*
Chuyện Văn




 


Tình Yêu Thời Thổ Tả 

Bắc Âu được coi là thánh địa của nhà văn; sự kiện những nhà văn Bắc Âu hiện đang đứng đầu danh sách best sellers, ở trong nước và trên thế giới, “đã làm thay đổi giả thuyết rằng những thiên tài sáng tạo phải chịu đau khổ mới làm ra nghệ thuật…. an ninh thịnh vượng có thể cung cấp nguồn cảm hứng riêng của nó.”

Các nhà văn ở Na Uy, Phần Lan… được trọng vọng y hệt như các minh tinh màn bạc ở Hoa Kỳ. Người dân ở đây ham đọc, “có thể là do thời tiết”. Dân Bắc Âu “mặn mà” nhất với chuyện mua sách, chỉ thua dân Anh.

Người viết có nghe một giai thoại về xứ Bắc Âu, theo đó, thanh niên ở đây có giá lắm. Một chàng trai khuyên một anh bạn được qua xứ Bắc Âu, “Qua đó, ban đêm đừng ra khỏi nhà nhé!” Anh bạn tưởng tình trạng an ninh không bảo đảm, hay có giới nghiêm ở xứ sở “mặt trời đêm”. “Ban đêm mà ra khỏi nhà là bị các cô gái bắt cóc đó!”

Đấy là nói về Thánh Địa  của nhà văn. Và của… đàn ông.

Nếu Bắc Âu được coi là thánh địa của nhà văn, như vậy thánh địa của văn chương chắc là thuộc về dòng văn chương viết bằng tiếng Tây Ban Nha, thuộc vùng Mỹ Châu La Tinh, với những cao thủ như  Garcia Marquez.

Trong một tuyển tập những truyện ngắn ngoại, được gọi là “hay nhất thế giới” người viết được đọc những ngày mới lớn, có câu chuyện một vị linh mục dậy tại hai trường nam nữ phân biệt. Có hai cô cậu, mỗi người ở một đầu sông Tương, nên đành lấy cái nón ở trên đầu vị linh mục làm nơi hò hẹn. Nói rõ hơn, cái nón của vị linh mục chính là một hộp thư lưu động giữa hai ngôi trường. Một bữa vị linh mục tình cờ biết được bí mật, và ông bị cuốn hút bởi những lời lẽ trong những lá thư tình. Nhưng vì một giận hờn, hay một hiểu lầm, cuộc tình có dấu hiệu đi đến tan vỡ. Vị linh mục bèn mạo chữ viết, làm một cuộc hàn gắn. Sau cùng đi đến hôn nhân.

Trong Tình Yêu Thời Thổ Tả của Garcia Marquez, cũng có một câu chuyện tương tự như vậy. Nhân vật chính yêu một cô gái. Cô gái đi lấy chồng. Anh chàng quyết tâm đợi khi nào anh chồng chết, sẽ cưới cô gái. “Một người đàn ông với linh hồn của một thi sĩ, và sự kiên nhẫn của một vị thánh”: Florentino Ariza đã kiên nhẫn đợi hơn nửa thế kỷ; “tình yêu trong khi đợi chờ” của anh trải dài 51 năm, 9 tháng, và 4 ngày; trong khi chờ đợi người yêu “thứ thiệt” như vậy, anh đã trải qua 622 chuyện tình ái lăng nhăng, cho qua thì giờ, nhưng cũng thuộc loại dài hạn (long-term liaisons). Và khi cuộc đời thực sự của anh bắt đầu, anh nói với người yêu: anh vẫn còn là trai tơ! Nàng tuy không tin tưởng cho lắm, nhưng lại mê cách anh nói câu đó: không vướng chút bụi trần! (But she liked the spirited way in which he said it).

 Người viết liên tưởng tới câu nói của nàng Kiều khi tái ngộ Kim Trọng: Chữ trinh còn một chút này…

 Kundera cho rằng, nếu con người chỉ có một cuộc đời để sống, thì tốt hơn hết nên chết đi cho rồi! Theo ông, có một đời chưa đủ, mà cần phải có hằng hà sa số cuộc đời. Một kỷ niệm, nó không phải để nhớ lại, về một lần xẩy ra trong đời, mà cứ thế xẩy đi xẩy lại mãi mãi, mỗi lần một khác, trong trí tưởng tượng của chúng ta. Em không hiện hữu, cuộc tình của chúng ta không thật, nếu anh không tưởng tượng ra em, không tưởng tượng ra cuộc tình…

 Trong hơn nửa thế kỷ chờ đợi, Ariza đã có thời gian làm nghề viết mướn. Một lần, một cậu con trai nhờ viết thư tỏ tình cho một cô gái. Anh tưởng tượng như đang viết cho người yêu. Thú vị nhất, là cô gái nhận thư lại nhờ đúng anh, để viết thư trả lời. Sau cùng hai cô cậu lấy nhau, đưa nhau tới gặp ông mai, mới biết sự thực.

 Đề tài viết thư tình giùm này, coi bộ rất ăn khách. Trên báo Văn mới gần đây có một truyện ngắn, hình như dịch Isabel Allende, viết về một cô gái lấy “lầm chồng”, vì những bức thư tình. Sau cô tìm ra thủ phạm, là ông thầy giáo cô con gái của cô. Và cô bắt thường, bằng cuộc tình của… đôi ta!

 Isabel Allende là một nữ cao thủ của dòng văn chương Mỹ Châu La Tinh. Cuốn “Ngôi nhà của những hồn ma” của bà chẳng thua gì “Trăm Năm Cô Đơn” của Garcia Marquez. Những trang sách như run lên bần bật, vì tình yêu và hận thù. Cả hai nhà văn này đều bước ra từ cái bóng của nhà văn người Mỹ, W. Faulkner. Hận thù ở trong tiểu thuyết của Faulkner là do mầu da, còn ở Isabel Allende là do giai cấp, nhưng đều là anh em, thuộc những đời vợ đen trắng hoặc giai cấp khác biệt,  giết lẫn nhau.

 Tình Yêu Thời Thổ Tả, cái gì vậy cà?

 Sau khi ông con được người yêu cho phép gặp mặt, bà mẹ biết liền, bởi vì ông con trai nói không ra tiếng, đêm nằm ngủ gãi sồn sột, lăn qua lăn lại, đập mình đập mẩy, mất tiêu luôn khẩu vị. Ghê gớm hơn nữa, trong thời gian chờ đợi người yêu trả lời thư, tình trạng ông con ngày càng trở nên nguy kịch: ỉa chẩy, ói mửa… bà mẹ đưa đi bác sĩ cấp cứu, và sau cùng đành kết luận: những triệu chứng của tình yêu giống “y chang” những triệu chứng của bịnh thổ tả!

 Trong tập tiểu luận Quê Hương Tưởng Tượng,  S. Rushdie cho rằng, sức tưởng tượng của Garcia Marquez phần lớn là từ kỷ niệm về người bà của ông. Ngoài ra còn những nguồn khác nữa. Tác giả đã từng xác nhận, ông ảnh hưởng Faulkner, và thế giới kỳ ảo Macondo là một phần bất động sản Yoknapatawpha của Faulkner được dời tới một khu rừng ở Colombia. Ngoài ra còn Borges, và sau lưng vị khổng lồ này, nhiều người khaÙc. Thời gian viết phim truyện cho điện ảnh đã cho ông ý tưởng, người Mỹ đã bắt một nhà độc tài Mỹ châu La tinh phải đem biển cả trả cho họ, thay cho những món nợ còn thiếu, trong Mùa Thu của Trưởng Lão (L'Automne du Patriarche). Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là người bà của ông. Trong một cuộc phỏng vấn, ông cho biết được thừa hưởng ngôn ngữ của bà. Chính giọng kể là của bà. Bà là một người kể chuyện tuyệt vời. Trong những gia đình thuộc sắc dân da đỏ, người đàn bà gìn giữ kho tàng chuyện kể, và Nam Mỹ cũng có truyền thống này.

 Garcia Marquez được ông bà nuôi nấng và ông chỉ gặp mẹ lần đầu tiên vào lúc 7, hoặc 8 tuổi. Sau 8 tuổi, chẳng có chuyện chi là hay ho, khác thường đối với ông. Ông nói về ông bà của mình: họ có một căn nhà thật lớn, đầy những hồn ma. Họ cũng rất mê tín. Trong mỗi góc nhà là những bộ xương, và những kỷ niệm, và sau 6 giờ tối là không ai dám ra khỏi phòng. Từ những kỷ niệm về căn nhà, mượn thêm giọng kể của người bà, như cục nam châm, ông xây dựng thế giới Macondo.

 Nhưng rõ ràng ông còn có nhiều hơn thế nữa. Ông rời Aracataca, ngôi làng thơ ấu khi ông còn quá trẻ, và thực tại phố phường khác xa, nhiều khi trái ngược với vùng rừng núi. Trong Trăm Năm Cô Đơn, Người Đẹp Remedios bay lên trời là một biến cố được đợi chờ, nhưng khi chuyến xe lửa đầu tiên tới Macondo, một người đàn bà chạy ra giữa mặt lộ, la lớn: Nó tới rồi. Con gì giống như một cái bếp kéo theo sau nó cả một cái làng! Garcia Marquez đã quyết định để viễn ảnh thế giới của người dân quê ở bên trên cái của kẻ tỉnh; đó là nguồn gốc sự diệu kỳ ở nơi ông.

 Ở Mỹ Châu La Tinh, thực tại biến dạng do chính trị nhiều hơn là do văn hóa. Sự thực bị bưng bít đến nỗi không còn biết đâu là sự thực. Cuối cùng chỉ còn một sự thực độc nhất, đó là lúc nào người ta cũng nói dối. Những tác phẩm của Garcia Marquez không có tương quan trực tiếp tới chính trị, nhưng chúng đề cập tới những vấn đề đại chúng bằng những ẩn dụ. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là một khai triển chiết ra từ chủ nghĩa siêu thực; một chủ nghĩa siêu thực diễn tả lương tâm đích thực của Thế Giới Thứ Ba, tức là của những xã hội được tạo thành chỉ có “một nửa”; trong đó, cái cũ có vẻ như không thực chống lại cái mới làm người ta sợ, trong đó sự tham nhũng, thối nát công cộng của đám cầm quyền và nỗi khiếp sợ riêng tư của từng người dân, tất cả đều trở thành hiển nhiên. Trong thế giới tiểu thuyết của Garcia Marquez, những điều vô lý, những chuyện không thể xẩy ra, đều xẩy ra hoài hoài, ngay giữa ban ngày ban mặt. Thật hết sức lầm lẫn, nếu coi vũ trụ văn chương của ông là một hệ thống bịa đặt, khép kín. Nó không được viết ở trên mảnh đất nào khác mà chính là mảnh đất chúng ta đang sống. Macondo có thực. Và đó là tính nhiệm mầu của ông.

Tình Yêu và Những Quỷ Dữ Khác (Love and other Demons) cũng nằm trong dòng huyền hoặc Hispano-American của Tình Yêu Thời Thổ Tả. Nơi chốn là một thành phố cổ Cartagena de Indias thuộc vùng bờ biển Caribbean của Colombia. Thời gian không rõ, nhưng nô lệ và mê tín vẫn đầy rẫy và bệnh hoạn được chữa trị bằng cây cỏ, bằng những trò trừ tà. Trong bài mở đầu, Garcia Marquez cho biết, tác phẩm của ông nẩy sinh từ một biến cố xẩy ra vào năm 1949, khi một tu viện cổ dành cho nữ tu bị đập bỏ để xây dựng một khách sạn. Là một phóng viên trẻ của một nhật báo, ông được cử tới viết bài tường thuật. Ở khu hầm mộ, giữa đống xương cốt, quan tài vụn nát, gần nơi bàn thờ, ông thấy có một hốc tường bị đập bể, và những người thợ lôi ra một mớ tóc còn dính vào da đầu một cô gái chết trẻ. Trải dài ra đo được 22 mét. Chúng ta đừng hỏi, tóc chết có mọc dài ra không, nhưng từ sự kiện “thực” này, tác giả liên tưởng tới một câu chuyện ông được nghe từ hồi còn nhỏ, về một nữ hầu tước 20 tuổi, tóc dài ơi là dài, chết vì bệnh chó dại, và được dân quanh vùng thờ phụng vì những phép lạ. Tác giả cho nữ hầu tước Sierva Maria de Todos los Angeles là con của một hầu tước và một bà mẹ nghiện ngập. Chẳng ai lo cho cô, và cô sống giữa đám nô lệ, trong tòa nhà cổ xưa gần sụp đổ của họ. Cô học nhẩy trước khi biết nói, biết ba ngôn ngữ Phi Châu cùng một lúc, học uống máu gà trước bữa điểm tâm, và như một hồn ma, những người Thiên Chúa giáo không thấy cô, và không nghe cô nói, khi cô đến gần họ. Một bữa trong khi đi chợ, cô bị chó cắn. Vết thương có vẻ muốn lành, nhưng có tin là những người khác cùng bị chó cắn đã chết. Lần đầu tiên, ông bố để mắt đến cô, đem cô ra khỏi khu nô lệ, cho cô ở trong căn phòng người bà nội, cho cô học, nghe âm nhạc, cho tới khi những dấu hiệu đầu tiên của bệnh dại xuất hiện. Đám y sĩ chữa trị bằng cách bơm ruột, cho uống chất kim antimony, và tắm bằng nước tiểu. Thân thể đầy những vết thâm tím, phồng rộp, cô gái đau đớn, điên cuồng la hét. Giám mục địa phận, sau khi phán quyết cô gái bị quỷ ám, ra lệnh phải giao cô cho các vị nữ tu Santa Clara. Cô bị nhốt trong một căn hầm, lột hết quần áo, và một tu sĩ trẻ, Delaura, từ Tây Ban Nha tới, lo việc trừ tà cho cô. Sau khi nói chuyện với cô, anh khẳng địnhh cô không có bị quỷ ám gì hết. Nhưng khi có những chuyện quái dị xẩy ra, mọi người trong tu viện đều tin cô gái là quỷ. Một bữa Delaura tới tu viện thăm cô, thấy cô đang ngồi cho người ta họa chân dung. Cô mặc bộ quần áo lụa của bà nội, với mớ nữ trang choàng quanh cổ, trên mái tóc dài. Vị tu sĩ mất hồn, đúng như định mệnh phán bảo. Anh nói với vị Giám mục: Thưa Cha, đây đúng là quỷ. Thứ quỷ dữ nhất trong mọi loài quỷ. Đây là Quỷ Tình.

 Vị tu sĩ trẻ bị đầy tới một nhà thương cùi, anh trốn đi gặp cô, làm cô thương anh bằng cách đọc thơ ca cho cô nghe, nhưng sau cùng bị đám nữ tu bắt gặp đuổi ra khỏi tu viện. Cô gái sau cùng chết vì những trò bùa phép, trừ tà. Khi cô chết, trời đất rung chuyển, trâu bò phát cuồng la rống, và người ta tin rằng, tất cả những quỷ dữ dưới địa ngục đều đau lòng vì cái chết của cô.

 Đây là một chuyện tình mãnh liệt, man rợ, dữ dằn như  “một chuyện thần tiên”. Cuốn tiểu thuyết tuy mỏng, nhưng đầy tham voÏng của tác giả, khác hẳn, và u tối hơn tất cả những tác phẩm trước đó. Sức mạnh của cuốn sách cũng là định mệnh của cô gái ngây thơ, hoang dại bị xâu xé giữa ngoạÏi giáo, và Ca-tô giáo, ở đây, đều man rợ như nhau.

 Niềm bí ẩn đáng sợ.

 Nhà văn Pháp, André Gide, kể lại, một lần một người thân nằm nhà thương; ông ghé thăm, và nhận thấy, người bệnh, người thăm bệnh, kể luôn ông, người nào cũng cầm trong tay một cuốn truyện của Georges Simenon!

 Simenon, người Bỉ, viết văn bằng tiếng Pháp, sinh tại Liège năm 1903. Ngay từ trẻ, ông đã quyết định: sẽ viết văn. Mười sáu tuổi, làm ký giả cho tờ La Gazette de Liège. Thoạt đầu, lo tin vặt, sau tới chuyện trong nhà ngoài ngõ. Cuốn tiểu thuyết đầu tay, ký tên Georges Sim, ra đời năm 1921: “Trên cầu Arches, một câu chuyện nhỏ về Liège”. Dời đi Paris vào năm 1922 cùng với bà vợ đầu là một nữ họa sĩ, ông bắt đầu thực sự vào nghề bằng cách viết chuyện kể (contes), tiểu thuyết đăng nhiều kỳ (romans-feuilletons), đủ thể loại: trinh thám, huê tình (érotique), ướt át… Từ 1923 tới 1933, ông cho ra lò gần hai trăm tiểu thuyết, hàng ngàn chuyện kể, và rất nhiều bài báo.

 Trong một cuộc phỏng vấn, ông cho biết, người “khám phá” ra ông, là nữ văn sĩ người Pháp, Colette. Bà khi đó làm cho một tờ báo, nơi Simenon dụt dè thử thời vận của mình.

 “Ham làm văn quá” (nhiều tham vọng văn chương, ambitions littéraires), Colette phán. Chỉ một câu đó, Simenon ngộ ra liền. Từ đó, ông xây dựng thế giới của mình, bằng những nhân vật bình thường, những ngôn từ bình thường. Những câu chuyện của ông, cũng bình thường, và có thể xẩy tới, cho bất kỳ một con người bình thường nào trên đời.

 Độc giả người Việt chúng ta có thể mượn truyện ngắn Sợi Tóc của Thạch Lam, để làm một nhịp cầu đi vào thế giới văn chương của Simenon. Đây là câu chuyện một anh chàng nghèo ơi là nghèo, được bạn bè đãi một chầu, khi ra về, vô tình mặc lộn áo khoác, trong có bóp tiền dầy cộm. Khoảnh khắc ‘sợi tóc’ bắt đầu: nên hay là không nên ‘cứ thế tà tà ra về, chơi luôn cái bóp’? Những nhân vật của Simenon đa số đều là những con người bình thường, một ngày đẹp trời nào đó, bỗng đụng chuyện bất thường; thí dụ như trong “Người nhìn xe lửa chạy qua” (L’homme qui regardait passer le train, 1938), một nhân viên suốt đời làm lụng cực khổ, với hy vọng về hưu có tí tiền còm, đùng một cái, tay chủ tuyên bố vỡ nợ, quơ hết tiền bạc, trốn lên Paris với bồ. Đúng lúc trốn đi, chủ tớ đụng độ, anh đầy tớ quá thất vọng vì giấc mộng an hưởng tuổi già tan tành, đã quá tay đẩy ông chủ xuống sông, chỉ kịp cứu được (chỉ kịp níu lại được) chiếc cạc táp. Trong là tiền. Vô số là tiền. Thêm địa chỉ cô bồ.

 Anh lần tới, lạc vào một thế giới khác. Thiên Thai, hay Thiên Đàng là như thế này ư? Được cung phụng hết mình, đêm nào cũng Nhất Dạ Đế Vương, nhưng làm sao quên được trần gian cực khổ?

 Trần gian khổ cực, có điều gì không thể quên? Hóa ra là, anh có thói quen không thể bỏ: cứ 5 giờ sáng thức giấc, mò ra đầu ngõ, nhìn đoàn xe lửa phóng qua.

 Câu chuyện chấm dứt khi cảnh sát mò tới, anh nhân viên bỏ Thiên Đường/Địa Ngục, cứ hướng Địa Ngục/Thiên Đường mà chạy. Cảnh sát chỉ kịp chứng kiến cảnh tượng anh gối đầu lên đường ray, trong khi chuyến xe tốc hành buổi sáng đang lao tới…

 George Steiner, trong một bài phỏng vấn trên tờ Điểm sách Paris, đã coi Simenon là tiểu thuyết gia dị thường nhất của thời đại chúng ta. Ông phân biệt: “Có những cuốn tiểu thuyết mà người ta gọi là lớn, chúng sống do nội dung mang tính ý thức hệ, mang tính trí thức. Khá nhiều tiểu thuyết của Thomas Mann là theo kiểu này. Cuốn Người Không Phẩm Chất (Man Without Qualities), của Musil, được hằng hà những triết gia cũng như là những nhà phê bình văn học bàn về nó. Nhưng cái này hiếm. Đừng đòi một chuyện như thế, ở nhà tạo giả tưởng dị thường nhất của thời đại chúng ta - đừng cười tôi chứ, bạn! - người đó là Georges Simenon. Tôi có thể lấy trên giá sách của tôi, chừng 10 hay 12 cuốn về Maigret, và nếu phải so với 5 hay 10 trang của Balzac, hay 20 trang của Dickens (ông này nhẩn nha thuộc bậc thầy, Balzac cũng vậy): Simenon chỉ cần hai hoặc ba đoạn. Có một cuốn Maigret mở ra với một tiếng ồn lớn. Ba giờ sáng tại khu Pigalle, khu phố cổ đèn đỏ Paris, tay chủ quán rượu kéo tấm sắt đóng cửa tiệm. Rầm một tiếng. Dội ra từ đó, là tiếng xe giao sữa, tiếng chân kẻ ăn sương trở về nhà kiếm giấc ngủ, tiếng người đi vô Khu Cầu Muối (Les Halles) kiếm đồ ăn sẵn, cho một ngày đang ló dạng. Simenon không chỉ đem đến cho bạn một thành phố, không chỉ một điều không một sử gia nào có thể vượt được, về nước Pháp, nhưng còn điều này: rằng hai hoặc ba con người liên quan tới câu chuyện, đã sẵn sàng trước mắt bạn. Bằng một cách nào đó, Simenon cho bạn nhận ra rằng những bước chân của người đàn ông vừa đóng sập tấm cửa, rồi những tiếng chân rời xa quán, cách chúng lết đi gợi sự tò mòø. Và thế là bạn nhập vô mấu chốt quan trọng thứ nhất của câu chuyện. Đó là cái gọi là mysterium tremendum (điều rất thiêng), về sáng tạo ra một nhân vật tự chủ.”

 Mysterium tremendum, Jacques Derrida trong bài viết về Kierkegaard, đã dịch là: bí ẩn đáng sợ, bí mật làm bạn run rẩy (a frightful mystery, a secret to make you tremble). Cũng trong bài viết, ông giải thích thêm: (God is the cause of) Thượng Đế là nguyên nhân của “the mysterium tremendum”.

 Theo nghĩa đó, nhà văn là kẻ muốn ngang hàng với ông Trời.

 Nhân vật “thần kỳ” Maigret, viên thanh tra cảnh sát với chiếc ống vố, được “người viết giả tưởng dị thường nhất của thế kỷ” sáng tạo ra vào năm 1929, trong cuốn “Pietr le Letton”. Được nhà xuất bản Fayard tung ra vào năm 1931, ông cò Maigret lập tức trở thành nổi tiếng, và càng nổi tiếng hơn nữa, khi được đưa lên màn ảnh qua tài tử Jean Gabin.

 Như trên đã nói, Simenon sử dụng một thứ tiếng Pháp phổ thông, không dùng những chữ cầu kỳ, không “cố tình viết văn”, nhờ vậy mà mà Jennifer tôi được hân hạnh làm quen với ông rất sớm, từ những ngày mới chập chững đọc văn ngoại: như một cách học tiếng Tây!

 Mai Thảo cũng là một người rất mê Simenon. Một lần ngồi quán Cái Chùa, La Pagode, tại đường Tự Do, Sài Gòn (trước 1975), ông kể một giai thoại về Simenon, theo đó, tác giả đã từng tự giam mình vào trong một nhà kiếng, chung quanh thiên hạ qua lại, nhòm ngó, và cứ thế tỉnh bơ ngồi viết. Khi ra khỏi “chuồng giam”, là đã có, không phải một, mà hai cuốn tiểu thuyết! Theo Mai Thảo, đây là do ông nhận lời thách đố của một tờ báo.

 Cuốn Maigret sau cùng, Maigret et Monsieur Charles, xuất hiện năm 1972, sau đó Simenon nghỉ viết. Với chiếc máy ghi âm, ông đọc hai chục bài “Dictées”, và sau khi cô con gái Mari-Jo tự tử, ông ghi lại mớ hồi ký khổng lồ về đời mình, Mémoires intimes (1981).

 Simenon mất tại Lausanne vào năm 1989. Cả đời, ông cố gắng hiểu, thông cảm nỗi đau của nhân sinh, của cõi người, và cố gắng làm cho nó đỡ đau. Nhưng ông không làm sao hiểu nổi nỗi đau của cô con gái: cô đã lầm tình yêu của người cha, với tình yêu của một người bạn trai.

 Niềm bí ẩn đáng sợ!

 Đêm Thánh Vô Cùng.

Tôi chẳng biết điều đó muốn nói gì

Tôi thật quá buồn

Một câu chuyện từ đời thuở nào

Cứ ở mãi trong đầu tôi

(nhạc phổ thông Đức, trích từ Ingrid Raven).

1943. Đêm Giáng Sinh tại bờ biển Bắc: một bé gái 4 tuổi hát bài Đêm Thánh Vô Cùng cho một đám binh lính của Hitler. Nửa thế kỷ sau, cô bé lúc này đã trở thành một ca sĩ, và một ngôi sao nổi tiếng, nàng cất lên tiếng hát tại Thành Phố Thiêng Jerusalem, trong một buổi tiếp tân. Tuy tật nguyền, đôi mắt gần như hết còn nhìn thấy đường, cô bé gái 4 tuổi hát Đêm Thánh Vô Cùng, Stille Nacht, Heilige Nacht, Douce Nuit Sainte Nuit,  bên bờ Bắc Hải ngày xưa, bây giờ trở thành một ngôi sao trên sàn diễn, “lạnh lùng như một tay đấu bò; để hết tâm hồn vào vai trò của mình như một nữ tu Phật giáo; nhí nhảnh, sống động, hớp hồn người như một cô gái điếm.”

 Đó là nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết Ingrid Caven, đoạt giải văn chương số một, giải Goncourt của Pháp năm nay (2000). Nhân vật chính này có thực ở ngoài đời, và tác giả của nó, Jean-Jacques Schuhl, là một trong những người “thờ phượng”, và là bạn đường hiện thời của Raven. Ngoài ra còn Daniel Schmid, người biến cô thành tài tử điện ảnh số một của Đức kể từ Marlene Dietrich. Một Marlene của những nơi chốn như  Sarrebbruk, Munich và Paris-Pigalle. Một nhân vật huyền hoặc trong chiếc áo dài đen, một bóng ma của những đêm huyền ảo của thập niên 1980. Sau Đêm Thánh Vô Cùng (La Nuit Sacrée) bên bờ Bắc Hải, sau những cây thông Noel của tuổi thơ, là những đêm tối chết tiệt (les sacrées nuits) của thế kỷ, với những tiếng hát át tiếng bom, những vỏ đạn biến thành đồ nghệ thuật, vật kỷ niệm, những vỏ xe của lính Mẽo G.I. biến thành dép râu của V.C. (les pneus pris aux G.I. retaillés par les Viet-congs en sandales de caoutchouc…), chuỗi hạt của bà ngoại, câu nói của Thánh Augustin bà thường hay nhắc đi nhắc lại: những người chết không vắng mặt mà chỉ không nhìn thấy (les morts sont des invisibles, ils ne sont pas des absents), và lời cầu nguyện của bà: Chúa ơi, hãy dậy cho con qua được những nỗi đớn đau khắc khoải mà vẫn tin ở Người…

 Tác giả Jean-Jacques Schuhl, trước đó đã có tác phẩm Hồng Bụi (Rose Poussière) và Télex N.1 (cùng nhà xuất bản Gallimard).

Kỹ thuật viết Ingrid Raven: đứt đoạn, gồm những mảnh vụn thời sự có, âm nhạc có, theo một nhịp điệu, một dòng chảy làm người đọc thích thú. Một cuốn sách huyền ảo, đầy âm nhạc, bay bổng, nhẹ tênh… Có lẽ đây là mong ước của tác giả cũng như của ban giám khảo Goncourt, và của cả độc giả, khi chọn lựa một tác phẩm như vậy để chấm dứt thế kỷ, qua cuộc đời một nhân vật nữ có thực ở ngoài đời, bắt đầu bằng tiếng hát huyền hoặc cất lên bên bờ Bắc Hải, vào một Đêm Thánh Vô Cùng (La Nuit Sacrée) trước thính giả là những tên lính Quốc Xã, tiếng hát của một cô bé 4 tuổi, ngay từ nhỏ đã mang căn bệnh dị ứng da, đã tưởng không thể qua khỏi, đã gần như mù lòa đi qua suốt thế kỷ với những đêm chết tiệt (les nuits sacrées) của nó, chỉ bằng tiếng hát, và tình yêu của cô.