*



30.4.2012

Whatever Happened

Whatever happened had already happened.
Four tons of death lie on the grass
and dry tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever happened will stay with us
and with us will grow and diminish. 

But we must live,
the rusting chestnut tells us.
We must live,
the locust sings.
We must live,
the hangman whispers.

Adam Zagajewski

Bất Cứ Cái Chó Gì Xẩy Ra 

Bất cứ cái chó gì xẩy ra thì đã xẩy ra mất mẹ nó rồi.
Bốn tấn người chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt nước mắt cứ thế ở mãi cùng những chiếc lá bàng
ở trong truyện Ðôi Bạn của Nhất Linh
[những chiếc lá của cây herbarium: cây mẫu]
Cái chó gì xẩy ra thì sẽ bám chặt lấy chúng ta
và cùng với chúng ta, sẽ lớn mãi ra, và nhỏ mãi đi. 

Nhưng chúng ta phải sống,
[Thằng Còi, Cái Hĩm… không, không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ sét bảo chúng ta.
Chúng ta phải sống,
con châu chấu hát.
Chúng ta phải sống,
HPNT thì thầm bên tai Gấu. 

Search

 

I returned to the town
where I was a child
and a teenager and an old man of thirty.
The town greeted me indifferently
but the streets' loudspeakers whispered:
don't you see the fire is still burning,
don't you hear the flame's roar?
Get out.
Find another place.
Search for it
Search for your true homeland. 

Adam Zagajewski 

Tìm 

Tôi trở về thành phố
Nơi tôi đã sống như một đứa bé
Và một thằng bé
Và một ông già 30 tuổi
Thành phố dửng dưng đón tôi
Nhưng cái loa ở đầu đường thì thầm:
Mi không thấy lửa vẫn cháy,
Mi không nghe ngọn lửa gào?
Cút cha mày đi!
Tìm một nơi chốn khác
Tìm nó.
Tìm quê hương thực sự của mi. (1)


Tôi nhìn bức hình

Tôi nhìn bức hình thành phố tôi ra đời
nhìn những khu vuờn xum xuê, những con phố soắn vòng, những ngọn đồi,
những mái nhà thờ Thiên Chúa, những vòm nhà thờ Chính Thống,
nơi Chúa Nhật, những giọng nam trầm cất lên mạnh mẽ
khiến hàng cây lối xóm run lên bần bật như trong cơn bão;
Tôi liếc nhìn và tôi không làm sao quay đi, nước mắt ràn rụa,
và bất thình lình, tôi ngộ ra rằng thì là họ vẫn còn sống.
như thế chẳng có gì xẩy ra, họ vội vã chạy tới những buổi diễn thuyết,
đợi xe lửa, lấy xe điện màu xanh da trời, kiểm tra lịch trình, nghe nhạc,
đọc báo hàng ngày, sống trong hối hả, trong sợ hãi, luôn luôn trễ,
có tí bất tử ở trong rất cả, nhưng họ đâu biết,
một tên trễ trả tiền mướn phòng, một tên khác sợ bị phổi,
tên thứ ba không thể hoàn tất luận án về Kant,
không hiểu sự vật là gì trong chính chúng
bà tôi vẫn tới Brzuchowice, mang một cái bánh
trên hai cánh tay duỗi dài, và chúng không rủ xuống,
trong một tiệm thuốc Tây, một đứa bé trai nhút nhát đòi thuốc chữa nhút nhát,
một cô gái ngắm nghía hai cái vú còn nhỏ của mình trong một tấm gương,
ông anh em bà con của tôi đi ra công viên liền tù tì sau khi ra khỏi bồn tắm,
và không hề biết rằng, liền tù tì sau đó anh ta bị cảm lạnh, sưng phổi,
nhiệt tình đôi khi bật ra vào mùa đông, những ngọn đèn vàng tạo những vùng sáng tròn ấm cúng;
vào Tháng Bẩy, lũ ruồi huyên náo ăn mừng ánh sáng lớn mùa hè,
và vo ve những điệu nhạc ca tụng hoàng hôn,
những cuộc tàn sát xẩy ra, những cuộc nổi dậy,
những cuộc tống xuất, lưu đầy,
chế độ Đệ Tam Reich độc ác nhập vào những bộ quân phục
mật vụ NKVD khùng xâm lăng, những ngôi sao đỏ hứa hẹn
tình bạn nhưng có nghĩa là bội phản,
nhưng họ không nhìn thấy điều này, họ hầu như không nhìn thấy
họ có quá nhiều điều để làm,
họ cần phơi khô than cho mùa đông, tìm một vị bác sĩ tốt,
đống thư không trả lời cao dần, màu mực vàng phai dần
cái đài chơi trong phòng, món đồ mua sau cùng của họ,
nhưng họ vẫn ưu tư về đời thường và cái chết
họ không có thì giờ,
họ xin lỗi,
họ viết những lá thư dài và những tấm bưu thiếp ngắn ngủn.
họ luôn luôn trễ, trễ đến tuyệt vọng,
như chúng ta, y chang chúng ta, y chang tớ.

Adam Zagajewski

THE LAST TOAST

I drink to the house, already destroyed,
And my whole life, too awful to tell,
To the loneliness we together enjoyed,
I drink to you as well,
To the eyes with deadly cold imbued,
To the lips that betrayed me with a lie,
To the world for being cruel and rude,
To God who didn't save us, or try.
1934
Anna Akhmatova

 

Bữa nhậu chót 

Ta uống mừng căn nhà đã hoàn toàn bị tiêu huỷ
Mừng trọn đời ta, thật dễ sợ nếu phải kể ra
Mừng nỗi cô đơn ta và mi cùng chia sẻ
Mừng mi nữa chứ, làm sao không?
Mừng đôi mắt lạnh lùng chết người
Mừng cặp môi thốt lời dối trá
Mừng thế giới quá tàn nhẫn, thô bạo
Mừng Ông Trời đếch thèm cứu vớt chúng ta
và cũng chẳng thèm thử .


30.4.2012

Warning: e-mail TV [yahoo.com] bị virus, [nhiều người bị], tự động gửi/nhận e-mail loạn cào cào. Bạn đọc/bạn bè xin lưu ý.

Thống Kê

25 Apr 2012 424
26 Apr 2012 540

Không biết có phải vì ngày 30 Tháng Tư sắp tới, số khách viếng TV, bữa nay, giờ này, 6:18 PM, local time, là 540 visitors.
Như thế, tới nửa đêm về sáng, hẳn là còn bảnh hơn nữa.
Một con số kỷ lục!
Tks.  TV/NQT

Tổng cộng: 627 visitors/26.4.2012.
Tks again. NQT


Đỉnh cao chói lọi
Sinh nhạt Bác
Viên gạch Bác


Một số tiết lộ về cuộc chiến từ tài liệu CIA

Greene viết Người Mỹ Trầm Lặng, là cũng từ nguồn này, qua lần gặp gỡ một anh Xịa, khi đi thăm Le Roy, trên đường trở về Sài Gòn. (1)

(1)

Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng  bật ra, khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways of Escape.

"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp tùng Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là CIA, [an American attached to an economic aid mission - the members were assumed by the French, probably correctly, to belong to the CIA].  Không giống Pyle, thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét, suốt trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực lượng thứ ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ cận kề với giấc mộng lớn của Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại Phi Châu.

Trong Người Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York Harding – cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây thơ, nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo.
Người Mẽo tìm kiếm một nhà lãnh đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible, purely nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân Việt Nam, và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."

Greene rất chắc chắn, về nguồn của Người Mỹ trầm lặng:

"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những nhân vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of escape

30.4.2010
09

05

*

Loyauté

par DUONG THU HUONG

Trung

Trung là đức tính đầu tiên của những triều đại phong kiến Đông phương đòi hỏi ở thần tử, phải trung với vua. Ngay từ khi nằm nôi, con nít Á Châu đã được học điều này. [Khi nghe tin Stalin chết, đứa trẻ con ngày nào ở trong Tố Hữu sống dậy, và thốt lên, "Tiếng đầu lòng con gọi Stalin", là do đó]. Ngay từ khi còn trẻ, với tôi, trung với vua được thay thế bằng trung với Đảng Cộng Sản. Từ Vua qua Đảng là một quá trình tự thân. Vào lúc 20 tuổi tôi lao vào cuộc chiến chống Mỹ. Thực tại thực địa làm tôi khám phá ra những trang quá đen tối, đến nỗi tôi lại phải mở ra cuốn tự vựng của mình, để tìm hiểu. Những từ ngữ hiện ra như những xác chết thối rữa, vì không được ướp formol. Tôi bước qua ngả đường nổi loạn. 

Năm 1991, tên bộ trưởng Nội vụ đến gặp tôi trong nhà tù. Hắn hỏi tôi, sao dám chống Đảng. "Mi nghe đây bà nói đây này. Hơn hai triệu thằng CS bợ lên một uỷ ban trung ương gồm ba trăm thằng. Rồi ba trăm thằng này bợ lên một bộ chính trị gồm 13 cái đầu ngu đần. Nếu ngất ngưởng ở trên đầu thế gian, là 13 tên ngu đần, bại hoại này, thì chẳng có lý do gì để mà bà trung thành với Đảng. Đảng đâu phải là ông Giời sống ở trên Giời. Đảng là một nhóm 13 tên. Tại sao bà lại phải trung với chúng?". Vào lúc tên đồ tể vung búa chặt đầu con bò, trước khi xả thịt nó, là tôi hết còn tin vào chữ “trung”. Đúng ra, tôi đổi hướng nó: trung chỉ có nghĩa khi mình vận nó vào chính mình. Và như thế, con người tự do chọn lựa và đảm nhận những chọn lựa của mình. Kể từ lúc đó, “trung” không còn là một thánh tượng tôn thờ, cũng không phải là xác chết thối rữa. Nó trở thành bạn đường của tôi, cái bóng của tôi, hơi thở của tôi…. Phải mất ba chục năm làm giặc tôi mới hiểu và làm chủ được, ý nghĩa của một từ. Thật đau thương. Cũng vậy, tôi nghĩ, là nhà văn là kẻ bị kết án khổ sai, bởi vì, trước khi sử dụng một từ, phải chiến đấu với những bóng ma của nó. Tôi chúc những nhà văn, những kẻ mơ mộng, những kẻ khùng điên, và những kẻ bị kết án một chiến thắng huy hoàng.

"Nous ne lui demandons pas de devenir un traître. Nous lui proposons une nouvelle définition du mot loyauté."

Le Carré: Un homme très recherché (1)

[Chúng tôi đâu có đòi bà trở thành một kẻ phản bội. Chúng tôi đề nghị bà một định nghĩa mới về lòng trung thành với Đảng VC]

Lần thứ hai tôi khóc là năm 1984 khi tôi đến Mascơva. Tất cả những người Việt Nam khác đến đấy đều hớn hở, sung sướng. Riêng tôi thì nhục nhã không thể tả được. Vì khi ở trong nước, tôi vẫn có ấn tượng dân tộc mình là dân tộc anh hùng và là một dân tộc cũng có được một cuộc sống xứng đáng. Nhưng khi đến Mascơva trong một phái đoàn điện ảnh trẻ thì tôi mới nhìn thấy ra rằng, người Việt Nam bị khinh bỉ. Người Việt Nam đầu đen chỉ xếp hàng trong các đội quân dài dặc các bà già Nga bụng to để mua nồi áp xuất, bàn là điện nhằm gởi về nước. Những người bán hàng họ mắng cho như là mắng khỉ ấy. Họ mắng cũng đúng vì người mình khuân hàng đống nồi, hàng đống sản phẩm của người ta để tuồn về nước. Khi đứng ở khách sạn Peking nhìn xuống đường, tôi thấy những đoàn đại biểu Việt Nam trong những bộ quần áo complet gớm giếc trông như những đàn bò đi trong thành phố. Tôi hoàn toàn vỡ mộng và tôi khóc. Một nhà văn Nga mắng tôi. Anh ta bảo rằng, “người ta đi Nga người ta sung sướng, còn bà thì tại sao bà lại khóc như cha chết vậy. Sao lại vớ vẩn thế”. Anh ta không biết nỗi đau đớn của tôi khi thấy thân phận của người Việt Nam.
DTH 

Đây là nỗi nhục mà dân tộc Mít phải chịu sau 30 Tháng Tư 1975, trên toàn thế giới. Nỗi nhục “anus mundi”, [là cái hậu môn của thế giới], như cái tên của nó, nhờ Milosz, mà có được.
Ở Canada, GCC rất nhiều lần vô tiệm của tụi mũi lõ, bị hỏi, và khi trả lời, bị bồi thêm 1 câu, mày là Mít, OK, nhưng Bắc Kít, hay Nam Kít. Khi trả lời Nam Kít, thằng chủ quán gật đầu, và Nam Kít thường rất tự hào về điều này. GCC chẳng thấy tự hào tí nào, tất nhiên, vì cũng…  Bắc Kít.
Và dù không phải Bắc Kít, Nam Kít thứ thiệt, thì cũng đếch tự hào nổi.
Sợ còn đau gấp đôi, gấp ba lũ Bắc Kít.

Chúng đâu thấy đau? 

Moi, je traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.

Gấu cũng có thể nói như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?


Hổ Khủng Khiếp VC

“Chúng tôi không có được những người lãnh đạo được Nobel Hòa Bình như Đức Phật Sống, hay Phu Nhân Aung San Suu Kyi. Đây là những tiếng nói có ảnh hưởng quốc tế”, Nguyễn Quân phán. [Giá như ông Nobel Toán của chúng tôi cầm cái bửu bối Nobel mà dí vào lăng Bác H, thì có thể…, hà hà!]. Ông là một vị bác sĩ Mẽo gốc Mít. Ông anh của ông, Nguyễn Đan Quế, là một nhà hoạt động nổi tiếng đã trải qua hơn 30 năm trong nhà tù VC, và bây giờ, tù tại gia. Nguyễn Quân đại diện lực lượng ở hải ngoại, trong những cuộc gặp gỡ với những nhà nước quốc tế, và đây là 1 mục tiêu khó bằng trời, chẳng khác gì Sisyphus vác đá. “Chúng tôi làm việc cật lực để mong được dân chúng quan tâm. Dân chúng đếch muốn nghe nói tới xứ Mít, bởi cuộc chiến trước đây. Và chúng tôi càng nói nhiều thì chúng tôi càng trình ra thêm nhiều vi phạm nhân quyền của VC”. Ông nói. Có hai Thượng Nghị Sĩ Mẽo, trong năm nay, đề cử Nguyễn Đan Quế vào giải Nobel Hòa Bình.
Miến cũng cho thấy, tiên đoán khi nào những chế độ như Mít VC, như quân phiệt Miến… sụp đổ, là trò chơi của những tên khùng. Nhưng nếu lịch sử hiện đại có 1 tên…  “giao liên” [guide; người dẫn đường, đưa đường], thì dân Mít quả đã từng chứng tỏ họ đủ sức đứng lên chống lại đàn áp, thống trị. Cái nhà nước VC vừa mới được nhắc nhở điều này, và vừa nếm mùi đứng dậy của một người dân Mít, tromg 1 biến cố chưa từng có vào Tháng Giêng. Ở bên ngoài thành phố Cảng Hải Phòng, một tay chủ trại chuyên nghề đánh cá đã mở ra 1 cuộc nổi dậy có võ khí chống lại nhà cầm quyền VC địa phương, khi tụi khốn kiếp toan tính tịch thu đất của ông, sau khi hợp đồng thuê của ông hết hạn (quyền tư hữu tài sản chưa được phép tại Việt Nam). Anh trở thành anh hùng quốc gia, và trong một bước ngoặt quái đản của sự kiện, chính quyền trung ương, và báo chí do nhà nước kiểm soát, lúc đầu chỉ trích anh chủ trại đánh cá, sau quay 180 độ, phò anh ta, hà hà!
Trong năm tới, những hợp đồng thuê như thế sẽ hết hạn trên toàn quốc, và sẽ ảnh hưởng khốc liệt đến số phận hàng ngàn người dân làng nghèo khổ. “Đó là những bom hẹn giờ, kêu tích tích suốt xứ Mít”, Thayer phán.
Cho tới nay, Đảng VC vẫn lèo lái, tránh né bãi bom hẹn giờ, và vẽ ra [cái mà Thầy Cuốc gọi là] “tự sự chính trị”, của xứ Mít VC hiện thời, như là một trong những thành công về kinh tế, và ổn định về chính trị. Nhưng với những đổi thay, như là một phép lạ, xẩy ra ở Miến, song song với nó, là đàn áp người dân phê bình nhà nước, đòi hỏi dân chủ của Đảng VC, đã đến lúc vấn đề nhân quyền phải được coi là trọng tâm trên sàn diễn chính trị trong những cuộc bàn bạc, thảo luận, làm ăn…  giữa Tây Phương với xứ Mít VC. Lực lượng đòi hỏi dân chủ cho xứ sở - bị đánh phá tơi bời, bị bách hại dòng dã bao năm trời, nhưng chẳng hề bao giờ bị dập tắt, dẹp tan, làm câm tiếng – phán, họ đã sẵn sàng nói với thế giới câu chuyện của họ. Nguyễn Quân, thường xuyên liên lạc với ông anh ly khai Nguyễn Đan Quế, nhớ lại cuộc nói chuyện giữa hai anh em mới đây: “Ông nói với tôi, bây giờ khác rồi. Dân chúng không còn sợ như 10 năm trước. Nhiều, rất nhiều người trẻ nhập cuộc, chúng càng bắt thì lực lượng càng mạnh thêm, lớn thêm”.  +

Đoạn trên Bi Bì Xèo vờ, đếch dám dịch, hà, hà!
Chúng làm như đếch có ai dịch nổi, hoặc đếch có ai dám mó dế VC, chắc thế!

Một bài viết trên báo Mẽo, dịch, mà còn tự ý kiểm duyệt, sợ VC đến như thế, thì còn mong gì ở đám này.
Có khi cũng 1 thứ Cớm Văn Hóa của Đảng Ta!

Đâu phải 1, mà rất nhiều lần.

Một trong những mặc cảm tội lỗi của lũ mũi lõ Tây Phương, mà tác giả bài báo trên FP nhắc tới trong bài viết nêu trên, chính là cái sự kiện, thí dụ, Bi Bì Xèo thay thế toàn bộ đám bồi xưa cũ của VNCH, bằng đám bồi viết mới, ra đi [qua Tây Phương] từ Miền Bắc. Và, tạo cú “đứt đoạn tri thức luận”, về đủ thứ hiểu biết, tri thức, giữa cũ và mới.
Hiển nhiên nhất là cái cú, đám bồi mới dịch Quần Đảo Ngục Tù là Bán Đảo Ngục Tù.

Đây không phải là chuyện “dịch loạn”, mà là mù tịt về văn hóa, về kinh nghiệm sống, về đọc, về viết, về đủ thứ hầm bà làng: Chúng không hề biết 1 tí gì về tù đầy Cộng Sản, về Toàn Trị, về Lò Thiêu, về con số người chết trong Lò Thiêu, và Lò Cải tạo, về sự khác biệt giữa hai chế độ, giữa Hitler và Stalin. Ông Nobel Toán, cũng 1 thí dụ khác nữa, về “vô tri”: Người “khăng khăng” tin rằng, cuộc chiến Mít là giữa dân Mít và thằng Mẽo xâm lược, “Người” không hề biết đến lũ Ngụy, trong khi bà DTH, thì phải đợi đến năm “1969 khi lần đầu tiên tôi gặp những toán tù binh người miền Nam ở Quảng Bình”…
Đây là cái điều mà bà DHT gọi là man rợ thắng văn minh, trong cuộc chiến Mít

Ngoài cái cú “đứt đoạn tri thức luận”, chúng còn mang theo cái đuôi, suốt đời, “tự động kiểm duyệt”.


Dương Thu Hương: “30 tháng Tư 75, nền văn minh đã thua chế độ man rợ”

Phỏng vấn của Đinh Quang Anh Thái

Dương Thu Hương: (thở dài) Ðiên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc.

Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ . . . nếu người ta muốn. Ðó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Ðó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Ðó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.

Lần thứ hai tôi khóc là năm 1984 khi tôi đến Mascơva. Tất cả những người Việt Nam khác đến đấy đều hớn hở, sung sướng. Riêng tôi thì nhục nhã không thể tả được. Vì khi ở trong nước, tôi vẫn có ấn tượng dân tộc mình là dân tộc anh hùng và là một dân tộc cũng có được một cuộc sống xứng đáng. Nhưng khi đến Mascơva trong một phái đoàn điện ảnh trẻ thì tôi mới nhìn thấy ra rằng, người Việt Nam bị khinh bỉ. Người Việt Nam đầu đen chỉ xếp hàng trong các đội quân dài dặc các bà già Nga bụng to để mua nồi áp xuất, bàn là điện nhằm gởi về nước. Những người bán hàng họ mắng cho như là mắng khỉ ấy. Họ mắng cũng đúng vì người mình khuân hàng đống nồi, hàng đống sản phẩm của người ta để tuồn về nước. Khi đứng ở khách sạn Peking nhìn xuống đường, tôi thấy những đoàn đại biểu Việt Nam trong những bộ quần áo complet gớm giếc trông như những đàn bò đi trong thành phố. Tôi hoàn toàn vỡ mộng và tôi khóc. Một nhà văn Nga mắng tôi. Anh ta bảo rằng, “người ta đi Nga người ta sung sướng, còn bà thì tại sao bà lại khóc như cha chết vậy. Sao lại vớ vẩn thế”. Anh ta không biết nỗi đau đớn của tôi khi thấy thân phận của người Việt Nam.

Man rợ thắng Văn minh.

Hiển nhiên, trước mắt thì ai cũng thấy như thế. Nhưng đấy là mặt nổi của vấn đề. Ngay cả bà DTH, cũng không thể nhìn sâu hơn, để mà nhận ra, là, đâu có phải tự nhiên mà thanh niên Miền Bắc nhỏ máu đầu ngón tay viết đơn tình nguyện vô Nam.

Nhà văn Bùi Ngọc Tuấn nhìn "sâu" hơn, coi tình trạng man rợ của Miền Bắc, là nằm trong chính sách “pha lê hóa”, ông bị nhà nước bỏ tù, mà còn phải cám ơn nhà nước, bởi nếu không, làm sao lấy được Miền Nam?

BNT viết:

Trong chiến tranh, việc gìn giữ hậu phương là vô cùng quan trọng. Hậu phương là gốc rễ, là cội nguồn, là căn cứ bảo đảm sống còn cho tiền tuyến, cho chiến đấu và chiến thắng.
Khẩu hiệu: Dù phải đốt cháy dẫy Trường Sơn cũng vẫn chiến đấu tới thắng lợi hoàn toàn đã thể hiện rõ quyết tâm của miền Bắc giành chiến thắng bằng bất kỳ giá nào. Sự có mặt của 50 vạn sĩ quan và binh lính Mỹ cùng quân đội các nước đồng minh như Nam Triều Tiên, Úc,... tại miền Nam Việt Nam đã đẩy miền Bắc Việt Nam vào những năm tháng cực kỳ gay go gian khổ: Dốc toàn bộ nhân lực, vật lực, hy sinh tất cả cho cuộc chiến.
Trong cuộc chiến tranh khốc liệt này, miền Bắc thực hiện chủ trương pha lê hoá hậu phương. Những người đã từng cộng tác với Pháp, với Mỹ, những người có biểu hiện thiếu lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, những phần tử đáng ngờ, những kẻ trộm cắp, du thủ du thực,... tóm lại tất cả những gì là vẩn đục so với yêu cầu trong như pha lê của một xã hội cần pha lê hoá, đều bị tập trung cải tạo và đó được coi là một biện pháp không thể thiếu. Hơn nữa, nó còn có ý nghĩa răn đe những người khác, hướng tất cả vào mục tiêu chung.

Giả như Miền Bắc văn minh như...  Miền Nam, thì liệu có "thoát" cuộc chiến "lầm lẫn"?

Giả như đúng là man rợ thắng văn minh, thì kể từ 30 Tháng Tư 1975, đất nước thống nhất, xứ Mít có đủ mọi khả năng, cơ hội, cứ phăng phăng mà tới văn minh, vậy mà đi lùi đến như hiện nay, là sao?

Rồi còn cái đám tinh anh Miền Nam, được Miền Nam cho đi du học, như là 1 cái nguồn dành cho hậu chiến, chúng quá rành chế độ văn minh của Miền Nam, tại sao cho đến giờ chúng vẫn bợ đít… man rợ?

GCC nhìn khác bà DTH: Cuộc chiến Mít là giấc mơ đẹp nhất của dân Mít. Dân Mít được Thượng Đế cho có mặt ở trên cõi đời này, là để thực hiện nó, dòng dã theo suốt chiều dài lịch sử Nam Tiến của nó.

Bạn có thể giải thích lịch sử Nam Tiến của dân Mít, như là 1 cuộc chạy trốn man rợ, mà nguồn gốc của nó là Cái Ác Bắc Kít, như trường hợp Nguyễn Hoàng bỏ chạy Miền  Bắc, tìm chốn vạn đại dung thân.

Cái khốn kiếp, chỉ xẩy ra sau ngày 30 Tháng Tư 1975.

Làm gì có hàm hồ, lầm lẫn của lịch sử.

Mặc dù cái bề ngoài phỏng giái, cởi mở, đám Trùm VC hiện thời, về mặt chính trị, chúng bảo thủ đến tận lỗ đít, như bất cứ 1 tên Trùm VC, kể từ khi thống nhất đất nước.
Đứng đầu là anh y tá dạo, giao liên ngày nào, Anh Cu Dzũng, Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng VC, và Chủ Tịt Nước Trương Tấn Sang, dưới trướng là một lũ lâu la bộ hạ, chỉ 1 dúm này đã tàn bạo dẹp tắt lực lượng hô hào dân chủ phát sinh từ trong nước, chẳng mắc mớ liên hệ gì với hải ngoại, có tên là Khối 8406, lấy hứng từ Charter 77, của Czechoslovakia. Thành lập từ năm 2006, lực lượng này thu hút hàng ngàn người công khai ủng hộ, và có vẻ như còn hàng ngàn người khác, không công khai ra mặt, trước khi nhà nước VC chặt đầu nhóm, bằng cách thẩy cả chục đấng bày trò vô tù. Thêm vào đó, nhà nước VC mò tới những vị thầy chùa, thầy tu, linh mục, khi họ đòi hỏi mở rộng cánh cửa tôn giáo, mấy năm gần đây, chúng bèn cộng thêm cả những người yêu nước, kêu gọi dân Mít đứng lên chống lại đàn anh Tẫu ngày nào.
Tuy nhiên, dù rủi ro, hiểm nguy chờ đợi, những nhà hoạt động Việt Nam tiếp tục lớn giọng đòi hỏi đa nguyên chính trị, vạch mặt tham nhũng, hối lộ, đòi cho bằng được tự do ngôn luận –biết trước con đường đi vô tù, hay, nếu may mắn, chạy trốn ra được hải ngoại, như là những nhà tị nạn chính trị.
Với những quan sát viên trường kỳ theo dõi Việt Nam, đám chóp bu sợ điều này xẩy ra, cũng chẳng kém.“Chúng theo dõi sát sao chuyện xẩy ra, và ‘no nắng’”, Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia về chính sách ngoại giao của VC ở Đại Học George Mason, phán. “Trong quá khứ Mít VC dùng vai trò của mình ở ASEAN để thúc đẩy Miến Điện thay đổi, nhưng bây giờ Miến thay đổi nhanh hơn Việt Nam”.
Bắc Bộ Phủ ở Hà Nội đi sai một nước cờ: Trước đây, những quan tâm về nhân quyền ở Miến Điện ảnh hưởng đến vai trò và tính hợp pháp quốc tế của tổ chức ASEAN, vì vậy, đóng cửa bảo nhau,Việt Nam và những nước khác trong khối kín đáo yêu cầu Hội Đồng Quân Nhân Miến lỏng bàn tay sắt. Mít VC đâu ngờ, đùng 1 phát, Miến quay 1 cú 180 độ, và với một Miến Điện càng ngày càng bớt “Cớm Trị”, Bắc Bộ Phủ như ngồi trên chảo lửa. “Nếu nhân quyền khởi sắc ở Miến thì VC cũng phải làm sao được như họ, thế mới khổ cho nhà nước VC", theo Carl Thayer, một chuyên gia về Việt Nam ở Australian Defense Force Academy.
Bắc Bộ Phủ còn sợ mất mẹ nó cái vai trò trung gian số 1 của họ, giữa Mẽo và Tẫu.
 “Mít VC sợ biến thành kẻ bị phỉ nhổ, so với Miến Điện, được thương yêu, trong khối ASEAN”, Thayer phán.


Amoz Oz đọc Y Sĩ Đồng Quê của Kafka

Bạn đọc Y Sĩ Đồng Quê, và tưởng tượng ra rằng thì là, đây chính là linh hồn của một miền đất, nghe tiếng cầu cứu của một con bệnh trầm trọng ở mãi tận miền nam, và, tìm đủ mọi cách để đến bên giường người bệnh, do không có ngựa, nên phải mượn đôi ngựa của con quỉ ở nơi chuồng lợn, và vì thế mà phải hy sinh cô hầu gái, cuối cùng nhận ra, chỉ là báo động hoảng, và ngửa mặt lên trời la lớn: "Ta bị lừa, bị lừa, bị lừa!"
Và đây là hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:

"Trần trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất, với cỗ xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng" ("Naked, exposed to the frost of this most unhappy of ages, with an earthly vehicle, unearthly horses, old man that I am, I wander astray."

Một cách nào đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất hiện dưới cái mặt nạ của một vua Lear, của một ông tướng về hưu.
Thê thảm nhất, là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự đóng góp của mình ở trỏng, viên tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng lợn của cô con dâu, được vỗ béo bằng những thai nhi !

Cái chết của Lucien de Rubempré là một bi kịch lớn trong đời tôi, Oscar Wilde đã từng tuyên bố.
Nhưng Lucien de Rubempré là ai?
Một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết của Balzac.
Varga Llosa, "chuẩn" Nobel như tin của AFP ở trên, tin rằng, lời tuyên bố của Wilde, là phải được hiểu theo nghĩa 'thực tại ở đời", theo nghĩa đen!
Bởi vì có những nhân vật giả tưởng còn thực hơn cả sự thực!
Viên y sĩ đồng quê của Kafka là một "vĩ nhân" như thế!  (1)

Cô gái Rose hình như đã nói ra những điều kiện thực sự của tờ khế ước, của Kafka: "Bạn chẳng thể nào biết điều bạn đang tìm, trong chính căn nhà của mình".
Tội lỗi ngồi thu lu đằng sau "cánh cửa ọp ẹp của cái chuồng heo đã bỏ hoang từ bao nhiêu năm tháng...".

Theo nghĩa trên, Tolstaya phán, chủ nghĩa CS không từ trên giời giáng xuống đầu dân Nga, mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử.... (1)

Với xứ Mít, thì nó là Cái Ác Bắc Kít, và có thể còn là Kẻ Thù Truyền Kiếp của nó, là Anh Tẫu Phía Bắc, mà, trong khi chống nó, để “tồn tại”, “sống sót”, Cái Ác Bắc Kít nẩy sinh, và cứ thế sinh sôi nẩy nở, cho đến ngày 30 Tháng Tư  1975, bùng nổ ra và trở thành điều mà Milosz gọi là “anus mundi”, cũng đã từng xẩy ra tại xứ sở Ba Lan của ông. (2)

(1)

Tatyana Tolstaya, trong một bài người viết tình cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại Cấm, và chỉ được đọc qua bản dịch, Những Thời Ăn Thịt Người (đăng trên tờ Thế Kỷ 21), cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống, cái tư duy chuyên chế không phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga, dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không ăn, mà ăn thịt lẫn nhau. Chính cái phần Á-châu man rợ đó đã được đưa lên làm giai cấp nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không có sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể sống dai như thế. Puskhin đã từng van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga!

(2)

Anus Mundi có nghĩa là hậu môn của thế giới.

Theo Milosz, một người Đức đã viết ra định nghĩa này, để chỉ xứ Ba Lan, vào thời điểm 1942.
Nhưng Anus Mundi lại làm cho người đọc liên tưởng tới từ Anno Mundi, tiếng La Tinh, có nghĩa là "vào năm của thế giới" [in the year of the world], tức khi thế giới bắt đầu.

Milosz định nghĩa Anus Mundi: The cloaca of the world.

Như chúng ta đã biết, chỉ có loài vật thượng đẳng mới có cơ quan sinh dục riêng, hậu môn, nơi để bài tiết, riêng. Với loài hạ đẳng, chỉ có cloaca, tức hậu môn, dùng cho cả hai việc, làm cơ quan sinh dục và làm nơi bài tiết.
Xứ sở Balan vào năm 1942, là anus mundi, là theo nghĩa đó.

Khi Gấu mượn từ này của Milosz, trong bài viết về Nếu Đi Hết Biển của Trần Văn Thuỷ, là theo nghĩa của từ Anno Mundi, năm bắt đầu thế giới, và còn theo nghĩa năm Thượng Đế từ bỏ chúng ta, của triết gia người Do Thái, Emmanuel Levinas.
Và Gấu coi đó là năm 1975, đối với Việt Nam.

Hậu môn của thế giới.
Năm Thế Giới.
Năm "Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người". [TCS].
Năm chân lý "nước Việt Nam là một", bị lường gạt.
Bị làm nhục.


1975: Năm Cái Ác Bắc Kít biến thế giới thành Bãi Đánh Hàng!

Cuộc chiến Mít chẳng có tí ngu xuẩn, lầm lẫn lịch sử, mà còn bắt buộc phải xẩy ra, nếu không thì phải làm cho nó xẩy ra, bằng 1 “coup monté”, nghĩa là, bằng mọi cách phải nhử Mẽo ngu nhẩy vô Miền Nam rồi làm cho nó sa lầy, cho đế quốc Đỏ rảnh tay ở những khu vực khác. Đây là 1 sự thực lịch sử, GCC sợ bà DTH chưa nhìn ra đâu, hà, hà!
Cú dàn dựng để dụ Mẽo nhảy vô Miền Nam, là vụ đầu độc tù Phú Lợi, và từ đó mọc ra Mặt Trận Giải Phóng.

Lần mới qua Cali thăm bạn Tháng Tám 2011 vừa rồi, GCC gặp Nguyễn Quốc Thái, từ Việt Nam qua chơi. Anh là 1 trong những ông Trùm, của tờ Trình Bày, cũng 1 đám Bắc Kít di cư không quên Hà Nội. Anh bây giờ tỉnh táo lắm rồi, thành ra thôi bỏ chuyện cũ, nói chuyện mới. Anh cho biết, ở trong nước, có 1 tay [anh nói tên, GCC quên rồi], cũng băn khoăn, bức xức như GCC về vụ Phú Lợi, và bèn mò đi tìm những người còn sống, VC nằm vùng, bị tó vô Phú Lợi, hỏi cho ra.
Mấy tay sống sót bèn cho biết, làm đếch gì có, chúng tớ bữa đó tham ăn, trúng thực, ỉa chảy, Diệm sợ quá, bèn cho xe cứu thương cấp tốc chở vô nhà thương, thế là Đảng bèn hê lên Diệm đầu độc VC nằm vùng!

Hà, hà!

Còn cái vụ Mẽo ngu nhẩy vô Miền Nam, ngu như thế nào, thì đã có Graham Greene bật mí cho chúng ta biết, qua cuốn Người Mỹ Trầm Lặng. Bạn đọc cuốn này, kèm cuốn tiểu sử của ông do tay Sherry viết, kèm theo cuốn tự thuật, Ways of Escape, do chính ông viết, là hết… ngu, hết ngây thơ hết lầm lẫn.

Hà hà!
*

“Tôi là một kẻ có niềm tin lớn lao vào Lò Luyện Ngục”, Greene đã từng trả lời như vậy, trong một cuộc phỏng vấn. “Lò Luyện Ngục, với tôi, là có ý nghĩa…. một khi bị ném vào đó, con người có ấn tượng về sự du di, chuyển động. Tôi không thể nào tin vào Thiên Đàng. Mọi người cứ ỳ ra, ở đó. Đâu còn có điều gì để mà làm nữa!”

 Ở Lò Luyện Ngục đó - ở cuộc chiến Việt Nam đó – Fowler vô trước, sau tới anh chàng thiện nguyện, cố vấn Mẽo, đẹp trai, trẻ măng. Anh này tin vào Thiên Đàng. Anh ta tới, được trang bị bằng cả một tự sự lớn [a great narrative], về Việt Nam. Anh ta sẽ bắt ép Việt Nam phải “thích hợp” với nó – Tiền Đồn Chống Cộng cho cả một trái đất sẽ không còn Cộng Sản nữa, thí dụ vậy. Anh ta có một câu chuyện của anh ta về Fowler, và ngược lại, Fowler cũng có một câu chuyện riêng của mình, về tên thực dân mới ngu si đần độn, cứ tưởng mình sẽ đem tự do dân chủ theo kiểu Mẽo đến cho thuộc địa cũ của Tây, và đây là giọng kể chính của cuốn tiểu thuyết. Cả hai tay này lại có những câu chuyện của riêng của họ về Phượng. Chẳng có một câu chuyện nào tin được. Chúng đều được dựng lên, theo yêu cầu của từng cá nhân, cho hợp với vai trò của mình. Greene hiểu rất rõ, những toan tính vị kỷ, nằm nơi đáy sâu con người, sẽ đẩy con người đi tới đâu. Ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, những toan tính cá nhân này được hiện rõ ra, trên cái nền chính trị, và cùng với nó, là một xứ sở. Qua Phượng, người đọc cảm thấy, đây là một người đàn bà thực, đang hít thở không khí, không phải là một ý tưởng về một người đàn bà mà Pyle đang chôm từ Fowler.

Gừng càng già càng cay, càng ngày, tính ngây thơ ngốc ngếch, mù tịt về thế giới của anh chàng cố vấn Mẽo Pyle càng nổi lên cùng với cuốn truyện, kể từ khi được xuất bản, đúng như Fowler cảnh cáo anh ta:

“Tôi cầu mong Chúa làm cho anh hiểu được những gì anh đang làm ở đây. Ôi, tôi hiểu rất rõ, những nguyên nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp của anh.  Chúng luôn luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi anh có được một vài ý hướng xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm được một tí, về thế thái nhân tình, về con người. Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ Mẽo của anh đấy, Pyle ạ.”

ĐQAT: Từ đó bà lao vào cuộc đấu tranh?

Dương Thu Hương: Ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã là một ngã rẽ trong đời tôi. Ðúng ra, ngã rẽ này đã bắt đầu từ năm 1969 khi lần đầu tiên tôi gặp những toán tù binh người miền Nam ở Quảng Bình. Lúc đó tôi làm công tác ở các binh trạm và những tù binh lần đầu tiên tôi gặp không phải là người Mỹ mà chính là người Việt Nam, cũng đầu đen mắt đen, cũng lùn và da vàng mũi tẹt như tôi, và nói tiếng Việt Nam như tôi. Cho nên tôi mới hồ nghi rằng tất cả những điều người ta nói đây là cuộc chiến tranh chống quân xâm lược thì đó là láo toét. Tuy nhiên vì lúc đó là chiến tranh và tất cả đều lao vào một guồng máy và bị cỗ xe khổng lồ nó cuốn đi. Cho đến năm 75, với thời gian (giọng ngậm ngùi, xúc động), tất cả mọi ngờ vực trong tôi đã chín muồi. Năm 75, tôi hiểu rằng đây là thời điểm quyết định và là ngã rẽ dứt khoát trong tư tưởng của mình.

Note:

Những người Việt Nam, nói tiếng Việt Nam như bà DTH, những người tù binh mà bà gặp ở Quảng Bình, năm 1969, không phải là người Việt Nam, mà là… Ngụy.
Tất cả cuộc chiến Việt Nam, mấu chốt của nó là ở đó: Phải đẩy Miền Nam vào thế kẻ thù, bằng cách nhử Mẽo vô, phải làm sao chúng hết còn là người, mà là Ngụy.
Theo nghĩa đó, Mẽo chính là cứu tinh của VC.
Mẽo là cơ may độc nhất để hoàn tất cuộc chiến Mít, theo nghĩa thống nhất nó, dưới sự thống trị của Bắc Kít.

Cái tởm lợm của cuộc chiến Mít là ở chỗ đó, nó là giấc mơ đẹp nhất theo đúng "đại tự sự lịch sử" của giống dân Mít, bị Cái Ác của một miền đất biến thành 1 sự thực lịch sử ghê tởm nhất.
BBP tìm đủ mọi cách để nhử Mẽo vô Việt Nam, một công đôi ba việc, công, hoàn tất nhiệm vụ chủ nghĩa Đỏ giao phó trên mặt trận toàn thế giới, tư, thống nhất đất nước, bắt 1 nửa đất nước làm nô lệ cho chúng.

Có thể nói, cả thế giới, cả nhân loại, bị Bắc Kít cho vô tròng!

Sáng ngủ dậy biến thành Bắc Kít!

Quốc gia hà khắc nhất Đông Nam Á?

Note: BBC phóng dịch bài Terrible Tiger trên báo Mẽo.

Vietnam may look like a success story, but with Burma's recent thaw, it's now the most repressive country in Southeast Asia.
Việt Nam có thể giống 1 câu chuyện của sự thành công, nhưng với hiện tượng băng tan đương nóng hổi ở Miến Điện, Mít bây giờ là một xứ đàn áp cực đàn áp ở Đông Nam Á.

“Hà khắc” là cái quái gì?

Từ này xưa lắm rồi, từ hồi còn chế độ quân chủ. Bây giờ “toàn trị”, khác.
Lại còn đánh cái dấu hỏi nữa chứ!

Những câu tuyệt cú mèo BBC vờ, thí dụ:
"He told me that things are different now. People aren't afraid like they were 10 years ago. More and more young people are getting involved," he said. "The more they arrest people, the stronger and bigger the movement becomes."
“Ông [Nguyễn Đan Quế] nói với tôi [ông em NDQ] chuyện bây giờ khác rồi. Càng ngày càng có nhiều người trẻ tham gia. Bắt càng nhiều, lực lượng ủng hộ dân chủ càng mạnh, càng lớn thêm”.

Terrible Tiger. BBC dịch, hổ dữ.
Dịch như vậy, thì cũng được, hổ thì dữ rồi, sao hiền được, nhưng tác giả dùng từ “terrible”, khủng khiếp, là muốn nhắc tới terror, khủng bố, đàn áp, theo GCC.
Phải công nhận là cái ông Mít nào làm cho BCC, dịch khéo thiệt! (1)

30 Tháng Tư sắp tới, TV sẽ đi 1 đường tưởng niệm "tích cực", bằng cách trình làng con hổ "khủng khiếp" VC.

Hổ Khủng 

Gần bốn chục niên đã qua, kể từ khi chấm dứt Cuộc Chiến Mít, kẻ thù ngày nào của Mẽo được nhìn, một cách tổng quát, toàn cầu, như một câu chuyện của sự thành công, qua đó, là những thành quả được thổi phồng, bùng nổ về kinh tế, tăng trưởng giai cấp trung lưu, khách du lịch mò tới rất đông, và xưởng sản xuất mọc ra như nấm. Nhưng, khi những cải tổ chính trị đang chuyển đổi Miến Điện, Việt Nam rớt vào nguy cơ trở thành 1 cái gì khác, đếch giống hình ảnh thổi phồng trên.
Tuần này, mấy đấng Trùm VC, ở tòa án TP Sài Gòn ngày nào được đổi tên thành Thành Nhà Hồ, giáng cho ba bloggers Mít tội “cầm đầu chiến dịch chống nhà nước”, một trong những cuộc bắt bớ mới nhất trong nhiều chuỗi bắt bớ, nhằm dẹp tắt, xóa sổ lực lượng chống đối ngày càng lớn rộng.

Trong khi Miến Điện "phóng giái", cởi mở, Mít VC tiếp tục quất túi bụi đám ly khai. Từ Tháng Giêng 13, khi Hội đồng quân nhân Miến thả hàng trăm tù chính trị trong 1 cú ân xá lớn, thì đám cớm VC bắt, ít nhất thì cũng 15 đấng Mít ly khai, và sau đó, tống 11 đấng vô tù. Trong khi Chủ Nhân 1 cái bửu bối Nobel Hòa Bình, Phu Nhân San Suu Kyi, tươi rói sau thắng lợi của cuộc bầu cử, và sẵn sàng ngồi vô cái ghế của Bà ở Quốc Hội, thì những khuôn mặt chống đối nổi tiếng nhất của xứ Mít nức nở trong nhà tù, hay bị quản thúc tại gia, hay, trong trại cải tạo (cái này chưa "xưa rồi Diễm ơi" đâu, như cái tay Mẽo, tác giả bài viết cho biết, vẫn còn được sử dụng rộng rãi tại xứ Mít). Và trong khi Miến ký tên đóng dấu visa cho những phóng viên ngoại quốc, và cởi trói, lỏng trói… cho đám báo chí trong nước, thì xứ Mít của VC trói, ngày một thêm chặt, đám ký giả lô can, kiểm duyệt chặt chẽ tin tức, khóa trang Facebook của lũ tư bản, và những trang web “nhạy cảm” khác, nhờ vậy mà “được điểm” trên thang đánh giá của Hội Ký Giả Không Biên Giới: đứng bét, số 172, trong 179 xứ Đông Nam Á, chỉ hơn hai bậc so với đàn anh Tẫu!

(1)

Khi sử dụng từ “hà khắc”, thay vì “đàn áp”, anh Mít hẳn Bắc Kít làm cho Bi Bì Xèo chắc là muốn nâng bi y tá dạo, giao liên, Anh Cu Dzũng ngày nào, nay là “Ông Dzua Đỏ” của xứ Mít VC, như Nga Hoàng Đỏ Putin.


*

Quốc gia hà khắc nhất Đông Nam Á?

Note: BBC phóng dịch bài Terrible Tiger trên báo Mẽo.

Do cái bài viết Hổ Dữ của BCC từ tờ FP, của Mẽo, lần mới xuống phố chiều hôm qua, một ngày nắng hiếm, GCC bèn nhờ cái tay bán hotdog quen bấm giùm 1 pô hình, ghé tiệm sách, cầm tờ báo chưa từng cầm bao giờ, và, vớ được 1 bài tuyệt vời về văn học Nga, nhìn từ… FP:
Như thế nào Gogol cắt nghĩa cõi Hậu-Liên Xô, và Chekhov và Dos.
How Gogol explains the Post-Soviet World, and Chekhov and Dos.

Đúng cái cách mà Gấu đọc Y Sĩ Đồng Quê của Kafka.
Thừa thắng xông lên, GCC bèn cầm 1 tờ lạ hoắc, báo hình, Port gì gì đó, và lại 1 cú ngạc nhiên lớn: Trong có bài về Garcia Marquez và dân Tẫu: Ông này luôn bực mình, vì cái chuyện người Tẫu không đọc ông, và ngỡ ngàng, khi tới Tẫu, thấy đầy Garcia Marquez, nhưng toàn sách lậu!

*

*

Chúng làm thịt Khựa Già [Bắc Kít], như đám con Karamazov làm thịt ông bố!

Hổ Khủng 

Gần bốn chục niên đã qua, kể từ khi chấm dứt Cuộc Chiến Mít, kẻ thù ngày nào của Mẽo được nhìn, một cách tổng quát, toàn cầu, như một câu chuyện của sự thành công, qua đó, là những thành quả được thổi phồng, bùng nổ về kinh tế, tăng trưởng giai cấp trung lưu, khách du lịch mò tới rất đông, và xưởng sản xuất mọc ra như nấm. Nhưng, khi những cải tổ chính trị đang chuyển đổi Miến Điện, Việt Nam rớt vào nguy cơ trở thành 1 cái gì khác, đếch giống hình ảnh thổi phồng trên.
Tuần này, mấy đấng Trùm VC, ở tòa án TP Sài Gòn ngày nào được đổi tên thành Thành Nhà Hồ, giáng cho ba bloggers Mít tội “cầm đầu chiến dịch chống nhà nước”, một trong những cuộc bắt bớ mới nhất trong nhiều chuỗi bắt bớ, nhằm dẹp tắt, xóa sổ lực lượng chống đối ngày càng lớn rộng.
Trong khi Miến Điện "phóng giái", cởi mở, Mít VC tiếp tục quất túi bụi đám ly khai. Từ Tháng Giêng 13, khi Hội đồng quân nhân Miến thả hàng trăm tù chính trị trong 1 cú ân xá lớn, thì đám cớm VC bắt, ít nhất thì cũng 15 đấng Mít ly khai, và sau đó, tống 11 đấng vô tù. Trong khi Chủ Nhân 1 cái bửu bối Nobel Hòa Bình, Phu Nhân San Suu Kyi, tươi rói sau thắng lợi của cuộc bầu cử, và sẵn sàng ngồi vô cái ghế của Bà ở Quốc Hội, thì những khuôn mặt chống đối nổi tiếng nhất của xứ Mít nức nở trong nhà tù, hay bị quản thúc tại gia, hay, trong trại cải tạo (cái này chưa "xưa rồi Diễm ơi" đâu, như cái tay Mẽo, tác giả bài viết cho biết, vẫn còn được sử dụng rộng rãi tại xứ Mít). Và trong khi Miến ký tên đóng dấu visa cho những phóng viên ngoại quốc, và cởi trói, lỏng trói… cho đám báo chí trong nước, thì xứ Mít của VC trói, ngày một thêm chặt, đám ký giả lô can, kiểm duyệt chặt chẽ tin tức, khóa trang Facebook của lũ tư bản, và những trang web “nhạy cảm” khác, nhờ vậy mà “được điểm” trên thang đánh giá của Hội Ký Giả Không Biên Giới: đứng bét, số 172, trong 179 xứ Đông Nam Á, chỉ hơn hai bậc so với đàn anh Tẫu!

"Vietnam is starting to recognize that by continuing its crackdown on rights, it invites unwelcome comparisons with Burma as the worst human rights abuser in ASEAN [the Association of Southeast Asian Nations]," said Phil Roberson, deputy Asia director of Human Rights Watch.

Xứ Mít của VC bắt đầu nhận ra rằng, nếu cứ tiếp tục quất túi bụi đám ly khai, chống đối, tiếp tục vờ nhân quyền, là càng làm nổi bật sự tương phản giữa Mít VC, và Miến Điện, và càng được gán nhãn, xứ chà đạp nhân quyền tồi tệ nhất trong khối ASEAN, như Phil Roberson, phó giám đốc khu vực Á Châu của tổ chức Nhân Quyền, phán.

[Câu này BCC dịch tếu lắm: Ông Phil Robertson, phó giám đốc khu vực Á châu của tổ chức Human Rights Watch, nói: "Việt Nam bắt đầu nhận thấy rằng với việc trấn áp của mình, họ đã khiến người ta so sánh một cách bất lợi với Miến Điện trong vai trò quốc gia vi phạm nhân quyền nghiêm trọng nhất khối Asean".]

“Tồi tệ nhất”, không phải “nghiêm trọng nhất”, “the most serious”!
Từ “vai trò” ở đây quá tếu!

GCC có 1 kỷ niệm thú vị về từ “nghiêm trọng”, khi ở Trại Cấm Thái Lan, lần đi khám sức khoẻ để "tái định cư" Canada, do cơ quan y tế của UNHCR đóng “vai trò” đảm nhiệm. Trong khi tán gẫu với tay bác sĩ trưởng phái đoàn, [hình như Gấu Cái còn nhớ tên, vì Bả có viết về tay này, trong 1 truyện ngắn, về cú ông đụng độ với đám quản giáo Thái Lan, cũng về "nhân quyền" của đám tị nạn], GCC hứng lên, bèn khoe, tớ là nhà văn, ông ta, mắt sáng rỡ, phán, tao đang cần một nhà văn Mít!
GCC ngạc nhiên quá, hỏi, để làm gì, ông ta bèn chìa ra 1 bản văn bằng tiếng Anh, về Aids, và đề nghị GCC dịch qua tiếng Mít, để sử dụng cho 1 cuốn video phòng ngừa Aids.
Đọc 1 phát, GCC chê, có 1 từ dùng sai, hà, hà.
Ông ngạc nhiên quá, hỏi từ nào, GCC chỉ vô, từ “serious”.
Câu tiếng Anh, như Gấu còn nhớ đại khái,  Aids… nghiêm trọng. Gấu phán, Aids…  nguy hiểm, mới đúng. Ông nghe ra, gật gù, đúng rồi, nguy hiểm chết người, nghiêm trọng cái con khỉ, hà, hà!

Đàn áp chính trị thì là chuyện cũ mèm ở Việt Nam. Kể từ khi Sài Gòn thất thủ, Đảng VC chơi luật bàn tay sắt. Nhưng những năm cô lập do Cuộc Chiến Tranh Lạnh, sự thiếu vắng một thế lực chống đối được tổ chức ở trong nước – chưa kể mặc cảm tội lỗi của Tây Phương về cuộc chiến, cảm tình của phe tả, của đám bợ đít VC – khiến rất ít người quan tâm đến cái hồ sơ nhân quyền thảm hại của xứ Mít VC. Khi VC mở cửa về kinh tế vào những năm 1990, những nhà đầu tư ngoại quốc, và đám bỏ chạy ùa vô/bò về, quốc tế trở nên mù lòa vì phép lạ kinh tế Mít VC. Xứ Mít VC đi từ một trong những nước nghèo nhất thế giới vào giữa thập niên 1980, với bình quân đầu người dưới 100 đô, tới Hổ Á Châu với bình quân 1,130 đô vào cuối năm 2010.

To the outside world, which heralded the government's economic reforms, the country looked to be firmly on the path of post-Cold War liberalization chosen by many countries in the former Soviet bloc. It hasn't hurt the government's image that the millions of foreigners visiting and living in Vietnam are largely untroubled by the restrictions on speech and assembly that are an everyday reality for Vietnamese.

BCC dịch:

Tác giả bài báo cũng nhận xét rằng hàng triệu người nước ngoài đang thăm viếng và sinh sống ở Việt Nam chưa bị ảnh hưởng của các hạn chế hội họp và ngôn luận mà người Việt Nam phải gánh chịu, vì thế hình ảnh của Việt Nam chưa bị phá hỏng.

Gấu Cà Chớn dịch:

Với thế giới bên ngoài, hồ hởi với những đổi mới kinh tế của nhà nước VC, xứ Mít rõ ràng là đang vững tiến trên đường phỏng giái thời kỳ Hậu-Chiến Tranh Lạnh, được chọn lựa bởi nhiều xứ sở trước đây là chư hầu của Liên Xô. Hàng triệu ngoại kiều viếng thăm và sinh sống tại Việt phần lớn không bị khó khăn vì chuyện thường ngày ở xứ Mít, là, nhà nước VC hạn chế ăn nói, hội họp, cho nên hình ảnh đẹp đẽ của xứ Mít VC kể như chưa đứt 1 sợi lông!

Hà, hà!



Amoz Oz đọc Y Sĩ Đồng Quê của Kafka

Bạn đọc Y Sĩ Đồng Quê, và tưởng tượng ra rằng thì là, đây chính là linh hồn của một miền đất, nghe tiếng cầu cứu của một con bệnh trầm trọng ở mãi tận miền nam, và, tìm đủ mọi cách để đến bên giường người bệnh, do không có ngựa, nên phải mượn đôi ngựa của con quỉ ở nơi chuồng lợn, và vì thế mà phải hy sinh cô hầu gái, cuối cùng nhận ra, chỉ là báo động hoảng, và ngửa mặt lên trời la lớn: "Ta bị lừa, bị lừa, bị lừa!"
Và đây là hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:

"Trần trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất, với cỗ xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng" ("Naked, exposed to the frost of this most unhappy of ages, with an earthly vehicle, unearthly horses, old man that I am, I wander astray."

Một cách nào đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất hiện dưới cái mặt nạ của một vua Lear, của một ông tướng về hưu.
Thê thảm nhất, là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự đóng góp của mình ở trỏng, viên tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng lợn của cô con dâu, được vỗ béo bằng những thai nhi !

Cái chết của Lucien de Rubempré là một bi kịch lớn trong đời tôi, Oscar Wilde đã từng tuyên bố.
Nhưng Lucien de Rubempré là ai?
Một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết của Balzac.
Varga Llosa, "chuẩn" Nobel như tin của AFP ở trên, tin rằng, lời tuyên bố của Wilde, là phải được hiểu theo nghĩa 'thực tại ở đời", theo nghĩa đen!
Bởi vì có những nhân vật giả tưởng còn thực hơn cả sự thực!
Viên y sĩ đồng quê của Kafka là một "vĩ nhân" như thế!  (1)

Cô gái Rose hình như đã nói ra những điều kiện thực sự của tờ khế ước, của Kafka: "Bạn chẳng thể nào biết điều bạn đang tìm, trong chính căn nhà của mình".
Tội lỗi ngồi thu lu đằng sau "cánh cửa ọp ẹp của cái chuồng heo đã bỏ hoang từ bao nhiêu năm tháng...".

Theo nghĩa trên, Tolstaya phán, chủ nghĩa CS không từ trên giời giáng xuống đầu dân Nga, mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử.... (1)

Với xứ Mít, thì nó là Cái Ác Bắc Kít, và có thể còn là Kẻ Thù Truyền Kiếp của nó, là Anh Tẫu Phía Bắc, mà, trong khi chống nó, để “tồn tại”, “sống sót”, Cái Ác Bắc Kít nẩy sinh, và cứ thế sinh sôi nẩy nở, cho đến ngày 30 Tháng Tư  1975, bùng nổ ra và trở thành điều mà Milosz gọi là “anus mundi”, cũng đã từng xẩy ra tại xứ sở Ba Lan của ông. (2)

(1)

Tatyana Tolstaya, trong một bài người viết tình cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại Cấm, và chỉ được đọc qua bản dịch, Những Thời Ăn Thịt Người (đăng trên tờ Thế Kỷ 21), cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống, cái tư duy chuyên chế không phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga, dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không ăn, mà ăn thịt lẫn nhau. Chính cái phần Á-châu man rợ đó đã được đưa lên làm giai cấp nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không có sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể sống dai như thế. Puskhin đã từng van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga!

(2)

Anus Mundi có nghĩa là hậu môn của thế giới.

Theo Milosz, một người Đức đã viết ra định nghĩa này, để chỉ xứ Ba Lan, vào thời điểm 1942.
Nhưng Anus Mundi lại làm cho người đọc liên tưởng tới từ Anno Mundi, tiếng La Tinh, có nghĩa là "vào năm của thế giới" [in the year of the world], tức khi thế giới bắt đầu.

Milosz định nghĩa Anus Mundi: The cloaca of the world.

Như chúng ta đã biết, chỉ có loài vật thượng đẳng mới có cơ quan sinh dục riêng, hậu môn, nơi để bài tiết, riêng. Với loài hạ đẳng, chỉ có cloaca, tức hậu môn, dùng cho cả hai việc, làm cơ quan sinh dục và làm nơi bài tiết.
Xứ sở Balan vào năm 1942, là anus mundi, là theo nghĩa đó.

Khi Gấu mượn từ này của Milosz, trong bài viết về Nếu Đi Hết Biển của Trần Văn Thuỷ, là theo nghĩa của từ Anno Mundi, năm bắt đầu thế giới, và còn theo nghĩa năm Thượng Đế từ bỏ chúng ta, của triết gia người Do Thái, Emmanuel Levinas.
Và Gấu coi đó là năm 1975, đối với Việt Nam.

Hậu môn của thế giới.
Năm Thế Giới.
Năm "Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người". [TCS].
Năm chân lý "nước Việt Nam là một", bị lường gạt.
Bị làm nhục.

Nếu đi hết biển

1975: Năm Cái Ác Bắc Kít biến thế giới thành Bãi Đánh Hàng!

Thời của thánh thần

'Bứt phá ngoạn mục'

Trong bài điểm sách giữa tháng Tám, nhà phê bình Vũ Nho cho hay đây là dự án “dồn hết tâm lực của một đời cầm bút” của người từng đoạt giải thưởng Hội nhà văn với cuốn Thuỷ hoả đạo tặc (1997).
Ông khen cuốn sách là “một bứt phá mới ngoạn mục” và nó “sẽ được độc giả đón nhận nồng nhiệt”.

Trong khi đó, người ký tên Phương Ngọc viết trên báo mạng Vietimes ngày 24 tháng Tám:

“Chỉ chấm phá thêm đôi nét nhưng cũng đủ để khép lại một giai đoạn văn học vết thương về Cải cách ruộng đất, mà sau này các tác giả khác không nhất thiết phải quay lại.”

Tác giả khen tiếp: “Lần đầu tiên trong văn chương đương đại, sự kiện Nhân văn giai phẩm và cuộc đấu tranh với bè lũ Xét lại hiện đại, cũng như cuộc vượt biển di tản của gần hai triệu người, được nhà văn đề cập đến với cái nhìn điềm tĩnh và xa xót của một người có đủ độ lùi thời gian để phân tích, lý giải, đặng trả lại cho những nhân vật trong cuộc bức chân dung thật của họ”.
Nhưng sau khi sách bị thu hồi, bài này đã biến mất trên trang mạng tờ báo trực thuộc VietNamNet.

Tiểu thuyết Thời của thánh thần được nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành.
Thông tin trong sách ghi người chịu trách nhiệm xuất bản là Giám đốc Trung Trung Đỉnh, chịu trách nhiệm bản thảo, ông Nguyễn Khắc Trường. Người biên tập cuốn sách là nhà văn Tạ Duy Anh, bản thân từng viết tiểu thuyết cũng bị thu hồi năm 2002, "Đi tìm nhân vật".
Ông Hoàng Minh Tường, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, sinh năm 1948 ở Hà Tây, tốt nghiệp cử nhân Địa lý.

Note: Cùng dân Sơn Tây với Gấu.
Thú thật! Tay nào điểm cũng bảnh thật! ".... mà sau này các tác giả khác không nhất thiết phải quay lại.”.
Hách hơn cả Gấu! Đúng là "địa linh nhân kiệt": Tướng Râu Kẽm cũng dân Sơn Tây đấy!
Ui chao, bất giác nhớ đến... "Em của Gấu", và cuộc trò chuyện của Em, với... nữ thần thi ca Nga, Akhmatova.
Bà hất hàm:

Tớ dòng dõi Thành Cát Tư Hãn đấy. Còn cậu?
-Mình dân Kẻ Nủa, Sơn Tây!




THE REVOLUTION HAS ENDED

REMEMBERING JULIAN KORNHAUSER'S
MOURNFUL REVOLUTIONARIES

 
The revolution has ended. In the parks pedestrians
marched slowly, dogs traced perfect circles,
as if guided by an unseen hand.
The weather was lovely, rain like diamonds,
women in summer dresses, children as always
slightly peeved, peaches on tabletops.
An old man sat in a cafe and cried.
Sports car motors roared,
newspapers shrieked, and essentially,
it should be said,
life revealed ascendant tendencies
-to employ a neutral definition,
thus wounding neither victors nor the vanquished,
or those who still didn't know
which side they were on,
that is, in effect, all of us
who write or read these words.

Adam Zagajewski 

Cách Mạng Chấm Dứt

Tưởng nhớ những nhà cách mạng sầu thảm
của JULIAN KORNHAUSER

Cách mạng chấm dứt. Ở công viên, bộ hành,
bước chầm chậm, những con chó vẽ những vòng tròn tuyệt hảo
như được dẫn dắt bởi một bàn tay không nhìn thấy
Thời tiết thật đáng yêu
Mưa rơi như kim cương
Phụ nữ trong áo hè, con nít càu nhàu tí tí,
chúng luôn thế, những trái đào trên mặt bàn.
Một ông già ngồi trong quán cà phê, và la khóc.
Xe hơi thể thao, xe gắn máy gầm rú
Nhật báo la bai bải, chủ yếu muốn nói
đời bi giờ là vinh quang, đỉnh cao
– dùng những từ chung chung, để khỏi làm đau lòng
kẻ thắng cũng như người bại,
hay họ ở bên nào, Cách Mạng hay là Ngụy,
Họ, có nghĩa là, tất cả chúng ta
Những người viết, hay đọc những dòng này.

I DREAMED OF MY CITY
WRITTEN WHILE ATTENDING
A HERBERT CONFERENCE IN SIENA

 I dreamed of my distant city-
it spoke the language of children and the injured,
it spoke in many voices, rushing
to shout one another down, like simple people suddenly
admitted
to the presence of a great official:
"There is no justice," it cried; "All
has been taken from us," it wailed loudly;
"No one remembers us, not a soul";
I saw feminists with dark eyes,
petty nobles with forgotten family trees,
judges wearing togas sewn of nettles
and devout, exhausted Jews-
but slowly, relentlessly
the gray dawn drew near and the speakers faded,
dimmed, submissively went back to their barracks like
legions of toy soldiers,
and then I heard completely different words:
"Still there are miracles, not everyone believes,
but miracles do happen ... " And waking, slowly,
reluctantly departing the dream's bunker,
I realized that the arguments continue,
that nothing has been settled yet ... 

Adam Zagajewski 

Tôi mơ thành phố của tôi
Viết trong lúc dự hội nghị ở Siena

 Tôi mơ thành phố xa vời của tôi
nó nói ngôn ngữ của những đứa trẻ và những người bị thương, bị nhục nhã
nó nói trong nhiều giọng, tranh nhau nói, như những con người giản dị
bất thình lình được cho phép vô gặp
Vị Chủ Tịch Nước, hay đồng chí Tấn Dũng.
“Đếch có công lý”, nó la lớn như thế,
“Tụi Mafia Đỏ lấy hết tất cả của chúng ta”, Nó than van ỏm tỏi;
“Chẳng ai nhớ gì đến chúng ta, không hề có lấy 1 mống”;
Tôi nhìn thấy mấy bà nữ quyền mắt u tối,
Những bậc phong nhã nhỏ nhen, hèn hạ mất mẹ gia phả,
những đấng thuộc Viện Kiểm Sát Nhân Dân
vận áo tòa đính gai tầm ma
và chân thành, mộ đạo là đám Miệt Vườn kiệt quệ -
Nhưng chầm chậm, chẳng có chút vội vã, hoàng hôn xám xịt lờ đờ tới,
và những người nói năng láo nháo đó nhạt nhòa đi,
lặng lẽ, an phận trở về lại những trại giam như những đoàn lính đồ chơi
Và rồi thì tôi nghe những từ hoàn toàn khác hẳn:
“Vưỡn có phép lạ, không phải mọi người đều tin, nhưng phép lạ xẩy ra…”
Và giật mình tỉnh dậy, từ từ, ngần ngừ, rời cái boong ke của những giấc mơ,
Tôi nhận ra, cuộc tranh luận vẫn tiếp tục
Chưa có gì là ngã ngũ cả




**

*

Như tin trên Phố Văn của Nguyễn Xuân Thiệp, Khoa Hữu đã mất tại quê nhà ngày 5 Tháng Tư.
Tin Văn/Nguyễn Quốc Trụ xin thành thực chia buồn cùng tang quyến, và cầu chúc linh hồn bạn thơ sớm siêu thoát


Sách Quí

Anh biết mấy thứ tiếng?

** 

Anh chàng sinh viên luật Thái Lan, do Cao Uỷ muớn làm thẩm sát viên, thanh lọc viên, ngó cái hình, rồi ngó cái thằng ốm đói ngồi trước mặt, vừa nghi ngờ vừa ái ngại, nhưng đến khi nghe nó sủa, tớ là nhà phê bình văn học, thì bèn giật mình đánh thót một cái, đọc lại hồ sơ, rồi thương hại phán, tao cho mày nói lại, đừng bịp tao!



*

Mục "Tạp Ghi", Vấn Đề số 34, do Tuấn Anh phụ trách.

Tuấn, là anh cu Tuấn, thằng nhóc con đầu lòng của GCC. Anh, là tên cô bạn thân của Gấu Cái, cô phù dâu ngày nào!
Cái tít "Descartes nhìn về Phương Tây", là để chọc quê thi sĩ NS, tác giả "Descartes nhìn từ Phương Đông".
Cái entry "Đọc là gì", chắc là về nói về Roland Barthes.

Tks. NQT


Facing History

Vladimir’s Tale
April 26, 2012
Anne Applebaum.

The Man Without a Face: The Unlikely Rise of Vladimir Putin
by Masha Gessen
Riverhead, 314 pp., $27.95           

Người Không Mặt, Cao Bồi,  PXA, "Bạn Quí Của GCC", sống lại, và nhập thân ông Trùm Putin.

Anne Applebaum đọc Người Không Mặt: Cuộc Lên Voi Đếch Giống Ai Của Putin, của Masha Gessen.
Tuyệt cú mèo! TV sẽ lai rai ba sợi, sau.  

Có câu này,
In a country where political role models ran from leather-jacketed commissar to decrepit apparatchik, Galina was trying to be an entirely new creature, a politician who was also a human.

Làm nhớ Sến:

Nguyên thủ quốc gia Việt Nam không nên mặc áo nhái Adidas đi cày ruộng. (1)

Và, đây là cái cảnh “Người Không Mặt”... đi xa.

Những phút cuối cùng của Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn

SGGP:: Cập nhật ngày 20/09/2006 lúc 23:38'(GMT+7)

Bà ngồi đọc cho ông nghe những bức thư của bạn bè khắp nơi trên thế giới gửi về thăm ông khi nghe tin ông ốm nặng. Hôm nay bà đọc đến bức thư của người bạn Mỹ, mà thuở ông còn học ở trường báo chí ở quận Cam - California, ông đã ở trong nhà và họ coi ông là người trong gia đình.
Bà đọc bằng một thứ tiếng Anh nghe cứng cáp của người đứng tuổi dù xưa kia bà rất giỏi tiếng Anh và có khi ông còn giải thích cho bà những từ khó mà bà không hiểu.
Bây giờ dù đã già nhưng phát âm rất chuẩn, mỗi từ tiếng Anh phát ra chắc chắn. Bà đọc tới đâu nước mắt chảy quanh tới đó. Thỉnh thoảng bà dừng lại và ghé sát tai ông hỏi nhỏ: Anh có nghe được không? Ông khẽ gật đầu, nước từ trong khóe mắt đục nhờ của ông lại chảy ra.
Tất cả y tá, bác sĩ, hộ lý đều đứng nhìn. Thỉnh thoảng có người lén lau nước mắt. Họ nói với nhau hãy yên lặng để bà đọc cho ông nghe...
Lúc ông nhắm mắt lại, những dây nhợ chằng chịt trên người ông nối với nhiều máy móc phát ra âm thanh nghe rột rột. Bà vội đứng dậy đi ra ngoài, nhường chỗ cho các bác sĩ.
Công việc của họ là thông phổi để ông dễ thở hơn một chút, nhưng rồi ông lại chuyển vào giai đoạn lúc tỉnh lúc mê, ông gọi bà thều thào mê sảng: “Em ơi chúng đang tra tấn anh, chúng bỏ đá vào miệng anh, mệnh chung của anh sắp đến rồi, em và các con đừng xa anh nhé...”.
Bà nắm chặt tay ông. Các bác sĩ yêu cầu bà đi ra ngoài. Các con của bà đứng nhìn ông qua ô cửa kính. Họ đều khóc và cố gắng như muốn chia sẻ đau đớn thể xác cùng ông.
Bà quay sang nói với tôi - vẫn đứng đây từ nãy giờ bất động: Ông ấy khổ suốt cả một giai đoạn dài căng thẳng. Bây giờ đã đau thể xác thế này mà tâm hồn cũng không được thanh thản. Bao nhiêu dồn nén chỗ góc khuất đã trải qua trong nguy nan căng thẳng nay trong vô thức trào ra. Bà bật khóc, tôi nắm chặt tay bà. 

Cái mánh loại trừ là bản năng tự vệ của mọi chuyên viên
The trick of elimination is every expert’s defensive reflex.

(Stanislaw Lem: Imaginary Magnitude)

VC rất rành về cái mánh loại trừ - loại trừ mọi rủi ro, bị phanh phui, bị bật mí - vậy mà chúng cho cả thế giới thấy những giây phút khốn khổ, đi không nổi của Người Không Mặt.

Chán như Con Rán!
Dã man như VC!

Thời Không Mặt

The human face disappeared and also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos, 'faceless'; litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks gloried in facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ xưa, kẻ nô lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy. Người CS hãnh diện trong "không mặt".]

Nói cho cùng, đó là thời "không mặt". Như một hình ảnh khủng khiếp của Anna Akhmatova, về Cách Mạng:

As though, in night's terrible mirror
Man, raving, denied his image
And tried to disappear

[Như thể, trong tấm gương kinh hoàng của đêm đen
Con người, rồ dại, chối bỏ hình ảnh của mình
Và ráng sức biến mất]

D.M. Thomas: Alexander Solzhenitsyn, Một thế kỷ ở trong ta.

Gấu tui cứ băn khoăn hoài, tại sao tội ác thì có, mà không có thủ phạm?
Cho tới khi được đọc những dòng trên.

Từ đó, tôi "hiểu" Văn Cao, khi ông nhất định "có mặt".

"Hồi nhận viết Tiến Quân Ca, tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài hát, mà một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viên biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng, vào một thành phố, để giết một người..."


Nhưng cũng có thể hiểu câu nói của ông, qua câu của Walter Benjamin: Ở nền của một tác phẩm lớn, là một đống man rợ. Theo nghĩa, ông có thể ôm lấy tất cả niềm vinh quang, là tác giả bài hát của cả nước, ["Bài Tiến Quân Ca đã là của dân tộc Việt Nam độc lập kể từ ngày hôm đó"], nhưng ông chỉ cho thấy, ở dưới nền của nó, là cả một đống man rợ: tôi đã là một con mồi, một con thú, bị đẩy đến đường cùng, khi viết nó, trong bài tự thú


On Fang Lizhi (1936–2012)
Perry Link

I remember watching a Western journalist interview him during the student protests in spring 1989. When the interview was over the reporter asked if there were a way he could ask follow-up questions, if necessary. Fang said “sure,” and gave the reporter his telephone number.
“We’ve heard that your phone is tapped,” the reporter said. “Is it?”
“I assume so.” Fang grinned.
“Doesn’t that…bother you?” the reporter asked.
“No,” said Fang, “for years I’ve been trying to get them to listen to me. If this is how they want to do it, then fine!”
Borrowing Fang’s wit, we might note that the authorities did more than listen. They wanted him. The 1989 warrant for his arrest was never dropped, so that when he died he was still officially “wanted”: for “the crime of counterrevolutionary incitement” and as “the biggest black hand behind the June Fourth riots.”

Tôi nhớ lần một phóng viên mũi lõ phỏng vấn ông, thời kỳ sinh viên biểu tình, Mùa Xuân 1089.
Xong, tay phóng viên hỏi, làm sao liên lạc, nếu cần bổ túc, ông cho số điện thoại.
-Nhưng điện thoại của ông bị nhà nước gài…  bọ mà?
-Thì hẳn rồi
-Ông không ngại ư?
-Bao nhiêu năm rồi, tôi chỉ mong họ lắng nghe tôi, có gì đâu mà ngại!


TTT 2012

Trong hai cuốn tiểu thuyết của TTT, Cát Lầy, và Một Chủ Nhật Khác, nhân vật chính đều ngỏm, một người một kiểu. Người tự tử, người bị hiểu lầm là… VC.  Trong Bếp Lửa, thì bỏ đi sau khi phán, buộc vào với quê hương thì phải là 1 người bà con ruột thịt với mình. Người đọc, liệu có rút ra được 1 kết luận nào, qua những dòng trên?

gửi đảo xa
 

hỏi. người đã chết
những. lá thư. tình không. theo
người viết. về nơi cuối. cùng
những yêu. thương cần. có
cho. những bài thơ. ngày. giông bão
những bài thơ. câm. trơ trọi
người tình. loay hoay. hơn
phân nửa. cuộc sống. cất giữ
tình yêu. trên. trang giấy
cuộc sống cất. giữ và. cái chết
những bài thơ. cũ  hơn. 40 năm. sao
không. cho riêng mình. hay yêu thương
tan tác. có thấy. không crusoe
đã. trở lại. cuộc sống
không. có. điểm riêng. biệt
hãy. hỏi người. đã chết
có còn. nhớ. ngôi nhà màu. hồng
đã sơn. phết. lại không. còn
là. màu hồng. đà lạt quá. nhỏ
và. không tuyết. trắng
cello. giọng cao. vút vào mùa. đông
khi. nở cùng ly rượu. đêm
hỏi người. đã chết
những. lá thư nối. niềm. hy vọng
sao không. giữ. bởi. tình yêu không. già
ngày. còn rất trẻ. trên những. lá thư
hay đó là. đoạn kết. phải có
trong. cuốn tiểu thuyết. phải được. viết
cũng chỉ là. những lập lại
người tình. trên những. trang giấy
đảo. xa vẫn hoang. sơ
bài thơ. vẫn cô độc
sẽ đi. vào. cõi chết
nơi vĩnh hằng. với những điều. không tưởng

Đài Sử


Bùi Ngọc Tấn

Tôi viết về những người cam chịu lịch sử

*

Sư phụ, khi chủ nghĩa CS của chúng ta ngoạm được nước Pháp, chúng ta sẽ làm gì với Joyce?
Gide, sau một lúc suy tư, trả lời:
-Chúng ta kệ mẹ ông ta.
« Maître, quand nous aurons le communisme en France, que ferons-nous de Joyce?».
Gide, après une longue réflexion:
«Nous le laisserons tranquille. »
Vừa nhắc tới ông Trùm Gorky, là thấy quan tài, là bèn nhỏ lệ (1).

(1) Đây là văn chương chưởng: Mi chưa đi mưa chưa biết lạnh, chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ!

Hình: Gide đọc ai điếu, trong đám táng Gorky, tại Quảng Trường Đỏ.
*
Nói chuyện cam chịu lịch sử, và nổi tiếng nhờ nó, bảnh nhất, theo Gấu, là nhà văn Anh gốc Nhật, viết văn bằng tiếng Anh 'hách hơn Ăng lê', Kazuo Ishiguro, tác giả Tàn Ngày, Remains of the day, được Booker Prize. Ông thuộc trào lưu những nhà văn trẻ bảnh của Anh, gồm Martin Amis, Salman Rushdie…

Trên số báo Le Magazine Littéraire, April 2006, đặc biệt về 'em' Duras, cô đầm ở xứ An Nam Mít, có bài phỏng vấn ông, do Trần Minh Huy thực hiện, ‘K.I., thời của hoài nhớ’, ‘K.I, chúng ta là những đứa trẻ mồ côi’...
Khi được hỏi, sự thiếu vắng nổi loạn thật là rõ ràng trong tất cả các tác phẩm của ông, K.I. trả lời: "Đúng như thế, những  nhân vật như Stevens trong Tàn Ngày, họ chấp nhận những gì đời đem đến cho họ, và, bằng mọi cách, đóng trọn vai trò cam chịu lịch sử, thay vì nổi loạn, bỏ chạy… và cố tìm trong đó, cái gọi là nhân phẩm, chẳng bao giờ tra hỏi chế độ."
Cái gọi là nhân phẩm, bật ra từ Tàn Ngày, và là chủ đề của cuốn tiểu thuyết đưa ông đài danh vọng, và đã được quay thành phim… "Tôi [K.I.] muốn chứng minh sự can đảm của Stevens, nhân phẩm của anh ta, khi đối mặt với cái điều, người ta đã làm hỏng đời của anh ta”.

K.I có một câu phán thật tuyệt, và thật đúng, nếu áp dụng vào "thời của Gấu và BHD":

Có một thứ hoài nhớ đếch mắc mớ gì tới Lịch Sử, mà tất cả chúng ta đều cảm nhận được, những nhớ nhung về một thời mà chúng ta đều ngây thơ, hơn cả... Chúa, khi chưa lên Ngôi.

Hình như nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên có câu: Chúa khi chưa đắc đạo, Phật khi chưa giác ngộ, chắc gì đã mê gái như ta?

Tuyệt!
*

Looking on a Russian Photograph, 1928/1995

It's the classic picture of doom. Three great poets stand together in 1928, the Revolution just a decade old, their hearts and brains soon to be dashed out on the rocks of Russian fascism, the flower of their achievements destined to be crushed by the new czar, Stalin.
Eisenstein, Mayakovski, Pasternak - each will die in his own tortured way. Mayakovski, rebuffed in love, imprisoned in Moscow, will kill himself in 1930, at the age of thirty-six. Eisenstein's broken heart will give out in 1948, cherished projects betrayed, the fifty-year-old filmmaker persecuted abroad and closely watched at home. Pasternak, long denied by his government, will finally survive Stalin - yet, when his magnum opus, Doctor Zhivago, earns him the Nobel Prize in 1958, he will not be permitted to accept, his book burned, his name excoriated in his homeland.
But there they stand in 1928, brave young hearts, frozen in triumph, the last symbols of a civilization about to go mad. Yet I find. myself thinking - how lucky they are, these three, able to experience lives of great crisis and choice. Were they not gifted with an energy that brought them each full-bore into what Justice Oliver Wendell Holmes called the "passion and peril of their times"?
We shall all lose, it is inevitable. The issue is how we lose, on what terms. These three men played out their lives across the dark landscape of a cursed country, each sought as a solace from a mad czar, who with quasi-Asiatic mind tortured them with the impossibility of reason.
I do not seek such death. I choose the milder climes of the USA circa the late twentieth century - although these times, less sinister certainly than Stalinist ones, may be equally dangerous-for what is in danger, in the largest sense, is the soul. And the soul that dies in its lifetime is the sterile, timid, cynical soul that is never tested by its time. Though tests too can be boredom. Luxury, television and the accelerating sameness of information can be far more ruthless than war or disease.
So I say-in death, rest. There is much time later to sleep.
Until then party - party hard, suffer hard. Live lives suffused with cycles of joy and sorrow. Participate above all in the travails of your time, as artists your shoulders equal to all working and struggling people, neither higher nor lower but equal to its spirit in its own time.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - I salute you.
- Oliver Stone

The Paris Review Winter 1995: Russian Portraits

Quái đản thật. Ở cái xứ VC Niên Xô này, ngay cả những tay theo Đảng, phò Đảng thì cũng bảnh, cực bảnh, như bộ ba trên đây.

Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - Gấu Cà Chớn chào các vị Thầy.

Ở cái xứ Bắc Kít, toàn Kít!

Một bức hình cổ điển về đọa đầy, trầm luân, bất hạnh…Ba nhà thơ lớn chụp chung với nhau vào năm 1928, Cách Mạng thì mới được 10 tuổi, tim và óc của họ sẽ nát bấy ra trên những hòn đá của phát xít Nga, bông hoa thành tựu sẽ bị nghiền nát dưới gót giầy của sa hoàng mới của Nga – Stalin.
Eisenstein, Mayakovski, Pasternak - mỗi người một cái chết, mỗi người một cuộc tra tấn riêng. Mayakovski, bị cự tuyệt trong tình yêu, bị cầm tù tại Moscow, tự sát vào năm 1930, ở tuổi đời 36. Trái tim bể của Eisenstein ngưng đập vào năm 1948, những đồ án nâng niu bị phản bội, nhà làm phim 53 tuổi bị truy đuổi bách hại khi ở hải ngoại, bị canh trừng chặt chẽ khi ở nhà. Pasternak, đã từ lâu bị nhà cầm quyền của ông chối từ, sau cùng sống sót chế độ Stalin – tuy nhiên khi tuyệt tác của ông Bác Sĩ Zhivago được trao Nobel, ông không được phép đi nhận giải, sách bị đốt, tên bị trà đạp bôi nhọ ở quê nhà.
Nhưng, như bức hình cho thấy, ba nhà thơ đứng hiên ngang, vào năm 1928, ba trái tim trẻ, can đảm, đông lạnh trong chiến thắng, những biểu tượng sau cùng của 1 nền văn minh trước khi nó trở thành khùng điên, ba trợn. Tuy nhiên, riêng tôi, thì lại nhận ra 1 điều, họ mới hạnh phúc, may mắn biết bao, khi cả ba có thể kinh nghiệm những cuộc khủng hoảng lớn, và chọn lựa lớn.



*

Nhờ mấy đấng BVVC [Bạn Văn VC], Gấu Cà Chớn tìm lại được 1 thằng Gấu trẻ, phê bình gia, tên sa đích văn nghệ.
Đọc lại, GCC phát giác, có hai tên Gấu, một trẻ, một già, y chang có hai Marx.
Gấu Trẻ hồi đó quả là quá mê Mác,1 Mác trong trắng, ngây thơ, tươi mát, chưa vướng 1 tí ác.
Một thứ Mác Xít như là 1 giấc mơ tuyệt vời của nhân loại, qua những bậc thầy như Lukacs, Lefebvre…
Bài trên London Review nhìn lại cụ Mác, khi cụ thọ 193 tuổi.
Đọc loáng thoáng thấy OK, để coi coi…


Ghi chú trong ngày

Researchers found that subjects who read Kafka's "The Country Doctor"—which includes feverish hallucinations from the narrator and surreal elements—performed better on a subsequent learning task than a control group that read a straightforward summary of the story. (They probably enjoyed themselves a lot more while reading, too.)

Các nhà nghiên cứu thấy rằng các đối tượng đọc “The Country Doctor” của Kafka - [tôi chưa đọc] truyện này có những ảo giác bồn chồn [chắc phải đọc truyện mới biết feverish hallucations thực sự là gì - chỗ này dịch loạn] của người kể chuyện và những yếu tố siêu thực - thì sau đó làm một bài tập tốt hơn một nhóm đối chứng đọc một bản tóm tắt truyện giản đơn.

Blog GM

GCC biết đến Amoz Oz, là qua bài viết về Y sĩ đồng quê của ông, trên tờ Partisan.

Và có thể bị ám ảnh bởi câu của Nguyễn Mạnh Côn, khi dịch truyện ngắn trên của Kafka qua tiếng Việt [dịch thì dịch, nhưng chẳng hiểu tác giả muốn nói gì! (Tôi viết theo trí nhớ)], và bây giờ, qua những dòng trên, từ Blog GM - như một bằng chứng - bị, những cơn "hoang tưởng phát sốt" [đúng cái cú xẩy ra khi đọc Ngôn ngữ và Câm Lặng của Steiner], GCC “ơ ra ka” một tiếng thấu trời, đúng rồi, truyện ngắn này Kafka viết, như 1 lời tiên tri, cảnh báo…  lũ Bắc Kít!

Cái ông y sĩ đồng quê, bị "báo động hoảng", Mỹ Ngụy xâm lược Miền Nam, bèn muợn cặp ngựa của anh Tẫu nằm phục nơi chuồng heo Lạng Sơn, Bắc Cạn, khỉ gì đó, và, thí cô người làm Rose cho tên Tẫu, trừ cặp ngựa, và, phóng chiếc xe, xẻ dọc Trường Sơn, đến nơi, đến ngày 30 Tháng Tư 1975, bèn…  ngồi khóc bên lề đường Sài Gòn, “ta bị lừa, ta bị lừa”!


Đúng là THNM rồi!
Hà, hà!

Oz đọc Y Sĩ Đồng Quê của Kafka

Bạn đọc Y Sĩ Đồng Quê, và tưởng tượng ra rằng thì là, đây chính là linh hồn của một miền đất, nghe tiếng cầu cứu của một con bệnh trầm trọng ở mãi tận miền nam, và, tìm đủ mọi cách để đến bên giường người bệnh, do không có ngựa, nên phải mượn đôi ngựa của con quỉ ở nơi chuồng lợn, và vì thế mà phải hy sinh cô hầu gái, cuối cùng nhận ra, chỉ là báo động hoảng, và ngửa mặt lên trời la lớn: "Ta bị lừa, bị lừa, bị lừa!"

Và đây là hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:

"Trần trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất, với cỗ xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng" ("Naked, exposed to the frost of this most unhappy of ages, with an earthly vehicle, unearthly horses, old man that I am, I wander astray."

Một cách nào đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất hiện dưới cái mặt nạ của một vua Lear, của một ông tướng về hưu.

Thê thảm nhất, là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự đóng góp của mình ở trỏng, viên tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng lợn của cô con dâu, được vỗ béo bằng những thai nhi !
*

Cái chết của Lucien de Rubempré là một bi kịch lớn trong đời tôi, Oscar Wilde đã từng tuyên bố.

Nhưng Lucien de Rubempré là ai?
Một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết của Balzac.

Varga Llosa, "chuẩn" Nobel như tin của AFP ở trên, tin rằng, lời tuyên bố của Wilde, là phải được hiểu theo nghĩa 'thực tại ở đời", theo nghĩa đen!

Bởi vì có những nhân vật giả tưởng còn thực hơn cả sự thực!

Viên y sĩ đồng quê của Kafka là một "vĩ nhân" như thế!  (1)

*


*

Happy Birthday To U, Mom
Richie & Jennifer
13.4.2012

Trước tháng tư năm 75, ngoài công việc của một công chức, bố còn làm thêm cho một hãng thông tấn nước ngoài. Khi hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam được ký kết, bố thôi làm cho họ, tính bỏ Sài-gòn đưa gia đình về một tỉnh lỵ. Nhưng biến cố 30 tháng 4 năm 75 đã xóa sạch mọi dự tính. Ngày 28 hay 29 tháng 4 bố không còn nhớ rõ, thành phố đang trong cơn hỗn loạn, bố gặp lại người sếp cũ, lúc này làm cho tờ báo Time, tới Sài-gòn làm phóng sự về cuộc di tản. Lúc đó cơ quan DAO của Mỹ đã đóng cửa, không còn máy bay C.130, anh ta bảo chỉ có thể đi bằng trực thăng ra Đệ Thất Hạm Đội, và như vậy chỉ một mình bố đi được thôi. Bố không thể bỏ mẹ và các con trong lúc mấy chục binh đoàn Cộng Sản Bắc Việt đang chờ sẵn ở ngoại ô thành phố và viễn tượng biển máu đang chờ đợi người dân Sài-gòn. Chết một đống còn hơn sống một người, Bá Hiền viết thư qua cho biết, ngày xưa bà Nội đã nói với Bá như vậy, lần về đón Bá cùng đi vào Nam, nhưng Bá không đi vì còn mê phong trào. Bố đã ở lại. Phải chi ngày đó bố chạy theo người Mỹ, gia đình mình đã không gặp những cảnh ngộ đói khổ, tủi nhục như hầu hết những gia đình Miền Nam khi Cộng Sản Bắc Việt thắng trận. Nhưng chính những ngày tháng sống dưới chế độ Cộng sản, những ngày tù đầy, những nỗi đói khổ mà gia đình mình đã trải qua khiến bố mẹ hiểu nhau hơn. Vả lại, sự thành đạt ở nước người nhiều khi phải trả một giá quá đắt. Chắc chắn một điều, con không thể quên tiếng Việt. Đó là khí giới hữu hiệu nhất để chống lại sự tha hóa mà đôi khi người ta lầm lẫn là hội nhập. Và để chống lại sự cô đơn, niềm lãng quên, và tuyệt vọng.

Hôm nay là sinh nhật của con, đúng ra chẳng nên nhắc chuyện đau buồn nhưng tháng Tư vẫn luôn luôn làm những ngưòi như bố mẹ cảm thấy bứt rứt. Có lẽ đã đến lúc bố mẹ đem cất kỹ lá cờ phủ trên quan tài chú Sĩ vào một nơi thật yên ổn, thật thiêng liêng là trái tim của mình...

Tự Truyện

        GCC viết thư trên liền 30 Tháng Tư đầu tiên khi ra được hải ngoại, đăng lần tiên trên 1 tờ báo địa phương. NTV đọc thú quá, đúng rồi, báo của tụi tao [tờ Trăm Con] chủ trương xé cờ “ba que”, nhảm quá, cất nó vô trái tim mới đúng.

Bao nhiêu năm rồi, năm nào cũng cất vào trái tim, nhưng cứ đến ngày 30 Tháng Tư lại phải lôi ra.                 

Câu chuyện thời sự, một người cán chết người, phải ở tù mỗi năm một ngày, đúng cái ngày cán chết người, làm Hai Luá nhớ tới một câu chuyện kinh dị đọc từ hồi còn nhỏ, của Hoffmann, [tên ông này TV viết trật là Hoffmann, độc giả sửa giùm], và khủng khiếp hơn nữa, là cứ hơi bị liên tưởng đến ngày 30 Tháng Tư.

Câu chuyện của Hoffman, như Hai Lúa còn nhớ được đại khái như sau.
Một anh chàng xa quê hương quá lâu, bèn về. Tới làng, thì đã đêm, bèn trọ lại ở quán nước đầu làng. Ở đây, anh ta chú ý tới một ông khách lạ dáng vẻ hết sức bồn chồn, tay đeo một chiếc nhẫn chạm nổi hình một chiếc xe ngựa, bốn con ngựa dáng thật hung hãn, đang phi nước đại.

Sau hồi làm quen, ông khách cho biết, ông là chủ chiếc xe ngựa được khắc trên mặt chiếc nhẫn, và đây là một kiệt tác của một thợ nổi tiếng tại làng này, cách đây năm trăm năm. Ông khách lạ là vị lãnh chúa của vùng này. Mê xe ngựa, mê cho xe chạy như điên trên đường làng, và một lần, đã cán chết đứa con gái nhỏ của ông thợ.
Quá đau đớn, và cũng để trả thù cho đứa con, người thợ này cặm cụi khắc chiếc xe ngựa lên chiếc nhẫn, và nguyền: Mi mê phóng ngựa, thì ta cho phóng ngựa. Cứ mỗi năm, đúng vào ngày mi cán con ta, mi sẽ phải trở về đây, cưỡi chiếc xe này, phóng vòng đua này, rồi sau đó, đi lang lang như người Do Thái phạm tội giết Chúa, đến ngày đến tháng lại trở về.
Khi vòng đua cuối cùng của năm trăm năm được thực hiện, chiếc xe ngựa trên chiếc nhẫn mà ông khách trao tặng anh chàng kể chuyện này, cứ thế mờ dần, và biến mất.

Nhân câu chuyện thời sự, Hai Lúa bỗng nhớ lại câu chuyện ma quái trên, và cứ tưởng tượng một cách thật là ma quái rằng thì là có một dân tộc bị lời nguyền, cứ đến ngày 30 Tháng Tư, là lại diễn lại cái tuồng cuộc chiến 30 năm mới có ngày 30 Tháng Tư này, vui sao nước mắt lại trào?
*
Này coi chừng, bị tẩu hỏa nhập ma đấy, cha nội!
Hai Lúa lại bỗng nhớ đến một lời cảnh cáo của một độc giả Tin Văn.
*

Lần này thì không kêu lên “Coi chừng bị THNM”, mà gật gù đồng ý, rằng đúng như thế, dân tộc kia rõ ràng là bị một lời nguyền độc địa, khiến mỗi lần chỉ nghe nói đến 30 Tháng Tư là đã rợn cả người, không biết nên quên hay nên nhớ.
Chao ôi, chẳng lẽ chúng ta cũng bị một ông thợ rèn nào đó trù yểm, một ngàn năm nô lệ chú Chệt, một trăm năm nô lệ thằng Tây, ba mươi năm nội chiến từng ngày, và năm trăm năm sau vẫn còn lang thang chờ khóc một 30-4?
K.
Nguồn

30.4.2010
09

05

*

Loyauté

par DUONG THU HUONG

Trung

Trung là đức tính đầu tiên của những triều đại phong kiến Đông phương đòi hỏi ở thần tử, phải trung với vua. Ngay từ khi nằm nôi, con nít Á Châu đã được học điều này. [Khi nghe tin Stalin chết, đứa trẻ con ngày nào ở trong Tố Hữu sống dậy, và thốt lên, "Tiếng đầu lòng con gọi Stalin", là do đó]. Ngay từ khi còn trẻ, với tôi, trung với vua được thay thế bằng trung với Đảng Cộng Sản. Từ Vua qua Đảng là một quá trình tự thân. Vào lúc 20 tuổi tôi lao vào cuộc chiến chống Mỹ. Thực tại thực địa làm tôi khám phá ra những trang quá đen tối, đến nỗi tôi lại phải mở ra cuốn tự vựng của mình, để tìm hiểu. Những từ ngữ hiện ra như những xác chết thối rữa, vì không được ướp formol. Tôi bước qua ngả đường nổi loạn. 

Năm 1991, tên bộ trưởng Nội vụ đến gặp tôi trong nhà tù. Hắn hỏi tôi, sao dám chống Đảng. "Mi nghe đây bà nói đây này. Hơn hai triệu thằng CS bợ lên một uỷ ban trung ương gồm ba trăm thằng. Rồi ba trăm thằng này bợ lên một bộ chính trị gồm 13 cái đầu ngu đần. Nếu ngất ngưởng ở trên đầu thế gian, là 13 tên ngu đần, bại hoại này, thì chẳng có lý do gì để mà bà trung thành với Đảng. Đảng đâu phải là ông Giời sống ở trên Giời. Đảng là một nhóm 13 tên. Tại sao bà lại phải trung với chúng?". Vào lúc tên đồ tể vung búa chặt đầu con bò, trước khi xả thịt nó, là tôi hết còn tin vào chữ “trung”. Đúng ra, tôi đổi hướng nó: trung chỉ có nghĩa khi mình vận nó vào chính mình. Và như thế, con người tự do chọn lựa và đảm nhận những chọn lựa của mình. Kể từ lúc đó, “trung” không còn là một thánh tượng tôn thờ, cũng không phải là xác chết thối rữa. Nó trở thành bạn đường của tôi, cái bóng của tôi, hơi thở của tôi…. Phải mất ba chục năm làm giặc tôi mới hiểu và làm chủ được, ý nghĩa của một từ. Thật đau thương. Cũng vậy, tôi nghĩ, là nhà văn là kẻ bị kết án khổ sai, bởi vì, trước khi sử dụng một từ, phải chiến đấu với những bóng ma của nó. Tôi chúc những nhà văn, những kẻ mơ mộng, những kẻ khùng điên, và những kẻ bị kết án một chiến thắng huy hoàng.

DTH

Mẹ không thuộc hết ca từ bài hát mà sau này tôi mới biết có tên là “Tình ca của người mất trí”[25], nhưng mẹ kể mẹ đã khóc khi nghe lần đầu. Với tôi, ấn tượng đầu tiên là sao cô ấy có nhiều người yêu thế. Mà sao ai cũng chết. Những địa danh như Plei-me, Đồng Xoài, Chu-prong nghe xa lạ hơn cả Paris, London. Còn chiến khu D thì tôi hình dung nó ở đâu đó xa hơn (đi) B. Mãi sau này tôi mới khóc. Và luôn nhớ mẹ mỗi khi nghe lại bản nhạc này.
Mưa Trịnh buồn. Gió Trịnh buồn. Tình Trịnh buồn (”một người về đỉnh cao, một người về vực sâu, để cuộc tình chìm mau…” - “Tình nhớ”). Đời Trịnh càng buồn hơn. Cát bụi mệt nhoài (”Cát bụi”). Cánh chim bỏ rừng,… trái tim bỏ tình. (”Cho một người nằm xuống”). Nhưng với tôi, nhạc Trịnh là liều thuốc giải.
Hoài Phi [talawas]
*
Tác giả viết lăng nhăng, đủ thứ nhạc đỏ, rồi thừa cơ, gài vô đoạn trên đây, có những câu:
Mẹ không thuộc hết ca từ bài hát mà sau này tôi mới biết có tên là “Tình ca của người mất trí”[25], nhưng mẹ kể mẹ đã khóc khi nghe lần đầu.
Với tôi, ấn tượng đầu tiên là sao cô ấy có nhiều người yêu thế. Mà sao ai cũng chết. Những địa danh như Plei-me, Đồng Xoài, Chu-prong nghe xa lạ hơn cả
Paris, London. Còn chiến khu D thì tôi hình dung nó ở đâu đó xa hơn (đi) B. Mãi sau này tôi mới khóc. Và luôn nhớ mẹ mỗi khi nghe lại bản nhạc này.
*
Đây có lẽ là bài ai điếu đầu tiên dành cho Miền Nam của một người Miền Bắc.
Mà sao ai cũng chết?

Tưởng là viết lăng nhăng, đủ thứ nhạc đỏ, nhưng chính nó là đích danh thủ phạm.
*
Đọc bài viết trên, Gấu nhớ câu của một anh Tầu, Lý Trác Ngô, hình như vậy, bình Tây Sương Ký: Cái giống nhà văn thứ xịn, thứ thực, thứ bảnh... có bao giờ thèm "hạ cố" viết văn đâu?
Gấu bèn nối đuôi: Có những người rất sợ viết văn, bởi vì viết ra là nổi tiếng,và mất đi cuộc đời riêng tư của họ.
Bạn không tin? Đọc thiên hạ vinh danh Sebald: Dans l'herbier de Sebald, les « nervures » du passé


"Perhaps", writes Nietzsche in the Genealogie der Moral, "there is nothing more terrible and mysterious in the whole prehistory of mankind than our mnemonic technique. We burn something into the mind so that it will remain in the memory; only what still hurts will be retained".
Trong trọn thời kỳ tiền sử, có lẽ không có chi khủng khiếp và bí ẩn hơn, so với kỹ thuật tạo dấu ấn của con người, Netzsche viết trong Genealogie der Moral:  Chúng ta đánh dấu trái tim của con chúng ta bằng lửa, sao cho, chỉ cái đau được giữ lại, [cái sướng bỏ đi].
.. Weiss learned in exile to understand the fate he escaped...... so vital to him, of whether he himself was on the side of the creditors or the debtors. He finds the answer to the question in the course of his own study, as it becomes increasingly clear to him that rulers and ruled, exploiters and exploited, are in fact the same species, so that he, the potential victim, must also range himself with the perpetrators of the crime or at least theirs accomplices
Chỉ tới khi lưu vong thì Weiss mới hiểu ra phần số của mình, ở về phía kẻ ăn cướp hay bị ăn cướp. Ông tìm thấy câu hỏi cho câu trả lời theo dòng nghiên cứu của chính ông, và mọi chuyện càng ngày càng trở nên rõ ràng, đối với ông, là, cai trị hay bị trị, bóc lộc hay bị bóc lột, thì cũng rứa, và, bởi vì ông ta sinh ra là có tướng bị ăn đòn rồi, thành thử bắt buộc phải tự xếp hàng cùng với những kẻ tạo ác, hay chí ít, cũng đồng phạm.
*
Yankee mũi tẹt thì vưỡn muôn đời là Yankee mũi tẹt!

Cái sự kiện Gấu gặp Faulkner, rồi những ngày đầu mới tập viết, mỗi khi bí, là mang bí kíp của thầy ra tụng, tìm cơ hội, chôm một câu, một ý tưởng làm mồi... mãi sau này, ra hải ngoại, trong một lần trò chuyện, bên ông Tây Martell, với một ông bạn, và nhân nói chuyện trên, ông bạn lắc đầu, phán, cái chuyện mày khám phá ra và mê, và thờ Faulkner làm thầy, tao sợ nó rắc rối hơn nhiều, và chỉ Freud mới giải mã nổi: Trong mi có một tên Yankee mũi tẹt muốn ăn cướp Miền Nam, và mày sợ chuyện đó!

Chỉ đến mãi sau này, khi đọc Sebald, ông này mới nói rõ cái tâm trạng của Gấu, của tất cả những con người đành đoạn phải bỏ chạy quê hương, và không thể nào nói tốt được cho nó.
Sebald, chẳng làm điều gì xấu cho nước Đức, nhưng, sau Lò Thiêu, lúc nào cũng tởm nước Đức, có thể như vậy, và ông coi Hebel, như là tri kỷ của mình, trong bài cảm tạ nước Đức, khi, không những chấp nhận khúc ruột ngàn dậm, mà còn phát cho nó một cái chức ông Hàn:
Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi mơ giấc mơ của mình ở trong thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra, là một tên phản bội quê nhà, và một tên lừa đảo.
Sebald tởm những gì người dân Đức đã làm đối với dân Do Thái. Còn da vàng làm thịt da vàng, thì sao? Đó là lý do người dân Mít thù VC, chứ không phải thù trong nước.
Chỉ có sự thù hận cái xấu, cái độc, cái ác mà VC đang giáng lên đầu nhân dân trong nuớc.
W.G. Sebald: Sự Hối Hận của Con Tim: Về Hồi Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm của Weiss.

 



Thơ Mỗi Ngày

Thơ Nguyễn Bắc Sơn

Note: Trang thơ này đang Top Hit, nhờ cái link của thi sĩ NTT, khi giới thiệu NBS (1)
Người đầu tiên giới thiệu thơ NBS, ở Miền Nam, là TTT, trong 1 bài viết trên tờ Thời Tập của Viên Linh.
Đó lần đầu tiên GCC biết thơ NBS
GCC còn nhớ hai câu ông trích:

Nếu ta lỡ chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ biến thành mây bay 

Mật khu Lê Hồng Phong

Tướng giỏi cầm quân trăm trận thắng
Còn ngại hành quân động Thái An
Cát lún bãi mìn rừng lưới nhện
Mùa khô thiếu nước lính hoang mang

Ðêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng buồn bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu 

Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Vung (3) tiền mua vội một ngày vui 

Ngày vui đời lính vô cùng ngắn
Mặt trời thoát đã ở phương tây
Nếu ta lỡ chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ biến thành mây bay

Linh hồn ta sẽ thành đom đóm
Vơ vẩn trong rừng động thái an
Miền Bắc sương mù giăng bốn quận
Che mưa giùm những đám sương tàn

Mấy bài thơ sau đây, GCC thấy trên Blog của "em của Gấu", là CM, bèn bệ về TV (2)

(3) GCC nhớ, lần đầu đọc, là “đốt”:

Đốt tiền mua vội một đêm vui