*

Diary


















*
Vĩnh Biệt Bạn Cờ
Chỉ tới mãi sau này, Gấu mới hiểu được, những danh sách MIA mà bạn Nam có đó, đều… thực cả!
Ấy là vì chúng đều được hải ngoại chôm từ những tài liệu chính hiệu của Mẽo, và tuồn về Việt Nam, đánh lừa những người như bạn ta!
Khi phát bịnh, bạn Nam được cháu Lộc [gọi bằng cậu] đưa về Sài Gòn, vô nhà thương, bác sĩ chê, biểu về chờ đi. Anh nói đưa anh trở về lại Vien Chăn.
Bà chị ruột, tức mẹ cháu Lộc đưa em trở lại Viên Chăn, chưa kịp về lại Việt Nam thì bạn Nam đã đi.
*
Nói đến cờ, Gấu nhớ đến trưyện ngắn Phép Lạ Bí Ẩn của Borges.
Phép lạ bí ẩn
Jorge Luis Borges
 Và Thượng đế làm anh ta chết đi suốt một trăm năm, và rồi Người cho sống lại và nói:
"Mi ở đây bao lâu rồi?"
"Một ngày, hay một phần của ngày," anh ta trả lời.
Koran, II 261

Lời người dịch: Vào một buổi sáng tháng Tư, có một người, khi nhìn những đoàn quân tiến vào thành phố, đã vui mừng thốt lên, như vậy là ta sẽ chẳng bao giờ phải viết nữa. Trước đó có một người, thay vì đếm những giờ phút cuối cùng của đời mình, mơ Đức Phật trở lại với thế gian này.
Đọc Borges, tôi bỗng nhớ đến họ. Và xin tặng bản chuyển ngữ cho những ai đã từng được Thượng Đế ban cho một phép lạ bí ẩn, như nhân vật trong truyện...
NQT
Đêm 14 tháng Ba, 1939, trong căn phòng ở Zelternergasse, Prague, Jaromir Hladík mơ một trận đấu cờ dai dẳng. Anh là tác giả Những kẻ thù, một bi kịch chưa hoàn tất, Minh xác Vĩnh cửu, và một nghiên cứu những nguồn gốc Do-thái không trực tiếp của Jacob Boehme. Đối thủ không phải hai cá nhân, mà là hai gia đình nổi tiếng. Cuộc đấu đã bắt đầu từ bao thế kỷ trước. Không ai còn nhớ giải thưởng trị giá bao nhiêu, nhưng nghe nói lớn kinh khủng, và có lẽ vô cùng. Quân cờ, bàn cờ được bố trí ở trong một cái tháp bí mật. Jaromir (trong giấc mơ) là đứa con đầu lòng của một trong hai gia đình tranh đua. Giờ giấc cho nước cờ tới đã được đóng cứng trên mọi mặt đồng hồ, và không thể trì hoãn. Người mơ thấy mình chạy dài trên cát, dưới mưa, và không còn nhớ được những quân cờ cũng như luật chơi. Tới đó, anh tỉnh dậy. Ngưng luôn, tiếng ầm ầm của mưa và tiếng đồng hồ khủng khiếp. Một tiếng động nhịp nhàng, tách bạch với những tiếng người ra lệnh, từ Zeltnergasse vang lên. Rạng đông, những binh đoàn thiết giáp tiên phong của Đệ Tam Reich đang tiến vào thành phố Prague.
*
Ui chao, Gấu cứ như nhìn thấy Borges, đứng kế ngay bên Gấu, vào ngày 30 Tháng Tư 1975, nhìn những binh đoàn VC tiến vô Sài Gòn!
Khủng khiếp thật!
*
André Maurois, trong bài Tựa cho cuốn Mê Cung, Labyrinths, của Borges, nhắc lại một câu thật thú vị của Borges: “Thượng Đế không được lèm bèm về chuyện thần học. Nhà văn không được huỷ diệt niềm tin mà nghệ thuật đòi hỏi ở chúng ta, bằng những lý luận lăng nhăng”. [“God must not engage in theology; the writer must not destroy by human reasonings the faith that art requires of us”]. Cũng trong bài Tựa, Maurois quả quyết, Kafka đã là tiền thân trực tiếp của Borges [Kafka was a direct precursor of Borges]. Lâu Đài đúng ra là của Borges, nhưng nếu đúng như thế, thì ông sẽ viết thành một câu chuyện chừng 10 trang.
Đúng như thế, nhưng Maurois quên một điều, tất cả những truyện dài của Kafka, đều là những truyện ngắn, những ngụ ngôn của ông, phóng chiếu mãi ra.


*

"Nous ne lui demandons pas de devenir un traître. Nous lui proposons une nouvelle définition du mot loyauté."
Chúng ta đâu có đòi hắn ta phải trở thành một tên phản bội. Chúng ta chỉ đề nghị với hắn ta một định nghĩa mới về lòng trung thành.
 Le Carré, le grand réveil
Un homme très recherché
JOHN LE CARRÉ

Với cuốn mới nhất này, Kẻ bị truy nã tới chỉ, Le Carré trở lại mảnh đất của  những tác phẩm đầu tay của ông, nhưng đây là một sự tỉnh thức lớn, như Le Magazine Littéraire nhận xét.
Gấu này thú thực, cũng chỉ mê những tác phẩm thời kỳ đầu của ông, và nếu phải chọn, thì nhất, vẫn là cuốn Điện thoại dành cho người chết, Call for the Dead, và tiếp theo là Gián điệp về từ miền lạnh, The Spy who came in from the cold, bộ ba, trilogy, về Smiley…
Trong cuốn Điện thoại dành cho người chết có hai xen thật là tuyệt vời. Xen Smiley ghé tiệm giặt ủi lấy quần áo mang về nhà, và khi đứng trước cửa nhà mình, linh tính xui bảo, thay vì mở, ông giơ tay gõ cửa, và khi kẻ sát nhân đang chờ ông ở trong nhà ra mở cửa, ông nói, ông là người đi trao quần áo giặt ủi.
Xen thứ hai, là khi Smiley đánh lừa được trùm gián điệp Đông Đức gặp nữ gián điệp nhân viên, tại một rạp hát, và khi nhân viên của Smiley xin lệnh bắt, ông lắc đầu...
Cuốn Call for the Dead, Gấu đã dịch được một, hai chương, rồi bỏ ngang, tiếc quá!
Call For The Dead đọc như thơ, thế mới sướng! Sau này, có thể do viết nhiều, cái chất thơ của văn Le Carré ngày càng bớt dần.
*
Ngược lại, hắn buồn rầu chứng kiến khoái lạc tự nhiên cứ chết dần trong hắn. Bản chất luôn khép kín, hắn thấy mình lúc này co rúm lại trước những cám dỗ của tình bạn và lòng chung thủy của con người; hắn cảnh giác hết mức, chính hắn, trước những phản ứng bộc phát. Bằng sức mạnh lý trí, hắn ép mình quan sát nhân gian với sự khách quan lâm sàng, và, bởi vì hắn không bất tử, và chắc không khỏi lỗi lầm, hắn thù ghét và ghê sợ sự giả trá của đời mình.
Nhưng Smiley là con người tình cảm, và nỗi xa xứ ngày càng làm mạnh thêm tình yêu sâu thẳm của hắn với nước Anh. Hắn ngấu nghiến những hồi ký về Oxford, vẻ đẹp, sự phóng khoáng trí tuệ, tính chậm chạp chín mùi trong những phán đoán của nó. Hắn mơ về những ngày nghỉ lộng gió mùa thu ở bến Hartland, những chuyến tản bộ dài trên những vách đá ở Cornall, mặt trơn láng, nóng bỏng trước gió biển. Đây là một cuộc sống thầm kín khác của hắn, và hắn càng ngày càng thù ghét sự xâm nhập tục tằn của nước Đức mới, những bước dậm chân và la hét của đám sinh viên đồng phục, những khuôn mặt sẹo, kiêu căng và những câu trả lời hạ cấp của họ. Hắn cũng căm tức cái lối Phân khoa xía vô môn dạy của hắn - nền văn học Đức yêu dấu của hắn. Và rồi một đêm, cái đêm khủng khiếp của mùa đông l937 khi Smiley đứng ở cửa sổ phòng mình ngắm một đám lửa trại lớn nơi sân trường Đại học: Vây quanh ngọn lửa, hàng trăm sinh viên mặt hồ hởi bóng nhẫy dưới ánh lửa bập bùng. Và họ ném hàng trăm cuốn sách của họ vào ngọn lửa ngoại đạo. Hắn biết tác giả của những cuốn sách: Thomas Mann, Heine, Lessing, và hàng loạt những người khác, và Smiley bàn tay ẩm ướt khum khum quanh đầu điếu thuốc, ngắm nhìn và thù hận, hả hê trong nỗi chiến thắng vì đã nhận diện ra kẻ thù của mình.
 l939, hắn có mặt ở Thuỵ Điển, nhân viên được bảo chứng của một hãng chế tạo vũ khí nhẹ nổi tiếng của Thụy Sĩ; mối làm ăn được ghi lùi lại ngày cho thuận tiện. Cũng để cho thuận tiện, tướng mạo của hắn đã phần nào biến cải, bởi vì Smiley khám phá ra hắn có tài nhập vai hơn hẳn cái trò thô thiển về thay đổi mái tóc hoặc thêm hàng ria mép nho nhỏ. Trong bốn năm hắn đóng vai đi đi lại lại giữa Thụy Sĩ, Thụy Điển và Đức, hắn không ngờ mình bị hoảng sợ lâu đến như thế. Hắn mắc cơn kích giật nơi mắt trái, mười lăm năm sau vẫn còn, sự căng thẳng vạch những đường hằn trên đôi má phính, trên trán. Hắn học được, làm sao để có thể không bao giờ ngủ, không bao giờ xả hơi, làm sao cảm thấy nhịp đập hoài hoài của trái tim của chính mình bất kể ngày và đêm, làm sao với tới những cực điểm của nỗi cô đơn và sự thương thân, làm sao nhận ra niềm dục vọng bất thần không đắn đo về một người đàn bà, một ly rượu, một vận động, và thuốc, bất kể thứ thuốc gì bứng đi sự căng thẳng của đời mình.
Call for the Dead

John Le Carré là bút hiệu của David Cornwell, người Anh. Sinh năm 1931. Học Đại học Berne, Oxford. Dạy học tại Eton. Sau làm Bộ Ngoại Giao, vì vậy ông không được phép dùng tên thật khi viết. Bút hiệu Le Carré, tiếng Pháp có nghĩa là hình vuông, do ông tình cờ nhìn thấy trên kính một cửa tiệm ở Luân đôn.
Tuần báo Time đã mô tả ông: Người viết truyện gián điệp số một của thời đại ông ta hiện đang sống. Và có lẽ của mọi thời.
Gọi Người Đã Chết, tác phẩm đầu tay trong đó gói ghém tất cả ước vọng của tác giả, muốn sử dụng thể loại gián điệp, một hình thức phổ cập, đại chúng, dể giải quyết những vấn đề lớn lao, như văn chương, chính trị, thời đại... Ông còn muốn tìm lại cội rễ của nó, vốn bắt nguồn từ bi hùng kịch Hy Lap. — Màn Cuối (The Last Act) trong Gọi Người Đã Chết, độc giả, và có thể, chính tác giả cũng không tiên đoán được kẻ thù sẽ phản ứng như thế nào: Chúng sẽ làm một điều gì đó. Chắc chắn như vậy. Chúng ta còn có cơ hội...
Đối những độc giả quá quen thuộc với Smiley, nhân vật chính của Le Carré qua những tác phẩm The Spy who came in from the cold, The Smiley People... cơ hội đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản, chấm dứt Chiến Tranh Lạnh.
*
Đây là câu chuyện một nhân viên ngoại giao tự tử, sau khi bị sở cho người điều tra, vì nghi là "thân cộng". Để lại thư tố cáo. Người lãnh đạn, là Smiley, nhân viên được sở cử đi điều tra. "Anh điều cha điều bố thế nào để cho con người ta cảm thấy nhục nhã, mất danh dự đến nỗi phải tự tử để minh oan?"
Trước mắt, ngay sáng sớm hôm sau, Smiley phải tới gặp bà vợ, để thay mặt sở chia buồn. Đang nói chuyện, có điện thoại. Tưởng của Sếp, anh nhắc nghe, nhưng của nữ điện thoại viên bưu điện, do người đã chết tối hôm qua đã dặn, "tám giờ sáng, nhớ đánh thức tôi nhé!"
Smiley tự hỏi: làm sao một người sửa soạn từ giã cõi đời, lại nhờ người đánh thức?
Hoá ra là bà vợ mới là gián điệp nằm vùng. Bồ của bà, một điệp viên Đông Đức. Trong thời gian chiến tranh, anh này là nhân viên của Smiley. Một tay cộng sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa cộng sản sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"!
Smiley vẫn còn nhớ, cách anh này hẹn gặp nhân viên dưới quyền. Anh thử làm theo, và thành công.
Anh cho hai người gặp nhau tại một rạp hát. Khi nhân viên dưới quyền xin lệnh bắt, Smiley lắc đầu, không có chứng cớ, bắt cũng phải thả ra thôi. Nhưng anh ra lệnh: cứ để yên, sẽ có biến động. Hãy để cô cậu cuống cuồng, thất kinh… quýnh quá thể nào cũng làm một điều gì đó. (Let them bolt, panic, anything… so long as they do ‘something’). Bởi vì theo anh, Dieter, nhân viên cũ của anh, khi gặp cô bồ, khám phá ra bị lừa, sẽ nghĩ rằng phản gián Anh đã biết tất cả.
Vấn đề là: anh ta sẽ hành động như thế nào?
The Last Act, màn chót của vở hát và cũng là màn chót của cuộc đấu trí, Dieter xiết cổ cô bồ, làm như đang ngủ, và rời rạp hát cùng với khán thính giả.
Dieter và Smiley đụng độ tại một cây cầu, giữa sương mù dầy đặc, trên sông Thames. Nhớ lại những năm tháng cùng chống Quốc Xã, Dieter tha chết cho tên bạn đế quốc, và chịu chết thay vì đầu hàng.
Những đoạn đối đáp giữa bà vợ và Smiley, giữa Similey và Mendel, người bạn làm nghề cảnh sát… là những trang đẹp nhất trong truyện:
(Mendel hỏi Smiley):
-Bà ta có phải là cộng sản không?
-Tôi không tin bà ta thích những nhãn hiệu. Tôi tin rằng, bà muốn xây dựng một thế giới có thể sống mà không có tranh chấp… Hoà bình là một từ dơ dáy, hiện nay, có phải không? Tôi nghĩ, bà muốn hoà bình.
(I don’t think she liked labels. I think she wanted to help build one society which could live without conflict. Peace is a dirty word now, isn’t it? I think she wanted peace.)
-Còn Dieter?
-Trời biết Dieter muốn gì. Thanh danh, tôi nghĩ vậy. Và một thế giới xã hội chủ nghĩa. Smiley nhún vai. "Họ mơ tưởng hoà bình và tự do. Và bây giờ, họ là những tên sát nhân, những tên gián điệp."
-Trời đất!
Smiley im lặng một lát:
-Tôi không hy vọng bạn hiểu. Bạn chỉ nhìn thấy tận cùng của anh ta. Tôi đã nhìn thấy khởi đầu. Anh ta là một trong những người xây dựng thế giới. Những người tưởng là xây dựng, nhưng thật ra là hủy diệt.
Hồn thiêng thành phố


Panat Nikhom 93
Nhật ký những ngày ở trại
*
Somalia:
The Din of Silence
[Tiếng động đinh tai, nhức óc của sự im lặng]
The Silence is something U never forget
Sự im lặng là một điều gì đó khiến bạn không thể nào quên được/
*

Oct. 6. 1993
Ở thư viện Consortium tại trại chuyển tiếp, Transit Camp, Panat Nikhom, chờ tái định cư nơi đệ tam quốc gia, Canada.
Đọc The Din of Silence, tờ Tuần Tin Tức của Mẽo, [Oct 12, 1992], phỏng vấn Audrey Hepburn, khi nữ tài tử này làm Đại Sứ Thiện Nguyện, cho tổ chức UNICEF, và đi thăm Somalia.
Người ta nói với tôi đó là những nấm mồ
Chỗ nào cũng thấy mồ
Và những người đang đi đó, đều là những hồn ma.
*
Tại Kis. chúng tôi đi thăm một trung tâm lo cho sức khoẻ trẻ em, một trại lớn. Có một cái gì đó kỳ kỳ ở trại. Và chỉ sau đó, tôi mới hiểu ra được. Trại không có trẻ nhỏ. Chúng như những ngọn nến, bung ra hết, rồi tàn lụi đi.
Tôi nghĩ, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, trọn một quốc gia, sống lơ lửng, vất va vất vưởng, chỉ nhờ một dúm thiện nguyện viên.


Nam Le - 'I am my own most challenging character'

Nam Le was born in Vietnam and raised in Australia. He worked as a lawyer before winning the Truman Capote Fellowship to Iowa Writers’ Workshop where he wrote The Boat, his award-winning collection of beautifully inventive short stories. The rising literary star talks to Megan Walsh
"Tôi là nhân vật thách đố nhất của riêng tôi"
Nam Lê sinh tại Việt Nam, và được dậy dỗ nuôi dưỡng tại Úc. Anh hành nghề luật sư trước khi được học bổng "the Truman Capote Fellowship" tham dự Xưởng Viết Văn "Iowa Writers’ Workshop", tại đây, anh viết Con Tầu, tập truyện ngắn mang chất sáng tạo tuyệt vời, được giải thưởng Dylan Thomas. Ngôi sao đang lên nói chuyện với Megan Walsh, sau đây.
TLS
*
TLS là báo văn học số 1 trên toàn thế giới. Joseph Brodsky có lần cho biết, cả nước Nga chỉ có một dúm trên đầu ngón tay, độc giả dài hạn, trong số đó, có Kim Philby, sư phụ Graham Greene, gián điệp Anh phản thùng chạy qua Liên Xô.
Gấu 'đăng ký' tờ này cũng trên chục niên, cc 1997. Sắp đi, nghỉ, nhận được 'message', mày dân "pro" rồi, đọc tiếp đi, tao chỉ lấy tiền tem thôi!
Tờ này, khi Linda Lê mới xuất hiện, đọc Vu Khống, tác phẩm của Linda Lê được dịch qua tiếng Anh, chê, đanh đá chẳng kém Sến Cô Nương, khi ban cho em cái tít thật nặng nề: Kiếm khách cho văn chương.
Nay khen hết lời Nam Le, lại đi một bài phỏng vấn thật hoành tráng.
Sau Nguyễn Ngọc Tư, là đặc sản Nam Lê! Thú vị thật.
Tin Văn sẽ chuyển ngữ bài phỏng vấn. NQT


Trang Coetzee


Giữa lòng đen

"Chúng tôi “quét” hết tất cả các thông tin về các vấn đề trong xã hội, có các phòng chức năng để nghiên cứu từng loại vấn đề: Người dân nghĩ gì? Nói sao? Ở đâu xảy ra chuyện gì? Tầng lớp nào bức xúc cái gì?...
"Xin hỏi thật ông, có bao giờ ông cảm nhận được cảm giác: liệu có người nghĩ rằng Viện này na ná một cơ quan mật vụ không?
*
Đo, điểm, quét, nửa kín nửa hở, bức xức, rậm rựt, ở đâu, chỗ nào...
Văn phong thoát thai từ Bóng Đè? Hiếp? Ám Thị?
Tuyệt!


Bất khả thứ năm

Đơn Dương ngây ngô quận

Ta La Tai
Tanvien vs talawas?

Thiên Sứ vs Peter Pan

Dọn
đọc sách với
ĐÀO TRUNG ĐẠO
ATIQ RAHIMI
A Thousand Rooms of Dream and Fear
(Ngàn Căn Phòng của Những Giấc Mơ và Sợ Hãi)
[Nguồn: Gió O]

Tay này, ngay cái tít của người ta, đã dịch ẩu rồi. Từ ‘Dream’ ở đây, sử dụng như một từ “không đếm được” [uncounted] để cho nó cân xứng với Fear [sợ hãi], thành thử phải dịch là Ngàn phòng của mơ mộng và sợ hãi, đại khái như thế.
Gấu đọc cái tít, tiếng Việt, là đã thấy sượng rồi. Giống lần đọc Trăm Năm Cô Đơn, bản tiếng Việt của Nguyễn Trung Đức. Lần đó, được bà chủ quán cá hưởng ứng, lại được thêm một ông người Đức đáp lời, cũng là một trong những kỷ niệm vui nhất trong đời viết văn của Gấu (1).
(1) Dịch là số
*
Nhưng thú vị nhất, theo Gấu, là “Một ngàn phòng”. Tại sao? (1)
Borges, khi viết về Ngàn Lẻ Một Đêm, có bàn về ‘một ngàn’, nhờ ông, chúng ta mới hiểu ra được, tại sao những ‘ngàn vàng’, ‘ngàn năm’, ‘thiên thu’…
Ui chao, đến già, nhờ đọc Borges, mới hiểu ra được, tại sao cái giá của "nó" là 'ngàn vàng'!
(1) Tuy chưa đọc tác phẩm, nhưng cái tít khiến người đọc liên tưởng tới Ngàn Lẻ Một Đêm.
*
Đào quân cũng đã từng mượn cửa hàng cá “tố cáo” Gấu, ‘không phải thuộc giới khoa bảng’; với ông ta, khoa bảng ở đây, có nghĩa là mảnh bằng cử nhân triết của Đại Học Văn Khoa Sài Gòn.
Gấu cũng có vài mảnh bằng, nhưng thuộc bên khoa học, kỹ thuật. Cái sự tố cáo của ông ta làm Gấu giật mình, nhớ lại, thì mới nhận ra, không phải chỉ ông ta, mà mấy ông bạn quí của Gấu đều nghĩ như vậy cả, về Gấu. Mới nhất, là, lần về Sài Gòn, gặp đấng bạn quí HPA, anh còn nhắc khéo, mày dân Toán mà lại quay qua Triết hả, sau khi đọc mấy bài Gấu dịch Steiner.
Về cái sự tu tập này, trong bất cứ ngành gì, nếu bạn không hàng ngày tu tập, thực tập thì cũng vứt đi thôi. Hồi Gấu làm một anh chuyên viên Bưu Điện, có làm việc chung với một tay chuyên viên của một hãng Anh, làm việc tại chi nhánh Hồng Kông, qua Sài Gòn giúp Bưu Điện sửa chữa, bảo trì những mạch điện thoại viễn liên dành cho quân đội Mẽo, sử dụng hệ thống của Cable & Wireless HK, tức hãng mà anh là nhân viên.
Tay này cực giỏi. Anh ta khám phá ra liền, mấy cái máy của Mẽo, sở dĩ không hoạt động OK tại Việt Nam, hoàn toàn do vấn đề nhiệt độ. Cái hệ thống máy móc mà Bưu Điện sử dụng đó, là của Philco Corp, họ làm ra không phải để sử dụng ở xứ nhiệt đới!
Thế là phải biến cái Đài của Gấu thành một cái phòng lạnh!
Anh còn khám phá ra một điều, những máy móc đó, giống như xe Mẽo, ngốn điện nhiều quá! Thế là anh ta bớt đi rất nhiều cái dư thừa ở trong máy, để cho đỡ tốn điện, mà hiệu quả của máy vẫn OK!
Anh biểu Gấu, tao đi làm đây, chỉ có hai năm thôi, sau đó, phải trở về Anh, tu nghiệp hai năm, rồi đi làm tiếp. Trong khi Gấu, ra trường Bưu Điện, làm một anh công chức, tháng tháng lãnh tiền, ôm ba cái máy cũ rích, hoặc quá rành về chúng, chẳng cần học hỏi gì thêm nữa.
*
Cái hệ thống máy móc vô tuyến điện của Philco Corp thành lập, là tính để mở đường liên lạc viễn ấn, vô tuyến điện thoại Saigon-Bangkok. Gấu khi đó, đang là chuyên viên của quốc nội, được biệt phái qua quốc tế, chính là vì nó!
Bảnh như vậy đấy!
Đọc “cẩm nang” của máy, nó dựa trên một lý thuyết mới tinh về chuyển tín hiệu viễn ấn. Và lý thuyết này, của một tay ghê gớm lắm, chính là cái tay tương lai học Herman Kahn, cha đẻ ra từ Việt Nam hóa chiến tranh, Vietnamization, và là người mà Coetzee đã trích dẫn một câu của ông, làm đề từ cho truyện ngắn The Vietnam Project, trong
Dusklands. Bạn thử vô coi tiểu sử của tay này, trên Wikipedia, thì mới thấy hết hồn!

Thường ra, ký hiệu viễn ký, khi chuyển bằng vô tuyến điện, tần số cao, high frequency, do ảnh hưởng thời tiết, khí hậu, giải tần số, sóng mạnh, yếu… hay bị sai, một, hay hai, con chữ, thí dụ từ "anh”, có thể sẽ thành “ani”. Lý thuyết, và sau đó, biến thành hiện thực, và là bộ não của hệ thống máy Philco, chính là cái phòng chứa, a storage room, một khi tín hiệu mạnh, phần "dư của nó, sẽ được đưa vô phòng chứa, và khi yếu, được lấy ra, để sửa những lỗi về con chữ, như trên.
Bộ não trên, không hoạt động được, do khí hậu, nhiệt độ ở Việt Nam. [Nhờ tay chuyên viên Cable & Wireless HK phám phá ra].
Sau khi ông Diệm mất, ông Nguyễn Văn Điều, kỹ sư viễn thông Bưu Điện, thầy của Gấu, lên làm Tổng giám đốc BĐ, Gấu báo cáo với Thầy Điều, và ông nhờ một ký giả ngoại quốc mang từ Mẽo về, một bộ não của máy, để thay thế, và sử dụng cho mạch báo chí của các hãng thông tấn ngoại, bỏ luôn mạch Saigon-Bangkok.
Gấu trở nên “quá quan trọng, không thể thiếu” đối với bộ máy, ông Điều bèn cho căn nhà ngay bên Đài, đễ lỡ có chuyện trục trặc là lôi cổ nó dậy. Gấu có lẽ là chuyên viên Bưu Điện độc nhất, chưa có gia đình mà đã có nhà nhà nước cấp!
Mấy ông lớn, khỏi nói!
Chính vì hệ thống trên, khi RCA nhẩy vô Việt Nam tranh ăn với Cable & Wireless Hongkong, họ đã phái hai chuyên viên Phi Luật Tân từ Manila qua, làm việc với Gấu, thực hiện mạch Saigon-Manila, thay thế bộ não trên, bằng một bộ máy đơn giản hơn, mang từ Manila qua, và khi xong việc, kéo nhau đi ăn ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, Gấu và đồng bọn đã được VC thưởng công cho hai trái mìn claymore! Hai anh Phi đi luôn, ông trưởng đài của Gấu mất 'bộ đồ lòng', Gấu, bị thương nặng, ăn cả hai trái, vậy mà thoát! Súng ống còn nguyên vẹn!
Thời gian nằm nhà thương Grall được em BHD ghé thăm, và khi ra khỏi nhà thương, có được truyện ngắn đầu tay Những Ngày Ở Sài Gòn, và trở thành Gấu nhà văn!

gau
Dàn máy viễn ấn, vô tuyến điện thoại Philco Corp. Gấu đứng chống nạnh. Người ngồi quay lưng lại, là Trần Bảo Thạch, trưởng đài VTĐ thoại quốc tế, số 5 Phan Đình Phùng, Sài Gòn..
Thằng thợ sửa máy la dô, làm sao dân khoa bảng được! NQT
*
Kim Dung kể chuyện Dịch Chân Kinh, bí kíp nằm tê hê ra đó, nơi Tàng Kinh Các, chẳng ai thèm đọc, đọc chẳng hiểu, thấy vô dụng, cho tới bữa có ông sư khùng, tò mò, nhặt lên thử đọc, bèn ơ ra kìa một tiếng, và trở thành thiên hạ đệ nhất nhân. Đến thời Lục Mạch Thần Kiếm, có hai tay Cưu Ma Tri, Kiều Phong, một ông tẩu hoả nhập ma vì nó, một ông, nhớ em A Châu quá, kỷ niệm em để lại mà, vì nó mà em suýt bỏ mạng nơi chùa Thiếu Lâm, vì nó mà Kiều Phong đưa em đến Tụ Hiền Trang nhờ Tiết Thần Y cứu mạng, rồi cả hai tái hợp nơi Nhạn Môn Quan, chàng tung nàng lên trời, rớt xuống, ôm chặt vào lòng, thủ thỉ, hai ta ra quan ngoại chăn dê, từ bỏ chốn giang hồ gió tanh mưa máu… mơ mơ màng màng đút cuốn kinh vô tay áo, thế nào rớt xuống đất, anh đầu sắt vớ được, luyện thành đại tối độc chưởng, bao gồm nội công tối thượng Thiếu Lâm, và nọc độc hàn băng tầm!

Cái sự đọc triết, thí dụ, triết hiện sinh, của Gấu, suy ra, có gì na ná ông sư khùng, chỉ đọc có “hai câu”, mà “ngộ”, không phải ngộ triết hiện sinh, mà ngộ ra đời, và thời của mình!
Câu thứ nhất, của Sartre, trong Nhận Định, ngộ ra thời của Gấu:
Vào mỗi thời đại, con người nhận ra mình, khi đứng trước tha nhân, tình yêu, và cái chết.
[A chaque époque, l'homme se choisit en face d'autrui, de l'amour, et de la mort]
Câu thứ nhì, cũng của Sartre:
"Qu' y a- t- il à craindre d' un monde si régulier? Je crois que je suis guéri"
[Có gì mà sợ một thế giới bình thường như vậy? Tôi nghĩ là tôi đã khỏi bệnh].
Câu này nằm ngay ở một trong những trang đầu, "những trang không ngày tháng", mở ra nhật ký Roquentin, hay cuốn Buồn Nôn, của Sartre.
Câu văn mở ra cõi văn của Gấu.


Chết Vì Tình
To be in love is to create a religion whose god is fallible
Valéry
[Yêu có nghĩa là tạo ra một đạo giáo mà vị chúa tể của nó cũng có thể sai lầm. André Maurois trích dẫn, trong bài Tựa cho cuốn Mê Cung của Borges]

Gấu đọc Trăm Năm Cô Đơn, bản tiếng Việt, thời kỳ đứng bán sách báo tại sạp báo của gia đình, ngay trước chúng cư Bưu Điện, số 29 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn. Và đã từng đi một đường điểm cuốn sách này, trên tờ Thanh Niên, và do quá rành sư phụ của Gấu, nên nhìn ra liền, nó là từ Absalom, Absalom! mà ra, đến khi ra hải ngoại, đọc, thì mới biết, thế giới cũng nghĩ như Gấu!
Còn cuốn Tình Yêu Thời Thổ Tả, đọc bản tiếng Pháp, tại thư viện của phái đoàn Pháp, tại trại Panat Nikhom, sau khi đã qua thanh lọc, được coi là tị nạn chính trị, và đang chờ gặp một phái đoàn để xin đi tái định cư. Sách ở thư viện, đa số là của những ông Tây bà Đầm ghé thăm, quăng lại, thay vì thẩy vô sọt rác. Thành thử cũng không nhiều, và làm gì có tiểu luận, triết học. Gấu thèm đọc quá, bèn năn nỉ mấy cô Đầm ra Bangkok mượn giùm. Kỷ niệm thú vị nhất, là lần nhờ muợn đọc cuốn Pour Marx của Althusser, và cô Đầm mang sách về, kèm câu nói của cô người Thái thủ thư, cuốn sách từ khi mua tới giờ mới có một người mượn đọc!

Tình Yêu Thời Thổ Tả, một phần còn là do anh chàng Florentino, trong khi chờ người yêu chết chồng, cầu hôn trở lại, và toại nguyện khi cả hai đã trên bẩy bó, trong khi chờ đợi, đã hành nghề viết muớn, y chang Gấu, những ngày ở Sài Gòn sau 1975, sau khi được tha khỏi trại Phạm Văn Cội, Củ Chi. Mỗi lần bị bắt, được tha, là lại mò ra Bưu Điện Sài Gòn hành nghề viết mướn, nhờ vậy mà gặp lại Châu Văn Nam, khi anh ghé Bưu Điện làm hồ sơ ODB.

Kỷ niệm vui nhất trong đời viết văn