần hai câu nói, là quá đầy đủ!

Gấu này tin rằng, ngay trong đám tinh anh của sĩ phu Bắc Hà cũng không nhận ra cái phần đẹp nhất của giấc mơ giải phóng Miền Nam của Yankee mũi tẹt, chính vì vậy mà DTH cho rằng, đây là cuộc chiến ngu xuẩn nhất của dân Mít.
Bạn phải nhìn ra cái phần đẹp nhất của nó, thì mới có thể tưởng niệm những liệt sĩ của Miền Bắc, như nữ thi sĩ Xuân Quí, như Đặng Thùy Trâm được. Và, ở bên kia thế giới, họ mới bớt đau lòng.
Giấc mơ đẹp biến thành hiện thực khủng khiếp, chính là do Cái Độc Cái Ác của một miền đất mà ra.
Chính Cái Độc, Cái Ác này đã đẩy họ vô chiến trường, như chính họ thú nhận trong nhật ký. Họ quá tởm nó, mà bỏ Đất Bắc, một phần.
Sở dĩ Lời Dối Trá được muôn người một một tin theo, ấy chính là vì nó hợp với giấc mơ của muôn người
Gấu đã mường tượng điều này, khi viết về bài thơ Điện Biên của Tố Hữu:
"Balzac mô tả cái nón, là bởi vì có người đang đội nó" (3). Đằng sau những loa dậy đất, đèn đuốc đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật trong tương lai - mà cả một miền đất muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta phải hiểu như vậy, thì mới giải thích được, dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất Điện Biên.
Như chúng ta đều biết, giấc mơ đã không trở thành hiện thực, và đó là những cay đắng giấu kín đằng sau nụ cười hiền như Phật của Tố Hữu.

PXA, đến giờ chót, đi không được, là cũng vì giấc mơ thất bại đó, chắc hẳn?

Đỉnh Cao Chói Lọi

Sao ghét talawas

Cái sự bành trướng về phía Nam là số phần của giống dân quần tụ tại đồng bằng sông Hồng, lúc nào cũng nơm nớp hai hiểm họa, giặc Bắc và lũ lụt. An Nam nhất thốn thổ, mảnh đất sông Hồng nhỏ quá, người cứ đẻ mãi ra, đất thì chỉ có thế, ruộng thì càng ngày càng co lại vì bờ nhiều hơn ruộng, ruộng thì ngày càng cằn cỗi vì con đê sông Hồng chặn hết mọi phù sa mầu mỡ, nước sông ngày càng đục ngầu, mầu như mầu máu. Kể từ khi có Đàng Trong, là toàn thể cộng đồng Bắc Hà nhìn về nó, như là Miền Đất Hứa. Thành ra giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, hai miền chan hòa, là giấc mơ đẹp nhất của xứ Bắc Kít.
Nhưng không ai có thể ngờ được, nằm bên dưới giấc mơ đẹp nhất, là Cái Độc, Cái Ác của một miền đất.
Chỉ đến khi lấy được Miền Nam thì Cái Ác mới lộ diện.
Phải đầu hàng, không có bàn giao bàn giếc mẹ cái gì hết! Bố khỉ!
Mày phải đầu hàng, vì tao là kẻ chiến thắng, đất đai của mày, nhà của mày, vợ con của mày, của cải của mày, căn cước của mày… tất tất của tao, của chúng ông, tất tất đều chiến lợi phẩm. Hiểu chưa, chú gà tồ Big Minh!


*

Có vẻ như văn chương Bắc Kít tịt ngòi rồi, bây giờ là thời của văn chương miệt vuờn Nam Bộ.
Chứng cớ: Nguyễn Ngọc Tư, Nam Lê, Linda Lê, Trần Minh Huy… bây giờ thêm Kim Thúy!
Đây là một bằng chứng hiển nhiên cho thấy đám Bắc Kít có cái gì bị chặn ở họng, viết ra không được, mà nuốt vô cũng không được. (1)
V/v cái mùi vị chiến lợi phẩn, trước Gấu, NHT đã cảnh cáo từ lâu rồi, ngay khi có cơ hội, là ông bèn cho một ông vua Nam Kít ra Bắc, nhét cái gì gì đó vào miệng sĩ phu Bắc Hà, để chúng tỉnh ra, để mà viết!

(1)
David Grossman, trong bài viết Những cuốn sách đọc tôi, Books that have read me, trong Viết trong bóng tối, kể, Bruno Schulz, khi được hỏi, viết từ cảm hứng gì, đã nhắc tới sự nghẹt thở, suffocation.
Bị nghẹn chiến lợi phẩn, như thế, biết đâu lại đẻ ra văn chương!
Cùng tắc thông mà! 
*
For let us keep one fact clearly in mind: the German language was not innocent of the horrors of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ Đức không thơ ngây vô tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)
George Steiner, Phép Lạ Hổng (The Hollow Miracle)

Khi điểm cuốn Chuyện Kể Năm 2000, Gấu “nhà phê bình, điểm sách" đã bệ câu trên để lên đầu bài viết, chỉ để làm rõ ra một điều, là, cái ngôn ngữ Mít, được sử dụng để viết cuốn tiểu thuyết trác tuyệt này, thì không thể giả đò thơ ngây vô tội, trước Cái Ác Bắc Kít, mà hậu quả của nó là trại tù Tân Trào đối với một BNT chống Đảng, và trại tù cải tạo đối với sĩ quan VNCH, Miền Nam.

Trong cuốn Errata, một thứ hồi ký nhìn lại đời mình, an examined life, George Steiner đọc lại bài viết của ông:
Lầm lỗi nẩy nở không thể chịu đựng được khi chúng trở thành vô phương chữa trị.
Errors grow more unbearable as they become irreparable.

Phép Lạ Hổng cho thấy, những lời dối trá và sự dã man tàn bạo của chế độ toàn trị, đặc biệt là chế độ Đệ Tam Reich nhưng còn ở trong những chế độ khác nữa, thì ăn ý, conjointed, với sự hư ruỗng, băng hoại của ngôn ngữ, và tới lượt, được nuôi dưỡng, tiếp sức, fuelled, bằng băng hoại, hư ruỗng, corruption.

Sự dối trá ở trong nước hiện nay như vậy là do băng hoại ngôn ngữ mà ra nữa. Đọc mấy cái blog, những cái còm, những cái xin một ngày không nói dối, thấy toàn chuyện ruồi bu!
Ăn cướp nói dối là giải phóng. Băng hoại, hư ruỗng là từ đó mà ra.