|
Vả chăng, những
kẻ thật biết viết văn ở đời, ban đầu nào có ý định viết văn?
(Lý Trác Ngô. Tựa Tây Sương Ký).

Hai bài khai giảng khóa học tại
Collège de France, của Barthes, và của Foucault.
Lecon
đọc thú hơn, Gấu đọc
lại, thấy chôm hơi nhiều từ bài học này.
Car le fascisme, ce n’est pas
d’empêcher de dire, c’est d’obliger à dire [p.14], chôm trong bài viết
về thơ
trẻ trong nước (1)
.. que l’écriture se trouve
partout où les mots ont de la saveur (savoir et saveur ont en latin la
même étymologie),
[p.21], chôm trong bài viết Tập San
Văn Chương là gì ? (2)
(1)
Cho phép tôi dùng chữ
khẩu vị, theo nghĩa của Roland Barthes: Chữ viết ở
khắp nơi, khi mà những từ có mùi, có vị (tri thức, savoir, và mùi vị,
saveur,
trong tiếng La-tinh là cùng một nguồn).
(2)
Tôi
biết Lộc, và J. Huỳnh Văn, là qua Tập san Văn
chương. Không biết ai là người đầu tiên đưa ra việc làm báo. Khi có
tôi, mọi
chuyện đã được quyết định. Tôi nhận lời, phần lớn là vì hai người
bạn
mới. Nhất là J. Huỳnh Văn. Như một hậu quả tất nhiên của những buổi bỏ
sở ra
ngồi quán cà phê gốc me đường Nguyễn Du, hoặc bên đường Hai Bà Trưng,
quãng gần
ngã tư Gia Long, khi bên kia quá ồn. Số là lúc này, Bưu Điện đã
phân đôi,
thành Bưu Vụ, và Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương, chuyên lo việc
lên đồ
biểu điện đàm/ điện tín, dưới quyền của ông T. nghe nói người của Mỹ.
Vào những
ngày cuối cùng, trong lúc Đà Nẵng đang trong cơn hỗn loạn, tôi còn cố
liên lạc
với Phòng Điện Toán, xin con số điện đàm/ điện tín ... "Anh có biết Đà
Nẵng sắp sửa đi đoong không..." tôi nghe tiếng người bạn bên kia
đường dây hốt hoảng. Quay qua phòng sếp, một đống hồ sơ vẫn y nguyên.
Đã hơn tuần,
ông chưa vô sở: người Mỹ đã đưa ông và gia đình đi từ mấy ngày
trước.
Huỳnh
Văn là linh hồn của cả bọn, là tinh thần, và
Tổng thư ký, của tờ báo. Không có anh, chắc tờ báo không ra quá số hai.
Sài-gòn
nhỏ xíu: chiến tranh, nỗi sợ hãi, đời sống riêng tư của mỗi con
người... làm
người ta co cụm lại. Đám bạn bè tuy biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên
nhau,
khi có anh. Anh nói, anh biết tôi từ hồi Nghệ Thuật, từ những ngày,
thỉnh
thoảng ghé quán Cái Chùa, thấy một gã lúc nào cũng đeo kính đen, ngồi
trơ một
mình tại một chiếc bàn ở góc quán. Nếu không có Tập san Văn chương,
chúng tôi
chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và có thể chẳng bao giờ người đọc biết
anh là
một thi sĩ. Cũng chẳng mấy người biết anh dậy học, cho một trường tư ở
Biên hoà.
Có thể những dòng Cầm Dương Xanh đã rong ruổi cùng với anh, suốt quãng
đường
Sài-gòn - Biên-hòa, và ngược lại. Chúng xuất hiện lần đầu tiên, và cũng
là cuối
cùng trên Tập san Văn chương. Huy Tưởng, thay mặt tôi tới gia đình đốt
những
nén hương tưởng niệm, sau đó gửi ra vài dòng. Về câu hỏi, chị còn
nhớ...?: Thời
gian sau này, bạn bè nhiều nhưng thật tình là tôi không được quen biết
hết, chỉ
có các anh là bạn cũ trước 75 thì tôi mới nhớ thôi.
(3)
Tản mạn
ở đây, chữ mượn của Nguyễn Tuân [Tản mạn xung quanh một
áng Kiều], ý, lấy ở từ "excursion" của Roland Barthes, một từ theo
ông mơ hồ một cách thật là kiểu cách (précieusement ambigu). Trong bài
đọc
[Lecon] mở ra khóa giảng môn học "Sémiologie littéraire" [Ký hiệu
học văn học], tại Collège de France, ngày 7 tháng Giêng 1977, sau được
in lại
trong tủ sách Points, bộ môn Nhân Văn, nhà xb Seuil, ông cho rằng, cái
phương
pháp dậy và học bấy giờ nó không như trước nữa. Trích dẫn câu của
Mallarmé,
"Mọi phương pháp là một giả tưởng" (Toute méthode est une fiction),
ông coi phương pháp viết và giảng của ông không nhắm phát hiện, không
nhằm tháo
gỡ, không mong đạt kết quả, mà chỉ là một giả tưởng, qua đó…
Nguồn
Du Tử Lê
Wednesday, July 07, 2010
NXH vô
căn nhà văn chương qua
cửa ải VP. Cuốn đầu tay của bạn quí của Gấu, là do nhà xb Thời Mới của
VP in!
Hình như VP cũng đã từng kể
công, trong cái chuyện khám phá ra nhà văn NXH, trong một loạt bài trên
Thế Kỷ
21?
GNV khi đưa tác phẩm đầu tay
cho "già Vượng', chủ báo, chủ nhà in, nhà xb Văn, bị ngay ông thư ký
TPG
quăng vô thùng rác. Thứ này mà ai đọc! Gấu đã kể chuyện này rồi.
HPA mới xúi bỏ tiền ra in, sợ
chó gì. Thế là ra nhà xb Đêm Trắng, bạn ta chủ trương.
In ở nhà in Văn. Khi đưa sách
đi chào hàng, chỉ riêng tay Khoát [?], chủ nhà phát hành Sống Mới lấy
300 cuốn,
xỉa tiền trả liền, TPG nghe kể trợn mắt, thế hả!
Đêm Trắng, chữ của HPA.
Nhớ lần gặp Thế Nguyên, anh
bĩu môi, Sài Gòn mà cũng bầy đặt đêm trắng của St. Petersburg của Dos!
HPA, là do Gấu đưa vô, qua
cửa ải NDT. Mãi sau này, bạn quí còn nhớ cái xen Gấu giới thiệu anh với
tờ Văn,
qua NDT: Mày nói với NDT, mày còn thằng bạn bảnh lắm, đang học triết Đà
Lạt,
sắp hạ san, khi nào nó về Sài Gòn, tao sẽ đưa nó tới gặp mày.
NDT có lần than với Gấu, tụi
chúng mày sướng hơn tao nhiều, có cả một bầy, khi tao mới viết, trơ cu
lơ một
mình!
Cái hỏng của những đấng nhà
văn Miền Trung, mãi sau này Gấu mới ngộ ra, là do được TPG nuông chiều
quá.
Đó là sự thực. Gấu sẽ lèm bèm
tiếp, sau.
Không đúng như THT nói, qua
bài viết của DTL về NXH trên Người Việt.
Mấy đấng nhà văn Miền Trung
không học được câu của Dos: Tao hơn tụi mi là vì dám đẩy tới cùng cái
việc mà tụi
mi chỉ dám làm một nửa; tới đó, cả đám xúm lại tâng bốc nhau, hửi hơi
nhau, dựa
hơi lẫn nhau!
Sở dĩ khi VP nhận tiền Mẽo làm
bộ VHMN, viết thậm tệ về nhóm Sáng Tạo, một phần là do cái chữ S, hình
dáng nước
Mít mà ra!

Le Dossier
Derrida face à ses pairs
Avec Foucault, la
diagonale
des fous
Leur
dialogue sur la démence
reste respectueux mais ne déplacera pas les lignes: pour Derrida, le
geste
cartésien d'exclusion a été reproduit par Foucault, qui voit juste dans
cette
critique un réflexe de philosophe.
Par SÉBASTIEN BUCKINX
Selon
Derrida, si la pensée
échappe à la folie, c'est parce que le cogito s'ouvre à la déraison et
l'affronte dans la plus dangereuse proximité.
LE MAGAZINE LITTÉRAIRE JUIN
2010
Sở dĩ
mấy đấng nhà văn Trung Kít căm thằng cha Gấu, chính là do mấy ông mũi
lõ
Foucault, Barthes, Genette... mà ra!
Tất cả những ông Tây mũi lõ đó, đều do Gấu giới thiệu khi phụ trách mục
Tạp Ghi cho tờ Vấn Đề!
Beckett, Gấu giới thiệu trên tờ Nghệ Thuật, trước đó. Trước khi
ông được Nobel chừng 4 năm lận!
Bài viết Bếp Lửa
trong văn chương,
những gì gì “con quỉ tương tự”, “cơn điên cuồng gọi tên
sự vật".. chôm từ Les Mots et les
Choses, “Chữ và Vật” của
Foucault!
Nhưng bạn thân nhất của Gấu, là
Joseph Huỳnh Văn, dân Huệ!
Bây giờ thì còn vài đấng. Toàn dân Trung, dân Huệ!
Đọc Figures I của Genette, Gấu
chôm được một ý tưởng thật là thú, và bèn áp dụng ngay vào cõi văn Mít,
khi đọc Sinh Nhật của bạn
quí.
NXH vô thư viện, tính kiếm một
cuốn để đọc. Kiếm không thấy, anh bèn viết ra nó!
Ý này nữa, hình như chôm của
Joyce, cũng biếu bạn quí!
Lẽ dĩ nhiên, Sinh Nhật cũng
có
những ‘faux pas’ [nhớ là tiếng Tây nhé!], nhưng ‘faux pas’ của thiên
tài, người thường
khó bắt chước lắm!
Nhớ là ông anh đọc, bật cười,
“mày” [ông dùng chữ ‘cậu’] viết thế này mà làm sao chúng không chửi.
Mày phải
viết về bạn mày như mày viết về NS thì mới thành nhà phê bình!
Một trong những
nhà văn bị động viên, còn sống sót sau cuộc chiến 20 năm và trên dưới
10 năm tù
cải tạo là nhà văn Trần Hoài Thư, đã nhiều lần lên tiếng về những khó
khăn vật
chất cũng như tinh thần của lớp nhà văn mặc áo lính. Trong một bức thư
dài gửi
cho nhà văn Trần Phong Giao, khi họ Trần còn giữ vai trò Thư Ký Tòa
Soạn tạp
chí Văn, và nhiều bài viết khác, tác giả “Nỗi Bơ Vơ Của Bày Ngựa Hoang”
(1) đã
cay đắng biếm nhẽ những nhà văn thành phố (Saigon), nhà văn phòng trà,
vũ trường...!
DTL
Gấu đã từng
bị xài xể đúng như thế, bởi mấy đấng như THT, nhà văn khoác áo lính, về
cái
chuyện tại sao không nhắc tới họ, ngoài ra còn bị những đấng VC nằm
vùng như Lữ
Phương gọi là đám viễn mơ, chuyên bợ đít, nâng đĩa, sờ mông mũi lõ.
Thư gửi ông thầy và còn là
chủ tờ Vấn Đề, Vũ Khắc Khoan, ông bực quá, nhắn Mai
Thảo, biểu nó phải viết về những thi văn đoàn Mũi Né, Phan Thiết…!
MT kêu Gấu. Gấu than với TTT. Ông lắc đầu, thà giới thiệu Barthes còn
hơn giới
thiệu THT! [Đùa tí chơi!].
Chắc là TTT có nói với MT. Lần sau gặp khi lấy bài, ông nói, thôi anh
muốn viết
gì thì viết!
Gọi MT,
nhà
văn phòng trà, thì còn được, chứ đám Gấu, cũng... sợ đi lính, đâu có
thua gì THT?
Mấy bữa
dính 2 cú bão, rớt, tính đi thăm cố đô Lèo đành nằm chờ, và ngốn hết
cuốn
trên.
Tuyệt cú mèo!
Bestseller, thành ra nhiều tình tiết, lớp lang, có vẻ rườm rà, nhưng ở
trung
tâm, là một câu chuyện tình thê lương, nức nở, đúng thứ của thời đại
chúng ta:
Anh Trương Chi ở đây, là một tên đồ tể, nhờ Cách Mạng Văn Hóa, lên làm
Trùm Đảng
“VC” /TQ, tại một địa phương. Em, mới lớn, dân thành phố, mê Đảng như
điên, đẹp
như tiên, tình nguyện đi về miền quê, sống với nhân dân, gặp tên đồ tể,
làm sao
tha, thế là bị nó hiếp, nó bắt phải làm vợ nó...
Trong khi
đám thanh thiếu niên cùng thời, vỡ mộng, chuồn về thành phố, em hết
đường về...
Cái tít cuốn truyện cũng không dễ dịch, phải đọc mới ồ một tiếng, giống
cái tít
Moon Palace.
*
xiu xiu
Anh Tru xem
phim Xiu Xiu chua ? Cung la mot co be di ve vung que cong tac, muon ve
thanh
pho ma khong ve duoc . Phim do Joan Chen dao dien
Chua coi
Trong truyen Loyal, the luong
lam. Tu tu ke tiep…
Khi nao xem
xong Xiu Xiu, The sent down girl thi nho so sanh xem truyen nao the
luong hon
truyen nao .
Phim duoc
nhieu giai thuong dien anh .
Coi review,
thấy
có khác. Truyện bao quát hơn nhiều. Anh cớm giỏi nghề cớm, nghề văn,
nghề
thơ; những chuyển đoạn, thường là bằng thơ, của, thí dụ, Lý Thương Ẩn,
'gặp đã
khó, xa lại càng khó', ‘kiến nan, biệt diệc nan’...
Vì là truyện trinh
thám, nên còn có băng đảng, xuất cảng người, trùm mafia Á ở Mẽo….
Mấy dòng nhạc sau đây, mà
chẳng tuyệt sao:
"You like to
say you are a grain of sand, / occasionally fallen into my eyes, in
mischief. /
You would rather have me weep by myself / than to have me love you, /
and then
you disappear in the wind / like the grain of sand ..."
White Cloud also quoted a couplet from Li
Shangyin, the bard of star-crossed lovers, whispering in his ear, "It is
difficult to meet and to part, too. / The east wind languid, and the
flowers. She said it to evocative effect
as the song was coming to a stop, her hand lingering in his.
He chose to
comment on the poem, "A brilliant juxtaposition of an image with a
statement, creating a third dimension of poetic association."
"Isn’t that
called Xing in the Book of Songs?"
Xing does
not specify the relationship between the image and the statement,
leaving more
room for a reader's imagination,” he expounded. He had no problem
talking to
her poetry.
“Thank you.
You're really special."
'"Thank
you. You're marvelous," he echoed in his best-dancing-school manner,
bowing before he moved back to the sofa.
["Anh nói anh như hạt cát vô tình lạc vào
mắt em/Thà anh làm em khóc,
thay vì làm em thương anh/ rồi anh bỏ đi như hạt cát bay theo gió.."
Rồi Bạch Vân thì thầm vào tai anh, dòng thơ của Lý Thương Ẩn, thi
sĩ của những cặp tình trắc trở, Gặp
nhau đã khó, xa nhau lại càng khó/Gió đông
rên rỉ khiến lá rụng…
Chàng cớm bèn lèm bèm về mấy dòng thơ, “một hình
ảnh/ một nhận xét,
đặt kế bên nhau mới đẹp làm sao, và từ đó tạo ra chiều thứ ba cho kết
hợp thi
ca’"....
Cái này gọi là Xing, trong Kinh Thi, phải không?
Xing không xác
định liên hệ giữa hình ảnh và nhận xét, để dành
chỗ cho sức tưởng tượng của người đọc..
Anh cớm Chen này phán về
thơ hay hơn Thầy Cuốc, theo Gấu!]
Cái
làng cô bé 'văn công trung kiên' tới sống, tới thời kinh tế thị trường,
đa số
xuất cảnh theo diện mafia... làm Gấu nhớ đến một làng hình như ở gần
Huế thì
phải, cũng đi hết, còn leo teo vài người ở lại, sống bằng tiền từ nước
ngoài
gửi về, như những người giữ đền, nhang khói hồn ma, ‘chết trong cuộc
chiến và
sống chẳng biết ngày nào về’...
Cô
gái này bảnh hơn Xiu Xiu nhiều. Cô không hề có ý nghĩ trở về lại
thành
phố, dù gia đình hết sức năn nỉ.. Là một nữ văn công chuyên trình diễn
màn múa
giống như người Việt mình múa nón, trên nón có chữ, tất cả xếp lại
thành lời
chào mừng, thề một lòng một dạ với Bác Mao, cái tít cuốn truyện là vậy,
A Loyal
Character Dancer. Cô được coi là 'nữ hoàng', 'queen' của Đội múa.
Anh cớm mê thơ, và nhờ mê thơ mà phá được vụ án, cùng với cộng tác
viên, partner,
là một nữ cảnh sát Mẽo, có nhiệm vụ qua TQ đưa cô gái qua Mẽo, gặp lại
anh
chồng đồ tể, Trùm VC/TQ ngày nào, khi thất sủng, chuồn qua Mẽo, làm
găng tơ,
đầu thú FBI, tình nguyện tố cáo Trùm băng đảng Mafia Á, với điều kiện
phải cho
cô vợ của anh qua Mẽo đoàn tụ, mặc dù anh ta chẳng yêu thương gì vợ...
A Loyal
Character Dancer có một kết thúc có hậu, không ‘thê lương’: người nữ
văn
công, ‘tiếng hát át tiếng bom’ của TQ được cứu chuộc nhờ thơ ca, và qua
nó, là
mối tình thuở học trò, khi cô còn đang ở đỉnh cao của danh vọng, một Nữ
Hồng Vệ
Binh trung kiên, một nữ hoàng nhan sắc… Và người yêu cô, thầm lén, lẽ
dĩ nhiên,
là con của một tay thuộc phía kẻ thù của nhân dân. Cái đoạn 'kể trong
đêm khuya' sau
đây, của anh chàng si tình, là một trong những trang đẹp nhất của cuốn
truyện:
Liu entered
high school in 1967, at a time when his father, an owner of a perfume
company
before 1949, was being denounced as a class enemy. Liu himself was a
despicable
"black puppy" to his schoolmates, among whom he saw Wen for the first
time. They were in the same class. Like others, he was smitten by her
beauty,
but he never thought of approaching her. A boy from a black family was
not
considered worthy to be a Rep Guard. That Wen was a Red Guard cadre
magnified
his inferiority. Wen led the class in singing revolutionary songs, in
shouting
the political slogans, and in reading Quotations from Chairman Mao,
their only
textbook at the time. So she was real: more like the rising sun to him,
and he
was content to admire her from afar.
That year
his father was admitted to a hospital for eye surgery. Even there,
among the
wards, Red Guards or Red Rebels swarmed like raging wasps. His father
was
ordered to stand to say his confession, blindfolded, in front of
Chairman Mao picture.
It was an impossible task for an invalid who was unable to see or move.
So it
was up to Liu to help, and first, to write the confession speech on
behalf of
the old man. It was a tough job for a thirteen-year-old boy, and after
spending
an hour with a splitting headache, he produced only two or three lines.
In
desperation, clutching his pen, he ran out to the street, where he saw
Wen
Liping walking with her father. Smiling, she greeted him, and her
fingertips
brushed against the pen. The golden top of the pen suddenly began to
shine in
the sunlight. He went back home and finished the speech with his one
glittering
possession in the world. Afterward, he supported his father in the
hospital,
standing with him like a wooden prop, not yielding to humiliation,
reading for
him like a robot It was a day that contained his brightest and blackest
moment.
Their three
years in high school flowed away like water, ending in the flood of the
educated youth movement. He went to Heilongjiang Province with a group
of his
schoolmates. She went to Fujian by herself. It was on the day of their
departure, at the Shanghai railway station, that he experienced the
miracle of
his life, as he held the red paper heart with her in the loyal
character dance.
Her fingers lifted up not only the red paper heart, but also raised him
from
the black puppy status to an equal footing with her.
Life in
Heilongjiang was hard. The memory of that loyal character dance proved
to be an
unfailing light in that endless tunnel. Then the news of her marriage
came, and
he was devastated. Ironically, it was then that he first thought
seriously
about his own future, a future in which he imagined he would be able to
help
her. And he started to study hard.
Like others,
Liu came back to Shanghai in 1978. As a result of the self-study he had
done in
Heilongjiang, he passed the college entrance examination and became a
student
at East China Normal University the same year. Though overwhelmed with
his
studies, he made several inquiries about her. She seemed to have
withdrawn.
There was no information about her. During his four years at college,
never
once did she return to Shanghai. After graduation, he got a job at
Wenhui
Daily, as a reporter covering Shanghai industry news, and he started
writing
poems. One day, he heard that Wenhui would run a special: story about a
commune
factory in Fujian Province. He approached the chief editor for the job.
He did
not know the name of Wen's village. Nor did he really intend to look
for her.
Just the idea of being somewhere close to her was enough. Indeed, there's no story without coincidences.
He was shocked when he stepped into the workshop of the factory.
After the
visit, he had a long talk with the manager. The manager must have
guessed
something, telling him that Feng was notoriously jealous, and violent.
He
thought a lot that night. After all those years, he still cared for her
with
unabated passion. There seemed to be a voice in his mind urging: Go to her. Tell her everything. It may not
be too late.
But the
following morning, waking up to reality, he left the village in a
hurry. He was
a successful reporter, with published poems and younger girlfriends. To
choose
a married woman with somebody else's child, one who was no longer young
and
beautiful-he did not have the guts to face what others might think.
Back in
Shanghai, he turned in the story. It was his assignment. His boss
called it
poetic. "The revolutionary grinder polishing up the spirit of our
society." The metaphor was often quoted. The story must have been
reprinted in the Fujian local newspapers. He wondered if she had read
it. He
thought about writing to her, but what could he say? That was when he
started
to conceive the poem, which was published in Star magazine, selected as
one of
the best of the year.
*
Vớ được cuốn
trên, tại một tiệm sách ở Mường Luổng!
Ấn bản 2009,
của tác phẩm đầu tay, 1962, của ‘thi sĩ của chuyện điệp viên' của thời
kỳ chiến tranh lạnh
.
Gấu có mấy
cuốn, trên, rồi, cả bản tiếng Anh, lẫn tiếng Pháp, vì cứ lăm le dịch,
hoài.
Nhưng
cuốn mới nhất,
quả là thần sầu, vì có thêm, bài viết của tay làm cái bìa, và của chính
tác giả,
về cuốn đầu tay của ông
Gấu có tí kỷ
niệm, chung với Mai Thảo, hồi còn Quán Chùa, về Len Deighton, qua nhân
vật đóng
vai chính trong cuốn truyện trên, Michael Caine.
Khán giả
ghiền xi nê tại miền nam trước 1975,
nhất là lớp người như tôi, làm sao không biết tới Ngài Michael Caine
cho được
cơ chứ! Không chỉ vì ông đóng phim "hay", mà còn vì đề tài những phim
ông đóng. Người viết còn nhớ, đã từng trải qua gần một buổi sáng, bên
ly cà phê
nguội ngắt vì mải nói chuyện, với một "ông bạn", cũng dân ghiền xi
nê, và cũng ghiền những phim trinh thám, và cũng mê cách đóng trò điệp
viên lù
khù của Michael Caine. Ông bạn nhà văn đàn anh... Mai Thảo!
Vào thập niên 1950, Michael Caine đã là một diễn viên điện ảnh, nhưng
phải đợi
tới phim "Hồ Sơ Ipcress", xuất hiện năm 1956, ông mới trở thành một
diễn viên hàng đầu của Anh, một vị trí mà ông giữ mãi tới hai chục năm,
với những
phim nổi tiếng chẳng kém, như Đám Tang Của Tôi Tại Berlin... rồi sau
đó, ông lu
mờ dần, nhưng với khán giả miền nam, ông luôn luôn, và chỉ là tay điệp
viên lù
khù của Hồ Sơ Ipcress, và Đám Tang Của Tôi Tại Berlin.
Mai Thảo, tôi, và những khán giả ghiền xi nê tại sài Gòn những năm "đó
đó", chúng tôi chỉ biết Hồ Sơ Ipcress qua cái tên tiếng Tây, là "Nguy
Hiểm Tức Thời" (Danger Immédiat). Như tất cả những phim Mỹ, chúng tới
miền
nam Việt nam qua ngã Paris, nghĩa là đều nói tiếng Tây, đều có một cái
tên Tây.
Thí dụ những phim cao bồi mà khó ai có thể quên nổi như Shane, biến
thành Người
của những thung lũng mất tích, L’homme des vallées perdues, với anh
chàng bồi
lùn tịt Alan Ladd (?), High Noon: Còi xe lửa thét ba lần, với Gary
Cooper – một
trong những nhân vật người hùng đại diện cho nam tính của người Mẽo,
còn có
John Wayne, Humphrey Bogart... - và cô đào Grace Kelly, sau thành bà
hoàng
Monaco, và lẽ dĩ nhiên, làm sao quên nổi, bản nhạc "Do not forsake me,
oh
my darling" (lời Pháp, Et toi aussi, tu m’abandonnes: Cả em nữa, cũng
bỏ
anh sao?), với tiếng hát đầy chất người hùng chăn bò (cowboy), của
Frankie
Laine.
Nguy Hiểm Tức Thời, Đám Tang Của Tôi, hai phim nổi tiếng do Michael
đóng, đều dựa
trên tác phẩm của Len Deighton, một nhà văn chuyên viết truyện điệp
viên người
Anh, và đề tài của ông, là về cuộc chiến tranh lạnh. Ông nổi tiếng
chẳng kém gì
một nhà văn Ăng Lê cũng chuyên viết truyện điệp viên là John Le Carré
và đó
cũng là lý do tại sao Mai Thảo và tôi cùng mê.
Chúng tôi hay ngồi uống cà phê tại quán Cái Chùa ở đường Tự Do, Sài
Gòn. Sở làm
của tôi gần đấy. Mỗi buổi sáng, tôi phải ghé sở thật sớm, coi có việc
gì dành
riêng cho tôi, mà thường là không (bởi vì "ca chính" là vào buổi
trưa), bởi vậy, liền sau đó, thay vì về nhà, tôi ghé quán Cái Chùa. Còn
Mai Thảo,
ghé gặp tôi, là để lấy bài cho tờ Vấn Đề, hoặc để kiếm một chỗ ngồi,
viết vội
cho xong mấy trang fơi ơ tông, cho một nhật báo, hoặc để chờ những ông
bạn
khác, của cả hai, sẽ lục tục tới sau đó.
Trong nhóm Sáng Tạo, Mai Thảo là người đi ra nước ngoài sớm nhất, tuy
cũng trải
qua hình như là ba niên, sống "chui", trong khi chờ "dịp
may". Những người kia còn ở tù, hoặc ở trong trại cải tạo. Chi tiết về
những
ngày sống chui, đã nhiều người kể rồi, và dù không có người kể ra,
những độc giả
của ông cũng đoán ra được, từ cuộc sống chui của họ. Khi người viết ra
được
ngoài này, ông còn sống, nhưng không có dịp gặp lại. Những ngày trước
1975, tuy
thường gặp, nhưng thật khó mà là bạn thân, một phần ông đã có địa vị
trong giới
viết văn, một phần do "ngần ngại", ở cả hai phía.
Có thể vì các bạn ông đều ở tù, rồi cả nước ở tù, cho nên những ngày
đầu, ông
"chống cộng thẳng thừng", nghe nói còn tuyên bố, không thèm đọc những
gì từ phía những nhà văn cộng sản. Thái độ đó có thể còn là do hình ảnh
vẫn còn
đọng lại mãi trong ông, khi giã từ Hà Nội: "Phượng nhìn xuống Hà Nội,
vực
thẳm ở dưới đó." (Đêm Giã Từ Hà Nội).
Nhưng trong thâm tâm, ông không thể nào quên thành phố đó, tôi tin như
vậy.
Tôi nhớ một lần, ngồi ở quán Cái Chùa, nhân nói chuyện di cư (nghĩa là
tại sao
rời bỏ Hà Nội), ông cho biết, "Thì mình tính, chỉ sau hai năm là tổng
tuyển
cử, là thống nhất, thế là đi, biết chắc một điều, lời được hai năm."
Ngẫm nghĩ một hồi, ông gật gù,
"Vậy mà lời hơn nhiều".
Tuy nói "lời", nhưng nghe thật bùi ngùi.
Lần trở lại Hà Nội, tôi được một nữ thi sĩ kể cho nghe, về lần gặp Mai
Thảo,
nhân chuyến ghé thăm Tiểu Sài Gòn.
"Vừa nghe tiếng nói thốt lên, ông đang thiu thiu, ngồi nhỏm dậy, hỏi:
-"Ai đó?... Lâu lắm mới được nghe giọng Hà Nội".
Người Mỹ trầm lặng
Nhưng
tí kỷ niệm, với bà giáo già người Canada, những ngày đầu tới xứ lạnh,
học ESL, mới thật là tuyệt.
Happy birthday, Len Deighton: we need you now
more than ever
Chúc mừng sinh nhật, Len. Tụi
này quá cần bạn vào lúc này.
"It was the morning of my
hundredth birthday." So begins Len
Deighton's Billion Dollar Brain, published in 1966.
Yesterday Deighton
himself turned 80. Last year, the centenary of Ian Fleming
saw a resurgence of
interest in James
Bond's creator – could it be Deighton's turn?
HarperCollins has announced that it will reprint eight of his novels
this year,
including The Ipcress File, Funeral in Berlin and Billion Dollar Brain,
all
with new introductions by the author. Quentin Tarantino has also said
he is
contemplating filming the Game, Set and Match trilogy, featuring
Deighton's
embattled British agent Bernard Samson.
Now is the perfect moment for a Deighton revival. In the current
political
climate, his novels – particularly his cold war spy stories – act as a
refresher course in what happened last time round. Unlike John le
Carré's work,
they don't make for bleak or melancholic reading, and are often rather
jaunty
in tone. But running through them is a deep mistrust and cynicism of
the powers
that be. His protagonists are anti-authoritarian, laconic, past their
best,
bitter and seething at the absurdity of their business.
Gấu có vài kỷ niệm về tay này,
cùng với Mai Thảo, và Quán Chùa, và Sài Gòn.
Đã kể ra trong Tản mạn về
phim & Những ngày ở
Sài Gòn
Và có một kỷ niệm về ông, những ngày mới tới xứ lạnh, đi học ESL, và bà
giáo
già, khi thấy Gấu cặp theo một cuốn của ông, đã nói, tôi mê tay này
lắm, không
ngờ lù khù, lớ ngớ, ngớ ngẩn, không rành tiếng Anh, như anh, mà cũng mê
ông ta!
Quả là thế thật! Ấy là vì bà gọi Gấu lên lau cái bảng, mà Gấu ngớ ra,
chẳng
hiểu bà nói gì!
Len được coi là thi sĩ của những câu chuyện điệp viên.
NKTV
Trong bài viết trên Guardian,
có kể những truân chuyên của
tác phẩm đầu tay của ông, luôn cả cái xen mở ra The Ipcress File.
Deighton reinvented
the spy
thriller, bringing in a new air of authenticity and playing with its
form. He
added footnotes and addenda on arcane (but always interesting)
aspects of
espionage, and mocked the genre's conventions. His first novel, The
Ipcress
File, was framed as a story told by the narrator to the Minister of
Defence,
who is cut off sharply when he tries to elicit an elaboration of a
point:
''It's going to be very
difficult for me if I have to answer questions
as I go
along," I said. "If it's all the same to you, Minister, I'd prefer
you to make a note of the questions, and ask me afterwards."
"My dear chap, not another word, I promise."
And throughout the entire explanation he never again interrupted.
In an excoriating
essay written in 1964, Kingsley Amis suggested that
the
reason for this was that the minister had fallen asleep. But later he
changed
his mind somewhat: in a letter to Philip Larkin in 1985, he wrote that
Deighton's work was "actually quite good if you stop worrying about
what's
going on".
Deighton's complex plots
may be a reason why he is not more widely read today, in a world where
we are
impatient to cut to the chase, unmask the villain and move on to the
explosive
finale. Even at the time, Amis wasn't alone in being befuddled:
Deighton
initially submitted The Ipcress File to Jonathan Cape, Ian Fleming's
publisher,
but after they asked him to simplify the plot he took the manuscript to
Hodder
& Stoughton. Their edition became a huge bestseller, bigger than
Hodder had
prepared for, and Deighton went back to Cape, who published his second
novel,
Horse Under Water. It sold 80,000 copies in two days. Deighton was
feted as the
poet of the spy story, the new Fleming, the anti-Fleming, and much more
besides. Soon, the film world came knocking. Harry Saltzman produced
three
films from Deighton's work, and Michael Caine rocketed to world fame as
the bespectacled,
gourmet-food-loving cockney spy Harry Palmer.
Ông ta
thêm cho
nó, tiểu thuyết điệp viên, những tiểu chú!
Tuyệt!
Gửi
Thầy Cuốc, với Best Regards!
Gấu
Kỷ niệm, kỷ
niệm
Thơ kể -
tuyển tập thơ tân hình thức
Chữ
nghĩa đôi khi làm tôi say.
Trên đường đến Philadelphia ngày thứ Năm ngồi trên xe tôi bỗng nghĩ đến
chữ cớm
văn học và cảnh sát văn học (của ông Gấu).
Ông thật là gan không sợ bị người ta chửi.
Nhận được quà tặng của nhà thơ Thành Tôn….
Blog HH
Cao
Thoại Châu là người mở ra cánh cửa dẫn vào văn chương cho cả lũ chúng
tôi.
Bài thơ đầu tiên của anh, gây chấn động không chỉ giữa bè bạn mà còn cả
Sài
Gòn, là bài đăng trên báo Văn, đề tài chiến tranh, lâu quá chẳng thể
nào nhớ nổi. (1)
Đó là bài thơ
sau đây, mới thấy lại trên Blog CTC:
Chỗ ngồi của
nhà giáo thời chiến
Tuổi hai
mươi bước vào nghề giáo
Dẫm lên
chông gai những lối mòn
Thầy nhủ thầm
mình làm nhân chứng
Cho sự chán
chường chạy khắp châu thân
Quê các em
có núi có sông
Có máu chảy
loang từng cánh đồng
Có trận tuyến
trên nhiều cây số
Các em đào dần
khoảng trống trong tim
Thầy dạy các
em tình yêu sông núi
Yêu đồng bào
tổ quốc quê hương
Nhưng trót
giấu đi bề ngang bề rộng
Và trọn bề
sâu của nỗi cô đơn
Các em say
mê con người sáng tạo
Mê áo cơm và
Thượng đế trên trời
Thầy dậy các
em về lòng dũng cảm
Làm người
chân thành mãi mãi không thôi
Rồi một đêm
khoác áo ra đường
Với nỗi sầu
với phẫn nộ như điên
Đạn vẫn nổ ầm
phá tung đêm lạnh
Máu vẫn chảy
hoài trên mỗi bản tin
Bảng với phấn
và Thầy tự nhiên vô dụng
Và bơ vơ giữa
bóng tối xây thành
Các em sau
này lớn lên mỗi đứa
Đứng nơi nào
trong cuộc chiến tranh ?
Châu Đốc
1963
CTC có bài
thơ gặp lại Thành Tôn, cũng OK lắm:
Cao
Thoại Châu
Gặp lại Thành Tôn
Từ
xứ nào bạn ghé thăm ta
Vỉa hè đây là đất quê nhà
Ánh đèn đường soi cho miễn phí
Mấy chục năm như ánh chớp đi qua
Vẫn
chân thật ung dung điềm đạm
Bạn không hề rơi rụng điều chi
Vẫn cương nghị gọn gàng tươi tắn
Phơi phới thanh xuân thiếu phụ rất đương thì
Lắng
nghe cuộc hành trình đơn thương độc mã
Những gập ghềnh khấp khểnh tháng năm qua
Đêm Sài Gòn một cặp ly mờ ảo
Sáng ngời lên không biết tự khi nào
Lâu
lắm rồi ta không uống rượu
Cái vòng tròn vành vạnh
những bờ ly
Khi độc ẩm ta rùng mình
khiếp sợ
Sang sông đêm với một
nửa con đò
Bạn
về đây và thuyền ta có bến
Lòng ta thôi hiu quạnh phút giây này
Nghe tiếng lanh canh những viên nước đá
Trong như lời bạn nói đêm nay
Không
thấy trời vì vướng tàn cây
Đất bao dung dưới chỗ ta ngồi
Cho ta quên đi đừng bao giờ nghĩ tới
Khi đêm tàn lại có một ngày mai
Bạn
đi rồi còn lại một cơn say
Ta lỏng buông ta trong phút hiếm hoi này
Chập choạng về ta chỉ còn một nửa
Đi kiếm nửa mình vào lúc sớm mai
Blog CTC
V/v Những
lời
‘tâm huyết’ của vị độc giả Blog NL, trong có nhắc tới Tin Văn.
Đó là
điều TV đã
từng làm ‘khi chưa có TV’, nghĩa là, ngay khi ra hải ngoại, sau khi
ngưng viết
[làm công, tháng tháng lãnh tiền nhuận bút] cho báo Văn Học, và mở ra
mục Tin
Văn trên VHNT của Phạm Chi Lan, và sau này, khi VHNT bị trục trặc kỹ
thuật, phải
ngưng, bèn 'tự biên tự diễn', 'độc diễn', qua trang Tin Văn, đồng thời
còn góp bài vở cho Chợ Cá,
Hậu Vệ.
Kết
quả ra sao, chắc bạn đã rõ.
Rút kinh nghiệm ‘xương
máu’, TV, sau đó,
chủ trương
ngược hẳn lại.
Kết quả ra
sao?
Bạn thử so
sánh 'giọng', NHQ, trước đây, [rất 'cao ngạo', phải nói là ‘vô học’,
'mục
hạ vô
nhân'], với bây giờ.
Rồi PTH. Trước,
và sau.
Sau, gần như
bặt tiếng. Biết đâu đấy, những dòng viết thật ‘đau đớn’, thật ‘ác’, như
một độc
giả Blog NL viết, của NQT tôi, về Sến Cô Nương, đã có chút tác dụng,
và, ‘biết
đâu’, 'đại ma đầu' đang tu luyện, 'sám hối', để trở thành chính quả,
xứng đáng
là vị nữ thủ lãnh trên net, hay hơn thế nữa, một ‘nữ bồ tát’!
Còn HNT.
Khó mà buông
dao bỏ nghề cớm, vì có thể, đây là mảnh đất của anh ta, do nghĩ mình
đọc nhiều,
biết nhiều, thành ra chỉ khoái đánh hơi, chỗ nào có mùi chôm chĩa là mò
tới.
Độc giả TV,
nhận xét về Gấu, đúng hơn bạn, theo Gấu. Một vị viết, ngay cả khi làm
cái việc
‘dọn’ đó, ông ta cũng chẳng hề để lòng thù hận ở trong, và vẫn viết
bằng một giọng
tưng tửng, và sẵn sàng chém vè, nghĩa là lại trở về với những đề tài
văn học...
Tks. NQT
*
Gió
said...
"V/v Những lời ‘tâm
huyết’ của vị độc giả
Blog NL, trong có nhắc tới Tin Văn.
...
Độc giả TV, nhận xét về Gấu, đúng hơn bạn, theo Gấu. Một vị viết, ngay
cả khi
làm cái việc ‘dọn’ đó, ông ta cũng chẳng hề để lòng thù hận ở trong, và
vẫn
viết bằng một giọng tưng hửng, và sẵn sàng chém vè, nghĩa là lại trở về
với
những đề tài văn học...
Tks. NQT"
Một người đọc Kim
Dung và Đỗ Quân sâu như bác mà còn mong cả giang hồ
"phản cảm" này trở nên "nhân hậu và cảm động" sao?
"Thủ lĩnh cuả net" thì rất nhiều nhưng chưa có "bồ tát",
bởi không dễ gì biến được thành bọ và làm bọ, nếu không có một... Kafka
;-p
Nhị Linh
said...
câu của Gide, tôi hiểu là hiền lành lương
thiện không viết được văn lớn :) từ đó mà có liên quan tới cái kia, mà
"mal" không chỉ có nghĩa trần trụi là "ác"
nếu muốn có một cái gì hiển ngôn hơn về vấn đề này, có thể đọc "La
Littérature et le mal" của
Georges Bataille :d
V/v KD & DQ. Tks NQT
V/v G. Bataille. Rồi. Sao khéo thế! Một tung một hứng!
Cái ý của
NL,
cũng là của Gide, trong cùng bài viết, ‘tác phẩm lớn có sự tham dự của
Quỉ’. Gấu
cũng đã từng chôm ý trên, để viết về Cuộc
Tình Trong Ngục Thất của Hoàng Đông
Phương, tức Nguyễn Thị Hoàng, khi cho rằng, trong tác phẩm của NTH, có
sự tham
dự của con quỉ chiến tranh.
Ngoài ra, còn chôm thêm ý của Dos, khi ông cho rằng,
con người thường cố vói lên cho bằng Thượng Đế, trong khi đúng ra, phải
kéo thằng chả
xuống cho bằng vai vế với con người, hoặc kém một tí, 'ừ thì em…',
nhưng với
CTTNT, NTH nâng địa ngục lên cho ngang tầm với con người, với cuộc tình
của nó.
Bài đăng trên Vấn Đề, do Mai Thảo & TTT order, Mai Thảo thú lắm,
gật gù, ông
đọc Dos, còn phịa thêm ra một Dos nữa!
Có lần ngồi nói chuyện văn chương
với Già, ông nói bây giờ người ta đọc nhiều nhưng không đọc kỹ… Bạn
thấy nhột
ran, thấy trong hai chữ "người ta" đó có mình. Những lần Già nhắc tới
cuốn sách nào đó bạn hớn hở kêu đọc rồi, nhưng nhắc một đoạn trong đó
thì bạn
không nhớ. Những lần bạn ngắc ngứ không gọi được tên một nhân
vật. Những
lần bạn quên tên tác giả hoặc nhớ tác giả thì quên tên sách. Những lần
bạn khen
cuốn sách X đó hay những hay làm sao thì bạn không diễn tả được. Giống
như lướt
đi trên những mối tình hờ hững, đã từng yêu nhưng có lẽ thiếu đậm sâu,
đến nỗi
chả nhớ nốt ruồi cô ấy nằm ở đâu.
Nguyễn Ngọc Tư: Chậm từng giọt chữ…
Bình Nguyên Lộc có một truyện ngắn
thật tuyệt vời về 'nốt ruồi của cô ấy nằm ở đâu'. Đọc khi mới lớn, xưa
quá rồi Diễm
ơi, thành thử không làm sao nhớ cặn kẽ từng chi tiết. Đại khái, đây là
câu chuyện
một anh chàng sinh viên trường thuốc, nhận ra người tình yêu thầm nhớ
trộm
của anh, ở trong nhà xác, nhờ một nốt ruồi, trong giờ học thực tập về
cơ thể học.
Anh mân mê nốt
rồi, và mơ mòng nhớ lại 'những ngày câm' của mình!
Lạ, là
Gấu, có vẻ như bị câu chuyện ‘ám’,
nên sau này, gặp đúng hoàn cảnh trớ trêu, ở trong một giấc mộng!
Nhờ đó, Gấu phịa ra được một lý thuyết
văn học, [ôi chao, lại nhớ đến 'thuyết kỳ kỳ' của Thầy Cuốc!], theo đó,
nếu bạn đọc một
cái chi mà quá mê nó, thì nó sẽ biến thành hiện thực, hoặc nó sẽ tác
quái, nhắm
vào bạn!
Trong giấc mộng, Gấu gặp, không
phải nốt rồi, mà là vết sẹo ở nơi tay cô bạn.
Gấu đã kể câu chuyện này rồi, nay
không dám nhắc lại vì sợ Gấu Cái giận!
Gấu Cái
có lần
nhận xét, trong tất cả những đứa con gái thương mi, đứa nào cũng có tí
ti khùng,
chỉ có ta là khùng nặng, vì đã lấy mi!
Ui chao, tuyệt!
*
Gấu thực sự không tin nhà văn Mít đọc
nhiều, và lại càng thực sự không tin, họ đọc kỹ.
Và chúng ta có thể lập lại câu
trên, với giới phê bình Mít: Có thể có một nhà phê bình Mít đọc nhiều,
nhưng không phải để
làm phê bình gia, mà làm cớm văn nghệ!
Chứng cớ, hai ông, một trong, một ngoài,
là NH, và HNT.
Kim Dung tạo ra nhân vật Kiều Phong,
uống rượu tới đâu, võ công cao tới đó, đòn đánh ra ác liệt cỡ đó.
Gấu tin rằng, khi ông phịa ra KP, trong
đầu ông có hình ảnh một nhà văn, vì cái sự đọc đối với nhà văn, y hệt
rượu đối
với Kiều Phong.
Chỉ một ông Yann Martel không thôi,
qua những lá thư gửi cho thủ trưởng của ông Gấu đang nhẩn nha đọc, cho
thấy, cái
đọc của ông mới uyên bác làm sao. Và trong cái sự uyên bác đó, có cái
phần của
riêng ông. Nói rõ hơn, khi ông viết về bất cứ một tác giả nào, là có
cái phần
nhận xét, có cái sự đọc của riêng ông, đối với tác giả đó, chứ không
phải, như
một con vẹt, ông sao y bổn chánh, những điều đã có người viết về họ.
Trong những bài essays của Pamuk, về
Dos, về Camus, là những phát giác của riêng ông, về họ, và chúng làm
bật ra một
điều thật quan trọng: Đây là cái nhìn của một Đông Phương, là ông, một
người Thổ
Nhĩ Kỳ, về Dos, về Camus, về Tây Phương, và hệ quả của chúng mới thật
càng quan
trọng: Chúng là những lời tiên tri, cảnh báo Tây Phương, sau cú 911.
Một vị độc giả, còn là nhà văn, nhận
xét về Gấu, nhân đọc bài viết về Nguyễn Tuân: NQT viết về bất cứ ai, là
viết về
NQT, và một vị độc giả khác, đọc những dòng trên, vội vàng cảnh báo
Gấu, này đừng
hoang tưởng về mình!
Sai!
Trong bài viết về Nguyễn Tuân, Gấu có
viết như thế này:
“Cá nhân người viết làm quen
với Nguyễn Tuân rất sớm, phải nói là
quá sớm. Mới biết đọc, biết viết, "thằng bé" đã nghe đọc văn ông, ở
những bậc cha chú trong gia đình. Người bác trong lúc tâm đắc với một
người bạn
về những viên ngọc vương vãi, trên con đường từ giếng trời trở về trần,
vô tình
để mãi những viên ngọc trong trí tưởng của đứa cháu. Thế đấy, cậu bé đã
dùng những
viên ngọc như vậy để đánh dấu những trang sách hồng, Ông Đồ Bể, Cái Ấm
Đất, của
Khái Hưng. Đánh dấu những trang sách của một chuyện tình (chúng làm cho
những lần
chia ly bớt thê thảm đi một chút); của cuộc chiến: như những viên đất
ném theo,
ném theo mãi, xuống lòng huyệt....”.
Từ 'những giọt nước đánh dấu
con đường từ giếng trời về trần gian' của
Nguyễn Tuân, tới 'những hòn đất ném theo ném theo mãi xuống lòng
huyệt': Cái sự nói
về NQT ở đây, là nói về nỗi đau thương của biết bao nhiêu con người
Miền
Nam đã từng đi lượm xác em, xác anh, xác chồng… trong cuộc chiến vừa
qua!
Hoang tưởng cái con khỉ!
Đọc, là đừng có thiên kiến,
đừng có
hận thù, đừng có ghen tuông, đố kỵ. Gấu ‘cảnh báo’ ‘một số độc giả TV’,
‘đa số thực
sự là băng đảng Hậu Vệ’!
Đa số những cái mail Gấu nhận được từ họ, đều được viết
trong nông nổi. Chưa kịp 'đọc nhiều, đọc kỹ', bài viết trên TV là đã
hăm
hở chửi!
Với bất cứ nhà văn, bắt buộc phải có cái phần
'hoang tưởng' trên, khi đọc bất cứ một tác phẩm của thiên hạ.
Em là lá biếc là mây cao
là tiếng
hát
Sớm mai khuya thức nhiều
nhớ thương
Thơ TTT
Gió O trích
Note:
‘Khua’ không phải ‘khuya’. [Thấy, đã sửa]
Nhà thơ hình như đã có lần viết về cái sự lầm lẫn này, giữa ‘khuya’ và
‘khua’,
nếu Gấu nhớ không lầm?
Còn một giai thoại nữa, liên quan tới mấy em ca sĩ hát lầm thơ phổ nhạc
của ông,
cũng thú vị lắm, ['đưa em vào quán rượu', mấy em hát thành 'đưa em vào
quán
trọ' ?] để Gấu lục lọi ký ức, hoặc tài liệu, rồi trình quí vị sau!
Nhưng, 'đưa em vào quán trọ' thú hơn nhiều, so với quán rượu!
NQT
Trong Liên Đêm có nhiều từ in sai, như trên, như nhà thơ cho
biết, trong
một lần ngồi Quán Chùa, ông còn gật gù, thây kệ!
Đại Gia Gatsby
50 ngàn Kíp, tiền Lào. Mua tại Mường Luổng, Cố Đô Lào.
Xuất bản 'Đại gia Gatsby' ở
Việt Nam
Nhìn mặt nổi, thì
đúng như dịch giả, và đa số nhận định, The Great Gatsby (1925)
là một
tác phẩm phê phán xã hội Mẽo, giấc mơ Mẽo; ẩn tàng ở trong đó còn có cả
chủ
nghĩa bài Do Thái, nhưng đây chính là một câu chuyện tình thê lương,
được viết
bằng một giọng văn cay đắng ngọt ngào, doux-amer, chữ của Beigbeder,
không thể
nào bắt chước được, một giọng văn đạt tới đỉnh cao, sau khi tác giả của
nó phải
hì hục viết 160 cái truyện ngắn để mua áo dài cho bà vợ Zelda.
Cuốn
truyện còn mang hơi hám tự thuật, vì Gatsby, một cách nào đó,
chính là
Fitzgerald. Sinh tại Saint Paul, Minnesota, [hình như đây là nơi trú
ngụ và sau
cùng an nghỉ của nhà thơ TTT?], ông chẳng bao giờ thành công trong cái
việc lòn
lỏi vào thế giới của những đại gia, những câu lạc bộ của các tỉ phú, và
còn bị
đội banh football Princeton khinh khi, và không bao giờ qua khỏi vết
thương
lòng này! Mặc dù không như nhân vật của mình, bị làm thịt, tuy nhiên,
ông cũng
ngỏm năm 44 tuổi, vì nhậu, vì chẳng còn ai biết đến mình, 8 năm sau,
đến lượt
bà vợ chết cháy trong nhà thương điên.
Những cuốn tiểu thuyết lớn ghét người ta kính trọng
chúng. Chúng thích sống,
nghĩa là được đọc, vò xé, nghiền nát, đối chứng, tranh cãi, nhận chìm.
Đã đến
lúc phạng cho Hemingway một hèo. Ông dám nói đùa: Một tác phẩm lớn là
thứ mọi
người đều nói tới nhưng đếch có ai đọc.
Frédéric Beigdeber [phê bình gia của một số tạp chí như Voici,
Paris-Première, Lire…]
Beigdeber viết về Gatsby:
Những tiểu thuyết lớn đều có tính dự báo, prémonitoire. Colette phán,
‘tất cả
những gì người ta viết thì sau cùng đều trở thành thực’ [‘tout ce qu’on
écrit
finit par devenir vrai’]. Cái nước Mẽo tham tiền hám của, ích kỷ mà
Fitzgerald
mô tả ngày càng tệ hại đi và trở thành người tình của Trái Đất. Những
giấc mơ
huy hoàng sau cùng biến thành những cái lưỡi bằng gỗ nhớp nhúa [do nốc
nhiều
rượu quá]. Thế giới là một bữa tiệc, party, của lạc thú, một bữa tiệc
khởi đầu
tuyệt vời, nhưng kết thúc thật thảm hại, giống như cuộc đời [một tiến
trình phân
huỷ]. Đừng bao giờ tỉnh dậy. Fitzgerald là một người ngoan đạo, với ông
hạnh
phúc, phải sòng phẳng với nó, và tội lỗi thì phải bị trừng phạt. Tất cả
những
thần linh thì đều đã chết; những cuộc chiến, đã thực hiện, những hy
vọng ở con
người, lầm lạc [Tous les dieux morts; toutes les guerres, faites; tous
les
espoirs en l’homme, trompés. Fitzgerald: This side of Paradise].
Chỉ còn có mỗi một việc để làm là mô tả đám trưởng giả, quí tộc New York,
sáng ngời đến trở thành mù lòa, và sau cùng tắt ngấm, như những loài
khủng long
NKTV
Mò
xuống phố, quơ mấy tờ, và
cuốn Xiêu Xiêu này, sau khi
đọc Xiêu Xiêu kia, "A Loyal.."
, mê quá!
Tờ TLS
số Sept 10, 2010 có bài
về Milosz và Brodsky, “Causework”, với cái tiểu tít, ‘quyền của nhà thơ
trong
thời không tưởng’, the poet’s authority in the age of utopia. Đây là
một bài điểm
một số sách mới xb và một cuốn phim chuyển
thể cái thư của Brodsky viết về hai đấng sinh thành, trên
TV đã từng
dịch Một căn phòng rưỡi. Bài
này tuyệt, và phần nào đó, trả lời câu hỏi
liên quan
đến HC và thái độ của ông trước nhà cầm quyền.
Cùng số báo TLS có bài Used
bullets,
Robert Chandler điểm tập truyện ngắn và tiểu luận The Road,
tác giả Vasily Grossman, sẽ ra mắt độc giả tiếng Anh tháng
tới, nhà xb MacLehose Presss, trong có Mama, câu chuyện cô con
gái nuôi
của Nicolai Yezhov, ông trùm mật vụ, và là ‘tác giả’ Đại Khủng Bố.
Khi ông ta thất sủng, bị bắt, vào năm
1939, tay đại uý NKVD xét phòng ông Trùm ở Kremlin, kiếm thấy trong 1
ngăn kéo, 4 viên đạn súng
lục, đã được sử dụng, và gói trong những tờ giấy đề tên những nạn nhân.
Chồng Trùm Mật Vụ, tác giả Đại Khủng Bố. Vợ, Đệ Nhất Phu Nhân Vương
Quốc Liên Xô, chủ nhân
một salon văn học, tại Moscow, và là tình nhân của toàn những đệ nhất
văn nhân, thí dụ,
Sholokhov, Nobel văn chương, tác giả Sông
Đông Êm Đềm.
Cô con gái nuôi rất thương ông bố trùm khủng bố của mình.
Bài này thật ly kỳ.
Người thực, việc thực, giả tưởng hơn cả giả tưởng!
Bài về Thi Ca, cũng thật tuyệt!
TV sẽ giới thiệu,
sau.
Used bullets
The story of Nikolai Yezhov'
s adopted daughter
ROBERT CHANDLER
In
the late 1930s, Soviet
cultural life was frenziedly intense; sex, art and power were morbidly,
dangerously, often fatally intertwined. There were a number of cultural
salons
in Moscow,
and
the most glamorous was that of Yevgenia Solomonovna Yezhova, the wife
of the
head of the NKVD. While Yevgenia Solomonovna worked as deputy editor of
a
prestigious journal, The USSR under Construction, and presided over her
salon,
her husband Nikolai Yezhov was presiding over the Great Terror. Between
late September
1936 and April 1938, he was responsible for about half of the Soviet
political,
military and intellectual elite being imprisoned or shot. He was also
responsible for the deaths of around 380,000 kulaks and around 250,000
members
of various national minorities.
Among the members of the
Soviet elite who visited Yevgenia Yezhova's salon were the Yiddish
actor
Solomon Mikhoels; the jazz band leader Leonid Utyosov; the film
director Sergei
Eisenstein; the journalist and editor Mikhail Koltsov; the poet and
translator
Samuel Marshak; the Arctic explorer Otto Schmidt; and the writers Isaac
Babel
and Mikhail Sholokhov, with both of whom Yezhova had affairs. Babel,
whose affair with Yevgenia began in Berlin
in 1927, is reported to have said of her, "Just think, our girl from Odessa has
become the first lady of the
kingdom!". In some respects, at least, Yezhova seems to have been
impressively bold; Otto Schmidt's son remembers her as being the only
person
who came up to speak to his father after Stalin had publicly criticized
him at
a Kremlin reception.
That Mikhail Sholokhov should
have visited Yezhova' s salon is not surprising. Sholokhov moved in
powerful
circles; he was a member of the Supreme Soviet from 1937, and he was
admired by
Stalin. He appears to have been fearless; both in 1933, during the
Terror
Famine, and in 1938, towards the end of the Great Terror, he wrote to
Stalin
with strikingly direct criticisms of his murderous policies. Isaac
Babel's presence
is equally unsurprising; he was fascinated by violence and power. In
his memoir
about Vasily Grossman, Semyon Lipkin recalls telling him how, in 1930,
he had
heard Babel
say, "Believe me ... I've now learned to watch calmly as people are
shot". Lipkin then quotes Grossman's response: "How I pity him, not
because he died so young, not because they killed him, but because he -
an
intelligent, talented man, a lofty soul, pronounced those insane words.
What
had happened to his soul? Why did he celebrate the New Year with the
Yezhovs?
Why do such unusual people - him, Mayakovsky, your friend Bagritsky -
feel so
drawn to the OGPU [the Soviet secret police]? What is it - the lure of
strength, of power? ... This is something we really need to think
about. It's
no laughing matter, it's a terrible phenomenon".
|
|