*

I

1
2
3
4




Mon, June 21, 2010
From:
To:
Cc:   

Anh Tru than,
Lau qua khong nhan duoc tin tuc tu anh. Thinh thoang van vao TAN VIET doc bai.
Suc khoe anh dao nay ra sao?
Anh con nho hinh anh nay khong? Saigon 1972 tai quan Huong Xua quan GoVap. 
Nguyen Dinh Thuan hoi tham anh
Dia chi e-mail cua NDT:
Than,
Ng Tr Khoi

Hi, bạn ta!
Cái hình, luôn cả website của bạn, có trên TV rồi.

NTK
Gấu nhớ hoài không ra hình chụp khi nào, ở đâu, chỉ nhớ, thời gian làm cho ông Nhàn.

*

Cổ lai chinh chiến

Gấu đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của BVVC

 Nhà văn Miền Nam được Time tiếp xúc, đề nghị, và đã nhận lời, trên nguyên tắc, theo Cao Bồi, là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền.
 Sau đó Gấu có hỏi ông, và ông gật đầu xác nhận chuyện này. NQT
*
Tôi không coi 'Nỗi buồn chiến tranh' là một sự đột khởi, đột biến của văn học Việt Nam viết về chiến tranh, viết từ thế nhìn của người chiến thắng. Bởi trước đó đã có 'Đất trắng'. Nhưng đúng là phải chờ Bảo Ninh thì văn học viết về cuộc chiến vừa qua ở Việt Nam mới vượt lên trên tầm 'thường'.
Khi đến với bạn đọc lần đầu, tác phẩm của Bảo Ninh phải ẩn thân dưới một cái danh khác: 'Thân phận của tình yêu.' Rõ là sến, vô nghĩa, rậm lời. Gọi tác phẩm bằng cái tên nguyên thủy của nó, mới có thể tiếp cận được với trường cảm xúc của tác giả. Ấy là tình yêu, tình bạn, tình đồng đội, tình người.
So với các tác phẩm có chung một đề tài (chiến tranh chống Mỹ, chiến tranh giải phóng, nội chiến vì phân biệt ý thức hệ), 'Nỗi buồn chiến tranh' rất mới về bút pháp. Sự chuyển đổi thời gian được mô tả thật nhuyễn, sự trôi chảy của ý thức đã được Bảo Ninh theo dõi không ngừng. Tuy nhiên, cái mới đó vẫn chưa thật là mới khi xét nó trong phạm vi tiến trình phát triển của văn học thế giới. Cái mới của một tác phẩm, xét đến cùng là ở cách 'nghiền ngẫm' hiện thực (chữ dùng của Lê Ngọc Trà). Trong nghĩa đó, đi vào đề tài chiến tranh, Bảo Ninh là nhà văn đầu tiên ở Việt Nam biết nghiền ngẫm, nói được những điều chưa từng ai nói.
Nếu đã từng đọc 'Một thời để yêu, một thời để chết' của Remarque, hẳn bạn sẽ bị ám ảnh rất lâu, có thể là mãi mãi bởi hình ảnh cuối cùng tác phẩm: Người du kích Liên xô ngay sau lúc được giải thoát đã nâng súng bắn hạ người lính Đức vừa giải thoát mình. Một cách có ý thức? Hay vô thức? Không biết! Chỉ biết là viên đạn đã ra khỏi nòng súng và thêm một con người gục xuống vào phút hấp hối của chiến tranh. Còn lại vĩnh viễn hy vọng không bao giờ thành thực của nhân vật chính. Còn lại vĩnh viễn một nỗi buồn: Nỗi buồn chiến tranh.

LMH

Cái cú bắn này, rõ ràng như ban ngày: Anh du kích Liên Xô lúc nào cũng nghĩ xấu về tên lính Đức, anh ta không tin thằng khốn nạn thực sự tha mình. Nó chờ mình chạy, rồi bắn, coi như bia sống. Nhân thằng chả mải mê đọc thư nhà, là đòm một phát.

Cái cú này đúng là cú giải phóng Miền Nam. Anh Ngụy tưởng là chiến tranh xong rồi, Mỹ cút rồi, Ngụy nhào rồi, thế là đòm một phát, đi hết cả Miền Nam.

Gấu nghe nói, sau khi hòa đàm Paris ký kết, mấy anh VNCH chạy đến hôn mấy anh VC, khóc ròng [xin nhắc lại, mấy anh VNCH, hình như có Vũ Văn Mẫu thì phải, khóc ròng], nước nhà độc lập thống nhất rồi. Gấu bất giác nhớ ông cụ Gấu, nghe Cụ Hồ đọc diễn văn Ba Đình, chạy về la lớn: Nước nhà độc lập rồi, sau đó bị thằng học trò cho đi mò tôm.
Đó là kỷ niệm độc nhất của Gấu về ông bố của mình, những ngày đầu Cách Mạng.
*
Chỉ biết là viên đạn đã ra khỏi nòng súng và thêm một con người gục xuống vào phút hấp hối của chiến tranh.

Ui chao, câu này, phải dành cho me-xừ Nhàn, giám đốc nhà xb Vàng Son, số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Gấu đã từng viết về ông. Ngay sau 30 Tháng Tư, hưởng ứng lời kêu gọi của Tân Nhà Nước, tức Nhà Nước Cách Mạng, Nhà Nước Ăn Cướp, kéo cả gia đình đi Kinh Tế Mới. Buổi sáng hôm đó, chàng tà tà vác cuốc đi làm rẫy, mơ mộng đổi đời, không nghe tiếng anh du kích hô, đứng lại, thế là đòm một phát.
Chàng. Đúng là chàng.
Đúng ra phải gọi là Romeo, như nickname mà đám nhân viên, tức Gấu, Nguyễn Trọng Khôi, Nguyễn Mai đặt cho ông.
Juliette, cô bồ của ông, trước 30 Tháng Tư rông, kéo ông theo, ông lắc đầu. Tôi chọn vợ tôi. [Nhại Camus: Tôi chọn Mẹ tôi]
NKTV

V/v sức khoẻ của GNV 

Gấu hồi này sa sút lắm rồi, tính dẹp trang TV, để thì giờ ‘tút’ cái đống hầm bà làng kỷ niệm một đời nhà thằng cha Gấu, kể từ lúc vác hai cái rương nhỏ, bỏ Hà Nội, xuống Hải Phòng, rồi xuống tầu há mồm, ra Vịnh Hạ Long, lên chiến hạm Rắn Biển của Đệ Thất Hạm Đội, vô Nam, đổi đời một lần, rồi sau 1975 đi tù, ngộ ra một tên Bắc Kít khác, rồi chạy thoát quê hương, ra được hải ngoại, lại ngộ ra một tên Bắc Kít khác nữa, ở trong cũng 1 thằng cu Gấu nhà quê Bắc Kít ngày nào…

Tếu nhất, là, liền mới đây thôi, một tên đệ tử của nhà phê bình, chửi Gấu là đã dám đụng vô Thầy của chúng, mà lý do chỉ để lập công với VC, hắn đưa chứng cớ, mi mới được VC in cho tác phẩm đúng không?

Gấu trả lời, cái vụ in tác phẩm thực sự không liên quan tới VC, mà tới một nhà xb ở trong nước, mướn Gấu dịch tác phẩm của Pamuk. Gấu là tên viết mướn, dịch mướn, một hitman văn học, có người mướn dịch, thấy đây là tác phẩm văn học, không dính dáng gì tới chính trị, độc giả trong nước đọc nó mà chẳng đỡ hơn đọc lén băng đảng Hậu Vệ, chống Cộng rẻ tiền sao!

Còn cái chuyện lập công với VC thì mi ngu quá, Gấu già quá, sắp đi rồi, lập công cái con mẹ gì nữa!
Lạ làm sao là hắn ta lại chúc Gấu sống lâu: Mi mới tròm trèm 70, còn sống lâu chán, tha hồ mà về nước phục vụ VC! 

Ui chao, giá mà được như vậy, về trong nước, gặp lại bạn bè, được một nhà xb tư nhân nào đó mướn dịch, trả lương tháng, đủ sống hết quãng đời còn lại, quên mẹ hết mọi chuyện, mà chẳng sướng sao?

Một ông bạn của Gấu đã thực hiện được giấc mộng này rồi! 


HOÀNG TRÚC LY [1933-1983]

Hà Chưởng Môn

Gấu viết cho Tiền Tuyến, khi TTT được điều về tờ báo này, mở ra trang VHNT, giao cho thằng em giữ mục điểm sách. Tờ báo nằm ngay dốc cầu Thị Nghè, bên trái nếu đi từ Sài Gòn, trong khu vực thuộc Tổng cục chiến tranh chính trị. Cả một khu vực ăn thông với nhau, đằng sau nó là trại lính, khu gia binh, ăn mãi tới khu kho đạn “Lê Văn Tám đuốc sống’ thời Tây, ăn mãi xuống khu cầu Sài Gòn. Gấu đã từng đi xuyên những bức tường, trong khu vực này, những ngày Mậu Thân, cấm trại 100%, theo ông anh, tham dự những trận đánh ‘chắn’, khi thiếu 1 chân, bởi vì nhà Gấu ngay gần đó.
Thành thử tòa soạn TT là một nơi thân quen thường ghé. Quen Hà chưởng môn là vậy. Nhớ một lần cận Tết, ông kêu cả tòa soạn đi dự một trận chó 7 món, do một tay lính đệ tử của ông làm đầu bếp, trong 7 món có món ‘tái chó’.
Thịt chó phải ăn hai lửa mới ngon, vì rất nóng, không thể ăn tái được, vì rất dễ ngộ độc, cả đám hoảng, vậy mà chẳng ai chết cả!

Tuy nhiên, nhắc đến Hà chưởng môn, mà không quên câu thơ ‘ông về ông kẻ lông mày tí chăng?’, viết tặng Tướng Râu Kẽm, và mối tình Kỳ Duyên Mai, là quá thiếu sót. Có thể, do đã từng gặp gỡ Tướng Râu Kẽm vài đôi lần, có thể, nhân cái vụ gấu ó giữa hai ông tổng và phó, và tiên đoán ra được Kỳ sẽ thua Thiệu nên Hà chưởng môn mới đi một đường khuyên can nhè nhẹ, về cái đường tấn thoái cho Kỳ chăng?  
Quái đản nhất, là lời khuyên lại ứng mãi vào những ngày sau này, khi Kỳ quay về xứ Mít, không phải để kẻ lông mày cho em Mai, vì Mai đâu còn nữa, mà để chơi golf với VC!

Thi sĩ, nhiều khi đi trước thời đại của mình, một cách rất ư là tình cờ, ngẫu nhiên như vậy
Hồi đó, nguời đọc chỉ coi đây là câu thơ nịnh ông Kỳ, nịnh cả cái thú mê đọc chưởng Kim Dung của ông khiến đám không quân cũng phải hùa theo!

Hà chưởng môn còn là tác giả bài đọc sách, cuốn Bếp Lửa của TTT, ấn bản đầu tiên, bản bìa vàng của nhà xb Nguyễn Đình Vượng.
Nhờ chẳng có ai đọc, ông Vượng đành mang bán xôn, thế là Gấu đọc cọp được, và ngộ ra cõi văn của mình. Giá không có cú đọc cọp này, thì không biết sự tình sẽ ra sao?
Biết đâu, trời lại cho món quà khác, BHD chẳng hạn?
Bài điểm sách của Hà chưởng môn, lẽ dĩ nhiên, ký tên khác, đăng trên báo Tự Do, nhưng do Gấu là em nhà báo Hiếu Chân, một trong người thành lập tờ báo nên biết rành điều này. Báo Tự Do cũng phạng thơ tự do ra trò khi vừa mới xuất hiện, và người phạng ra trò này, là Hà chưởng môn.
Tuy nhiên, khi cùng làm chung tòa soạn, họ rất trân trọng, kính nể nhau.
Hà chưởng môn chê cuốn sách giống như tay nhà văn Châu Phi chê Bóng đêm giữa ban ngày, của Conrad, ở cái câu mô tả cô con gái khóc bố, lăn lộn trước huyệt, như một con chó điên: Mô tả như thế, nhẫn tâm, tàn nhẫn quá!


Trong một bài viết rất ‘xưa rồi Diễm ơi’, cho tờ Vấn Đề của ông thầy họ Vũ, “Đi tìm một tác phẩm sẽ có”, chôm một ý tưởng của tụi mũi lõ, “nhà văn nhớn là kẻ kết hôn với xứ sở của nó’, Gấu bèn đi một đường vinh danh cái xen anh cu Dũng trong Đôi Bạn, vào một buổi trưa hè, ‘ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung’, nhìn sang hàng xóm thấy một áo cánh trắng cộc tay bay phất phơ trong gió, ngạc nhiên tự hỏi, ‘áo ai trắng quá nhìn không ra”, và đúng lúc đó, anh cu Dũng ngộ ra là Loan đi học, nghỉ hè, về quê, và cùng lúc, khám phá ra tình yêu, người yêu của mình!
Từ đó, GNV đi một đường viết về nhà văn Nhất Linh, và cuộc hôn nhân của ông với Đất Bắc Kít, nào là nhặt lá bàng, nào là xóm cầu mới…

V/v Đi tìm một tác phẩm sẽ có này, Gấu cũng có một kỷ niệm thật để đời về nó. Đó là lần đến nhà cô bạn như thường lệ, thấy trên bàn số Vấn Đề, mở ra ở ngay bài viết trên. Cô bạn nhìn thấy Gấu nhìn thấy số báo, mắt như muốn nói, đọc rồi, hay lắm!

Ui chao, làm sao mà GNV hay thế, đọc ra hết, những điều trên?

Thì sau này, chính cô bạn nói, anh đâu phải đàn bà, anh đâu phải tôi, mà sao anh đọc ra hết lòng dạ của tôi như thế?

*

ZEPPELIN

Herta Muller

 TRANSLATED BY PHILIP BOEHM

Behind the factory is a place with no coke ovens, no extractor fans, no steaming pipes, where the tracks come to an end, where all we can see from the mouth of the coal silo is a heap of rubble overgrown with flowering weeds, a pitiful bare patch of earth at the edge of the wilderness, criss-crossed by well-trodden paths. There, out of sight to all but the white cloud drifting far across the steppe from the cooling tower, is a gigantic rusted pipe, a discarded seamless steel tube from before the war. The pipe is seven or eight metres long and two metres high and has been welded together at the end closest to the silo. The end that faces the wilderness is open. A mighty pipe, no one knows how it wound up here. But everyone knows what purpose it has served since we arrived in the camp. It's called the Zeppelin.
    This Zeppelin may not float high and silver in the sky, but it does set your mind adrift. It's a by-the-hour hotel tolerated by the camp administration and the bosses, the nachalniks - a trysting place where the women from our camp meet with German POWs who are clearing the rubble in the wasteland or in the bombed-out factories. Wildcat weddings was how Anton Kovacs put it: open your eyes sometime when you're shovelling coal, he told me.
    As late as the summer of Stalingrad, that last summer on the veranda at home, a love-thirsty female voice had spoken from the radio, her accent straight from the Reich: Every German woman should give the Fuhrer a child. My aunt Fini asked my mother: How are we to do that? Is the Fuhrer planning to come here to Siebenburgen every night, or are we supposed to line up one by one and visit him in the Reich?
    We were eating jugged hare; my mother licked the sauce off a bay leaf, pulling the leaf slowly through her mouth. And when she had licked it clean, she stuck it in her buttonhole. I thought they were only pretending to make fun of him. The twinkle in their eyes suggested they'd be more than a little happy to oblige. My father noticed as well: he wrinkled his forehead and forgot to chew for a while. And my grandmother said: I thought you didn't like men with moustaches. Send the Fuhrer a telegram that he better shave first.
    Since the silo yard was vacant after work and the sun still glaring high above the grass, I went down the path to the Zeppelin and looked inside. The front of the pipe was shadowy, the middle was very dim and the back was pitch dark. The next day I opened my eyes while I was shovelling coal. Late in the afternoon I saw three or four men coming through the weeds. They wore quilted work jackets like ours, except theirs had stripes. Just outside the Zeppelin they sat down in the grass up to their necks. Soon a torn pillowcase appeared on a stick outside the pipe - a sign for occupied. A while later the little flag was gone. Then it quickly reappeared and disappeared once more. As soon as the first men had gone, the next three or four came and sat down in the grass.
I also saw how the women work brigades covered for each other.
While three or four wandered off into the weeds, the others engaged the nachalnik in conversation. When he asked about the ones that had stepped away they explained it was because of stomach cramps and diarrhoea. That was true, too, at least for some - but of course he couldn't tell for how many. The nachalnik chewed on his lip and listened for a while, but then kept turning his head more and more frequently in the direction of the Zeppelin. At that point I saw how the women had to switch tactics; they whispered to our singer, Loni Mich, who began singing loud enough to shatter glass - drowning out all the noise made by our shovelling:

    Evening silence on the vale
    Except a lonely nightingale 

    - and suddenly all the ones who had disappeared were back. They crowded in among us and shovelled away as if nothing had happened.
    I liked the name Zeppelin: it resonated with the silvery forgetting of our misery, with the quick, catlike coupling ... I realized that these unknown German men had everything our men were lacking. They had been sent by the Fuhrer into the world as warriors, and they were also the right age, neither childishly young nor overripe like our men were. Of course they, too, were miserable and degraded, but they had seen battle, had fought in the war. For our women they were heroes, a notch above the forced laborers, and offered more than evening love in a barrack bed behind a blanket. The evening love remained indispensable. But for our women it smelled of their own hardship, the same coal and the same longing for home. And it always led to the same give and take. The man provided the food; the woman cleaned and consoled. Love in the Zeppelin was free of every worry except for the hoisting and lowering of the little white flag.
    Anton Kovacs was convinced I would disapprove of the women going to the Zeppelin. No one could have guessed that I understood them all too well, that I knew all about arousal in pulled-down pants, about stray desires and gasping delight in the alder park and the Neptune baths. No one could imagine that I was reliving my own trysts, more and more often: Swallow, Fir, Ear, Thread, Oriole, Cap, Hare, Cat, Seagull. Then Pearl. No one had any idea I was carrying so many cover names in my head, and so much silence on my back.
    Even inside the Zeppelin, love had its seasons. The wildcat weddings came to end in our second year, first because of the winter and later because of the hunger. When the hunger angel was running rampant during the skin-and-bones time, when male and female could not be distinguished from each other, coal was still unloaded at the silo. But the path in the weeds was overgrown. Purple-tufted vetch clambered among the white yarrow and the red orache, the blue burdocks bloomed and the thistles as well. The Zeppelin slept and belonged to the rust, just like the coal belonged to the camp, the grass belonged to the steppe and we belonged to hunger. _

GRANTA, Spring, 2010
Sex

Note: Tờ Granta, số mới nhất, sex, có truyện ngắn trên.
Làm Gấu nhớ một truyện ngắn của Thảo Trường, viết về cuộc tình qua hàng rào giây kẽm gai, ở trong tù, giữa một nữ và nam tù nhân. Làm nhớ Nhà Hội của Amis.

Và nhất là, làm nhớ cú "sex" ở trại tù Đỗ Hòa!

Nhưng cái xen, hàng đêm Đức Quốc Trưởng phải hì hục tiếp các cháu gái ngoan, đứng xếp hàng chờ tới lượt, mới thú!
Nó làm nhớ đến mệnh lệnh của Bắc Bộ Phủ, gởi tới đám tập kết, năm 1954, mỗi anh phải làm một em Miền Nam mang bầu, trước khi ra Hà Lội trình diện Bác!

Nhớ nhắc Bác cạo râu đấy nhé:
Send the Fuhrer a telegram that he better shave first.
*
Ở VN, hồi nhỏ đi tàu nhiều nhất là HàNội-HảiPhòng, nhưng ấn tượng nhất là ga Cẩm Giàng. Mới năm kia cùng TQ đi qua ga xép đúng ngày giải phóng thị xã, cờ đỏ chăng treo khắp nơi, y như câu thơ của Trần Dần.
Blog NL

Nhân tiện, GNV cũng xin đi ké tàu, và đi một đường về tàu.
GNV có nhiều kỷ niệm về tàu hoả, trong số đó, có 1 liên quan đến tuyến đường HN-HP, trên.
Thời kỳ 1954, Hà nội đã được VC từ rừng về tiếp quản, Hải Phòng có 300 ngày ân huệ. Gấu ở lại Hà Nội tiếp tục đi học, nhưng thèm coi phim của tụi tư bản quá, cứ lén xuống HP hoài, coi phim xong là về lại Hà Nội, sau cùng là chuồn hẳn.
Những lần đi tầu hoả như thế, chứng kiến cảnh nhân dân ta kéo ra đường tầu, nằm trên đường ray, ngăn chặn tầu không cho chạy, khóc như ri, kêu gọi chồng con đừng bỏ Bác, Đảng, đất Bắc, vào Nam theo giặc làm Việt gian!
Càng những ngày về sau sắp sửa hết ân huệ, dân Bắc bỏ chạy càng nhiều.
Một lần Gấu nhìn thấy một gia đình thoát được lên tầu, nét mặt mừng rỡ như tái sinh, người đàn ông chủ gia đình tháo đôi giầy ra, cậy đế giầy, lôi ra mớ tiền bạc, giấy tờ, đưa lên miệng hôn, nước mắt chảy ròng ròng. Sau Gấu đọc một nhà văn nữ, Mẽo gốc Hàn, cũng tả cảnh y chang! (1)
Vào Nam, vẫn được hưởng thú đi xe lửa, Bắc gõi tàu hoả, khi còn đi học. Lần được đi xe lửa ra Nha Trang cùng với bạn C. nhờ vậy viết được Những con dã tràng, Gấu đã kể nhiều lần rồi.
Rồi thời gian bạn Cẩn làm thư ký ga Long Khánh còn hưởng thêm cái thú phụ bạn làm ông ký ga!
Nhưng khủng nhất, phải là câu hát, ‘xe lăn trong tim khuất xa dần biết đâu tìm’, trong bài ‘Chuyến tàu hoàng hôn’, nghe tại trại tù Đỗ Hòa!
GNV cũng kể đại khái rồi, nhưng chưa đi hết một đường hoài niệm, xin khất lại kỳ tới!
Nhưng viết về tàu hoả, làm sao bỏ qua “Một câu chuyện trên tần thuỷ” của Thế Lữ?
Cũng tàu!

(1)
Viết tới đây, tình cờ giở qua số báo Điểm Sách Nữu Ước vừa mới nhận được, tôi thấy có bài viết của nữ văn sĩ Mỹ gốc Đại Hàn, Suki Kim, viết về chuyến trở về của bà, vào ngày 16 tháng Hai, năm 2002:"... thật là một tình trạng kỳ cục, đối với một người viết tiểu thuyết, đến từ East Village thuộc Nữu Ước, một kẻ chẳng phải nhà hoạt động nhân quyền, hay diễn viên. Tôi sinh ra là Đại Hàn, và sau đó, là người Mỹ di dân từ khi mười ba tuổi. Cái phần Mẽo ở trong tôi chối đây đẩy xứ sở này, chốn đèo heo hút gió, đứa con hoang của chiến tranh lạnh. Nhưng tôi thường xuyên bị ám ảnh, bởi cơn đói của nó, trên màn hình TV vào mỗi buổi chiều. Khi bạn bè hỏi tôi, liệu có khi nào, hai phần Đại Hàn sẽ hợp làm một, tôi không biết làm sao trả lời. Tôi biết nhiều như họ, và cũng ít như họ. Nhưng có một điều làm tôi lẻ loi ra, giữa đám bè bạn của mình, đó là, tôi chắc chắn một điều, cho dù miền đèo heo hút gió đó - tôi muốn nói Bắc Hàn - tà ma ác quỉ tới mức nào, tôi chẳng thể thù ghét nó." ("... I am certain, no matter how evil North Korea is supposed to be, that I could never hate it". Suki Kim: A Visit to North Korea, NYRB, số đề ngày 13 tháng Hai, 2003)
Nguồn
*
Sunday, January 11, 2009 11:43 PM
Re:
Cam
on anh Tru .
Sau mấy năm rồi, cũng vẫn câu hỏi cũ : Làm sao mà vừa đọc, vừa viết, vừa chăm cháu ngoại, vừa nói chuyện với bạn bè được, hay quá. K thì chỉ đọc (internet) và xem là nhiều. Vừa xem lại "The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây là phim tàu hay nhất, dù không vĩ đại. Chỉ có tình là vĩ đại thôi .
*
Tôi chưa coi phim đó.
Tks.

Chỉ có tình là vĩ đại thôi. Mà cứ phải mấy anh Tầu, mới vĩ đại. Tây Mẽo không bằng. Hồi ở VN tôi có đọc một cuốn sách dịch chuyện tình Tầu. Chuyện nào cũng hay. Có một chuyện, về một anh học trò nhà quê, lên thành đô học, mê một em trong xóm, chuộc em ra. Rồi bố mẹ bắt về, trên đường về đi ngang thuyền một anh lái buôn. Anh này thấy cô vợ đẹp quá bèn dụ anh chồng đánh bạc, thua, cho vay, thua tiếp, phải bán vợ. Cô vợ, vào lúc sang thuyền khác, bèn mở mấy cái rương bạn bè trong xóm tặng ra, hoá ra toàn kim cương, hột xoàn, và cứ từ từ thả xuống sông, rồi thả mình theo.

Có một lời bàn, đẹp thế, sao ngu thế, chọn đúng thằng cực kỳ khốn nạn mà theo!

Chuyện hơi giống chuyện nàng Tuấn Khanh [hay Thiếu Khanh?], trong Truyền Kỳ Mạn Lục. Nhưng chuyện TK có hậu hơn, anh chồng hối hận, lo nuôi con, cô vợ sau thành thần, về gặp lại chồng, trong mộng, tất nhiên, khuyên theo phò Lê Lợi.
*
Chuyện tình Mít kể, đương thời, thì có NNT. Truyện số 1 của nữ văn sĩ “miệt vườn, đặc sản Miền Nam”, là Một Mối Tình
Truyện ngắn mới nhất,
Có con thuyền đã buông bờ  [Lâu rồi mới viết chuyện tình] mà chẳng hay ư?
Chuyện tình lồng trong chuyện tình, lồng trong chuyện tình. Cái cô Bê phải có một mối tình lớn, vì nó mà bỏ xứ mà đi, và mối tình trắc trở này chắc là mắc mớ tới một người đàn ông có vợ, và bị vợ bỏ chạy theo thằng khác [đây là "mô típ đặc sản" của NNT, như trong Một Mối Tình, trong Cánh Đồng Bất Tận, nếu không, cô không để ý tới anh chàng có đứa con bị sốt], rồi còn mối tình thương hại anh học trò em trai cô chủ nữa.
Thú thực, viết như thế, thì Gấu này phải chịu là Nữ Sư Phụ!

Đặc sản Miền Bắc thì có em Phương, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, chửi anh Kiên, Yankee mũi tẹt, mày ngu quá, đâu còn đêm nào như đêm nay….
Hay em trong Trăng Goá, do sặc sụa mùi nước đái tại Ga Hàng Cỏ khi tiễn Yankee vào Nam chiến đấu mà nhận lời cầu hôn Thủ Trưởng, hay anh cu Sài của Nê Nựu, Đảng bảo lấy ai thì lấy người đó!

"Chẳng còn đêm nào như đêm nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến này".
Gấu đọc War Sadness
Trong Nỗi Buồn cũng có cảnh ga Thanh Hóa ăn bom Mẽo, và trong lúc khói lửa tơi bời, em Phương bị bộ đội Cụ Hồ làm thịt
*
Note:
To K,
Coi The Road Home, rồi. Moi ra từ cái kho phim thời tiền sử mà Gấu đã nói tới.
Sẽ đi một đường về phim tuyệt cú mèo này, hy vọng như vậy.

Phim có cảnh tàu hoả thì có From Russia With Love. Cái xen Bond bị KGB đưa vô bẫy, và làm thịt hụt ở trong truyện, khác. Trong Casino Royale, truyện, có xen Bond vận nội công, đánh vào chiếc ghế đang ngồi đánh bạc, làm nát bấy, lộ ra cây gậy trong có khẩu súng đang gí vô lưng, bắt phải thua canh bạc, y chang chưởng Kim Dung.



Ở VN, hồi nhỏ đi tàu nhiều nhất là HàNội-HảiPhòng, nhưng ấn tượng nhất là ga Cẩm Giàng. Mới năm kia cùng TQ đi qua ga xép đúng ngày giải phóng thị xã, cờ đỏ chăng treo khắp nơi, y như câu thơ của Trần Dần.
Blog NL

Người nhìn xe lửa chạy qua
hay là
Niềm bí ẩn đáng sợ.
*

*

TTT khi viết Một chủ nhật khác, có thể có nghĩ tới phim này!
Gấu coi thời mới lớn, không hiểu hết ý nghĩa của nó, lần này coi lại, mới rõ thêm ra được. Tuy nhiên, không dễ, như ‘link’ cho thấy:
I'm still scratching my head over Honor Among Thieves. This 1968 French production is a near incomprehensible mess of a movie.
Nguồn
Cái 'thème' bắn lầm bạn thân, đã từng cứu tử mình, được gắn huy chương nhờ đó, rồi khi cuộc chiến chấm dứt, tìm cách trả ơn thằng bạn đã chết bằng cách giúp đỡ cô bạn gái mở một cái két sắt, và cái mã số thì lại là cái ngày xẩy ra trận Waterloo… Khó hiểu thật!
Gấu coi hồi mới lớn, bây giờ coi lại, cũng là một cách sống lại lần nữa, Sài Gòn và thời mới lớn của mình.

Cũng vẫn những con phố đó,
Nào ngã tư Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao
Nào con hẻm 72 Thị Nghè,
Nào Đống Rác Chợ Cũ,
Nào Xóm Ken bên kia Thủ Thiêm
The City



*

Lại nói chuyện mê đọc sách. Trên TLS, số 7 Tháng 11, 2008 điểm sơ sơ [in brief] cuốn tiểu luận mới ra lò của tay Llosa, Wellsprings [202 pp. Harvard University Press. US 17.95], gồm 7 tiểu luận, một trong số đó, là sự diễn giải, interpretation cuốn Don Quixote của Cervantes.

 Nhà văn xứ Peru miêu tả Quixote, như là một tay bị gậm nhấm, bào mòn bởi một cái đói khủng khiếp: đói đọc tiểu thuyết, giả tưởng, và liền đó, Llosa, “giật mình mình lại thương mình sót sa": Quixote đói khát làm sao thì tớ đây cũng rứa, nhưng với ông, là một sự đói “thuốc, sái, sảm”: đói cơn “yên sĩ phi lý thuần”, inspiration, đói niềm hứng khởi, những khi ngồi trân trân trước trang giấy trắng, và không thể đẻ ra được một chữ nào.
Llosa phán, độc giả thì tự đồng nhất họ với Don Quixote, kẻ bị mồi chài, dụ khị bởi điều không thể, và sa đọa vì nó, who ‘succumbs to the temptation of the impossible’, thay vì, làm một tên Sancho Panza, bị cầm tù bởi điều khả thi, là chuyện thường ngày ở huyện, là cái thường nhật thảm hại, là thảm kịch của cái vô ích, tức là bằng lòng là một kẻ trần tục.

Ui chao, lại nhớ đến Bông Hồng Đen, và cái gật đầu, "Yes, I do" tuyệt vời của em: Ta thương mi, vì mi muốn điều không thể.
Em phán bằng tiếng Tây, thế mới sướng một đời Gấu chứ: Je t’aime parce que tu veux l’impossible!

NKTV
*

Tại Sao Không Thơ?

Tại Sao Thi Sĩ, Trong Một Thời Khốn Kiếp Như Thế Này?
Holderlin 

Mở Miệng là một nhóm thơ của một số thi sĩ sinh hoạt ở Sài Gòn, mới đây được Viện Goethe ở Hà Nội, mời tới, để đọc thơ và trình bầy về thơ, tại khuôn viên viện, nhưng sau cùng, cuộc chơi này đã không thực hiện được, như tin tức báo chí, trong có Đài BBC.
Lẽ dĩ nhiên, có những lời giải thích của nhà nước. Nhưng lý do thực sự của nó, là như Hannah Arendt diễn tả, sau đây.
Thực sự, đây là một tin vui cho nhóm Mở Miệng, theo tôi [NQT].
Và cho Goethe.
Với nhà thơ đại diện cho nước Đức tại thủ đô bốn ngàn năm văn hiến, nếu không có sự can thiệp kịp thời của nhà nước Việt Nam, suýt tí nữa, ông đã bị "bôi bẩn" (1) rồi!
(1): Chữ trong bài viết của BBC: "Nhưng cũng có nhiều ý kiến xem đây là một sự phản thơ, thậm chí bôi bẩn văn chương."

Để chống lại chủ nghĩa toàn trị, bạn chỉ cần nhớ, có mỗi một điều này: Chủ nghĩa toàn trị nhất quyết không thí cho bạn một tí tự do nào.
Hannah Arendt: Về bản chất của chủ nghĩa toàn trị
Nguyên bản tiếng Anh: In order to fight totalitarianism, one need understand only one thing: Totalitarianism is the most radical denial of freedom.
*
Chẳng nói thì cũng rất nhiều người đều biết, với một cái loa công suất lớn cỡ như BBC, ảnh hưởng của nó lẽ dĩ nhiên không nhỏ. Trong một bài tạp ghi viết về Solzhenitsyn, Gấu tui có đi vài đường cảm khái như sau:
Không hiểu ngày nay, ở quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta, còn có những đồng bào hong hóng chờ tới giờ phát thanh bằng tiếng Việt của một VOA, một BBC?
Những người dân Nga đã có thời trải qua những giờ phút như vậy, và Solzhenitsyn hiểu rằng, những đồng bào của ông, đâu phải ai cũng có cơ may, hoặc có đủ can đảm, cầm trong tay một ấn bản in lén lút tác phẩm của ông. Họ biết về Hy Vọng Dù Không Còn Hy Vọng, biết những sự thực nóng bỏng ở trong những tác phẩm của ông, những cuốn tiểu thuyết, và nhất là tác phẩm mang tính tài liệu lớn lao của ông, Quần Đảo Gulag: họ biết chúng, qua những tiếng còn tiếng mất, của những làn sóng ngắn các đài phát thanh Tây Phương.
 Một linh hồn lưu vong 

Thành thử, một khi mấy ông BBC đi một câu kết luận như trên, về nhóm Mở Miệng, là, một cách nào đó, độc giả trong nước, tôi lập lại, độc giả trong nuớc, sẽ "suy ra" rằng, đây là quan điểm của "thế giới" đối với một nhóm thơ có tên là Mở Miệng, ở Sài Gòn.
Và từ "bôi bẩn" đến "phản động" chỉ là một bước ngắn.
Nếu nhà nước chưa kết luận, thì bi giờ, kết luận, và sau kết luận, biết đâu đấy, còn nhiều chuyện bẩn hơn nữa, sẽ được đem ra thi hành. Tôi tiên đoán đại như vậy, bởi vì, đến như ông Goethe kia mà còn không làm cho Mở Miệng được mở miệng, thì số phận của nhóm này, theo tôi, đã được an bài!
Vả chăng một trường phái thơ, khi vừa mới ra lò, thường là ngược lại với thói quen thưởng ngoạn. Trước Mở Miệng, cũng tại Sài Gòn, nhóm Sáng Tạo, với món Thơ Tự Do, đã từng bị đánh phá tơi bời. Hồi đó, may cho nhóm, là chưa có nhân viên Việt Nam nào làm cho BBC mà lại còn kiêm thêm nghề phê bình thơ, như bi giờ.
Còn nữa, giả thử như đúng là sự thực, nhóm Mở Miệng Bôi Bẩn Văn Chương, thì, như vậy cũng còn đỡ hơn là suy tôn Lãnh Tụ, ca ngợi Đảng, như tôi đã từng đưa ý kiến ý cò, nhằm giải thích thói ưa văng tục ở trong thơ, ở trong nước.
Chính vì không muốn ca tụng Đảng ca tụng Bác, không muốn chạy trốn vào ma túy, vào đánh quả, vào buôn lậu, không muốn làm một tên tà lọt...  mà mấy nhà thơ trẻ ở trong nước đã văng tục tùm lum tà la như hiện nay.
[Tuổi Bụi 5]
*
Bàn thêm về:
1. “Rất nhiều người”.
Có khi quan điểm của rất nhiều người lại không bằng, chỉ một người. Thí dụ, trường hợp Solzhenitsyn: Ông được coi là một người chống lại rất nhiều người, có thể nói, hơn một nửa nhân loại, khi nói không với chế độ Cộng Sản.
2. “Bôi bẩn”.
Vẫn ông Solzhenitsyn trên, khi bị phê bình bôi bẩn chế độ, đã trả lời: Nó bẩn đến như thế làm sao bôi bẩn hơn được nữa?
Hay như Nguyễn Chí Thiện, ngày sinh nhật Bác, thay làm thơ ca tụng, thì đi ị!
Hay Nguyễn Huy Thiệp, nhét bẩn vào miệng sĩ phu Bắc Hà!
Tôi sợ rằng nhóm Mở Miệng mô phỏng NHT: Có khi thơ, cần được bôi bẩn như thế, thì mới sáng ra, sạch ra, và... thơm ra, cũng nên!
*
Nếu trí nhớ không phản bội Gấu, nhà thơ Brodsky có lần ví von, hồi ức chính là cái đuôi mà con người đã mất đi, trong tiến trình tiến hoá của nó. (1)
Ngày xưa, nó đã từng là một con vật có đuôi.
Nhưng cái đuôi mà Thế Giang nói tới, trong Thằng Người Có Đuôi, không giống cái đuôi mà nhà thơ Nga ví von. Nó là ám ảnh của một chế độ, ăn sâu vào tiềm thức một con người, và nhiều khi, cho dù đã thoát ra, hành động của họ, tưởng là hoàn toàn tự do, nhưng không phải vậy. Vẫn do cái đuôi quyết định.
Gấu đã từng gặp một trường hợp như vậy.
Trong một bài viết, ngắn, khi nghe tin Tố Hữu mất, khi được đăng, đọc lại, Gấu thấy mất "một" chữ.
Ngạc nhiên quá, hỏi lại, thì ra, người biên tập đã bỏ đi hồi nào, chính người đó cũng ngạc nhiên tự hỏi, tại sao một tình trạng "vô thức" như thế lại xẩy ra?

Ông ta đúng ra là không nên đứng kế bên lãnh tụ.

Đang loay hoay viết về Nguyễn Tuân, được tin Tố Hữu mất, tôi cứ lẩn thẩn tự hỏi, không hiểu có bức hình nào chụp tác giả Tàn Đèn Dầu Lạc, tức Nguyễn Tuân, đứng kế bên Mặt Trời Chân Lý Chói Qua Tim, tức Tố Hữu, trong một dịp đại lễ nào đó?
Hay "tệ" hơn nữa, đứng kế bên ông Hồ?
Tố Hữu
Chữ "tệ" đã bị "cái đuôi" tự động bỏ đi.
Thành thử câu cuối trong bài viết kia ["Nhưng cũng có nhiều ý kiến xem đây là một sự phản thơ, thậm chí bôi bẩn văn chương."], là do cái đuôi tự động thêm vô, như một tố cáo [hay, tự hào?], ta đã ra đi từ chế độ đó, và như một đảm bảo, cho mỗi lần tạt về.
(1) Memory, I think, is a substitute for the tail that we lost for good in the happy process of evolution. Joseph Brodsky: Less Than One.
*
 Phụ lục
Nguyên văn bài viết trên BBC
Buổi gặp nhóm Mở Miệng bị ngừng lại.
Chương trình giao lưu với một nhóm thơ trẻ tại Viện Goethe Hà Nội dự kiến diễn ra tối nay đã bị ngừng lại vì không được sự chấp thuận của Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam.
Viện Goethe nơi hỗ trợ hợp tác văn hóa của Đức dự định tổ chức một buổi giao lưu với nhóm thơ trẻ "mỡ Miệng" trong khuôn viên của viện.
Nếu được diễn ra, đây sẽ là lần đầu tiên nhóm này được phép có buổi đọc thơ chính thúc trước công chúng. Tuy nhiên, một công văn của Bộ Văn hóa Thông tin đã được gửi đến cho Viện Goethe và Bộ Ngoại giao Đức đề nghị ngừng chương trình.
Nhà thơ Lý Đợi, một thành viên của nhóm Mở miệng, nói với đài BBC rằng anh được đọc công văn [yêu cầu ngưng lại] này, trong đó nêu ba lý do.
"Lý do thứ nhất là để duy trì tốt đẹp quan hệ ngoại giao Đức - Việt."
"Thứ hai, để bảo đảm sự thuần khiết và thanh danh của nhà thơ vĩ đại Goethe, người mà Viện đã dùng để đặt tên."
"Thứ ba, nhóm thơ Mở Miệng là một nhóm không nghiêm túc, có những tác phẩm thậm chí dung tục".
Được biết sau buổi họp giữa đại diện của Bộ Văn hóa và Viện Goethe sáng nay, Viện Goethe đã gửi thông báo ngưng chương trình đến các khách mời.
Trong thông báo cáo lỗi, Viện Goethe nói, họ vẫn đăng tại trang web của viện một bài viết về nhóm Mở Miệng với hy vọng người đọc "tìm thấy ở đây những quan điểm có tính học thuật về một trào lưu sáng tạo - dù còn mới manh nha và gây tranh cãi, và chính thế, - rất nên được đưa ra đối thoại."
Nhóm Mở Miệng gồm khoảng 4, 5 người như Bùi Chát, Lý Đợi, Khúc Duy... xuất hiện khoảng hai năm trở lại đây như một phản ứng trước điều mà theo họ là sự trì trệ trong thơ Việt Nam.
Trong một bài viết mang tính tuyên ngôn của nhóm, "Thơ và chúng tôi không làm thơ", Lý Đợi viết:
"Chúng tôi không làm cái gì quá cao cấp, quá dung tục hay lập dị, bởi chúng tôi vẫn nghĩ rằng bên dòng thẩm mỹ chính thống đại trà, đã/đang tồn tại một thứ thơ khác - thơ của chúng tôi/thẩm mỹ của chúng tôi, thẩm mỹ của những người mải mê làm thơ, chứ không phải của những nhà phê bình hay đạo đức, luân lý hay xã hội học".
Nhưng cũng có nhiều ý kiến xem đây là một sự "phản thơ" thậm chí bôi bẩn văn chương."

Note: Post  lại bài viết cũ, trong khi chờ đợi viết bài mới về trường hợp DQ (1)
(1) DQ, tên bài viết của Sontag, về Don Quixote, còn là tên tắt của thi sĩ của trường ca DQ


*

Tks. DTH.
NQT
Moon Palace: Cung Hằng?

Mẽo, sau Faulkner, Hemingway, là chấm hết với Gấu. Cũng thế, với Tây mũi lõ là Camus.
Những tác giả sau họ, không phải Tây, Mẽo.
Cái tít Cung Hằng cũng được đấy chứ? Để nguyên Moon Palace, sợ dân Mít dịch ra thành Bắc Bộ Phủ thì thật tai hại!
*

MP không dịch được vì là tên riêng, tên một cái quán ở Chinatown. Dĩ nhiên, lý do này là chưa đủ, vì có dịch ra thì cũng không sao, một cái tên quán. Lý do thứ hai mới quan trọng:
Nhân vật coi hai chữ "o" trong từ "Moon" là hai con mắt của bầu trời nhìn xuống, trong một cơn hoang tưởng. Mất từ "Moon" là mất đi ý nghĩa thị giác quan trọng và có ý nghĩa cốt yếu trong mối quan hệ giữa nhân vật và mặt trăng.


Tks. Đang đọc, trên đường đi thăm LP. NQT


*

Một đêm ngao du với Vũ Ngọc Giao

Nhân bài viết, Gấu cũng lăm le đi một đường về Vú Ngọc Giàu!
Và những ngày lê lết Bà Lê Chân!

*

Thời của chúng ta, đâu có thứ ghế sang như thế này!