*



Thu, 2010
Thu phố ca

*

Chúc Mừng Giáng Sinh
2009

*

Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều
và trên không có những đám mây bàng bạc,
là lại phải bắt đầu một niên học mới,
và lại phải chụp một cái hình mới!


Kim Thúy được giải thưởng của Ngài Toàn Quyền
với cuốn Ru [Ru Em, Điệu Ru Nước Mắt]

*

Tôi học yêu bằng tiếng Tây


Thơ mỗi ngày

November 18, 2010 5:49:49 AM

Kính bác Gấu:

       Thơ mỗi ngày mỗi dày đặc, trên Tản Viên, nhưng thơ thứ thiệt, thì bao nhiêu cho đủ? Hầu như bài nào cũng hay, thích nhất mấy bài của Adam Zagajewski, câu:
Gió tháng Chạp giết hy vọng, nhưng đừng để nó lấy mất... niềm hứng khởi của GNV!
À, từ đầu đến cuối thấy bác lèm bèm hoài hoài về Brodsky, sao không giới thiệu thơ của ông?
Rất cảm ơn sự miệt mài của bác.
DV
*
Tks
Tôi thích giới thiệu những essays của Brodsky hơn. Chúng có gì liên quan tới cái xứ Bắc Kít ngày nào của tôi. Hồi mới ra được hải ngoại, tôi biết đến Brodsky là nhờ đọc Coetzee viết về ông trên tờ NYRB, 1 bài viết về những tiểu luận của B. Khi đó, vốn liếng tiếng Anh quá ít ỏi, đọc cái được, cái mất, bây giờ, đọc lại, cũng là để mong có hứng viết về xứ Bắc Kít, những ngày đi tù VC của tôi "vs" của Brodsky!

Nhưng trên TV cũng có 1 bài thơ thật là tuyệt vời của Brodsky, gửi cô con gái.
Post lại ở đây, trong khi chờ hứng, dịch tiếp Phận lưu vong
Thân
NQT

To My Daughter

Give me another life, and I”ll be singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture in the corner,
in case that life is a bit less generous than the  former. 

Yet partly because no century from now on will ever manage
without caffeine or jazz, I’ll sustain this damage,
and through my cracks and pores, varnish and dust all over,
observe you, in twenty years, in your full flower. 

On the whole, bear in mind that I'll be around. Or rather,
that an inanimate object might be your father,
especially if the objects are older than you, or larger.
So keep an eye on them always, for they no doubt will judge you. 

Love those things anyway, encounter or no encounter.
Besides, you may still remember a silhouette, a contour,
while I'll lose even that, along with the other luggage.
Hence, these somewhat wooden lines in our common language.

1994
Joseph Brodsky

Gửi Con Gái Tôi

Cho tôi một đời khác, và tôi vẫn hát
ở Caflè Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng cuộc đời trước.

Mà có lẽ, một phần, là còn do điều này:
không một thế kỷ nào kể từ nay, mà lại có thể xoay sở, nếu thiếu cà-phê-in và nhạc jazz,
bố sẽ cố chịu chuyện đó, như cái bàn cái ghế, với những vết nứt, nẻ, véc ni, mớ bụi bặm trên mình,
ngắm con gái của bố, trong hai mươi năm, nở hết những cánh hoa, và trở thành một đóa hoa rạng rỡ.

Thôi thì thôi, cũng thế thôi, nhưng hãy nhớ điều này,
rằng bố vẫn quanh quẩn bên con,
cái bàn cái ghế vô hồn, bất động,
có thể là bố đó
nhất là khi chúng già nua, cồng kềnh, kịch cợm hơn con
Vậy thì hãy để mắt tới chúng
bởi vì, không nghi ngờ chi, chúng sẽ cân nhắc mọi chuyện giùm cho con,
[hoặc cau mày nhắc nhở con, một điều gì đó].

Yêu mọi điều, mọi chuyện ở trên đời, dù gì đi chăng nữa, dù gặp hay không gặp.
Ngoài ra còn điều này:
Con vẫn còn nhớ một hình bóng, một dáng vẻ,
Trong khi bố mất tất cả, cùng với cả một hành lý khác.
Thí dụ như là những dòng đời khô héo,
của cái tiếng nói chung,
của cha con ta... 

Trang Joseph Brodsky

*

TO THE READER 

Don't you hear me
Bang my head
Against your wall?

Of course, you do,
So how come
You don't answer me?

Bang your head
On your side of the wall
And keep me company.
*

Gửi độc giả TV 

Bạn có nghe GNV đập đầu
ình ình vô tường bạn không? 

Ồ, tất nhiên, bạn có nghe,
làm sao không?
Vậy mà sao không trả lời GNV? 

Hãy đập đầu bạn ình ình vô tường,
Phiá bên bạn
Và hãy cứ thế, chúng mình là bạn

*

IN A LITTLE APARTMENT 

I ask my father, "What do you do all day?" "I remember.”

So in that dusty little apartment in Gliwice,
in a low block in the Soviet style
that says all towns should look like barracks,
and cramped rooms will defeat conspiracies,
where an old-fashioned wall clock marches on, unwearied,

he relives daily the mild September of '39, its whistling bombs,
and the Jesuit garden in Lvov, gleaming
with the green glow of maples and ash trees and small birds,
kayaks on the Dniester, the scent of wicker and wet sand,
that hot day when you met a girl who studied law, 

the trip by freight car to the west, the final border,
 two hundred roses from the students
grateful for your help in'68,
and other episodes I'll never know,
the kiss of a girl who didn't become my mother, 

the fear and sweet gooseberries of childhood, images drawn
from that calm abyss before I was.
Your memory works in the quiet apartment - in silence,
systematically, you struggle to retrieve for an instant
your painful century.

-Adam Zagajewski
(Translated, from the Polish, by Clare Cavanagh)
The New Yorker, April 4, 2007

[In lại trong Eternal Enemies] 

Trong căn phòng nhỏ

Tôi hỏi cha tôi, cha làm gì cả ngày?
Nhớ! 

Và như thế, trong căn phòng nhỏ bụi bặm ở Gliwice,
trong dẫy nhà thấp lè tè, xây theo kiểu Xô Viết,
theo nghị quyết, tất cả các thành phố đều phải giống như trại lính, hoặc trại tù,
với những căn phòng rúm ró, nhằm đập nát mọi mưu toan, diễn tiến hoà bình!
một căn phòng, trên tường, có một cái đồng hồ cổ lỗ sĩ,
cứ tí ta tí tách, chẳng hề mỏi mệt.
chẳng lo đói, chẳng lo bắt bớ! 

Ông sống lại từng ngày, những ngày giữa tháng Chín 1939,
những tiếng bom réo,
và khu vuờn Jesuit ở Lvov thì rực rỡ,
với đám phong xanh, cây tro, và những con chim nhỏ,
những con thuyền trên dòng Dniester, và mùi wicker, mùi cát ẩm,
một ngày trời nóng, đó là bữa cha tôi gặp một cô sinh viên luật, 

chuyến đi bằng xe tải tới phương tây, biên giới chót,
hai trăm bông hồng, từ những sinh viên,
cảm ơn sự giúp đỡ của ông vào năm 1968,
và những đoạn đời khác, tôi sẽ chẳng bao giờ biết,
nụ hôn của cô gái đã không trở thành mẹ của tôi,

nỗi sợ, và những trái gooseberries ngọt ngào của thời con nít, những hình ảnh chiết ra
từ cái khoảng trầm lắng trước khi có tôi.
Hồi ức của ông làm việc trong căn phòng trầm lặng – trong im lặng,
một cách thật là hệ thống, cha tôi chiến đấu để níu lại, trong chốc lát,
nỗi đau thế kỷ của ông.
-Adam Zagajewski

*
ORDINARY LIFE

TO CLARE CAVANAGH

Our life is ordinary,
I read in a crumpled paper
abandoned on a bench.
Our life is ordinary,
the philosophers told me.

Ordinary life, ordinary days and cares,
 a concert, a conversation,
strolls on the town's outskirts,
good news, bad-

but objects and thoughts
were unfinished somehow,
rough drafts.

Houses and trees
desired something more
and in summer green meadows
covered the volcanic planet
like an overcoat tossed upon the ocean.

Black cinemas crave light.
Forests breathe feverishly,
clouds sing softly,
a golden oriole prays for rain.
Ordinary life desires.

-Adam Zagajewski

Eternal Enemies

Đời thường

Gửi CLARE CAVANAGH

Đời chúng ta thì là đời thường,
Tôi đọc trong tờ báo bị vò nát trên băng ghế.
Đời chúng ta đời thường,
những triết gia phán như vậy.

Đời thường, ngày thường, chăm lo thường thường,
một cuộc hoà nhạc, một cuộc chuyện vãn,
dạo chơi nơi ngoại vi thành phố,
tin lành, - không lành

nhưng sự vật và tư tưởng
thì không hiểu ra làm sao, không làm sao cho suôn sẻ cho được,
như một mớ hổ lốn

Nhà và cây
muốn một điều gì hơn thế nữa
và vào mùa xuân những cánh đồng xanh
phủ lên hành tinh núi lửa
giống như một cái áo choàng phủ lên mặt biển

Rạp xi nê đen thèm ánh sáng.
Rừng thở hừng hực,
mây hát nhè nhẹ,
một con chim vàng anh cầu nguyện mưa.
Đời thường thèm, muốn.

-Adam Zagajewski
Eternal Enemies
*
*

MUSIC

for D.D.S.

 A flame burns within her, miraculously,
While you look, her edges crystallize.
She alone will draw near and speak to me
When others are afraid to meet my eyes.
She was with me even in my grave
When the last of my friends turned away,
And she sang like the first storm heaven gave,
Or as if flowers were having their say.
1958

Dimitri D. Shostakovitch: 1906-1975, great Russian composer.
[Anna Akhmatova: Poems, selected and translated by Lyn Coffin; introduction by Joseph Brodsky]

*

poésie
par Jean-Yves Masson
LA RUSSIE INCARNÉE
Anna Akhmatova, l'une des grandes voix du xxe siècle
*

La Musique
à D. D. Ch. 

Il y a en elle un miracle qui brûle.
Sous nos yeux, elle forme un cristal.
C'est elle-même qui me parle
Quand les autres ont peur de s'approcher.
Quand le dernier ami a détourné les yeux
Elle est restée avec moi dans ma tombe.
Elle a chanté comme le premier orage
Ou comme si les fleurs se mettaient toutes à parler.

Anna Akhmatova (1889-1966)
*
Âm nhạc

Tặng Shostakovitch 

Có ở trong nàng một phép lạ rực cháy
Dưới mắt chúng ta nàng tạo thành một khối pha lê
Chính là nàng đang nói với tôi
Trong khi những kẻ khác không dám tới gần.
Khi người bạn cuối cùng quay mặt
Nàng ở với tôi trong nấm mồ.
Nàng hát như cơn dông bão đầu tiên
Như thể tất cả những bông hoa cùng một lúc cùng cất tiếng.

*

This woman is ill,
This woman is alone,
Husband in the grave, son in prison,
say a prayer for me. 

Người đàn bà này bịnh,
Người đàn bà này cô đơn,
Chồng ở trong mồ, con, trong tù,
Hãy cầu nguyện cho tôi,
Một lời.
Anna Akhmatova

TV sẽ dịch bài giới thiệu tập thơ Anna Akhmatova, của Brodsky, một trong những bài viết tuyệt vời về nữ thần thi ca Nga, và về thơ

Trang TTH

Phận lưu vong

Thích hay không thích, di dân và tị nạn, bất cứ kiểu gì, ngắt mẹ cái bông hoa lan cài trên ve áo của ông nhà văn lưu vong. Dời đổi, và chọn không đúng cái xứ để mà dời đổi, displacement and misplacement, là chuyện thường ngày của thế kỷ. Và cái điều mà nhà văn lưu vong của chúng ta cùng có chung với di dân, hay tị nạn, đó là, cả hai đều chạy từ cái tệ hại tới cái tốt hơn. Cốt lõi của vấn đề ở đây là, từ một chế độ độc tài con người ‘chỉ được’ lưu vong tới một chế độ dân chủ! Cái quá khứ vàng son lưu vong tốt, thì hết rồi. Chẳng còn cái vụ dời bỏ La Mã văn minh để lưu vong sống đời dã man, bán khai ở Sarmatia! Cũng chẳng có vụ lưu đầy 1 người từ Bulgaria tới TQ, hay xứ Mít!
Không, như là một luật, là sự chuyển đổi từ một chế độ khốn kiếp về chính trị, và kinh tế, tới một xã hội văn minh với ‘lời cuối trên môi’, là, tự do cá nhân.
Và có lẽ chính là lý do này, mà, ‘tôi chọn con đường lưu vong’ hoá ra là chọn con đường về nhà, bởi vì nhà văn lưu vong trên đường đi tìm lưu vong như thế, lại trở nên gần gụi với cái ghế ngồi viết văn của mình, và với những lý tưởng mà chính chúng đã gợi hứng cho anh ta viết.
Tuy nhiên, nếu phải tìm cho ra một dạng nào đó, a genre, cho cuộc sống của nhà văn lưu vong, thì có lẽ phải nói, nó thì bi hài, tragicomedy. Do những nhập thân có trước đó, [do cũng đã có tí ti hiểu biết về cái nơi sắp tới], anh ta có thể dễ dàng chấp nhận, thưởng thức, appreciating, những tiện nghi về mặt xã hội, về mặt vật chất của 1 chế độ dân chủ, chẳng thua, và khi còn hơn cả dân bản xứ. Nhưng, chính vì lý do này, [mà 1 trong những phó sản phẩm của nó, là rào cản về ngôn ngữ], anh ta nhận ra, anh ta chẳng là cái chó gì, chẳng đóng 1 vai trò nào có ý nghĩa, thấy mình thậm vô ích, trong cái xã hội mới đó. [Viết cứ như viết vào hư vô, đúng như nhà văn NMG đã từng than, là vậy!]. Cái xã hội dân chủ cung cấp cho nhà văn lưu vong một sự an toàn về mặt vật chất, đồng thời tước mẹ của anh ta cái lý do hiện hữu, như là 1 nhà văn, nghĩa là, làm cho anh ta trở nên vô tích sự, chẳng có ý nghĩa chó gì, về mặt xã hội. [Viết cứ như là thủ dâm, là… gì gì như Thầy Cuốc phán, Gấu quên mẹ nó mất, và được nhà văn Võ Đình gật gù khen, khiếp, chắc là vì thế này chăng?] (1)
Và vì cái sự mất mẹ nó ý nghĩa sống ở trên đời, mà, nhà văn hay không nhà văn, đếch ai chịu nổi.
Brodsky

(1)
“Viết văn, ngày xưa, là một danh phận; sau này, vừa là một danh phận vừa là một nghề nghiệp. Ở hải ngoại, viết văn không thể là một nghề nghiệp mà trên thực tế, cũng không còn là một danh phận. Viết văn trở thành một cách hành lạc đau đớn của những người bị bất lực.”
Nhớ, khi bài viết ấy xuất hiện, nhiều người đã bàn tán khá sôi nổi, đây đó, trên nhiều diễn đàn khác nhau.
Nhà văn Võ Đình, trong bài “Khiêm tốn hay buồn thảm” (http://tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=226), khi nhắc đến hình ảnh ấy, chỉ buông một tiếng: “Khiếp”.
Tôi rất thích cái tiếng “Khiếp” ấy.

NHQ: Kinh nghiệm viết văn: Cần có hình tượng mạnh
*

Khiếp, thật!

Cái thứ văn chương cần hình tượng mạnh này, theo Gấu, thì cũng giống như bạn sử dụng ma túy, để tạo ép phê, nói rõ hơn, là doping văn chương, như doping trong thể thao, thí dụ.

Gấu, khi mới ra được ngoài này, nghe thiên hạ khen um lên, nhà văn Trần Vũ, và tò mò đọc, chán quá, chính là vì anh lạm dụng từ ngữ, sử dụng quá ‘đô’, tất cả mọi thứ, để tạo hình tượng mạnh, và chỉ đến khi anh ta đã chín, đã trầm lắng đi, tức là khi anh viết Lưng Trần, thì Gấu mới gật gù, được, được!

Nhà văn Cao Hành Kiện là 1 trong những nhà văn bậc thầy, chính là ở cái thứ văn chương nhạt thếch của ông, như ở trong tập truyện ngắn “mua 1 cái cần câu cho ông tôi”: thám hiểm, khai phá những giới hạn và ý nghĩa rất ư là ý nghĩa, the very meaning, của giả tưởng, đúng như lời khen tặng ở trang bìa.
Chẳng có tình tiết, giống như ở trong hầu hết mọi giả tưởng, và nếu có gì thích thú, thì đó là sự hòa hợp, inherent, ở trong ngôn ngữ, chính nó.

Cái thứ văn chương “viết như không viết” này mới là tuyệt đỉnh, tuyệt đích của văn chương.

Lý Trác Ngô, trong bài Tựa cho Mái Tây, phán, "người viết Mái Tây là thợ trời. Người viết Tỳ Bà chỉ là thợ vẽ. Người thợ vẽ có thể cướp được cái khéo của thợ trời. Nhưng thực ra thợ trời nào có khéo đâu", là cũng ý đó.

Bạn đọc TV có thể thưởng thức 1 truyện ngắn trong tập trên của Cao Hành Kiện, trên trang Chim Việt Cành Nam:


Khi Đỏ là Đen
Linda Lê : “J'aime que les livres soient des brasiers"


Kỷ niệm, kỷ niệm


Ghi chú trong ngày

Ở hay Về?

Có 1 thứ lưu vong tốt, theo Brodsky, tức tự nguyện, không thích ở ‘nhà’ thì đi ở một nơi nào đó mà mình thích, thứ này không còn, di dân, lưu vong, thiên di… sau này là chỉ có 1 chiều, đi từ xấu đến chỗ nào tốt hơn. Trước khi viết bài “Ở hay Về”, ông nhà văn Mít này đã viết 1 bài "Kẻ lạ trên phố phường Hà Nội", kể về chuyến về Hà Nội, và trong chuyến đó, ông nhìn thấy vết hai viên đạn, từ thời tiền sử, khi Pháp đánh thành Hà Nội, và tuy chỉ là 1 người khách lạ viếng thăm Hà Nội, khi có người hỏi, tính chọn đâu để về, ông phán: Hà Nội chứ còn đâu nữa! 

Trích đoạn, từ bài viết:

Tôi đứng nhìn sững hai vết hõm sâu hoắm lở lói trên mặt cổng thành. Cổng Bắc thành Hà Nội. Hai vết hõm như vết thương con thú bị đâm rồi kẻ đâm cứ thế chọc ngoáy cho đến khi con thú gầm thét rũ ra chết thảm. Con thú đây là thành Hà Nội và hai vết thương là vết đạn đại bác quân Pháp bắn vào trong lần chiếm thành lần thứ hai năm 1882. Quân Pháp, với chừng hai trăm lính thuỷ và vài trăm lính bộ, dưới quyền chỉ huy của Trung tá hạm trưởng Henri Rivière, chiếm thành sau gần ba giờ đồng hồ nã súng. Đọc sử, tôi biết như thế và đấy là trang sử bi thảm, đau buồn của dân tộc, bắt đầu cho nhiều trang sử đau buồn khác tiếp theo sau…. 

Với Hà Nội, tôi là kẻ lạ. Tôi sinh ra ở đấy nhưng tôi chẳng biết gì về nó. Chưa kịp có chút ý thức nào thì tôi đã bị bứng gốc ném giạt về những miền đất xa lạ. Kẻ lạ cũng là kẻ bạc tình. Kẻ bạc tình vồn vã khi đến nhưng lạnh lùng lúc ra đi. Tôi chẳng bao giờ khóc vì nhớ thương Hà Nội như Vũ Bằng, nhưng một hôm có người bạn hỏi đùa, “Nếu có ngày về lại Việt Nam sinh sống thì cậu sẽ chọn ở nơi đâu.” Không kịp suy nghĩ, bất giác tôi buột miệng trả lời anh, “Hà Nội chứ còn đâu nữa.”
Nguồn 

“Tôi đã bị bứng gốc ném giạt…”, đây chắc là ông nhà văn nói về cái vụ ông bị gia đình bắt di cư vào Nam vào năm 1954?
Miền đất xa lạ? Chắc là Miền Nam đã từng nuôi ông ta đến ngày 30 Tháng Tư 1975?

Khó hiểu thật!

Gấu, tuy không phải sinh đẻ ở Hà Nội, nhưng quả nó là thành phố tuổi thơ của Gấu. Cũng là nhờ bà cô làm Me Tây mà thằng bé nhà quê được về Hà Nội, rồi nhờ vậy mà được bứng gốc, ném giạt về miền đất xa lạ, và có được quê hương thứ nhì, bảnh hơn quê hương thứ nhất rất nhiều, nhưng không làm sao quên nổi nó, và có dịp là về!

Ông TYT này đến bây giờ mới về là quá muộn so với Gấu, kể như là nhà văn Việt Kiều đầu tiên ‘về’!

Khác với TYT, Gấu về là để cố tìm lại 1 lỗ hổng, không phải 2 vết đạn. Một cái lỗ hổng ở trên cái cánh cửa gỗ nhà cầu, hay nhà xí, ở cái villa hình như là số 60 đường Nguyễn Du, tức là con đường kế bên hồ Thuyền Quang, một đầu đụng phố Huế.

Lưu vong, hay chuồn đi từ nơi khó sống qua nơi dễ thở hơn, tưởng khó, vậy mà hình dung ra được, vì nó là hiện tượng phổ cập của thế kỷ. Nhà, mò về lại nhà, tưởng dễ, hoá ra lại khó. Cái ông nhà văn Mít, bao nhiêu năm chịu đựng cuộc chiến chẳng nhớ gì, vậy mà mò về tận Hà Nội để khóc hai lỗ đạn tụi Tây mũi lõ để lại từ đời tám hoánh nào!

Cách ông tả mới ghê khiếp làm sao:
"Hai vết hõm như vết thương con thú bị đâm rồi kẻ đâm cứ thế chọc ngoáy cho đến khi con thú gầm thét rũ ra chết thảm".

Khủng khiếp thay là cái nhớ, cái khóc quái đản của ông ta!
Không lẽ đó mới là nhà của ông, là vết thương dậy thì của ông, theo nghĩa, “nhà là cái nơi mà chúng ta bắt đầu”?

Lại khó hiểu thật!

“Home is where one starts from”, “nhà là cái nơi mà chúng ta bắt đầu”, Coetzee trích dẫn Eliot trong bài viết “Một [nhà văn] cổ điển là gì”, “What is a Classic?”

Đây là bài mở ra tập tiểu luận Những bến bờ xa lạ hơn, Stranger Shores. Một bài viết thật khó đọc, tưởng là viết về cổ điển, nhưng theo Gấu, viết quê nhà, cội rễ, lưu đầy, và sự sống còn, survival.
Coetzee trích dẫn Eliot, tiếp, “Ở nơi tôi bắt đầu là nơi tôi tận cùng” “In my beginning is my end”, “What you own is what you do not own”, Điều anh sở hữu là điều anh không sở hữu, hay nói ngược lại, điều anh không sở hữu là điều anh sở hữu. Một bài viết về Eliot, về căn cước cá nhân của nhà thơ, như là 1 người Âu Châu, để đi đến kết luận: cái đối nghịch với cổ điển thì không phải là Lãng mạn, mà là dã man, và giữa cổ điển và dã man không phải là đối nghịch, opposition, mà là đối đầu, confrontation: điều gì sống sót cái tệ hại nhất của dã man, sống sót là bởi vì thế hệ này qua thế hệ khác, con người không chịu buông xuôi, và cố bấu víu, bằng mọi giá, thì cái đó gọi là cổ điển.

Khi đọc những dòng trên, là Gấu lại nhớ đến cái xứ Bắc Kít của Gấu. Có 1 cái gì đó gọi là Cổ Điển Bắc Kít. Con người ở đó đã từng như thế, đã từng không chịu buông xuôi, cố bám víu, bằng đủ mọi giá, chỉ để mong sao có được ngày 30 Tháng Tư 1975.
Tới ngày đó, họ mất tất cả.

Cái lỗ hổng trên cánh cửa nhà cầu, quả là 1 kỷ niệm khó quên. Nhất là ở vào cái tuổi mới lớn, trí tò mò đang phát triển cùng với cái giống cũng đang phát triển.
Về già, Gấu mới hiểu ra, cả cuộc đời của Gấu, kể từ trước 1975, là từ phía bên trong cái lỗ hổng nhìn ra thế giới, và khi trở về, Gấu muốn, từ bên ngoài thế giới, tìm lại Hà Nội và tuổi thơ ngày nào của Gấu, cùng với cái xứ Bắc Kít khốn khổ khốn nạn, cũng của Gấu, qua cái lỗ hổng ngày nào!

Về nhà, cũng thật là ngẫu nhiên, thiên hạ đang om xòm về cái chuyện nhà Nobel Toán về nhà mới, mà ông nói, ông xứng đáng.

Cái vụ nhà công, nhà nhà nước cấp này, trước 1975, đối với đám Ngụy là chuyện quá thường, đâu cần phải được Nobel. GNV này, có công trạng chó gì đâu, vậy mà cũng được Bưu Điện phát cho 1 căn nhà, ngay từ khi còn độc thân, và Gấu đã sử dụng nó làm tổ quỷ, và chính vì thế mà bị sập bẫy. Giá mà không có nhà chắc là còn khuya mới lấy vợ, và có thể, cũng chuồn từ đời nào rồi, vậy mà cứ ngoạc mồm ra chửi mấy tên bỏ chạy bợ đít VC!

Hà, hà!


Tình Yêu như Trái Phá