*
















*

Nhìn hình mới nhất của ông trên TV thấy già đi nhiều quá!
TT


Nhà thơ Hữu Loan đã ra đi

Nhà Thơ Hữu Loan: Giải thưởng văn chương Khởi Hành 2007

Cái cú giải thưởng VL này, thật là tuyệt vời. Gấu chỉ nhớ mài mại, bèn gõ Google, ra liền. Ra cái cú PNH phỏng vấn VL, mò ra trang net của Khởi Hành, đọc cái cuộc nói chuyện giữa hải ngoại và Hữu Loan, thú quá, bởi vì đây không phải chỉ là hải ngoại nói chuyện với trong nước không thôi, mà còn là thế hệ đàn em nghe thế hệ đàn anh dặn dò, ui chao vậy mà cả hải ngoại lẫn trong nước đếch có một thằng nào con nào nhắc tới cái cú giao lưu thần sầu này.
Trong nước, đám BVVC của Gấu rét quá, đã đành, đám hải ngoại, cộng mấy cái loa “vòa là”, lông hồng [hồng mao] gì gì cũng vờ, thế mới tếu!
*
Bài thơ Mầu Tím Hoa Sim sở dĩ được quí mến nâng niu trân trọng, bởi vì nó hay, nó thực, nó tự nhiên, nó chi tiết đời thường… tất nhiên, nhưng nó càng trở nên của quí của hiếm, ấy là vì khi nhà nước bắt nhà thơ làm tự kiểm, thì ông bèn nghỉ chơi với nhà nước, và về nhà làm anh thơ nặng thợ đẽo đá, thồ đá.
Trong thế giới CS trên toàn thế giới, chưa hề có một trường hợp như vậy. Ông Trùm Mác Xít Lukacs phải khai tử cuốn Tân Thánh Kinh của chủ nghĩa CS, là cuốn Lịch Sử và Ý Thức Giai Cấp, Nguyễn Tuân phải bye bye Vang Bóng Một Thời, Nguyễn Đình Thi phải từ bỏ thơ tự do, còn nhiều nữa…
*
Những gì Italo Calvio viết về Conrad xem ra có thể áp dụng vào trường hợp Hữu Loan, theo nghĩa này: Chính cái sự nói không với chế độ, và cùng với nó, cuộc sống cực kỳ khó khăn sau đó, “bảo đảm” thơ của ông.
Thơ của tao đẹp như thế, vì đời của tao còn đẹp hơn thế.
Tao bận làm người đến quên làm thơ!
*

Những vì đại uý thuyền trưởng của Conrad
Italo Calvino

Conrad mất đã được 30 năm, vào ngày 3 Tháng Tám 1924, trong căn nhà nhà quê của ông ở Bishopsbourne, gần Canterbury. Ông thọ 66 tuổi. Ông dùng 20 năm trong số đó để đi biển, và 30 năm để viết. Thành công từ khi còn sống nhưng phải liền sau khi ông vừa nằm xuống thì mấy nhà phê bình mới viết về ông: Vào tháng Chạp năm 1924, trên tờ Nouvelle Revue Francaise, số đặc biệt dành trọn cho ông, có bài của Gide và Valéry: Cái xác chết của vì thuyền trưởng theo sóng đưa đi nằm phơi trên bãi cát bờ biển được phủ bằng những vòng hoa vinh danh nhất mực của giới tinh anh nghệ sĩ trí thức. Ngược lại, ở Ý, những bản dịch của ông được xếp vào thể loại phiêu lưu mạo hiểm của nhà xb Sonzogno, nhưng Emilio Cechchi đã đánh động giới thưởng ngoạn thứ thiệt.


Về ông X, người tranh chấp quyền tác giả phần lời bài Tiến quân ca

Vụ này, TV đã lèm bèm từ khuya rồi. Tuy nhiên, bài mới này không biết tới câu phán thật hách của VC [Văn Cao]:

“Tháng 11 năm 1944, tôi tự tay viết bài Tiến Quân Ca lên đá in, trong trang văn nghệ đầu tiên của tờ báo Độc Lập” [Tại sao tôi viết TQC?]

Bài TQC lần đầu in, ghi là: Nhạc Anh Thọ [bí danh của Văn Cao] Lời: Anh Dũng. Anh Dũng là bí danh của Đỗ Hữu Ích, ông chủ nhà mà Văn Cao đã nhắc tới [Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy, là người đã xuất bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi, cũng không thấy nói đến việc trả tiền nhuận bút]. Vào năm 1983, ông này kiện Văn Cao. Văn Cao cho biết rõ chi tiết: Đề tên Anh Dũng, là do lý do bảo vệ “cách mạng”: Anh Dũng lúc đó là người có liên hệ mật thiết với hiến binh Nhật. Đề tên anh ta vô, như vậy là bảo đảm trăm phần trăm! Và Văn Cao đã kiện lại tờ báo tung tin “nhảm”, là tờ Tiền Phong chủ nhật. Khi có người trách ông: Quốc Hội đã công nhận bài hát là của ông, tại sao còn kiện? Văn Cao trả lời, đại để: cái thằng Văn Cao kiện, là thằng Văn Cao ở ngoài đời: Tôi không muốn, vợ con tôi, cháu tôi, nghĩ, tôi là một thằng đạo văn. Còn thằng Văn Cao nghệ sĩ thì nó đếch cần kiện!

Họa sĩ Tạ Tỵ, trong hồi ký, viết về Văn Cao, có kể chuyện ông đã từng vẽ tiền giả, đem đi tiêu xài, bị lộ, rút súng, bắt mọi người ngồi yên để ông chuồn. Sau cách mạng, tức là sau khi đã được đồng chí Vũ Quí chiếu cố, ông có tới gặp khổ chủ, và đưa lại tiền thiệt.
Còn một giai thoại nữa về ông, là Văn Cao có cô bồ, là vợ một tay hiến binh Nhật. Mỗi lần tay này trực đêm, là ông mò tới. Một lần ngủ quên tới sáng, chút xíu nữa là ăn đạn Nhựt!

"Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu tôi đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường đã để lạc mất đứa cháu gái con anh cả tôi. Nó mới lên 3. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể nó nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy.
Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường Phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen, tôi cố tìm một cái gì để nói. Tìm một âm thanh đầu tiên. Những đường phố quen thuộc ấy thường không vang một âm thanh nào hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Hôm nay phố đông người hơn, và lòng tôi thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo hiểm hy sinh, chứ không chuẩn bị để quay lại làm bài hát. Thật khó nghĩ tới nghệ thuật lúc này. Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé gái. Nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt mèo con. Cháu bé không có mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải là con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc, cũng không phải là cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó đã nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt, và quay đi.
Đêm ấy, về căn gác tôi đã viết được nét nhạc đầu tiên của bài Tiến Quân Ca."

Bài viết này phải coi là Di chúc của Văn Cao.
Được đọc nhiều nhất trên TV.
Hân hạnh được Wiki trích dẫn nữa chứ!
Có vẻ như "Tên Sa Đích Văn Nghệ" hơi bị ghét!

Chứng cớ: cả Wiki tiếng Anh tiếng U lẫn tiếng Mít đều vờ anh cu Gấu, tuy làm link tứ lung tung, trong khi em Sến, anh Thẹp, anh Bảo Linh… ui chà chà, dzô Google gõ một cái ra cả một đống!
Có vẻ như đám Bắc Kít biến luôn cả không gian ảo thành bãi đánh hàng rùi!

Khác hẳn BHD!
Hà, hà!

Trước một đứa trẻ chết đói, cuốn Buồn Nôn của tôi chẳng là cái thá gì [Sartre].
Bài Tiến Quân Ca, với sự căm giận của nó, "thề phanh thây uống máu quân thù", đã được phát sinh ra như thế đó, nghĩa là từ cái chết của một đứa trẻ.
Một lời kinh cầu đầy phẫn nộ dành cho một đứa trẻ đã chết.

Một cách nào, nó tiên tri... nửa số phận một dân tộc, tính đến 1954.
Nửa còn lại kia, Trần Dần nhìn ra:
Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà,
Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ.


Về Văn Cao, theo tôi, có một số câu hỏi, và cùng với nó, một số sự kiện, cần nêu thêm.
-Tại sao lại phải đổi “quốc ca”?
1. Trong bài Tại sao tôi viết Tiến Quân Ca, lý do tôi [Văn Cao] viết, là do đói quá. Thí dụ đoạn Văn Cao và Vũ Quí gặp nhau ở tiệm cơm, và sau đó, ông này dẫn đến cơ sở cách mạng, ra lệnh nấu cơm tháng cho Văn Cao. Chính vì vậy, nên trong nước đã có lần hô hào phải đổi quốc ca, theo tôi.  
Chẳng lẽ bài quốc ca của cả nước, mà lại được viết ra, vì là do tác giả của nó, đói quá, được tổ chức hứa cho ăn, và sau đó, ra lệnh đi giết người?
2. Trong bài trả lời Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đăng trên Hợp Lưu, và cùng với nó, là lý do tại sao suốt cuộc chiến sau đó, ông không viết nhạc có lời nữa.
Trả lời HPNT, VC cho biết, lúc đó, ông không phải nhận lệnh viết quốc ca nhưng mà nhận lệnh đi giết người. Cú giết người của ông đó khiến ông sau này không làm nhạc ca ngợi được nữa, cho tới Mùa Xuân Đầu Tiên, “từ đây người biết quên Người” [chữ người đầu không viết hoa, chữ sau viết hoa], ‘từ đây người biết yêu Đời” [yêu Đời cho nên không giết người nữa].
Việc giết ĐĐP đó, theo thiển ý của tôi, giống như trong tổ chức Mafia, ai đã đọc Bố Già thì biết, nó gọi là đầu danh trạng. Muốn gia nhập tổ chức, là phải lập tí công đầu, là giết người. Nó còn là bản án treo lửng trên đầu tay găng tơ, mày mà phản, là tao gửi ngay cái này tới nơi cần gửi.


Gấu có nhớ Xứ Đoài không?


Mùa Xuân & Hạnh Phúc
Đặng Tiến


As for me, I prefer to smell French shit for five years, rather than Chinese shit for the rest of my life.
Ta thà ngửi cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời
Di chúc Bác Hồ


Trở lại nơi một thời vang bóng

Tôi nhắc tới rạp Majestic ở phố Huế, bởi vì chỉ còn nó là sống sót, sau Hà Nội tiếp quản, sau Hà Nội cải cách ruộng đất – đại bác đêm đêm dội về thành phố, người phu địa chủ quét đường, dừng chổi lắng nghe! – sau Hà Nội Nhân Văn Giai Phẩm, sau Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi - và để đánh đổi sự sống sót, nó đành mất tên, trở thành Rạp Tháng Tám.
Ông cậu cho tôi biết, tiền thân của nó là Majestic.
Anh chàng xe ôm bảo tôi: đây là rạp xi nê độc nhất của Hà Nội bây giờ.

Lẽ dĩ nhiên đường từ St Petersburg tới Stockhom đi qua địa ngục, cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương, đã tuyên bố như vậy.
Nobel hay không Nobel, tôi cũng thử bắt chước ông và tuyên bố: Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà Nội đi qua địa ngục.


Interview: Gao Xingjian

Về cái sự “nghiêm ngặt với chính mình”, “self-discipline” [kỷ luật tự giác]

Mọi người đều biết tôi gặp nhiều khó khăn khi xb sách tại TQ. Ngoài những giới hạn về in ấn, xuất bản, của nhà cầm quyền, nhà văn cũng phải đặt giới hạn cho chính mình, và thực tập sự “nghiêm ngặt với chính mình”. Nhưng tại TQ, ngay cả khi tôi “kỷ luật tự giác” như thế, tác phẩm của tôi vẫn bị biếm [banned]. Thế là tôi tung hê, đếch thèm chơi với nhà nước nữa. Linh Sơn là một tác phẩm mà suốt thời gian viết nó, tôi rất ư là thoải mái, chính là do tôi không nghĩ khi mình còn sống mà lại nhìn thấy nó chường mặt ra với nhân gian!

Về nhà văn như là những triết gia của thời của mình.

Hiểu biết của tôi về chuyện này là, sự trong sáng, rõ ràng là nhắm nói về tư tưởng, ý nghĩ. Nếu tư tưởng, ý nghĩ không rõ ràng, trong sáng, thì cái sự viết ra chữ viết cũng mắm sốt! Nhà văn, trước hết, phải suy tưởng rất ư là thận trọng, tới chỉ, về điều mà anh ta đang viết, và điều mà anh ta muốn chuyên chở, muốn gửi tới độc giả. Theo nghĩa này, có hai loại “tư tưởng gia”. Một, là thứ sử dụng một cách thức triết học để nhìn ngắm nhân sinh, và đưa ra những câu trả lời cho nhiều câu hỏi. Cũng còn một thứ suy tư lòng vòng chung quanh những hình ảnh. Nhà văn và nghệ sĩ, trong sự nghiên cứu sau cùng,


Ha Jin
Ngôn ngữ của sự phản bội

Trồng người, virus phi nhân

Thú thực, Gấu ngu này không làm sao chịu nổi cái từ "trồng người", được VC sử dụng để chỉ việc giáo dục.
*

V/v virus phi nhân.
Tri thức nhân loại nhận dạng, có Cái Ác Nazi là do con virus này gây nên, và hậu quả của nó là Lò Thiêu.
Gần đây, có tên Gấu Nhà Văn đề nghị thêm vô, Cái Ác Bắc Kít, cũng do con virus này gây ra, và hậu quả là Lò Cải Tạo!
Hà, hà!
*

Một nền sư phạm, giáo dục của hận thù

Phô bầy hận thù thì tục tĩu, phỉ báng hơn cả thói khoe khoang. Tôi thách mấy ông viết sách khiêu dâm chỉ cho tôi một bức hình đê tiện hơn bất cứ tấm nào trong số 24 bức minh họa ở trong cuốn sách Trau keinem Fuchs auf gruener Heid und keinem Jud bei seinem Eid [Don't Trust Any Fox from a Heath or Any Jew on his Oath, đừng tin lũ cáo trong rừng, hay lời thề của một gã Do Thái], dành cho thiếu nhi, ấn bản lần thứ tư của nó thì đang làm độc Bavaria. Lần xuất bản lần thứ nhất năm 1936 đã bán ra 51 ngàn ấn bản. Mục đích của nó là tiêm, chích, tẩm vào cơ thể, tâm hồn của những đứa trẻ Đệ Tam Reich một sự không tin cậy, và thù nghịch đối với những người Do Thái. Thơ, vè, ca dao, tục ngữ (chúng ta quá rành những đức tính dễ thuộc dễ nhớ của cái gọi là vần, điệu, nhịp), và hình vẽ, tranh khắc có mầu (chúng ta cũng thật rành hiệu quả của những hình ảnh mầu mè hoa lá cành lên đầu óc trẻ thơ), cả hai, kẻ xứng, người họa trong cuốn sách giáo khoa đích thực của hận thù này.
Borges

Ui chao, liệu những nhà văn Bắc Kít thời chống Mỹ cứu nước cũng đã được Đảng giáo dục, và trưởng thành, từ những cuốn sách giáo khoa như thế?
Có tất cả bao nhiêu thế hệ Bắc Kít được "trồng" từ thứ giáo dục của hận thù như vậy?
Muốn biết, thì cứ nhìn vào cái mức băng hoại vô phương cứu chữa hiện nay.


Tình lơ
Nguyễn Ngọc Tư




5 năm TTT ra đi
(22.3.2006-22.3.2010)

*

What are poets for?
Thi sĩ để làm cái quái gì cơ chứ?
Pourquoi des poètes en temps de détresse?
Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?
Heidegger

"... and what are poets for in a destitude time?", Holderlin hỏi, trong bài điếu "Bánh mì và Rưọu vang".
Thời của đêm thế gian là thời điêu đứng: The time of the world's night is the destitude time.
*
Is Rainer Maria Rilke a poet in a destitude time? How is his poetry related to the destitution of the time? How deeply does it reach into the abyss? Where does the poet go, assuming he goes where he can go?
Liệu có phải Rilke là nhà thơ của thời điêu đứng?
Như thế nào, làm thế nào, thơ của ông móc nối với sự điêu đứng của thời gian? Sâu thẳm cỡ nào, thơ của ông với xuống vực thẳm? Nhà thơ đi đâu, giả dụ như có một nơi chốn nhà thơ có thể đi?
*
Từ 'thời gian', ở đây có nghĩa, thời gian mà chúng ta còn thuộc về nó. Với kinh nghiệm lịch sử của Holderlin, sự xuất hiện và hy sinh của Đấng Ky Tô Christ đánh dấu bắt đầu và chấm dứt ngày của những vị thần, the day of the gods. Đêm xuống, và kể từ đó, ba ngôi nhập một, the 'united three' - Herakles, Dionysos, và Christ - rời bỏ thế gian, buổi chiều của thế gian chìm dần vào đêm tối của nó. Đêm thế gian trải dài bóng tối của nó. Đây là thời thần linh trễ hẹn [The era is defined by the god's failure to arrive], thời khiếm khuyết thần linh, default of god. Thời khiếm khuyến thần linh mà Holderlin kinh nghiệm không có nghĩa chối bỏ liên hệ giữa thần và người và nhà thờ. Khiếm khuyết thần linh có nghĩa, chẳng còn thần linh tóm thâu người và vật thành một mối, và bằng một mối thâu gom như thế, lịch sử thế gian được đặt để, và con người dong duổi cùng với nó.
*
“Hồi Võ Phiến sang chơi Paris và đóng đô tại nhà tôi ở Bagnolet, có bận tôi hỏi, theo ông, Thanh Tâm Tuyền là một nhà thơ hay nhà văn. Võ Phiến đã đáp không do dự: là một nhà văn.”
Kiệt Tấn
*
Nhận xét của Võ Phiến, theo tôi, sai.
Ngay từ năm 1973, khi viết về TTT, trong số Văn đặc biệt về ông, Gấu này đã phán, nay xin ghi lại ở đây:
1. Một vài ý nghĩ nho nhỏ về thơ Thanh Tâm Tuyền.
Bởi vì tiểu thuyết, truyện, truyện ngắn vốn dễ đọc hơn thơ, kịch, cho nên, đối với số đông độc giả, Thanh Tâm Tuyền thành công về mặt văn xuôi hơn là thơ. Nhưng đối với một thiểu số độc giả thường lưu tâm tới vấn để văn chương, những tập Tôi không còn cô độc, Liên đêm mặt trời tìm thấy đã định nghĩa thế nào là thơ, thơ tự do, thơ TTT.
*
Pourquoi des poètes en temps de détresse?
Holderlin
Có thể, thơ Thanh Tâm Tuyền cũng như thơ của một số thi sĩ khác cùng thời với ông, một cách gián tiếp, nhằm trả lời câu hỏi trên của Holderlin.
Bởi vì, người ta vẫn thường quan niệm thơ, từ ngàn xưa, vẫn chỉ là những gì phù du, thơ chỉ có trong một thời bình.
Cớ sao lại có thi sĩ, trong một thời đại nhiễu nhương như thế này?
Đọc Thanh Tâm Tuyền
[Bài này mất tiêu! NQT]

Ngay từ những ngày 1973, khi chưa chấm dứt cuộc chiến, Gấu này đã nhìn ra, thơ TTT, đúng là thứ thơ của thời điêu đứng, đúng như Heidegger coi Rilke là thi sĩ của thời điêu đứng:
Là thi sĩ của thời điêu đứng , có nghĩa là: hát, chú tâm đến dấu chân để lại của những vị thần trong khi bỏ chạy. Chính vì thế, vào thời gian của đêm tối, thi sĩ nói điều thiêng. Chính vì thế, trong ngôn ngữ của Holderlin, đêm thế giới là "đêm thiêng" (1)
Être poète en temps de détresse, c'est alors : chantant, être attentif à la trace des dieux enfuis. Voilà pourquoi, au temps de la nuit du monde, le poète dit le sacré. Voilà pourquoi, dans la langue de Holderlin, la nuit du monde est la « nuit sacrée ».
Pourquoi des poètes en temps de détresse? Heidegger
*
(1) Trong Mảng Lưu Vong, La Part d'Exil, Le Huu Khoa coi Trịnh Công Sơn là chim thiêng hót lời mệnh bạc
[Trinh Cong Son: L'oiseau sacré chante le destin tragique]
*
Holderlin phán:
Ở nơi nào có nguy nàn,
Ở đó có cứu rỗi
Mais où est le péril, là
Croit aussi ce qui sauve
Holderlin, IV, 190

Nếu thế, so sánh thơ TTT với những nhà thơ tiền chiến, đúng là "coi thường" ông, theo Gấu, và, chẳng biết gì về thơ, về vực thẳm, về đêm đen chia cách ông với những nhà thơ mà ông và nhóm Sáng Tạo đả phá:
Một cách nào đó, những dòng thơ tiền chiến mở ra vực thẳm, đêm đen.
Một cách nào đó, thơ TTT, và của một số bạn bè của ông, như Tô Thùy Yên, nhạc Trịnh Công Sơn... là thơ nhạc của thời điêu đứng.
*
Một lần, nhằm giải thích một nhận định của Đặng Tiến, TTT không có truyền nhân, Gấu đã trích dẫn một số câu văn của TTT, để chứng tỏ, ông làm thơ khi viết văn.
Muốn là truyền nhân của ông, phải là một nhà thơ, chứ không phải nhà văn.
Như tay Ninh Hạ cho biết, TTT có lần nói với ông ta, ông thấy làm thơ dễ hơn là viết văn, là cũng theo nghĩa đó.
Vả chăng, tuy nhà văn, viết đủ thứ, nhưng chỉ Một Chủ Nhật Khác đúng là một cuốn tiểu thuyết.

Giáng Sinh, ngồi nhà 'đọc chơi' vài bài thơ!

Note: Từ 'đọc chơi' này, GNV thuổng.

No Longer and Not Yet

Tại Âu châu, một đứt đoạn tuyệt đối của liên tục đã xẩy ra trong và sau Đệ Nhất Thế Chiến. Những ‘lèm bèm’ của đám trí thức về một thoái trào cần thiết của văn minh Tây phương hay thế hệ bỏ đi nổi tiếng, như nó thường được thốt ra bởi đám “phản động”, thì, nền tảng sự thực của nó là ở đứt đoạn này, và đem đến hậu quả hấp dẫn hơn, so với thứ đầu óc ‘tự do', khi đám này bầy ra trước chúng ta một giải pháp, hoặc tiên phong hoặc giật lùi, một giải pháp chẳng có một ý nghĩa nào, bởi vì nó vẫn giả dụ sợi sên liên tục không bị đứt, gẫy.
Bây giờ, đọc Hannah Arendt, thì Mít chúng ta mới hiểu ra được, tại làm sao mà đám Sáng Tạo, bằng mọi cách, ‘đả phá, huỷ diệt, tàn sát’ văn học tiền chiến: Họ nhìn ra cái sợi sên bị đứt gẫy, và một lỗ hổng xuất hiện.
*
Khoanh vùng vào văn chương Âu châu mà nói, cái hố thẳm mở ra một không gian trống và thời gian rỗng này, nhìn rõ nhất là ở sự lệch pha, không đồng điệu, giữa hai ông khổng lồ, hai vị sư phụ vĩ đại nhất của thời đại chúng ta, đó là Marcel Proust và Franz Kafka. Proust là lời giã từ cuối cùng, đẹp như mơ, gửi tới thế giới của thế kỷ 19, và khi chúng ta trở lại với tác phẩm của ông, viết trong âm điệu "no longer", "không còn nữa”, ["than ôi, hoa rụng bên kia sông mất rồi, hết rồi, hết rồi, em ơi chiều nay cơn mộng tan rồi”, "ố là là", hết Loan, hết Dũng, hết Đôi Bạn mất rồi…], và thế là cái tâm trạng não nề [‘từ lúc đưa em về là biết xa ngàn trùng’] khiến chúng ta vãi lệ chứa chan!
Kafka, về một mặt khác, là người đương thời với chúng ta, chỉ tới một giới hạn. Sự tình như thể, ông viết từ một điểm thuận tiện cho ông, nghĩa là, từ một tương lai xa xa, như thể, ông chỉ có thể ‘ở nhà’ trong một thế giới ‘not yet’, "chưa có nhưng sẽ có". Godot sẽ tới, nhưng chiều nay, thì chưa! Điều này đẩy chúng ta vào một cái vị thế xa xa, bất cứ khi nào chúng ta đọc, và bàn về tác phẩm của ông, một khoảng cách chẳng bao giờ trở nên nhỏ lại, mặc dù chúng ta biết nghệ thuật của ông thì là biểu hiện của một thế giới tương lai nào đó, cũng là thế giới của chúng ta – giả như chúng ta có được tương lai!

Nếu Nhất Linh, ông Trùm tiền chiến, đóng vai Proust, thì Kafka Mít, là Thanh Tâm Tuyền!
Cái hố thẳm giữa họ, được cuộc chiến khốn kiếp làm đầy.
*
Tất cả những nhà văn và thi sĩ lớn khác của Âu Châu tìm thấy chỗ, và những chuẩn mức đo lường của họ ở đâu đó giữa hai vị thầy đã mất này. Nhưng sách của Hermann Broch rớt vào một phạm trù khác hẳn so với số còn lại. Ông có chung, với Proust giọng độc thoại nội tâm, và với Kafka sự chối bỏ hoàn toàn và triệt để, điều mua vui, giải trí, cũng như sự bận bịu với cái siêu hình. Ông chia sẻ với Proust một sự yêu mến quá đỗi, thật là thâm sâu, với cõi đời, như là nó được trao cho chúng ta; và ông chia sẻ với Kafka, niềm tin tưởng, rằng, “người hùng” của tiểu thuyết thì hết còn là một nhân vật với một số phẩm chất được định nghĩa tới nơi tới chốn, mà chỉ là “một con người như thế đó” (bởi vì đối với cuộc đời thực của một con người và nhà thơ, Virgil chỉ là một cơ hội cho những dự đoán triết học của Broch) - tất cả thì đều thực, và những lịch sử của văn học sau này có thể sẽ nói ra điều này.
Điều quan trọng hơn – ít ra vào lúc này, là, tác phẩm của Broch – qua những đề tài mà nó quan tâm, qua trọn tính uyên nguyên, qua giọng rất đỗi thơ tuyệt vời của nó – có một điều gì giống như một đường dây dẫn bị thiếu, mất, giữa Proust và Kafka, giữa một quá khứ mà chúng ta đã mất và không thể nào lấy lại được và một tương lai chưa ở trong tay. Nói một cách khác, cuốn sách, tự thân nó, thì giống như một cây cầu mà Virgil cố gắng băng qua hố thẳm của quãng không giữa “không còn nữa” và “chưa nhưng sẽ có”. Và kể từ khi mà cái hố thẳm này thì thực, rất đỗi thực, kể từ khi mỗi năm nó lại mỗi sâu thêm, đáng sợ thêm, kể từ năm định mệnh 1914 trở đi, cho tới khi những cơ xưởng của Thần Chết được dựng lên ở ngay trái tim của Âu Châu, cắt đứt luôn sợi dây đã cũ mòn mà nhờ nó chúng ta còn bám víu được với thực thể hơn hai ngàn năm lịch sử; và, kể từ khi chúng ta hoàn toàn sống trong “cõi trống rỗng”, đối đầu với một thực tại mù tịt về ý tưởng truyền thống về thế giới và con người có thể thắp sáng – quý báu như thể truyền thống này vẫn còn nằm ở trong tim của chúng ta – chúng ta phải cám ơn sâu xa tác phẩm thi ca lớn lao cố bám víu thật tuyệt vọng vào đề tài này.
Điều khá kỳ quặc là tác phẩm trước đó của Broch chẳng hề tiên đoán, ông sẽ ị ra Cái Chết của Virgil. Những kẻ mộng du, ngoại trừ những phẩm chất của nó, như là một cuốn tiểu thuyết, chỉ cho thấy một điều là, tác giả của nó thì đầy ứ tài kể chuyện, xuyên suốt tác phẩm, ông tỏ ra nôn nóng với tác phẩm của riêng mình: ông nói với độc giả của mình, tốt nhất, hãy cố mà tìm cho ra kết cục của câu chuyện, đừng trông mong ở nơi ông; ông lơ là nhân vật, tình tiết và chỉ xoắn mãi vào những ức đoán dài dòng về bản chất của lịch sử. Cho tới một thời điểm nào đó, Broch quả là một tay kể chuyện tốt, chịu chơi, biết chọc cười, làm độc giả vui, nhưng không phải là một thi sĩ lớn.
Cái biến động làm cho Broch thành một nhà thơ có vẻ trùng hợp với màn cuối u tối của Âu Châu. Khi bóng đêm chụp xuống, thế là a ê hấp, Broch thức giấc… 

Ui chao, đọc đoạn trên đây, làm sao không nghĩ đến ông anh nhà thơ cho được! Ông tỉnh giấc, trở thành nhà thơ, đúng vào màn cuối u tối của miền đất ông ra đời, rời bỏ nó, đúng lúc đêm đen chụp xuống, 1954.

 Biến động làm Broch thành một nhà thơ có vẻ trùng hợp với giai đoạn u tối sau cùng của Âu Châu. Khi bóng đêm chụp xuống, thế là a ê hấp, Broch thức dậy. Ông tỉnh giấc trước thực tại khiến ông ngỡ ngàng và thế là ông lập tức chuyển dịch nó vào trong một giấc mơ, quá xứng hợp với một người thức giấc trong đêm. Giấc mơ này là Cái Chết của Virgil.
Những nhà phê bình phán, cuốn sách được viết bằng một thứ văn xuôi trữ tình, điều này không hẳn đã đúng. Văn phong, độc nhất, do căng thẳng dồn nén, rất giống những lời cầu khấn trong những thánh ca Homer, trong đó Thượng Đế được con người kêu gọi hoài hoài, mỗi lần là mỗi nơi chốn Thượng Đế cư ngụ, mỗi khung cảnh thần thoại, nơi khấn bái, thờ phụng, như thể kẻ cầu nguyện phải cảm thấy chắc chắc, tuyệt đối chắc chắn, anh ta không thể nào quên Thượng Đế. Trong cùng đường hướng như vậy, Broch cầu khấn Đời sống, hay Cái chết, hay Tình yêu, hay Thời gian, hay Không gian, như thể ông muốn hoàn toàn chắc chắn, tuyệt đối chắc chắc, ông  không quên một điểm nào. Điều này đem cho cuộc độc thoại khẩn thiết tình cảm thê thiết của nó và làm bật ra hành động căng thẳng, tập trung từ dự đoán rất thực […]
Đề tài của cuốn sách của Broch, như cái tít chỉ ra, là 24 giờ chót của cuộc đời Virgil. Nhưng cái chết thì được coi như không phải là một sự kiện mà là một thành tựu tối hậu của con người - hoặc theo nghĩa, những khoảnh khắc hấp hối là cơ may sau cùng và độc nhất để biết đời sống là cái gì, hay theo nghĩa, đó là thời khắc mà con người phán đoán về chính cuộc đời của mình, kẻ đang chết đó. Phán đoán này không phải là tự buộc tội, bởi vì lúc đó đã quá muộn để mà mất thì giờ với một việc như thế, cũng không phải tự biện minh, bởi vì, nếu như thế, thì việc này lại quá sớm; đó là cố gắng tối hậu để tìm ra sự thực, lời nói chung quyết của trọn câu chuyện. Điều này làm cho phán đoán sau cùng là chuyện của con người, con người tự tính sổ với con người, tránh cho Thượng Đế khỏi vướng bận vào chuyện tầm phào như thế!
 


6 năm BHD ra đi


Tribute to Koestler

Steiner, trong ai điếu “La Morte d’Arthur”, viết:
Đêm giữa Ngọ của Koestler là một trong những cuốn tiểu thuyết cổ điển của thế kỷ. Nó giáo dục những thế hệ về những ghê rợn của chúng, it educated generations to theirs terrors. Di chúc Tây Ban Nha, The Sapnish Testament (còn biết dưới cái tít Chuyện trò với Thần Chết, Dialogue with Death) thì cũng xấp xỉ cái thế giá đó. Những kẻ mộng du, The Sleepwalkers - đặc biệt là những chương về Kepler – là một trong những bữa tiệc hiếm của nhân gian, về sự tái-sáng tạo tưởng tượng thuyết phục của khoa học lớn, convincing imaginative re-creation of great science, về lô gíc thơ của khám phá, poetic logic of discovery. Tôi không chia sẻ những xác tín của ông trong Trầm tư về tội treo cổ, Reflections of Hanging, nhưng nó sẽ còn hoài như là một trong những dấu ấn lớn lao của thời đại chúng ta, và thời điểm mấu chốt liên quan đến cuộc tranh luận về án tử hình. Có những chương có tính cổ điển như thế, ngay cả ở trong những tác phẩm tự thuật như là Arrow in the Blue. Nhưng với Koestler, có một cảm quan về một cái gì đó vượt lên tổng số những gì ông viết ra. Có những con người, đàn ông hay đàn bà, ở vào những thời đại, ở vào những xã hội, họ đưa mình ra, “đành làm” chứng nhân thiết yếu, cần thiết, không có không được, và chính là nhờ vào hiện hữu cá nhân, cảm quan riêng tư của một con người như thế mà những ý nghĩa lớn lao, rộng rãi hơn của thời đại được tập trung, được xoáy chiếu, và trở nên sáng sủa, visible. T
rong thế kỷ đen tối, dân Do Thái Trung Âu, có lẽ hơn bất cứ một bộ lạc nào khác, cưu mang trong nó sự tàn ác dã man của viễn ảnh và kinh nghiệm thúc ép, đòi cho có cho bằng được của nhân loại. Koestler, sinh năm 1905 ở ngay đúng nơi chốn mà những sợi gân lịch sử, chính trị, ngôn ngữ của thế kỷ 20 chấm dứt tại đó. Những trào lưu ác liệt, cường tráng của thế kỷ chảy qua ông. Lần giở cuốn “cà ta lô” những sự hiện diện lớn của hiện đại – chính trị học Mác Xít, khủng bố Phát Xít, phân tâm học, và những tra hỏi về những dị dạng của tinh thần, trí tưởng, của cái đầu của con người, bước nhẩy vọt của những môn sinh học, những xung đột của ý thức hệ và nghệ thuật – và thế là bạn không chỉ bắt gặp những tác phẩm lớn của Koestler, mà còn cả con người, chính nó! Ông rành rọt, hay, dầy dạn, lưu vong và nhà tù, ly dị, trai gái, tứ đổ tường, cuộc giành giựt cuộc sống riêng tư với quần chúng, đám đông. Những tấm căn cước của Koestler, thực hay giả, những con dấu, những quá cảnh trên những tờ thông hành, những cuốn sổ địa chỉ, những cuốn nhật ký bàn giấy, desk diaries, tất cả vạch ra tấm bản đồ và những cuộc hành trình của một kẻ bị săn đuổi của thế kỷ của chúng ta.