*
Notes

Souvenir

Souvenir
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

1 2 3 4 5













Kỷ Niệm

Cái thú, đọc toàn tổ sư, ngay khi vừa mới ti toe tí tiếng Tây của Gấu, nhìn bề ngoài quả đúng như me-xừ Xìn Phóng, "nick" của Trần Phong Giao, phán, "cậu" tính loè thiên hạ hử, nhưng sự thực, đây là một thói quen có từ khi học toán, được Gấu bệ qua văn chương: thà chết vì tức, chứ nhất quyết không chịu coi lời giải có sẵn, của một bài toán khó!
Gấu có hai kỷ niệm đẹp ơi là đẹp về chuyện này, một với BHD và bạn học của cô, và một, với anh bạn cùng học, lần cùng đi thi Tú Tài I, và gặp một bài toán lý, [phần quang học, lắp đặt kính hội tụ, phân kỳ tứ lung tung gì gì đó]. Gấu đã kể một lần rồi, nay xin kể lại, chờ có hứng bắt tiếp vào cái vụ đọc.
Đó là năm học thi Tú Tài I. Gấu, sau khi thi đậu trung học, bà cô Me Tây nghe tin mừng quá, từ bên Tây ra lệnh, qua một bà cô ở Sài Gòn,  hãy học tiếp, tao sẽ gửi tiền về chỗ bà con một bà bạn cùng ở bên này. Tháng tháng đến đó lấy tiền trả tiền cơm.
Trước đó, sống nhờ bà chị họ, Chị Giậu, vợ nhà văn Nguyễn Hoạt, nhưng nổi tiếng với mục ‘tạp ghi’ Nói hay Đừng [Nứng Hay Đòi], trên tờ Tự Do, với cái tên Hiếu Chân.
Bà chị có sạp bán bún chả ngay chợ Vườn Chuối,
*

*

Quang Dũng trên tạp chí Văn Học

Trên talawas đột nhiên mấy hôm trước đăng lại bài của Trần Văn Nam, "Từ giấc mơ Tây Tiến đến giấc mơ hòa bình", lần đầu xuất hiện trên tạp chí Văn Học số 140, ghi là "xuất bản tại Sài Gòn 1971": chính xác là số 140, ra ngày 6/12/1971. Với tôi thì thật là may vì đúng số này quyển tạp chí tôi có lại bị mất bìa, thành ra nhờ có bài kia mà biết được cái bìa hình thù ra sao:) 

NQT said...

Trong số những người cộng tác mật thiết với tờ Văn Học, là Dương Kiền, ngoài đời là luật sư, nổi tiếng với kịch Mắt Lưới, phu nhân là bà Kim Anh, con bà Nguyễn Thị Vinh, thuộc Tự Lực Văn Đoàn.
Gấu này cũng có thời gian cộng tác với tờ Văn Học. Phan Kim Thịnh, không biết gì về văn học, nhưng đối đãi với anh em rất được.
Tòa soạn ngay Ngã Sáu Sài Gòn, phía bên kia có tiệm cà phê nổi tiếng. Gấu gặp nữ văn sĩ TD, lần đầu ở đây. Hà, hà! NQT

December 13, 2009 12:52 PM

Tờ VH, của Phan Kim Thịnh, lúc đầu do Dương Kiền trông coi. Khi dọn về Ngã Sáu Lê Văn Duyệt, DK đã nghỉ làm, PKT bèn nhờ Nguyễn Đình Toàn trông coi, anh kéo Gấu về theo. Tòa soạn nằm trên đường Lê Văn Duyệt, ngay Ngã Sáu Sài Gòn, với những con đường như Ngô Tùng Châu, Võ Tánh, Phạm Hồng Thái… và Gia Long: nhà của BHD ngay kế đó!
DK, chơi thân với bạn C. trong Thất Hiền, cùng dân luật. Gấu chơi thân với Dương Phục, em trai DK, bạn của thằng em trai. Toàn thể đám bạn chuyển giao cho Gấu, sau khi thằng em mất. Gấu có nhiều kỷ niệm với đám này, nhiều hơn, trong tất cả đám bạn, những ngày ở Sài Gòn.
Gấu gặp nữ văn sĩ Trùng Dương, lần đầu, ở quán cà phê Phương Khanh [hình như vậy], ở phiá bên kia đường LVD, đối diện với tòa soạn. Một thứ restaurant, đúng hơn. Đám này hay ngồi bên ngoài, ngắm xe cộ qua lại. Bài đầu tiên viết cho VH, là bài điểm cuốn Thị Trấn Miền Đông, tân truyện, nouvelle, của Viên Linh. Lần qua Cali, anh cho coi copy bài điểm sách. Đọc, được lắm. Chững chạc lắm, đúng giọng điểm sách!
Bài điểm sách đó, mà VL có được, cũng rất là ly kỳ. Kỳ tới kể tiếp.

*

Quyết & Chiêu, bạn cố chuẩn uý Nguyễn Quốc Sỹ, em ruột Gấu

@ Thanh Mai Restaurant, Little Saigon
Em mình mất, thì mình đi thăm bạn em mình vậy.

*

Cultural Amnesia: Notes in the margin of my time

Thư mục: Tổng hợp |

Đăng ngày: 03:42 21-09-2007
Gấu vừa mới nhắc tới Tỉnh Giấc Hôn Thuỵ, kéo dài từ sau cái chết của thằng em trai, một năm sau Mậu Thân, tức là năm 1969, cho tới khi chạy trốn thoát quê hương, tới được trại tị nạn vào năm 1990, thú vị làm sao, cứ như là buồn ngủ gặp chiếu manh, đọc trên TLS số đề ngày 14 Tháng Chín, 2007, bài của Adam Bresnick , điểm Clive James: Sự mất trí nhớ văn hoá: Ghi nhận bên lề thời của tôi.
Unforgetting: Memos on Melville and Mao, reminders of Montaigne: a literay and political journey with Clive James.
Không thể quên: Những nhắc nhở về Melville và Mao, những việc hôm nay chớ để ngày mai của Montaigne: Cuộc du ngoạn về văn hóa, và chính trị với Clive James.
Độc giả, nghe đây: Tôi, chính tôi, là chất liệu của cuốn sách của tôi [Montaigne]
Nhưng ông cẩn trọng độc giả liền ngay đó:
Đó không phải là lý do để bạn sử dụng thời gian rảnh rỗi của mình vào một việc làm lãng nhách và vô ích đấy nhé.
... Against the persistent cult of Leon Trotsky: "[he] lived on for decades as the anassailable hero of aesthetically minded progressives who wished to persuade themselves that there could be a vegetarian version of Communism".
[Phóng dịch: Leon Trotsky: [Ông ta] sống hàng chục niên, như là một người hùng bốn bể thọ địch, của đám tiến bộ mê cái đẹp, đám người này cố tự an ủi, và thuyết phục chính họ rằng, chủ nghĩa cộng sản có thể có được một ấn bản không có mùi máu, dành cho những người ăn chay trường].

Đọc câu trên, Gấu bỗng nhớ đến... Hoàng Phủ Ngọc Tường, người ham chơi, như một anh VC trong nước ca tụng ông.
Đây cũng là một người hùng bốn bề thọ địch! Người hùng của biến cố Mậu Thân, và của... Nguyễn Mộng Giác, trong Mùa Biển Động.
Người ham chơi. Ăn chay trường?
Viết bên lề lịch sử mà bỏ qua nhân vật này, thật uổng!
Và đúng là, mắc bệnh mất trí nhớ văn hoá!
Giữa ông này và Nguyễn Mộng Giác, ngoài đời chắc hẳn phải có đụng độ, bởi vì ông nhà văn bê nguyên con, luôn cả cái tên của ông này, vô tiểu thuyết của mình. Để vinh danh, hay để không vinh danh, theo Gấu, đều không được. Ông nhà văn nghe có lần bị hỏi, nói, tôi hư cấu. Hư cấu kiểu này, thì quá nhảm. Bản thân Gấu cũng đã từng bị một ông đưa vô tiểu thuyết, tuy chẳng hề đụng độ với ông ta, vậy mà cũng chẳng cần hỏi hiếc làm gì cho mệt.
Cái chuyện ông theo VC, theo Gấu, là quyền, là lý tưởng của ông, như của bao nhiêu con người khác, sống ở Miền Nam, nhưng tin tưởng vào Miền Bắc, vào cuộc chiến tranh giải phóng, thống nhất đất nước.
Nhưng khi chiến tranh chấm dứt, tất cả đều ngã ngửa, thì có gì để mà tự hào?
Viết về những ông này, mà có tí tự hào, thì đều là cứt đái. Thực tình là như vậy.
*
Gặp lại những nhân vật của Koestler, những nhân vật văn chương còn mang nặng những nét đặc thù của nguyên mẫu ngoài đời, những Roubachof suốt đời tắm bằng máu của kẻ khác, kể cả của người yêu, bạn bè, đến khi chết lại mong trở thành những Thánh Tử Đạo, đọc lại nhhững câu văn mang sự thực khủng khiếp còn hơn cả những lời nguyền rủa: "Bằng roi vọt chúng ta quất lên đám đông đang rên rỉ, bắt họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính tương lai và hoàn toàn lý thuyết...", tôi bỗng nhận ra một điều thật giản dị: Nếu những tác phẩm lớn đều cưu mang trong nó bóng dáng của những tác phẩm lớn khác - một cách nào đó Hemingway chú giải Joyce, Camus mô phỏng Kafka, rõ ràng Garcia Marquez viết lại Faulkner... - Cũng vậy, những bạo chúa chỉ là những bản sao của những bạo chúa khác. Staline bắt chước Néron, cả hai đều có tham vọng văn chương, một muốn làm thi sĩ, một muốn ngự sử văn đàn, kẻ ban phát giải thưởng văn học. Mao diễn lại tuồng đốt sách, chôn học trò. Molotov chỉ mong người đời coi là một Robespierre của Cách Mạng Nga. Người ra lệnh bắn vào sinh viên biểu tình tại Thiên An Môn là một học trò đắc ý của Chu Ân Lai, ông này lại là một học trò đắc ý nhất của Cách Mạng Pháp. Polpot đã từng du học ở Paris. Tất cả đều tâm đắc một điều: Không có một cuộc cách mạng nào mà không có quá độ. Một cuộc cách mạng không đổ máu thì rất đáng ngờ.
Lần Cuối Sài Gòn

Kant bừng tỉnh giấc ngủ độc đoán khi đọc Hume. (1)
TTT bừng tỉnh giấc hôn thụy, khi , ở tù VC, lần đầu tiên nhận thư nhà từ Miền Nam, biết bạn mình là Mai Thảo đã thoát.
Văn Cao, chấp nhận ở lại... Thiên Thai, sáng tác Buồn Tàn Thu, tặng Phạm Duy, biết bạn mình sẽ dinh tê, sẽ vào Nam, và sẽ gieo nhạc buồn của ông đi khắp chốn?
Gấu bừng tỉnh giấc mơ Cô Tiên, khi thấy mình ở trong trại tị nạn Thái Lan, biết, đã chuyển sang một kiếp khác...
(1)

Texte

Kant fut «réveillé de son sommeil dogmatique» le jour où il lut Hume, notamment la subtile et pénétrante critique de la connaissance de la causalité, développée dans la septième section de l'Essai sur l'entendement humain de I748.
Cette critique lui révéla que le jugement de causalité n'est point, comme on le croyait, un jugement analytique tirant de la cause l'effet qui s'y trouverait précontenu; mais un jugement synthétique affirmant une «connexion nécessaire» entre une cause et un effet radicalement hétérogènes l'un à l'autre. La critique de Hume montrait qu'une telle connexion n'est connaissable ni a priori par déduction (l'effet n'étant point analytiquement précontenu dans ]a cause) ni a posteriori par expérience (l'expérience ne pouvant donner à connaître que des conjonctions empiriques entre des événements «entièrement lâches et séparés», mais jamais des connexions nécessaires). Cette critique induisait au scepticisme et compromettait gravement les «lumières», non seulement celles de la métaphysique prétendant connaître des réalités transcendantes, mais celles mêmes de la physique prétendant connaître des nécessités phénoménales. Seules subsistait, scientifiquement valable, la mathématique, parce que, les jugements mathématiques étant, aux yeux de Hume, des jugements analytiques, leur nécessité pouvait être connue a priori.

Kant bừng tỉnh "giấc ngủ độc đoán" bữa đọc Hume, đặc biệt cái đoạn ông ta phê bình thật là tính tế, thật là tới chỉ, ý niệm nhân quả, được khai triển ở phần thứ bẩy của Essai sur l'entendement humain de I748...

*

Tôi chẳng thế nào mà tỏ ra khiêm tốn được. Có quá nhiều điều cháy bỏng ở trong tôi; những lời giải cũ tán loạn ra, rời rụng ra, những cái mới thì chẳng ra làm sao, chẳng ra đầu ra đuôi.
Thế là tôi bắt đầu, mọi chuyện, một điều, liền tù tì, cùng một lúc.
Như thể tôi có cả một thế kỷ ở phía trước tôi.

Canetti, 1943.
Susan Sontag trích dẫn, trong Under the Sign of Saturn [đây là tên bài viết về Walter Benjamin, sử dụng cho toàn tập], chương Mind as Passion: Cái đầu như là đam mê. 

 

Cái vụ làm MC thổi ống đu đủ, những ngày đầu nơi xứ lạnh, thực sự là với một ông nhà văn khác, nhà văn TC, cũng trong nhóm Montreal, với cuốn Về Biển Đông, một cuốn bút ký viềt về những ngày ông đóng cửa phòng mạch, đi cứu người vượt biển. Cuốn thơ của HXS xb cũng khá lâu trước đó rồi, nhưng nhân tiện quá giang. Buổi ra mắt được tổ chức tại một nhà hàng ăn, thành thử mới có chuyện làm vách ngăn, "tables séparées" là theo nghĩa đó.
PEN sở tại đứng ra tổ chức, người công tắc [contacter] Gấu, là một tay dược sĩ, quen biết TC. Gấu nhận lời liền, vì cũng đang cần chường cái mặt mo ra để lo bán bảo hiểm nhân thọ, chán thế.
Đúng ra, đám NM, bạn bè TC, nên ngồi tại phòng tổ chức, tốt nhất là ngay những hàng ghế đầu, để tỏ thái độ lịch sự, và phải có một tay trong bọn, vào giờ sắp tan hàng, lên cám ơn MC, PEN sở tại, và khán thính giả, độc giả đã bớt chút thì giờ… vv và vv.
Khi thấy đám này bất lịch sự, chơi cái bàn ở phía bên kia bức màn, ngăn cách hai bên, trong khi Gấu ra sức thổi kèn, thì cụng ly với nhau, gật gù, thổi được đấy; hoặc lắc đầu, chưa đã [như anh chàng bạn văn từ thời còn đi học của Gấu, chê bài viết Gấu thổi anh ta, phần đầu OK, phần sau chưa đã, Gấu đã từng lèm bèm đâu đó rồi], Gấu chán quá, nhưng hồi đó ‘hiền lắm’, chỉ nghĩ thầm, thôi kệ mẹ họ, mình cũng đâu có tốt lành gì, cũng “lợi dụng lẫn nhau”, vậy mà hay đấy!
Bà chủ tiệm là bạn thân của Gấu Cái.
Chủ quán là một tay vai vế trước 1975. Bà vợ, bạn cùng sở với Gấu Cái. Bả biết Gấu làm cho UPI qua Gấu Cái. Bà biết gia đình Gấu Đực và Cái không có êm ấm gì hết trơn hết trọi. Khi Gấu mới đặt chân xuống Xứ Lạnh, tờ LV có loan tin, và chúc mừng, và cho thêm chi tiết, Gấu nhà văn từng làm cho Mẽo UPI. Bà chủ quán bèn hỏi một ông trong PEN, anh hỏi thử coi bà vợ của ông ta có phải tên… không. Nếu phải, thì như vậy, họ chưa có bỏ nhau, và bà đó là bạn của tôi!
Cái ông bạn văn chủ PEN đó bèn đi một đường ghé thăm vợ chồng Gấu, khi đó còn đang ở shelter, và hỏi Gấu, nè bà xã có phải tên… không. Phải. Thế thì có bà tên…. hỏi thăm. Và cho số điện thoại.
Gấu phải nhờ một tay quen, cũng từ trại tị nạn mới qua, trước Gấu ít lâu, và đã thuê nhà riêng, không còn ở shelter, chỉ đường.
Thế là vào một đêm đầy dông bão, tuyết phủ đầy trời, [đúng như vậy, vì Gấu tới Xứ Lạnh đúng những ngày bão tuyết], hai vợ chồng lần mò đến nhà người quen cùng ở trại tị nạn, rồi đi cùng với anh ta tới quán ăn, dự đại tiệc hàn huyên giữa hai chị em bạn, làm cùng sở. Cả ba địa chỉ, shelter, nhà anh bạn thuê, quán ăn, chỉ cách nhau vài bước chân, tuy nằm trên ba con phố khác nhau, vậy mà ba kẻ nhà quê phải mất ít nhất là ba tiếng đồng hồ lặn lội trong tuyết lạnh!
Trong khi ăn, Gấu Cái hỏi thăm bâng quơ, về cô bạn của vợ chồng Gấu, cô phù dâu ngày nào, nghe nói hình như hiện đang ở Xứ Lạnh...  Bà chủ quán giơ tay, chờ một tí, và đứng dậy, vô trong, kiếm một số báo LV, đem ra, lật lật vài trang, rồi nói, số điện thoại đây nè!

Gấu biết tờ LV, ngay những ngày đầu tới trại tị nạn Thái Lan. Thời gian 1989, không khí Chống Cộng còn hừng hực, và cùng với nó, là sự hiện diện của báo chí hải ngoại. Khi gửi đi như thế, đễ đỡ tốn tiền tem, những trang quảng cáo được bỏ đi. Thời gian đó, một trong những người làm business có quảng cáo thường trực trên tờ này, là “cô bạn”.

Sau này, Gấu cứ tưởng tượng, giả như biết, ngay từ những ngày đó, liệu có xin phái đoàn Canada nhận không?
Chắc là phải quì xuống mà năn nỉ!
Sự thực muốn quỳ lạy cũng chẳng có thì giờ. Vừa ngồi xuống, vừa nói được mấy câu, cái tay trưởng phái đoàn Canada, già hơn Gấu cả chục tuổi là ít, có thể hơn, tay lật lật hồ sơ Cao Uỷ tị nạn của Gấu, tai nghe Gấu kể lể, đến mấy chữ, tui là...  Gấu nhà văn, đã từng bị VC bỏ tù, thế là ông gấp ngay hồ sơ lại, phán, OK Salem rồi!

Câu đầu tiên mà cô bạn hỏi Gấu Cái, sau bao nhiêu năm trời xa cách là, này, đi một mình, hay là đi với…  thằng cha Gấu?

+ Cuối năm, thêm một bài bị out báo không cho đăng.
Blog NL
*
Suốt một đời viết lách, hơn nửa thế kỷ, Gấu gần như "chưa từng" bị báo nào quẳng bài vô thùng rác!
Độc nhất một lần, viết về HPNT, bị NMG chê, không phải vì bài không hay, mà vì có chuyện gì “lợn cợn” giữa hai đấng nhà văn cùng quê hương miền Trung này, hẳn thế!
Chưa từng phải viết nịnh bất cứ một thằng nào con nào!
Thổi bạn quí. Có!
Nhưng ngược lại, chưa từng được một đấng bạn quí nào thổi cả!
Phê bình, điểm sách thẳng thừng, chưa từng “bẻ cong ngòi bút” một lần nào!
Hà, hà!
Cũng… tạm được phải không, bạn!

Bài viết về HPNT, Gấu hơi bị nâng bi ông nhà văn VC, bị NMG vờ, Gấu lúc đó giữ mục thường trực Tạp Ghi, cho báo của ông, lại nghĩ, hay là ông chủ bỏ sót, bèn lôi ra, sửa lại, gửi tiếp, tới lúc đó, ông mới mail, cho biết, Gấu nhớ đại khái, bài của anh nhắc tới một bài viết của HPNT, trên tờ Thanh Niên ở trong nước, nếu đăng bài của anh, thì phải đăng nguồn, và như thế, sợ đám Chống Cộng Điên Cuồng làm thịt tờ báo, hoặc bổn báo chủ nhiệm!

Bài của HPNT chỉ là một bài tạp ghi, ý của nó Gấu tóm tắt kể như đầy đủ trong bài viết của Gấu, chẳng có gì cần phải đăng trọn nguồn, từ đó, Gấu suy ra, cá nhân nhà văn “VNCH” NMG không ưa cá nhân nhà văn “VC” HPNT!

Vườn Thú Tuổi Thơ

Ông Hồ muốn trong thơ phải có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong. Sau khi lấy được Miền Nam, những người Cộng Sản đã từng lên lớp về thái độ an phận thủ thường, chỉ muốn làm một phó thường dân của những nhà văn Miền Nam. Bây giờ trong số người viết ở trong nước, có người đã bằng lòng với vai trò khiêm tốn, làm một nhà văn bình thường.
Những bài viết ngắn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, trên tuần báo Thanh Niên, cho thấy một văn tài, nhất là khi ông trở lại với tuổi thơ của ông.
Bài viết ngắn, về những đồ chơi con nít bằng tre, bằng đất; dưới con mắt trẻ thơ của ông, chúng thật tuyệt vời, chúng đẩy trí tưởng tượng non nớt tới những vùng trời xa lạ. Miền của những giấc mơ mà loài người có lẽ còn lâu lắm mới thực hiện nổi. Nhưng buồn thay, chỉ chơi được một chốc một lát là chúng bị gẫy, bể. Tôi không hiểu khi viết như vậy, ông có muốn ám chỉ những giấc mộng lớn mà những người như ông đã từng theo đuổi, cuối cùng vỡ ra như những thứ đồ chơi con nít. Những giấc mộng càng lớn lao bao nhiêu, càng phù du bấy nhiêu. Chúng bắt buộc phải như thế, để cho nhân loại cứ trẻ thơ mãi, về những giấc mơ chẳng bao giờ đạt được.
Hay là ông tự trách móc những con người như ông đã không đủ khả năng tạo ra được một thiên đường bền vững ở trên trái đất này.
Tôi vẫn nghĩ, nếu có một thành quả nào đó, của việc "giải phóng" Miền Nam, đó là nó đã cho chúng ta được đọc những trang sách như của Hoàng Phủ Ngọc Tường, về vườn thú tuổi thơ của ông. Hoặc của một số người viết ra đi từ Miền Bắc, về một Hà-nội giấu kín tận đáy sâu tâm hồn những đứa con của nó, không phải chiến thắng Miền Nam, mà chính những đợt bom B. 52 đã khui quật lên.
Tôi đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường rất ít, trước và sau 1975. Cũng lại do thành kiến. Hoặc do kỷ niệm một lần đọc Vũ Hạnh. Một truyện ngắn đăng trên Bách Khoa, kể chuyện một người làm công cho một ông chủ ở thành phố. Nhân dịp nhà nước phát hành giấy bạc mới, người làm công xin phép ông chủ về quê chơi, thăm bà con họ hàng, và xin chủ cho mượn tờ giấy bạc mới đó. Về nhà, ông cho con chơi, như một bức tranh con gà con chó, cho phép con mang khoe với con ông địa chủ kế bên, nhưng không được đổi lấy bất cứ một thứ gì.
Đến đây, chắc độc giả nhận ra ẩn dụ độc địa của câu chuyện: ông địa chủ, do biết giá trị của tờ giấy bạc, xúi con đổi đủ loại đồ chơi cho thằng nhỏ hàng xóm nghèo.
Trở lại thành phố, ông làm công trả lại chủ, kèm theo lời kết luận: giấy bạc mới ra, ở nhà quê chẳng ai biết, cứ tưởng là đồ chơi con nít; ông chủ đất kế nhà tôi cũng lầm.
Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường, tình cờ qua bài viết kể trên, tôi nhớ đến tuổi thơ của tôi và những món đồ chơi đầu đời của một đứa con nít nghèo nhà quê. Trong đó, có cây viết chì mầu. Ôi chao, lần đầu tiên, tôi thấy được cây chì mầu, vẽ hình con gà, con chó lên giấy, nó khác hẳn cái mầu đen của cây viết chì tôi vẫn có. Bởi vì cây viết chì mầu là của một ông cậu tôi, bà ngoại tôi đi tận Hà Nội mua về. Thấy tôi năn nỉ mãi, nhìn cặp mắt thèm thuồng của thằng cháu, rốt cuộc ông cậu nói, thôi tao cho mày, nhưng giấu kỹ đi, kẻo mẹ tao nhìn thấy.
Kỷ niệm về cây viết chì mầu, tôi nhớ lại, khi đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đọc Rushdie, và giấc mơ về một quê hương, một thành phố Bombay mầu Cinémascope, Technicolor của ông.
Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi còn nhớ đến Vũ Hạnh. Và André Gide. Nhà văn Pháp này, sau khi đi Liên-xô về phang một câu: Tất cả những tình cảm tốt đẹp chỉ đẻ ra một thứ văn chương tồi. (C’est avec les plus beaux sentiments qu’on fait de la mauvaise littérature). Đúng là một lời trù ẻo văn chương hiện thực xã hội. Có một thời gian dài, tôi tâm đắc với câu văn, nhưng dần dần, theo tuổi đời, sau bao giấc mộng, bao tình cảm đẹp hao hụt dần, tôi nhận ra một sự thực cay đắng: câu của Gide không phải trù ẻo văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa không thôi, mà là tất cả những tình cảm tốt đẹp của con người.
Đặt ngược lại vấn đề, với câu chuyện của Vũ Hạnh làm một cái cớ, chúng ta có thể hỏi: ai cho phép anh nhân danh những tình cảm đẹp để quyết định số phần của cả một đất nước? Và liệu có phải đó là những beaux sentiments thực sự không?
Ai cho phép anh... Solzhenitsyn cũng đã từng đặt câu hỏi như vậy, trong Khu Ung Thư. Nhân vật của ông được một bác sĩ hết lòng chữa trị, nhưng anh ta cứ lắc đầu bai bải, không được, không được. Con người tôi có đây, là nhờ một tí bịnh, một tí xấu đó. Nó là một phần thân thể của tôi. Chữa hết bịnh rồi, tôi làm sao sống, tôi ở với ai.
Đọc những tác phẩm hậu-Solzhenitsyn, từ một nước Nga rã rời sau Cách Mạng, chúng ta mới cảm thấy sự trớ trêu, mà chủ nghĩa Cộng Sản bầy ra cho toàn thể loài người: Chưa có một chế độ nào lại đẩy con người tới một mức thoái hóa thê thảm như chế độ toàn trị.
Chủ nghĩa CS, và những trại cải tạo của nó, là thử nghiệm tối hậu về đạo đức con người. (Tzvetan Todorov).
Mùa Xuân, Mậu Thân

As a theme, death is a good litmus test for a poet’s ethics. The “in memoriam” genre is frequently used to exercise self-pity or for metaphysical trips that denote the subconscious superiority of survivor over victim, of majority (of the alive) over minority (of the dead).
Joseph Brodsky
Như là một đề tài, cái chết là một thứ thuốc thử quỳ tốt, đối với đức hạnh của một nhà thơ. Cái dạng ‘ai điếu, tưởng niệm’ thường được sử dụng để thực tập tình cảm ‘tự thương thân, trách phận’, ‘giật mình, mình lại thương mình xót xa’, hay là dành cho những chuyến đi siêu hình, chúng làm bật ra vẻ tự tôn ngấm ngầm của kẻ sống sót đối với nạn nhân, của số đông (người còn sống) đối với thiểu số (người đã chết).
Brodsky [Bài giới thiệu tập thơ Akhmatova]

Trong Văn Học Tổng Quan, trang 190, Võ Phiến viết:… tờ Văn của Nguyễn Đình Vượng (tòa soạn cho Trần Phong Giao coi, về sau chuyển lại cho Mai Thảo).
Sai.
Như đã viết kỳ trước, sau khi TPG ra đi, bạn quí của Gấu thế chỗ. Người tiến cử bạn quí của Gấu là nhà thơ TTT, không biết anh có biết điều này không. Gấu đã nghe hơn một lần TPG nói xấu TTT, người làm mất job của ông, nhưng đây là TPG gây nên, do đòi hỏi nhiều quá. NDV lúc đó bấn xúc xích, sau cùng phải đi gặp TTT, vì chỉ tin cậy ở nhà thơ. Gấu còn nhớ là TTT trình bầy với NDV, thư ký tòa soạn phải là người dễ mến, bặt thiệp, không gây thù oán với bất cứ phe phái nào, sau cái vụ NQT điểm Mây Bay Đi của NS, vạ lây đến TPG do ngứa miệng đi một đường Bông Hồng hay Bông Cứt Lợn, đáp lễ loạt bài Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ của NS, người hoà giải tốt nhất giữa các phe phái, là giáo sư triết, cùng nghề dậy học với NS là bạn quí của Gấu!
Giáo sư triết, đẹp trai, bạn gái không thể ít, điện thoại reo liên tục, hẳn thế, vì có một lần, một tay làm trong tòa soạn cho Gấu hay, cũng chỉ là tình cờ trong khi trò chuyện. Chàng ít ngó đến công việc của một anh thư ký toà soạn, và báo Văn đi xuống, độc giả yếu hẳn đi, NDV hoảng quá, bèn kêu Mai Thảo dinh tòa soạn tờ Vấn Đề , lúc đó tá túc ở Đại Học Vạn Hạnh về chung với tờ Văn, nhân tiện giúp bạn quí một tay!
Đại khái sự tình như thế. Vì chuyện xẩy ra cũng lâu lắm rồi, có thể không đúng từng chi tiết. Thành thử thật khó có chuyện "tình bạn thắm thiết"  giữa TPG với cái người ngồi vô cái ghế của ông ở tòa soạn Văn!
Trang 191, VP viết: Võ Phiến khước từ cộng sản ngay từ đầu, có thái độ chính trị dứt khoát, vừa sáng tác, vừa khảo luận…
Cũng… sai.
Do VP lẫn lộn, giữa hai ông, cũng VP, một, công chức VNCH, và một, nhà văn. Cái ông công chức, làm đúng trong ngành chống cộng, thì phải chống cộng, để mà lãnh luơng chứ?
Còn cái ông nhà văn, như Gấu đọc ông lúc đó, thì chuyên viết về cái tôi "libido đáng sướng" mà thôi!
Ai thì cũng nhận ra, nhân vật của Võ Phiến bị “thần mồm” ám ảnh, ngay cả nữ phê bình gia Thụy Khê, "nửa đời nửa đoạn" lạc vào khu rừng phê bình văn học, mà còn nhận ra. Tuy nhiên, bà hiểu sai, về cái chuyện, ra hải ngoại VP lại ăn khách, sau khi bặt tiếng một thời gian dài.
*
Cũng phải đợi cái thiểu số ‘độc một mống’ TPG khó chơi, khó chịu kia nằm xuống thì mới đi một đường hồi tưởng cho chắc ăn, nỗi vui của kẻ sống sót đối với nạn nhân, là như thế.
Bạn đi trễ quá, hết mùa vượt biển rồi!
Làm ơn ở luôn trong trại cải tạo giùm ta: Cuốn VHTQ của VP có nỗi vui mừng, hớn hở của một nhà văn sống sót, so với cả một nền văn học nạn nhân, và ngoài ra, còn nỗi mừng "túi nặng tiền", người tha hồ mà cứu tử, không phải cái nền văn chương Miền Nam bất hạnh, mà là những đệ tử thân tín, những bạn văn một thời đã từng nịnh bợ ông, thí dụ, bằng cách, cho tất cả chúng mày vào văn học sử Mít! Điều này thật rõ rệt, khi VP viết về nhóm Sáng Tạo: Ông yên chí đám này chết hết rồi, trừ Mai Thảo!


*

Hannah Arendt mở ra bài viết No Longer and Not Yet, điểm cuốn The Death of Virgil của Herman Broch, trong tập tiểu luận Essays in Understanding, bằng nhận xét của Hume:
Trọn văn minh nhân loại dựa vào sự kiện, ‘một thế hệ thì không lui khỏi sàn diễn liền lập tức và một thế hệ khác kế tiếp nó, như trường hợp tằm và bướm’. Ở vài điểm ngoặt lịch sử, ở vài đỉnh cao của khủng hoảng, một số phận tương tự như tằm và bướm giáng xuống một thế hệ: thế hệ già suy tàn, thế hệ mới không bắt buộc phải sinh ra tiếp theo liền; giữa những thế hệ, giữa những con người vì lý do này hay lý do khác, vẫn thuộc về thế hệ già, và những người hoặc cảm thấy cơn thảm họa ở trong xương trong hồn trong tuỷ, hay là đã trưởng thành cùng với nó, sợi ‘sên’ bị gẫy, và một “lỗ hổng, khoảng trống”, một thứ khoảng đất không người lịch sử xuất hiện, và chỉ có thể diễn tả bằng thuật ngữ “không còn nữa, và chưa xẩy ra nhưng sẽ có” [For the decline of the old, and the birth of the new, is not necessarily an affair of continuity; between the generations, between those who for some reason or other still belong to the old and those who either feel the catastrophe in their very bones or have already grown up with it, the chain is broken and an "empty space," a kind of historical no man's land, comes to the surface which can be described only in terms of "no longer and not yet."]
Tại Âu châu, một đứt đoạn tuyệt đối của liên tục đã xẩy ra trong và sau Đệ Nhất Thế Chiến. Những ‘lèm bèm’ của đám trí thức về một thoái trào cần thiết của văn minh Tây phương hay thế hệ bỏ đi nổi tiếng, như nó thường được thốt ra bởi đám “phản động”, thì, nền tảng sự thực của nó là ở đứt đoạn này, và đem đến hậu quả hấp dẫn hơn, so với thứ đầu óc ‘tự do', khi đám này bầy ra trước chúng ta một giải pháp, hoặc tiên phong hoặc giật lùi, một giải pháp chẳng có một ý nghĩa nào, bởi vì nó vẫn giả dụ sợi sên liên tục không bị đứt, gẫy.
Bây giờ, đọc Hannah Arendt, thì Mít chúng ta mới hiểu ra được, tại làm sao mà đám Sáng Tạo, bằng mọi cách, ‘đả phá, huỷ diệt, tàn sát’ văn học tiền chiến: Họ nhìn ra cái sợi sên bị đứt gẫy, và một lỗ hổng xuất hiện.
*
Võ Phiến, khi nhắc tới Sáng Tạo, bởi vì trong đầu ông, cả đám chết hết, chỉ còn Mai Thảo, cũng cùng ở Mẽo, nên chỉ hỏi Mai Thảo!
Ông có đọc mấy ông kia, trước 1975, hẳn có, nhưng làm sao nhớ, ngoài một số cảm tưởng còn sót lại, và cùng với chúng, sự dè bỉu, đố kỵ, chưa kể nỗi hân hoan của kẻ sống sót nói về nạn nhân:
Nhìn như một cách thế thì cách thế Sáng Tạo có những chỗ khó bảo là “tuyệt đẹp”. Chẳng hạn trong lối “khai tử” nền văn nghệ tiền chiến có một cách thế kiêu căng, chẳng hạn trong lối diễn đạt của những vị trong nhóm chủ trương có một cách thế kiêu kỳ: hoặc hoa hoè hoa sói, kiểu cách ưỡn ẹo, hoặc tối tăm rối rắm.
Khi VP viết những dòng trên, đám ST đang ngồi tù.
Ông không có được một chút xót thương những người vấp ngã!
Biết ơn, lại càng không!
Cũng được đi. Nhưng, phải chỉ ra, kiêu căng, õng ẹo, tối tăm, kiêu kỳ, rối rắm ở những chỗ nào, của ai, trong nhóm.
Phán như thế, ai phán cũng được.
Những lời tuyên bố hung hăng nhưng rỗng tuếch của Mai Thảo thật khó mà coi là đại diện cho nhóm được. Nó chỉ là mặt nổi, kiểu khoa trương, kèn trống ỏm tỏi khiến mọi người chú ý tới sự ra đời của nhóm: vở mới, vở mới, mại dô, mại dô.
Muốn biết chủ trương của nhóm, phải đọc những bài viết của Thanh Tâm Tuyền, những cuộc thảo luận của nhóm…
VP viết [trang 184 VHTQ]: Thơ tự do không phải là cái mới mẻ nữa. Nó không phải là sáng kiến của văn nghệ hôm nay, của cách mạng.
Tại sao?
Ông không cho biết.
Trang 186, sau khi trích lời phi lộ của Nhất Linh, khi chủ trương tờ Văn Hóa Ngày Nay, trong có câu, “Sở dĩ ngày nay văn nghệ chưa rung cảm được độc giả vì văn nghệ chưa nói được lòng người”, VP hạ một câu: Cách mạng đã bị phủ nhận.
VP rõ ra là đố kỵ nhóm Sáng Tạo!


Đọc số báo đặc biệt về Đứa bé & Nhà văn, Gấu thấy Gấu, ở trong thằng bé chưa thành nhà văn Camus: cũng có một ông bố bỏ đi mất tiêu. Số phận ông bố của Camus thì quá rõ ràng, ông tử trận. Còn ông bố của Gấu thì bị một đấng học trò thủ tiêu, nhưng thực sự ra sao, thì chẳng ai hay. Thế rồi Gấu lại thấy tuổi thơ của mình sao giống của ‘em’ Nathalie Sarraute, bị một miền đất chôm mất!

Đọc, bồi hồi nhận ra, hình dáng trong trí tưởng tượng về một BHD, là từ cái tuổi thơ bị Miền Bắc giam cầm đó.
Một cách nào đó, có thể nói, BHD bước ra từ cái bóng của… Lolita.

1989. Trong một bài viết ở phía sau tác phẩm, Nabokov kể lại, phút hạnh ngộ giữa ông và cô bé kiều diễm, thời gian ông bị những cơn đau đầu thường trực hành hạ. Và một thoáng nàng - la palpitation de Lolita - đã lung linh xuất hiện, khi ông đang đọc mẩu báo, thuật câu chuyện về một nhà bác học đã thành công trong việc dậy vẽ cho một chú khỉ ở một vườn thú. "Tác phẩm đầu tay" của "con vật đáng thương" là hình ảnh mấy chấn song của cái chuồng giam giữ nó.
Trong chuyến đi dài chạy trốn quê hương, trong mớ sách vở vội vã mang theo, tôi thấy hai cuốn, một của Nabokov, và một của Koestler. Tôi đã đọc Darkness at Noon" qua bản dịch "Đêm hay Ngày" do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất bản cùng một thời với những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng vô tình đánh dấu cuộc di cư vĩ đại với gần một triệu người, trong có một chú nhỏ không làm sao quên nổi chiếc chuồng giam giữ thời ấu thơ của mình: Miền Bắc, Hà-nội.

Lần Cuối Sài Gòn
*
Khi gặp BHD, Gấu nhận ra liền, tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà quê, thấp thoáng ở trong dáng đi, nụ cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng với chiếc răng khểnh của Em, là vậy.
Ngoài ra, còn là nỗi ước mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của Gấu!
Hà, hà!
Nhưng, bằng cách nào mà BHD lại ‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu, và vừa đi vừa ngoái lại, lắc đầu:
Mi đâu có thương yêu gì ta! Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta đời thuở nào, và Hà Nội của mi ở trong con bé con đó!
Khủng khiếp nhất, là, kể từ khi Gấu lấy một em miệt vườn làm vợ, cái xứ Bắc Kít trả thù mới tàn bạo làm sao: Ta nguyền rủa đời mi, hễ cứ gặp bất kỳ một em Bắc Kít, là khốn khổ khốn nạn, là bấn xúc xích, là đều nhìn thấy một BHD của mi ở trong em đó!
*
Un Exil Fondateur
Một Lưu vong, Trùm.
Dans toute l'œuvre de Nathalie Sarraute résonne sa jeunesse russe qui lui fut volée.
Trong tất cả tác phẩm của Nathalie Sarraute vang vọng lên tuổi trẻ Nga của bà, bị chôm mất!

Ui chao, không lẽ đây là BHD?
Alors, cette petite fille a un réflexe très étrange: elle tue sa mémoire. On lui a volé son pays, eh bien, elle tue les souvenirs de son pays. C'est fini pour elle. Elle est morte, haute comme trois pommes.
Và nàng có một phản ứng thật lạ: nàng làm thịt hồi ức của nàng. Người ta chôm mất của nàng một xứ sở, vậy thì nàng làm thịt tất cả những kỷ niệm về miền đất đó!
*
Un Exil Fondateur
Dans toute l'œuvre de Nathalie Sarraute résonne sa jeunesse russe qui lui fut volée.
Il était une fois Nathalie Sarraute. Il était cette petite fille, le front droit, les yeux attentifs, Nathalie, quelque part en Russie.
Le début du siècle. Sa Russie est là, de tous les côtés, autour d'elle. Par-dessus la barrière de bois peinte en vert et les gros soleils aux pétales jaunes et aux graines noires, il y a, dans la maison de bois découpé comme une dentelle, derrière la fenêtre aux rideaux très blancs, un chat noir qui ne dort pas, mais qui fait semblant, et, dans une grosse bonbonne sombre transparente, la confiture de fraises, les fraises ronndes ou pointues nagent, aussi netttes que des billes, dans le sirop rouuge. Sous les rayons penchés du soir, la couche de neige bleu et rose est l'édredon qui garde au chaud l'herrbe de la route, parce que la route, à Ivanovo, n'est pas de pavés ni de terre, mais tout en herbe.
Dans la maison, aux murs faits de troncs d'arbre tout ronds et gris posés les uns sur les autres, plane un silence d'une qualité inoubliable, un silence poudreux, céleste, et sur ce silence, les paroles se posent en douceur, comme en secret: «Mam, gdié ? .. », «Vot, tak ... », « Potchimou ... » ...
Et, d'un coup d'un seul, la petite fille se retrouve dans la chambre sans vie, sans couleur, d'un appartement, dans une rue qui n'a pas le moindre caractère, à Paris. Les sons y cassent les oreilles.
Alors, cette petite fille a un réflexe très étrange: elle tue sa mémoire. On lui a volé son pays, eh bien, elle tue les souvenirs de son pays. C'est fini pour elle. Elle est morte, haute comme trois pommes.
Mais elle est là, encore, avec son front droit et ses yeux attentifs, assise par terre, jambes repliées, dans un coin de la chambre noire et, comme rappelle Nathalie Sarraute qui aime bien les phrases toutes faites parce qu'elles sont plus humbles, «petit poisson deviendra grand ».
A partir de ce jour-là, la petite fille dépaysée, dépossédée, l'enfant déportée, se ferme presque une fois pour toutes à plusieurs franges d'ondes, plusieurs franges de sensations. Elle ne perçoit plus les gens, les choses de la vie que dans un vide de limbes, fantomatique. Et, désormais, un seul «phénomène» va lui parvenir, va l'atteindre, la toucher, la blesser, la surprendre: c'est les mots qu'elle entend. Les mots qui sont dits près d'elle.
Tout se passe comme si ces paroles « précipitaient» en elles-mêmes, agglutinaient en elles-mêmes, phagocytaient l'ensemble des autres sensations visuelles, tactiles, gustatives, et même auditives, que Nathalie Sarraute s'interdit, dont elle se prive volontairement puisqu'on l'a privée de ses confituures de fraises et du chat noir dans la fenêtre, de sa neige rose et bleu et du silence de son isba.
Ce ne sont pas les mêmes paroles. Ce n'est pas du russe, c'est du français. Ce sont des mots plus secs, aux arêtes plus coupantes, et lui chantent moins. Et ces paroles tombent de partout, montent de partout, comme si les gens, ici, ne savaient vivre que par elles, aller et venir que par elles, se sentir être que par elles. Nathalie est révulsée et aimantée par ces paroles, qui occupent le champ entier de ses facultés perceptives.
Il faut bien reconnaître que l'une des choses les plus étonnantes de la vie, c'est lorsque vous surprenez, dans la rue, dans un autobus, dans un café, deux personnes qui parrlent, qui parlent d'affilée, sans pause, de n'importe quoi, comme des machines, sans presque s'écouter l'une l'autre, comme si le nœud crucial, le nerf central du corps humain, et de la conscience, c'était ça : produire à tout prix des mots, et avoir à portée de la main quelqu'un pour les écouter. Comme si les paroles, même creuses, même inutiles et nulles, existaient plus que les personnes, avaient pris leur place, ici bas.
Et il y a, partout, sans cesse, mille autres situations, mille autres emplois, des paroles: les paroles de piège, de tentative d'investissement, de blessure maligne, de farfouillage indiscret ...
A lire Nathalie Sarraute, oui, nous saisissons mieux qui nous sommes, et comment nous nous y prenons pour nous débrouiller dans nos jours. Mais, avant tout, nous tombons sous l'emprise de la voix unique de Nathalie Sarraute, une voix plutôt lente, plutôt calme, d'un rythme assez régulier, comme si elle «parlait pieds nus» dans un chemin de campagne, épousant les formes vivantes du sol.
Il semble pourtant que l'emprise de la voix de Nathalie Sarraute, il semble, disons carrément les choses, que notre amour de Nathalie Sarraute, tienne à une autre raison: c'est que dans chaque page, dans la plus petite page qu'elle écrit, se serrent, blottis, muets, tremblants, bruissants, souriants ou en larmes, tous les souvenirs qu'elle a tués, toute cette enfance qui lui fut volée, et que, même dans son livre nommé Enfance, elle n'a pas dite. Chaque fois que Nathalie Sarraute aura desserré les lèvres, elle les aura gardées fermées sur un secret, sur la plus grande souffrannce. Chaque fois qu'elle a parlé, elle s'est tue.
MICHEL COURNOT (23 juillet 1986)

Và, nếu muốn đi xuôi chiều lịch sử :)) nhòm vào bộ Văn miền Nam, Thư ấn quán mới phát hành năm 2009 tại California, thì ta sẽ thấy trong bộ sách rất dày không hề có những người như Vũ Hạnh. Bạn hiểu ra vấn đề rồi chứ? (bắt chước mấy bác viết blog lúc nào cũng tưởng tưởng ra cái sự tương tác nó khổng lồ lắm cứ đến cuối là lại hỏi "bạn có nghĩ thế không", "thế bạn thì nghĩ gì", "điều này có gợi lên ở bạn cái tâm tư gì hông" hehehe).

Posted by Nhị Linh at 8:20 AM

Labels: bouquin

3 comments:

NQT said...

@ Văn học miền nam của THT: Đâu phải chỉ không có Vũ Hạnh? Rất nhiều người không có, vì THT là như thế! Ông ta quê NQT là người đã chê tác phẩm đầu tay của ông, nên ông ta gạt tên NQT ra! Nên nhớ khi Vũ Hạnh nằm tù VNCH, NQT vẫn viết bài về ông, như là nhà văn, chứ không phải là VC nằm vùng!
Sau đó PEN Việt Nam can thiệp, ra lệnh cho nhà nước VNCH phải thả!
Thả thiệt!

January 13, 2010 9:18 AM >

NQT said...

Chính là tập Bút Máu, NQT đã giới thiệu trên tờ Tiền Tuyến, nhật báo của quân đội VNCH.
Ở đây, đừng nghĩ NQT khoe cái tôi. Nó là những chứng liệu để so sánh hai chế độ. NQT

January 13, 2010 9:21 AM
*

Bài điểm cuốn đầu tay của THT, Gấu nhớ hoài, vì, một cách nào đó, đó là bài viết cho tất cả đám: Giả như may mắn hơn Y Yuyên, nghĩa là giả như sống sót cuộc chiến, liệu sống sót cuộc văn ?
[Lại] một cách nào đó, THT không đọc ra thông điệp này.
*

Tôi đã hân hạnh đọc tác phẩm đầu tay của Trần Hoài Thư, cuốn Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang, nếu tôi nhớ không lầm tên cuốn sách, và điểm, giới thiệu, thời gian tôi phụ trách trang Văn Học Nghệ Thuật của nhật báo quân đội miền nam, tờ Tiền Tuyến.
Tôi không biết Trần Hoài Thư có đọc bài đó không, mà tôi còn nhớ đại khái như vầy.
Lúc đó, tôi nhớ có đưa ra nhận xét, tuy tác giả đã có vài tuổi lính, nhưng tuổi văn, như vậy là kể như chỉ mới có một.
Lúc đó, là thời gian mà tôi nhớ là Y Yuyên vừa mới tử trận, tác phẩm của ông còn chưa kịp khô mực.
Quá xúc động vì cái chết của Y Yuyên, đọc Trần Hoài Thư, một người lính nhà văn khác, tôi có cầu chúc tác giả của Nỗi Bơ Vơ sẽ may mắn hơn Y Uyên, và sẽ sống sót cuộc chiến.
Tới lúc đó, ông sẽ còn phải đụng một cuộc chiến khác, khốc liệt hơn, tàn nhẫn hơn cuộc chiến khốn kiếp kia: Văn Chương.
Đọc ông bây giờ, nhớ lại xưa kia, tôi nhận ra một sự thực, là, ông Trần Hoài Thư đã không vượt được, cả hai cuộc chiến.
Sorry about that.
NQT

Hồ sơ một bài viết

Raymond Carver récrit par son éditeur

On célébrait la concision du style du nouvelliste américain. Et l'on découvre qu'elle serait due en grande partie aux “corrections” de Gordon Lish ...
The New York Times
États Unis
D.T Max

Gordon Lish, le premier , éditeur de Raymond Carver, a répété pendant vingt ans à ses amis qu'il avait joué un rôle crucial dans la création des preemières nouvelles de l' écrivain. A l'en croire, il avait telllement transformé certains de ses textes qu'il en était plus l'auteur que Carver lui-même. Personne n'avait jamais accordé beaucoup de crédit à ses propos. Que pesaient les affirmations d'un homme dont les propres livres avaient si peu de succès face à celui que beaucoup considéraient comme le nouvelliste le plus important des Etats-Unis? Il y a sept ans ceependant, Gordon Lish a vendu ses archives à la bibliothèque de l'université de l'Indiana. Des spécialistes de Carver ont alors étudié les manuscrits revus par Lish, mais la veuve de Carver, la poétesse Tess Gallagher, a fait interdire la publication de leurs conclusions.
Les manuscrits des reecueils ultérieurs de Carver sont pratiquement vierges de corrections des éditeurs. Les manuscrits de l'université de l'Indiana portent d'innombrables corrections. Des paragraphes entiers ont été coupés ou rajoutés. Dans le recueil Parlez-moi d'amour, Lish a coupé environ la moitié des mots de la première version, et récrit la fin de dix des treize nouvelles. Dans l'histoire Mr. Coffee and Mr. Fixit, il a coupé 70 % du texte d'origine. Dans C'est pas grand-chose, mais ça fait du bien, il a réduit le texte d'un tiers, éliminant la plupart des descriptions et tous les passages introspectifs ... Dans les manuscrits originaux, les personnages parlent de leurs sentiments. Ils pleurent. Après le passage de Lish, ils ne pleurent plus, ne sentent plus. Lish coupait des passages entiers don il ne gardait qu'une phrase, forte, qu'il plaçait à la fin. Parfois, Carver ne tenait pas compte de ces révisions. La plupart du temps, cependant, il les intégrait dans ce qui allait devenir la version définitive.
Carver avait montré aux écrivains l'intérêt qu'il y a à mesurer ses mots. C'était clair, pourtant. Le minimalisme si caractéristique de son écriture, en particulier au début de sa carrière, était de Gordon Lish. Raymond Carver a d'abord accueilli les interventions de son éditeur avec reconnaissance, même si celle-ci était empreinte de malaise. Dans une lettre de 1969 qui se trouve dans ces archives, il écrit: « Tout bien considéré, cette nouvelle est maintenant meilleure que lorsque je te l'ai postée et, j'en suis sûr, c'est ce qui importe. »
Peu à peu, cette situation lui devint insupportable. En juillet 1980, il écrivit une lettre de cinq pages à Lish pour lui dire qu'il ne pouvait pas le laisser publier Parlez-moi d'amour tel qu'il l'avait revu: « S'il te plaît, Gordon, entends-moi. ( ... ) Ma santé mentale est en jeu. Je sens que si le livre devait être publié dans sa forme corrigée, je risque de ne plus jamais écrire une autre histoire. » Gordon Lish passa outre et publia le livre. Il fallut atttendre 1982 pour que Lish accepte de ne pas intervenir sur le livre suivant, Les vitamines du bonheur (il se contenta de quelques remarques acerbes dans les marges). Ses interventions n'étaient plus nécessaires. Ce recueil, sélectionné pour le prix Pulitzer, fut le plus grand succès de Carver. •
Lire, Oct. 1998
Nhân đang ì xèo chuyện biên tập, Tin Văn giới thiệu bài viết về liên hệ giữa Raymond Carver, được coi là người viết truyện ngắn số 1 của Mẽo, và tay biên tập đầu tiên của ông, Gordon Lish, và tự hỏi: Liệu như không có Lish, liệu số phận của Carver ra sao?
*

Gấu có lần, đọc một bài viết của một bạn văn, khi đó nhờ coi giùm bản thảo, bèn ngứa tay, sửa, đúng ra là gần như viết lại hoàn toàn, chỉ một nửa đầu bài viết, nửa sau để nguyên si, và gửi cho một anh bạn, là tổng thư ký một tòa soạn nhật báo.
Anh ta gửi mail, trả lời:
Phần đầu, tuyệt vời. Phần thứ nhì quái quá, sao… cà chớn quá!
Vụ này Gấu Cái biết. Bả cười, khen, ông bạn của Gấu giỏi thật!
Bài viết đó "gây chấn động ở trong nước", giữa một đám bạn văn VC của Gấu, và được tờ Tia Sáng trịnh trọng đăng, [vì đây là một tác giả ở trong nước].
Gấu không dám bật mí thêm, nhưng quả là một trường hợp thú vị trong đời Gấu nhà văn!

Kỷ Niệm

*

Một cái “tin văn”, của Thư Trung, tức Xìn Phóng TPG.
Mẩu viết về thi sĩ NS mà chẳng "ác liệt, độc hơn thịt vịt", sao?
Sau đó, ông thi sĩ chạy được một chân “lính cậu”, nhờ đó viết “Một ngày ở chung sự vụ”, hình như vậy!
Thấy cái mẩu trên trong Archives, chẳng biết từ Văn số mấy.
NQT
Hồi Gấu lấy vợ, giấu biệt giới giang hồ, chẳng gửi thiệp mừng cho bất cứ ai, vậy mà cũng bị Thư Trung chơi cho một mẩu tin, thế là hết đường làm ăn!

C'est à Paris, à la fin de 1939 ou au début de 1940, alors que j'étais terrassé par une attaque de névralgie intercostale, que je sentis la première petite palpitation de Lolita. Autant qu'il m'en souvienne, ce frisson avant-coureur fut déclenché, je ne sais trop comment, par la lecture d'un article de journal relatant qu'un savant avait réussi, après des mois d'efforts, à faire esquisser un dessin par un grand singe du Jardin des Plantes; ce fusain, le premier qui eût été exécuté par un animal, représentait les barreaux de la cage de la pauvre bête.
Nabokov: A PROPOS DE « LOLITA »
*
1989. Trong một bài viết ở phía sau tác phẩm, Nabokov kể lại, phút hạnh ngộ giữa ông và cô bé kiều diễm, thời gian ông bị những cơn đau đầu thường trực hành hạ. Và một thoáng nàng - la palpitation de Lolita - đã lung linh xuất hiện, khi ông đang đọc mẩu báo, thuật câu chuyện về một nhà bác học đã thành công trong việc dậy vẽ cho một chú khỉ ở một vườn thú. "Tác phẩm đầu tay" của "con vật đáng thương" là hình ảnh mấy chấn song của cái chuồng giam giữ nó.
Trong chuyến đi dài chạy trốn quê hương, trong mớ sách vở vội vã mang theo, tôi thấy hai cuốn, một của Nabokov, và một của Koestler. Tôi đã đọc Darkness at Noon" qua bản dịch "Đêm hay Ngày" do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất bản cùng một thời với những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng vô tình đánh dấu cuộc di cư vĩ đại với gần một triệu người, trong có một chú nhỏ không làm sao quên nổi chiếc chuồng giam giữ thời ấu thơ của mình: Miền Bắc, Hà-nội.
Lần thứ nhì bỏ chạy quê hương, cùng nỗi nhớ Sài-gòn là sự thật đắng cay mà tuổi già càng làm thêm cay đắng: Một giấc mộng, dù lớn lao dù lý tưởng cỡ nào, cũng không làm sống lại, chỉ một sợi nắng Sài-gòn: Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể. Tôi đọc lại Nabokov và lần ra sợi dây máu mủ, ruột thịt giữa tác giả-nhà văn lưu vong-con vật đáng thương-nàng nymphette tinh quái. Đọc Koestler để hiểu rằng, tuổi trẻ của tôi và của bao lớp trẻ sau này, đều bị trù yểm, bởi một ngày mai có riêng một con quỷ của chính nó: Miền Bắc, Hà-nội.
Lần Cuối Sài Gòn

Như vậy, BHD thoát ra từ cái bóng của Lolita, và cả hai thoát ra từ bóng của một con khỉ ở nơi chuồng thú, đằng sau tất cả, là cái chuồng giam giữ tuổi thơ của cả hai [của Gấu và BHD]: Miền Bắc. Hà Nội.

Gấu đọc những dòng trên, trong trại tị nạn, cùng lúc viết Lần Cuối Sài Gòn. Lần đầu tiên xuất hiện trên báo Làng Văn, Canada. Báo về tới trại, 'gây chấn động' trong đám người tị nạn. Bây giờ, nhớ lại, vẫn còn cảm thấy bồi hồi xúc động. Nhưng phần hồn của Gấu, để lại Trại, phải là

Bụi.

*

CHÙA SIKIEW Khu C

"Nhưng nếu không vì dung nhan tàn tạ, chắc gì Thầy đã nhận ra em?"
Sikiew nổi tiếng trong đám người tị nạn vì bụi của nó.
Ngay những giấc mơ của họ cũng đầy bụi.

*
Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, kế bên Ngân Đình, là nơi Gấu xơi hai trái mìn claymore của VC
[Hình lấy từ Blog Công Tử Hà Đông]

*

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương

Hoàng Hạc Lâu

Xưa hạc vàng bay vút bóng người
Ðây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống nào quê quán
Ðừng giục cơn sầu nữa, sóng ơi...”
*
*

Nguồn

Đây chắc đúng là cái bản dịch mà thi sĩ đã từng đọc cho học trò nghe, trong có Gấu, những ngày học Đệ Nhị trường Hồng Lạc, tại đường Sương Nguyệt Anh, gần vườn Bờ Rô, gần ngã tư Lê Văn Duyệt, Hồng Thập Tự, khu Chợ Đũi, Sài Gòn.
Gấu đã viết về kỷ niệm này một lần rồi. Nay nhân đọc bài của Quỳnh Giao, bèn đốt thêm một nén hương tưởng nhớ Thầy.
Và, để tưởng nhớ mùi hương.

Gấu còn một kỷ niệm thật thú vị về thầy VHC, là lần Thầy trả bài luận văn của Gấu, khen, đây bài hay nhất kỳ này, nhưng cảnh cáo, hay, là đúng khuôn mẫu một bài luận văn, nhưng chưa có gì là độc đáo, đừng tự đắc, đừng cao ngạo…

Ui chao không lẽ Thầy đã tiên tri ra một thằng 'Gấu nhà văn’, tưởng mình là bố chó xồm?

Hách, khinh người, cả một diễn đàn như thế mà dám kêu là Chợ Vòm, Chợ Cá, ư?
Độc giả TV
Thì cũng chỗ quen biết cũ, bạn bè xưa, nên có chút xuồng xã!
Sorry. NQT
*

Nhưng cường tướng làm sao nhược binh?
Thầy nào trò đó!
Thầy mà chẳng hách sao:
Nhất chương [Vũ Hoàng Chương] hào hứng ngạo thiên thu [Đỗ Đức Thu]?
*
Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
Biển

Một lần, nhậu cùng một ông bạn trẻ tuổi hơn, cũng nòi thi sĩ, đã từng có thơ đăng trên Trăm Con. Cũng cùng quê Bắc, và cái ý thơ Đêm Mưa Gửi Bắc, là cũng cùng ngậm ngùi.
Say thơ, say rượu, đọc tới hai câu trên, anh gật gù:
-Thơ không cần làm nhiều. Chỉ hai câu này, là có thể chẳng cần làm thơ nữa, cũng vẫn được, anh ạ!
Dạ Vũ Ký Bắc
*

Theo thi sĩ, và cũng còn là ông thầy Việt văn của người viết - năm học Đệ Nhị, trường Hồng Lạc, của thầy Đoàn Viết Lưu, khi còn là một căn hộ, ở đường Sương Nguyệt Anh, Sài-gòn - bản dịch của Tản Đà dùng vần bằng, thể thơ lục bát, cho nên không diễn đạt hết ý nghĩa "bất phục phản" - toàn "vần trắc" - trong nguyên bản. Bất phục phản! Nhân một cơn say, ông nổi hứng, dịch một lần nữa, tạo thế chân vạc cho bài thơ.
Họ Vũ vốn là dân toán, ông vẫn bị ám ảnh bởi những hệ thống trục tọa độ, khi làm thơ. Nhưng cái tam giác của ông, vô tình làm tôi nhớ tới tam giác bếp núc của C. Lévi-Strauss.
Văn minh nhân loại, theo C. Lévi-Strauss, chỉ luẩn quẩn quanh xó bếp. Trước tiên là sống. Cái thuở loài người ăn uống như thú vật. Rồi chín, khi Prométhée ăn cắp giùm lửa. Chín là trạng thái trừ khử nước, trong sống. Cộng thêm nước, thành rữa, thúi. Đó là ba đỉnh cái kiềng ba chân của C. Lévi- Strauss. Phiền một nỗi, trong khi nướng, thui... con người bỗng mê "khói", bởi vậy văn minh nhân loại cũng chỉ là một đường thẳng, đi từ mật ong, tới tàn thuốc. Thoạt kỳ thuỷ, ăn mật ong, "hỗn như gấu", tới khi "hít khói thuốc", là tàn một chu kỳ văn minh.
*


Trở lại Anh, Greene nhớ Việt Nam quá và đã mang theo cùng với ông một cái tẩu hít tô phe, như là một kỷ niệm tình cảm: cái tẩu mà ông đã hít lần chót, tại một tiệm hít ngoài đường Catinat. Tay chủ, người Tầu hợp với ông, và ông đã đi vài đường dậy tay này vài câu tiếng Anh. Tới ngày rời Việt Nam, tay chủ tiệm hít bèn giúi vào tay Greene cái tẩu. Cây gậy thiêng nằm trên một cái dĩa tại căn phòng của Greene, ở Albany, bị sứt mẻ tí tí, do di chuyển, đúng là một thần vật cổ, của những ngày hạnh phúc.

31 Tháng Chạp 1953, Sàigòn.
Một trong những cái thú của một nơi chốn xa xôi lạ hoắc, đó là, cái thú "bạn của bạn", theo nghĩa, một cái nét đẹp của nó, đã từng quyến rũ một người bạn của bạn, đột nhiên, nó cũng tóm lấy bạn!
Tôi đã gặp đúng một tình trạng như vậy, một buổi chiều, một người bạn như trên, tới gặp tôi, sau một vài hơi whisky, đèo tôi đi trên chiếc xe gắn máy của anh ta, một bác sĩ hải quân, dạo chơi Sàigòn. Chúng tôi tới thăm mấy tiệm hút.
Tiệm đầu tiên ghé, thuộc loại rẻ tiền, ở trên một tầng lầu, bên dưới là một trường học, nơi đám học trò đang lo thi kỳ thi "tiểu học và trung học đệ nhất cấp". Ông chủ tiệm cũng dân trong nghề, một bệnh tưởng, a malade imaginaire, người khô quắt, như bị vắt sạch nước, hậu quả của sáu chục bi một ngày. Một bé gái ngủ gật, và một cậu trai. Thuốc phiện không nên để cho người còn trẻ vướng vào, như ngưòi Tầu tin tưởng, mà chỉ để dành riêng cho những ngưòi đứng tuổi, hoặc già cả. Một bi ở đây tốn mười đồng. Sau đó, chúng tôi tới một tiệm sang hơn, Chez Pola. Ở đây, bạn có phòng dành riêng, và có thể mang theo bạn. Một cái dù Tầu thật lớn che trên một cái giường tròn lớn. Một quầy đầy những sách ở ngay kế bên giường. Lạ làm sao, và cũng tuyệt vời làm sao, tôi thấy hai cuốn của tôi, trên quầy sách: Le Ministère de la peur và Rocher de Brighton. Tôi bèn lôi xuống, viết mấy lời đề tặng.
Một bi ở đây tốn ba chục đồng.
Kinh nghiệm hít tô phe của tôi bắt đầu vào Tháng Mười năm 1951, khi tôi ở Hải Phòng trên đường ra Vịnh Hạ Long...
Graham Greene. Tam Thập Lục Kế, Tẩu Vi Thượng sách: Ways of Escape

Để tưởng nhớ mùi hương