*

Diary

















Phố cũ, thu xưa, [2006]

Prix Goncourt 2008
Atiq Rahimi: "Ecrire dans une autre langue est un plaisir"
Viết bằng một ngôn ngữ khác là một niềm vui

Ông mê Tây, mê Đầm từ thuở nào?
Vào năm 14 tuổi tôi khám phá ra Những người khốn khổ, của Hugo, qua bản dịch tiếng Ba Tư. Tại Trung tâm văn hóa Tây, tôi khám phá ra Đợt Sóng Mới, Jean-Luc Godard, Hiroshima tình tôi, và những cuốn phim của Claude Sautet mà tôi thật mê ý nghĩa nhân bản ở trong đó.
Ở xứ Afghanistan CS đó mà cũng có thể tiếp cận văn hóa Tây sao?
Đúng như vậy, mặc dù khủng bố, mặc dù kiểm duyệt. Ở chuyên khoa đại học, tôi trình bầy một đề tài về Camus, và được Thành Đoàn hỏi thăm sức khoẻ, “Cấm không được nói về đám trí thức trưởng giả”.
Viết văn bằng tiếng Tây,về nỗi đau và sự bất bình, nổi loạn, muốn “làm giặc” của một đàn bà ngồi bên cái thân hình mê man bất động của người chồng, một câu chuyện xẩy ra ở Afghanistan hay một nơi chốn nào đó…
-Có thể là do đề tài của cuốn truyện. Tiếng mẹ đẻ là thứ tiếng người ta học sự cấm đoán, điều cấm kỵ. Để nói về một thể xác người nữ, chắc chắn là phải sử dụng thứ ngôn ngữ thứ nhì, ngôn ngữ của sự thừa nhận. Viết bằng tiếng Pháp cho phép tôi thực sự xâm nhập vào bên trong những nhân vật, và nói về thân xác. Viết bằng một ngôn ngữ khác thì là một niềm vui thích, giống như làm tình.
*
Có thể nói, giấc mơ viết văn bằng tiếng Mẽo của Gấu chấm dứt, đúng vào buổi tối hôm đó, ở một thư viện Toronto, vô tình cầm lên của Ngôn ngữ và Sự Câm Lặng của Steiner, và cũng đúng lúc đó, ý tưởng của Tolstaya sống dậy: Chủ nghĩa CS không phải từ trên trời rớt xuống trúng đầu dân Nga, mà nó đã từ những từng sâu hoang vắng của lịch sử Nga sống dậy, cái tư tưởng, “người Nga không ăn thịt mà ăn thịt lẫn nhau” áp dụng cho xứ sở của giống dân Yankee mũi tẹt thì cũng mắm xốt kít. Gấu tự bảo mình, chuyện viết văn bằng tiếng Anh tiếng U đếch phải việc của mày, việc của mày là phải làm sao cho bao nhiêu triệu con người của cả hai miền không chết một cái chết tức tưởi, mờ ám vì cái nước sơn son mạ vàng: chiến tranh giải phóng, thống nhất đất nước. Họ chết là vì Cái Độc, Cái Ác, Cái Dã Man Tàn Nhẫn của một miền đất.


Tôi yêu sự vô tri chạm tới tương lai

Panat Nikhom 93
Nhật ký những ngày ở trại

*

Một bài tiếng Anh của ông thầy Gấu, về Camus, trong cuốn vở của cô học trò, kỷ niệm độc nhất giữa hai hạt bụi, còn giữ được từ trại cấm Sikiew Thái Lan.
Câu văn chót: The heros has to learn how to live in the present if he is to be free from all belief in eternity. Bạn phải học sống trong hiện tại nếu bạn cởi bỏ mọi niềm tin vào vĩnh cửu.
Đúng là một câu văn hiện sinh!
Sartre, trong Hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản cho rằng, chủ nghĩa hiện sinh mở ra đầu bằng câu của Dos: Nếu Thượng đế không có, thì mọi chuyện đều được phép, và viết thêm: Con người bị kết án phải tự do
*
Em không nhớ đâu, lần đầu chúng ta gặp, những ngày dài ở Trại.
Đúng ra là lần đầu anh nhìn thấy em.
Khi được biết cơ quan ARC (American Refugee Committee) cần một thiện nguyện viên cho chương trình Sức khoẻ Tâm thần, vì muốn kiểm tra mớ tiếng Anh còn sót lại, anh đến gặp ông K. Trưởng Toán. Em và mấy người bạn ngồi quanh một chiếc bàn dài gần bên. Chắc anh nói tiếng Anh quá dở vì anh thấy em bĩu môi, quay đi, mắt thờ thẫn nhìn ra phía bên ngoài cửa sổ.
Chẳng phải cái bĩu môi, cái nhìn thờ thẫn, vẻ dửng dưng chẳng chờ mong bất cứ điều gì, nhưng dung nhan tàn tạ ở em làm anh giật mình. Anh tự nhủ thầm, đây là một thiếu nữ ngày xưa chắc chắn xinh đẹp lắm. Cái bĩu môi kia ngày nào chúa láu lỉnh, bây giờ thêm một chút chua chát, chán chường... Đây cũng là một con người vừa thoát ra khỏi quá khứ và chắc chắn không làm sao quên nổi.
"Nhưng nếu không vì dung nhan tàn tạ, chắc gì Thầy đã nhận ra em?"
Bụi



**

Phi Châu Truyền Kỳ: Kapuscinski và chủ nghĩa thực dân thuộc địa văn chương
John Ryle đọc Bóng mặt trời, The Shadow of the Sun, của  Ryszard Kapuscinski
TLS  27 July 2001
Note: Nhân trong nước cho ra lò một tác phẩm của ông.

Đơn Dương ngây ngô quận

Ta sẽ kể cho người nghe về miền cố quận, bắt đầu từ ngày ta mới đến với vùng cao nguyên đất đỏ ấy. Nhưng trước hết, người cứ ngồi xuống bên ta đã. Dù ta đã sống hối hả thế nào, đến khi tất cả qua đi và được xếp vào 1 ngăn có tên gọi là kí ức thì lúc ta ngoái nhìn lại chúng đều thành một dòng chảy chậm. Cả ta và người đều không cần vội vã, chúng ta đã vội vã trong quá nhiều điều rồi. Người biết đấy, ta rất dông dài khi kể về quá khứ. Lại còn thêm cả bệnh nói chuyện không đầu không đuôi nữa. Nhưng dẫu sao thì chuyện cũ bao giờ chẳng như một khúc nhạc từ đâu vẳng đến với ta, cứ miên man không biết khởi đầu từ đâu và kết thúc nơi nào, người nhỉ?
 Ngày đầu ta đặt chân đến nơi ấy, ta không nghĩ là sẽ ở lại. Chỉ ngỡ rằng đó sẽ là một chuyến đi chơi xa. Nhưng bố mẹ ta không gặp may mắn trong kinh doanh, đành phải mang ta và các anh chị em gửi lại cho nhà ngoại. Kể từ đó ta không về lại nơi ta sinh ra và lớn lên đến năm 6 tuổi nữa, cho đến tận 11 năm sau ta mới về thăm, nhưng ta sẽ kể cho người nghe vào 1 dịp khác.
 Ấn tượng đầu tiên của ta dành cho cố quận là sao xứ này lạnh quá, và buồn quá. Có khi vì lạnh nên buồn chăng? Bầu trời cứ xám xịt và có cảm tưởng như rất thấp. Và sương mù nhiều lắm. Và nhiều hoa. Cũng nơi xứ ấy ta lần đầu thấy những bóng đèn điện. Xưa nhà ta ở trên kinh tế mới, đâu đâu cũng chỉ thấy những ngọn đèn dầu. Còn ở quê ngoại thì có đập Đa Nhim nổi tiếng, và nguồn thủy điện ấy cung cấp cho cả mấy tỉnh lân cận nên dù nghèo thế nào thì vẫn ko thiếu điện. Mà nói thế thôi, Đơn Dương làm sao nghèo bằng cái nơi mà ta vừa rời khỏi kia được.


Bài thầy giảng
The Lessons of the Master


An Nam nhất thốn thổ


Ta La Tai
Do vi phạm qui định vệ sinh, và do xú uế cú hậu hiện đại, cửa hàng bán cá tại Chợ Cá "Bơ Linh" tại Đức Quốc của dân Mít đã bị nhà chức trách sở tại dẹp bỏ.
Nguồn

The Arcades book, whatever our verdict on it - ruin, failure, impossible project - suggests a new way of writing about a civilization, using its rubbish as materials rather than its artworks: history from below rather than from above. And his call (in the 'Theses') for a history centred on the sufferings of the vanquished, rather than on the achievements of the victors, is prophetic of the way in which history-writing has begun to think of itself in our lifetime. (2001)
Coetzee: Walter Benjamin, the Arcades Project (1)
"Thương Xá", cho dù chúng ta đánh giá nó như thế nào – điêu tàn, thất bại, một dự án bất khả, impossible project – đề nghị một đường lối mới, để viết về một nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm chất liệu, thay vì những nghệ phẩm của cái nền văn minh đó; lịch sử từ đáy thay vì lịch sử từ đỉnh. Và lời kêu gọi của Benjamin (trong "Những luận đề" - "Theses"), cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những người thua, thay vì thành tựu của những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy tính tiên tri, về cung cách mà việc viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong quãng đời [còn lại ngắn ngủi của chúng] ta.
*
Đám Yankee mũi tẹt và những nhà văn của chúng chắc là chẳng bao giờ biết đến thứ lịch sử của thời của chúng ta, thứ lịch sử xoáy vào nỗi đau khổ của người thua, thay vì thứ lịch sử của kẻ thắng.



Like the Coleridge hero who wakes to find himself holding the rose of his dreams, I knew these objects were not of the second world, which had brought me so much contentment as a child, but of a real world that matched my memories
Orhan Pamuk
Như nhân vật của Coleridge thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay bông hồng đen của giấc mộng, tôi biết, tất cả những gì ở trong
Tứ khúc thì không phải là từ thế giới tưởng tượng bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và chúng là một, với hồi ức của tôi, những ngày ở Sài Gòn.