*
Nhật Ký









NGUYỄN LƯƠNG VỴ
HOÀI ÂM HOÀI 

Gửi nhà điêu khắc Dương Văn Hùng

Hoài âm hoài dưới thấp trên cao
Lá khô cỏ mục nhớ ngàn sao
Dế giun nhấp giọng theo bèo bọt
Cát bụi bâng quơ nhớ giọng chào

Harmonica

Nhịp hai tay harmonica
Nhịp hai chân harmonica
Đất lạ trời quen hú với gió
Gió bềnh bồng harmonica…

Anh NQT,
Đúng là hồi này cực thật... Sức khoẻ của anh ra sao? Dạo này thấy trang web hơi 'nghèo', chắc anh mệt lắm?
Thân. NLV
Phúc đáp:
Quả có thế. Mệt lắm. Hơn 7 bó rồi.
Tin Văn vào những ngày chót đời của nó, sẽ chỉ lèm bèm về thơ.
Nhịp hai tay thơ
Nhịp ba chân thơ
Thân. NQT
*
Note: Bài này, và một số bài, một số tác giả, do trục trặc kỹ thuật, mất "link". Nay đã chỉnh lại.
Tolstaya, vĩnh biệt Brodsky, mất năm 1996: Chỉ cần ông sống thêm bốn năm nữa thôi, thế kỷ chúng ta sẽ có được một kết thúc thật là tuyệt vời. Bây giờ ông mất, căn nhà Nga mới thực sự trống rỗng.
Theo ý đó, Vĩnh Biệt Lửa Thiêng là một bài thơ muộn. NQT
Phỏng vấn Huy Cận
Trần Anh Thái: Trở lại với tập thơ "Lửa thiêng". Trên bìa sách tập thơ này có vẽ hình ngọn lửa và người đàn bà khỏa thân, điều này có ý nghĩa gì?  
Huy Cận: Hồi ấy tôi nhờ Tô Ngọc Vân vẽ bìa. Lúc đầu Tô Ngọc Vân vẽ người phụ nữ nằm, mặc váy dài. Tôi nói: Tên tập thơ là "Lửa thiêng" - ngang; Xuân Diệu viết lời tựa - ngang; bây giờ đến người đàn bà nằm thì có tới ba ngang. Tôi nghĩ đã có mấy cái ngang thì phải có một cái đứng. Hơn nữa người đàn bà tượng trưng cho sự sáng tạo phải là người đàn bà đứng. Vả lại, tôi thích chiêm ngưỡng người phụ nữ ở tư thế đứng, nó đẹp, lung linh hơn!
*
Bài phỏng vấn này, đăng trên Tin Văn cũng đã lâu lắm, khi mới đăng, Gấu có đọc sơ qua, nhưng không chú tâm, một phần hồ nghi tài thơ và tài phỏng vấn của hai ông Hồ Anh Thái và thi sĩ thần đồng Trần Đăng Khoa. Vào lúc chót đời, về với thơ, đọc lại, đọc kỹ hơn, quả đúng như hồ nghi. Ông thi sĩ thần đồng không đọc nổi thơ Xuân Thu Nhã Tập, và suy rộng ra, không thể đọc được thứ thơ trí tuệ.

Phan Huyền Thư giới thiệu Thanh Tâm Tuyền, Khô Nga, Nguyễn Bính với lời tâm sự: "Đây là 3 tác giả có phong cách hoàn toàn khác nhau, nhưng họ đều ảnh hưởng đến tôi, đều dắt dẫn tôi đến với văn chương".
Nguồn eVăn
Xin trao thi sĩ vòng hoa tặng
Chúng ta đã thắng trước cuộc đời
Nếu mỗi thế hệ là một quốc gia non trẻ , và, nếu thế hệ đàn anh của chúng tôi tượng trưng cho nước Việt non trẻ - vừa mới giành được độc lập - là bước ngay vào cuộc chiến, và, họ đã chứng tỏ được điều trên: đã không vô ích khi làm thơ; và đã thắng trước cuộc đời, cho nên đây là một thách đố đối với những nhà thơ trẻ như chúng tôi: đừng làm cho thơ trở thành vô ích. Và nếu thơ của lớp đàn anh chúng tôi đã làm xong phần đóng góp cho sự nghiệp chung của dân tộc, thơ của thế hệ trẻ chúng tôi có lẽ sẽ làm nốt phần còn lại: thơ sẽ nói lên nghệ thuật của sự tưởng niệm, và mỗi bài thơ, được viết đúng lúc như thế đó, sẽ trở thành một khúc kinh cầu. Đó là tham vọng của thơ trẻ.
Thơ của tôi không dành cho bạn

7

NGUYỄN ĐÌNH THUẦN:
THẾ GIỚI CỦA NHỮNG HANG ĐỘNG THẠCH NHŨ
Đặng Phú Phong


*
Hannah Arendt's Legacy
Comprehension does not mean ... deducing the unprecedented from precedents, or explaining phenomena by such analogies and generalities that the impact of reality and the shock of experience are no longer felt.... Comprehension ... means the unpremeditated, attentive facing up to, and resisting of, reality—whatever it may be.
Hannah Arendt
Cảm thông không có nghĩa... suy "cái chưa có trước" từ "cái có trước", từ tiền lệ... Cảm thông... có nghĩa, cứ thế mà đưa mặt ra hứng, đưa lưng ra chịu đòn, cưỡng lại thực tại, cho dù bất cứ cái chi chi.
Sự tầm phào của cái ác
Oates đọc Acocella
Nhị thập bát tú có 9 nghệ sĩ khiêu vũ, múa [dance], còn lại là nhà văn [Italo Svevo, Stefan Zweig, Simone de Beauvoir, Primo Levi, Susan Sontag, Saul Bellow...]. Hai vị thánh là Mary Magdalene và Joan of Arc.
Trong lời mở, tác giả viết, trong khi đọc lại chúng, để làm tuyển tập, bà nhận ra chúng có cùng một đề tài: sự vất vả, khó khăn [difficulty, hardship].
Bằng hai từ đó, bà muốn nói, không phải tuổi thơ bất hạnh, nỗi đau đầu đời, vượt qua, và chuyển vô văn chương nghệ thuật, nhưng đúng hơn, nỗi đau rong ruổi cùng với làm nghệ thuật, xen đan với nhau, và bằng cách nào nghệ sĩ đối phó, deal, với nó.

Đọc thơ Cao Thoại Châu

Cao Thoại Châu là người mở ra cánh cửa dẫn vào văn chương cho cả lũ chúng tôi.
Bài thơ đầu tiên của anh, gây chấn động không chỉ giữa bè bạn mà còn cả Sài Gòn, là bài đăng trên báo Văn, cũng đề tài chiến tranh, lâu quá chẳng thể nào nhớ nổi.
Đến bài sau đó, trên Nghệ Thuật số 9, thì, như ly nước đầy làm tràn ra Những ngày ở Sài Gòn (1965)
Lẽ dĩ nhiên, còn những miểng mìn claymore tản mạn đầy trong Gấu.
Viên bác sĩ nhà thương Grall phán:
Tao đã cho X Ray tất cả người mày, nhiều miểng ly ty, chẳng thể nào giải phẫu lấy ra hết. Đành trích trụ sinh, liều thật nặng, để trừ hậu họa.
Cứ nát bấy một bên đùi, là đổi bên, mỗi lần thấy cô y tá chuyên "trích" Gấu, là Gấu phát khóc !

Cao Thoại Châu
Hình như tôi vừa tiễn một người
có điều gì mất đi trong tôi
lúc qua đèo tôi nhủ mình như thế
lệ có bào mòn núi cũng không nguôi...

Chuyện người đi đã là có thật
thôi cũng đành to nhỏ với hư không
tôi là núi sao người bỏ núi
tôi là thuyền sao người không qua sông

Pleiku 11-05-1969
*
Ba câu đầu thì cũng... thường thôi.
Nhưng câu cuối của khổ thơ mới khủng khiếp làm sao: Lệ có bào mòn núi cũng không nguôi
Cứ nghĩ đến lúc BHĐ đi xa, đập cửa khóc ròng, [Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant. Apollinaire], núi thương tình thằng Gấu, khóc theo, đến mòn tịt xuống, rồi thành hồ, thành ao, thành sông, thành biển, thì em vưỡn cứ xa.
Giọt Mưa Trời Khóc  1

SUBJECT: BRODSKY
                          —Adam Zagajewski
            (Translated from the Polish by Clare Cavanagh)
NYRB March 1, 2007
Reason and Roses: Trí Tuệ và Những Bông Hồng
Trong Tản Mạn về Phim và Những ngày ở Sài Gòn, nhân thiên hạ đang bàn về cuốn phim Mê Thảo, từ Chùa Đàn của Nguyễn Tuân mà ra, Gấu có “liều lĩnh” coi Chùa Đàn, gồm ba phần, mang trong nó thai đố mà con nhân sư đã đặt ra cho Oedipe: con vật nào buổi sáng đi bốn chân, buổi trưa hai, buổi chiều ba.
Thật thú vị, mới đây thôi, đọc Adam Zagajewski, trong bài tưởng niệm nhà thơ Milosz vừa mới mất trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, số đề ngày 23 tháng Chín 2004, Trí Tuệ và Bông Hồng, ông cũng coi cuộc đời của Milosz gồm ba giai đoạn, có thể coi như câu trả lời cho thai đố mà con nhân sư đặt ra cho thế kỷ 20.
*
Milosz cũng còn là một nhà thơ chính trị lớn: những gì ông viết ra về sự huỷ diệt những người Do Thái, sẽ còn hoài, và không chỉ còn hoài ở trong những tài liệu, những tuyển tập dành cho sinh viên. Trong những năm thê thảm nhất của chủ nghĩa Stalin những sinh viên đọc Luận về Đạo Đức, Cách Ở Đời của ông [Treatise on Morals, 1948], giống như một triết gia La Mã, Boethius, của những ngày này. Ông không im tiếng, khi xẩy ra phong trào bài Do Thái vào năm 1968, đây đúng là một nỗi nhục cho báo chí Ba Lan, và một số người thuộc tầng lớp trí thức. Sự hiện hữu của những từ ngữ trong sạch của Milosz, đã và sẽ luôn luôn vẫn là một ân huệ, một lợi ích, cho độc giả Ba Lan, kiệt quệ vì sự tàn bạo của chủ nghĩa Stalin, tả tơi sau thời gian dài sống dưới sự thử thách của chủ nghĩa Cộng Sản, sự lỗ mãng thô bỉ của [cái gọi là] nền dân chủ của Nhân Dân. Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu xa nhất của thái độ chính trị của Milosz thì nằm ở một nơi nào đó; theo gót những bước chân của Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho mình một kiểu suy nghĩ, nối liền đam mê siêu hình với sự nhủ lòng, trước số phận của một con người bình thường. Và còn điều này, trong một thế kỷ mà những nhà tư tưởng tông giáo và những nhà văn thường được coi thuộc cánh hữu [thí dụ như Eliot], trong khi những nhà hoạt động xã hội bị thường bị coi là vô thần, một khuôn mẫu như là Milosz có một ý nghĩa thật là lớn lao, và sẽ tiếp tục phục vụ chúng ta rất nhiều trong tương lai.
Câu Gấu gạch đít ở trên, thật tuyệt.
Nói về Milosz mà là để vinh danh Weil, nhất là đoạn "với sự nhủ lòng trước số phận của một con người bình thường", làm nhớ đến tấm lòng của Weil đối với xứ Đông Dương thuộc địa. NQT
*
Simone Weil hết sức quan tâm đến một số bài viết, về số phận người Việt (khi đó còn gọi là Annamites), trên tờ Người Paris Nhỏ (Le Petit Parisien), ngay sau khi vụ khởi nghĩa Yên Bái xẩy ra và bị dập tắt trong vòng hai tuần lễ. “Tôi không bao giờ quên được giây phút mà, lần thứ nhất trong đời, tôi cảm và hiểu được bi kịch thực dân thuộc địa” (Je n’oublierai jamais le moment, pour la première fois, j’ai senti et compris la tragédie de la colonisation).
Thánh Simone Weil 1

 Sài gòn, lần đầu
Nguyễn Sỹ Tế kể lại rằng có lúc dân Sài Gòn đã vui đùa mà nói đến chơi nhà Sáng Tạo chỉ thấy bốn năm ông nhà văn mỗi ông ngồi một xó trước cái bàn thờ tổ sư riêng.
Nguồn
Như Gấu còn nhớ được, sự kiện trên là từ bài viết, một thứ Sớ Táo Quân, trên tờ báo của Nhất Linh, nhân số Tết, một tác giả của tờ này (1) đi xông đất nhóm Sáng Tạo và chứng kiến cảnh tượng trên.
Đây là cú đáp lễ, sau khi ST hô hào khai tử văn chương tiền chiến, nhất là Tự Lực Văn Đoàn.
(1) Hình như Duy Lam. NQT

Tôi thấy mình giống Trương Vô Kỵ, cũng tôn một bức tượng đá làm thày.
Tuấn Ngọc Nguồn
Lầm rồi bạn ơi. Đó là Đoàn Dự