*

Tribute


























Nhà thơ Hữu Loan đã ra đi

Thành thực chia buồn cùng tang quyến. Cầu chúc linh hồn nhà thơ sớm siêu thoát.
Tin Văn


Niên học cuối của Lan Hương ở bậc trung học bắt đầu bằng những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội, tôi thức giấc sớm, thân thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một buổi sáng nào đó trong Hà Nội, tưởng như chiến tranh đã hết. Những địa danh như Hà Nội, Việt Trì, Sơn Tây, Ba Vì, Yên Bái, Đồn Vàng… chẳng gây ở nơi Mai một xúc động nhỏ nhặt, nhưng đã trở thành một phần của thân thể tôi, và tiết trời giá lạnh đã đốt cháy nén hương làm tất cả sống dậy. Những buổi học trong rừng, trên những căn nhà sàn miền thượng du Bắc Việt, xen lẫn tiếng thầy giáo giảng bài có tiếng chim kêu kỳ lạ, tiếng người hú gọi nhau vang âm khắp thung lũng, ngày nào tản cư rời xóm làng miền quê nội ngoại ven sông Hồng, đi sâu mãi vào vùng núi Tản Viên Ba Vì, đi bộ suốt đêm, một chiếc chiếu gấp đôi choàng qua vai làm ấm ngực, đứa trẻ vừa đi vừa ngủ gật, một lần đi qua một khu rừng thông, tiếng thông reo, và còn reo mãi cho tới bây giờ. Những buổi chiều một mình lang thang trên những ngọn đồi vùng Phú Thọ, những khóm sim mọc hỗn độn trên những ngọn đồi chập chùng chạy dài mãi phía xa, lẫn dần vào bóng chiều đã xẫm, (bây giờ, đôi lần tình cờ đọc câu, "qua những đồi hoa sim, mầu tím hoa sim tím cả những chiều hoang biền biệt", toàn thân bị dĩ vãng ấu thời chiếm đoạt, run đến nổi gai ốc…). Những buổi sáng thơ thẩn trong rừng lần theo một tiếng chim lạ, hoặc loay hoay dò theo một vết nứt tìm giò măng dưới mặt đất… những năm tản cư trở thành những năm du lịch miền núi đồi thượng du Bắc Việt. Những giếng nước do những viên đá sắp xếp, buổi sáng hơi nước bốc lên nghi ngút, nhúng tay sâu, hơi ấm theo bàn tay thấm vào hết người. Mùa hè chợt tới, những dòng suối trong vắt, nước lạnh buốt, những viên sỏi dưới dòng suối long lanh như những viên ngọc, đàn gà rừng mầu sắc rực rỡ bay tán loạn khi thấy bóng người, sườn núi phía trước sương mù che phủ trắng xoá, lấy hai tay để lên miệng làm loa, cất tiếng hú, âm thanh vang rền, đập đi đập lại, một hồi lâu sự yên tĩnh mới trở lại, tuổi thơ của tôi không có gì đáng phàn nàn…

Những ngày ở Sài Gòn
*
PD: Hai nhạc sĩ Dzũng Chinh và Anh Bằng phổ nhạc bài thơ “Màu tím hoa sim” một cách rất tốt, nhưng dùng hình thức “tiểu khúc” bình dân, ngắn ngủi chỉ có một đoản khúc Pop Boléro, Slow Rock giản dị, dễ nghe, dễ hiểu...
Và cũng vì lý do các ông không có kinh nghiệm đi kháng chiến nên không đem được nhiều cảm xúc buồn thương hay hùng vĩ vào âm nhạc.
Còn tôi, tôi muốn soạn một “đại khúc” (grand music) bi hùng dài tới 5-7 đoạn, một “chant patriotic”. Có thế thôi!
Nguồn

Bài Mầu Tím Hoa Sim của Phạm Duy quả là có chất hùng ca, epic, nhưng không phải là một “chant patriotic”, bài ca ái quốc, theo GNV.
“Ái quốc” là phải “Thề phanh thây uống máu quân thù”, cơ!
Đoạn hùng ca trong bài nhạc của PD, ‘những đồi sim, những đồi sim… “ thì đâu có dính dáng gì tới… ái quốc?

Nhà đại nhạc sĩ tuyên bố nhiều câu rất nhảm, về chính thiên tài của ông! Bài Thuyền Viễn Xứ của ông, cũng thế, ông phán rất nhảm về nó, trong DVD chào mừng sự trở về của ông. Hình như trước đây, ông đánh bài vờ về lời thơ phổ nhạc của nó, cho đến khi bị tay biếm văn số 1 hải ngoại chửi, thì ông mới xì ra, là, được một cô Bắc Kít nho nhỏ, ngồi bán hàng ở Chợ Bến Thành, nhớ Đất Bắc quá bèn sáng tác bài thơ, đưa ông nhạc sĩ tài hoa phổ nhạc. Tuy nhiên, theo Gấu, lời thơ cho thấy, không thể nào của một em Bắc Kít nho nhỏ được. (1)
(1)

(nguồn: phamduy.com)
Trước khi gần một triệu người sẽ di cư vào miền Nam và ai cũng sẽ đều nhớ tới cảnh vật, sự việc và con người của thôn quê miền Bắc, tôi làm quen với một cô em bán vải ở Chợ Bến Thành tên là Huyền Chi. Cô ''Bắc Kỳ nho nhỏ'' này có một bài thơ nhớ quê hương cũ nhan đề THUYỀN VIỄN XỨ và đưa cho tôi phổ nhạc...

Hơn nữa cuộc di cư 1954 không đẻ ra thứ tình cảm”lưu vong”, sầu viễn xứ [le mal du pays] khủng khiếp như thế được.
GNV mò trên net ra bài thơ gốc (2), thành thử khó mà có chuyện em mi nhon Bắc Kít nho nhỏ tặng cho Bác, Chú PD!
Chán thế!
(2)

Thơ Huyền Chi [lục bát]
Lên khơi sương khói một chiều
Thùy dương rũ [hay rủ ?] bóng tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần giạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi tiếng hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước tiếng đời hoang mang
...
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường lại đi
Nhạc PD, Tù VC
*

Trong cuốn DVD đúp, Ngày Trở Về, Phạm Duy cho biết, bài Thuyền Viễn Xứ được sáng tác, trong dòng những bài trước đó, của Hoàng Quý, của Đặng Thế Phong... ra đời trước nó 10 năm, tuy nhiên, ông nhấn mạnh, nếu những bài hát kia mang chất Lãng Mạn, biểu hiện một thứ tình cảm cá nhân, thì bài TVX có tính hiện thực, không biểu hiện một cõi tôi cá nhân. Thí dụ như câu:
Sóng Đà giang thuyền qua xứ người.

Theo Gấu, bài Thuyền Viễn Xứ là một bản nhạc không mang tính hiện thực, mà là tính tiên tri. Nó đã được sáng tác ra, cho những người Việt ở hải ngoại, mãi sau này, ngay cả khi PD đã trở về, và họ, không thể trở về, chỉ còn cách hát bản nhạc của ông, cho đỡ nhớ quê hương:

Chiều nay gửi tới quê xưa
Biết là bao thương nhớ cho vừa
Trời cao chìm rơi xuống đời
Biết là bao sầu trên xứ người.
*
Khủng khiếp thật, quyền năng, sức mạnh tiên tri.
Của, chỉ một bản nhạc!
*
Trong một video, đài VNCR phỏng vấn PD trước khi ông trở về, Đài này trích một câu ông nói, tôi thương hại những người chỉ trích tôi, phê bình tôi, vì họ không hạnh phúc như tôi... . Chính vì câu này mà Gấu phải tò mò nghe cho hết cuộc phỏng vấn. Hóa ra ông thương hại họ là người không có cái hạnh phúc của một thằng nghệ sĩ, nắm bắt đúng cái bước đi của thời gian, và đẻ ra được những sáng tác thật là tuyệt vời, như ông.
Nhưng có những người rất đau lòng vì chuyện PD trở về, đó là những người nâng niu những khúc nhạc tuyệt vời trên, và cái đa số thầm lặng này không hề chỉ trích, không hề phê bình PD. Họ chỉ đau lòng, PD, người nghệ sĩ luôn nắm bắt kịp cái hạnh phúc, chẳng lẽ không bắt kịp cái đau xót của những người yêu mến ông, trân trọng tài năng của ông?
Gấu nghĩ đám đa số thầm lặng này rất thương hại PD, như PD thương hại, không phải họ. NQT
*
Với tôi, Phạm Duy hay nhất vẫn là những bản nhạc tình. Giống những cửa sổ, đối với K. trong Vụ Án.
Lần đó, ở trong trại cải tạo, nằm kế một anh bạn. Chẳng bao giờ anh hát. Một buổi tối, cả hai không ngủ được. Nói chuyện lăng nhăng một hồi, và đột nhiên anh thủ thỉ một mình. Những gì ..."đưa nhau tới bên cầu", "giờ đây cơn mộng tan rồi"...
Sau này, mỗi lần nghe nhạc Trịnh Công Sơn, tôi có cảm tưởng cuộc chiến còn nguyên đó, đối với riêng tôi, những ngày ở Trung Tâm Ba Quang Trung, lần đầu tiên xa Sài-gòn, xa cô bạn. Nhưng, nếu không có nhạc Phạm Duy, không hiểu những ngày ở trong trại cải tạo còn thê thảm tới bực nào, đối với hai bạn tù...
Mùa thu, những di dân

Man is not merely one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
"Con người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn là kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.
"Ở bẩn sống lâu" hay "không thành công thì thành nhân", bạn muốn thứ nào?
Trong "Lessons of the Masters" [Harvard University Press, bìa mỏng, 2005], ông 'nghiên cứu sinh' Steiner vinh danh Alain, một trong những Vị Thầy Suy Tưởng, Maitres à Penser.  Steiner viết, Alain - thầy của Simone Weil, André Maurois -  dậy học trò một câu thật quái dị: đừng thành công [ne pas réussir]. Và đây là, theo Alain, luật tối thượng về đạo đức, the supreme moral rule.

Bởi vì "thành công", có nghĩa là, phải...  bẩn! Phải chiều theo luật "ông mất của kia bà chìa của nọ", nghĩa là phải biết điều, phải thỏa hiệp.
"Nỗi khổ" của PD, đúng như một độc giả trên talawas đã nhận ra, chính là sự thành công vượt bực của ông: trở thành một thiên tài, "một người nghệ sĩ lớn hiếm hoi mà thế kỉ XX dành tặng cho đất nước".
Thiên tài lớn lao của thế kỷ 20 của Việt Nam, sống thì có sống, thành công thì rất ư là thành công, nhưng không... sống sót!

Nhưng cũng vẫn Alain, đã gặt hái đuợc, nhân đọc Lagneau viết về Spinoza [Thầy đọc Thầy đọc Thầy..] định nghĩa này, về Cái Thiện Cao Cả Nhất Của Con Người, [man's highest good], đó là:
[Hãy] kinh nghiệm niềm vui của tư tưởng và [hãy] tha thứ cho Lão Tặc Thiên. Tha thứ cho ông trời già độc địa.
[to experience the joy of thought and to pardon God].
Trời kia mà còn "tha thứ", nữa là ba "vụ án" lẻ tẻ!
Vụ Án

Nói Thuyền Viễn Xứ được sáng tác cho những thính giả mãi sau đó, cho khúc ruột ngàn dặm, thực sự chỉ mới đạt được một nửa lời tiên tri. Nó còn nhắm tới khúc ruột ngàn dặm, ở ngay trong nước, tức những kẻ bị "cái gọi là ẩn dụ lò cải tạo, tinh thần thế giới của Tin Văn" chiếu cố, thôi thì cứ nói đại, cho dù chính tác giả của nó cũng chẳng thể ngờ, vì có khi nào PD đi tù VC đâu, thính giả đích thực của bản nhạc TVX,  là đám tù cải tạo.
Nói, "nó còn nhắm tới", có lẽ không đúng. Tác giả của nó, lại càng không nhắm tới thứ thính giả đó.
Đây là quyền năng huyền bí của âm nhạc, nói theo Steiner, khi ông trích dẫn Lévi-Strauss, sự phát minh ra giai điệu là một "bí mật tối thượng".
Gấu, tên tù cải tạo, vào lúc không ngờ nhất cuộc đời của nó, đột nhiên 'quê hương' xuất hiện, không phải như là một 'kinh nghiệm về thời tiết, kinh nghiệm về khổ đau" (1), mà như một món quà tặng thật là tuyệt vời.

"Ở nơi đó, cũng vậy, giữa những ống khói, trong những quãng ngừng của khổ đau, có một cái gì giống như là hạnh phúc.... Vâng, đúng là nó đấy, hạnh phúc ở trại tập trung, điều mà tôi sẽ nói tới sau này, khi có người hỏi. Thì cứ giả dụ như sẽ có người hỏi. Thì cứ giả dụ như chẳng bao giờ tôi quên nổi, hạnh phúc."
Kertesz
(1) Con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết.
Con người là tổng số những kinh nghiệm về khổ đau.
W. Faulkner
*
Buổi tối, lần Gấu nghe tay bạn tù cải tạo chơi ghi ta bản TVX, và miệng lẩm bẩm hát theo, thật là tuyệt vời.
Tuyệt vời và Ngỡ ngàng.
Thứ nhất, Gấu không hề nghĩ rằng, tay này biết chơi nhạc, không hề nghĩ rằng, lần đầu tiên cầm vô cái đàn ghi ta của cấm đó, anh chàng lại chơi đúng cái bản nhạc mà Gấu để mãi tận đáy lòng mình, tưởng đã quên nó rồi, lôi ra và tấu nó lên, ở giữa khoảng trời đất mênh mông là trại cải tạo thuộc đặc khu Rừng Sát ngày nào, ngoài kia là trùng trùng lớp lớp rừng tràm rừng đước, là trùng trùng lớp lớp mồ hôi, sức tù đổ xuống, và trên trời kia, là trăng sáng đang đổ xuống....
Nguồn
*

Và cũng vì lý do các ông không có kinh nghiệm đi kháng chiến nên không đem được nhiều cảm xúc buồn thương hay hùng vĩ vào âm nhạc.
Còn tôi, tôi muốn soạn một “đại khúc” (grand music) bi hùng dài tới 5-7 đoạn, một “chant patriotic”. Có thế thôi!
PD

Một ông theo kháng chiến bỏ về thành, chạy qua Mẽo, rồi lại trở về vào lúc chót đời, vì ngửi ra mùi đô la đỏ, vậy mà còn tự hào như thế về kinh nghiệm Khiến Chán của mình như vậy, làm sao mà những ông VC từ đít đến đít không tự hào về những đóng góp của họ để làm nên một nước Mít như hiện nay?
V/v cụm từ “đô la đỏ” này, nó có ít lắm là hai nghĩa, một, là để chỉ thứ đô la Mẽo trả tiền mua vui cho mấy em bướm snack bars ngày nào, rồi bất thình lình, đóng cửa trại quân, ra lệnh đổi tiền, thế là biến thành mớ giấy lộn!
Hồi đó, nhà nước VNCH cũng bị nặng vì cú này!
 
*

V/v… “tôi thương hại những người chỉ trích tôi, phê bình tôi, vì họ không hạnh phúc như tôi...”.
Gấu tặng PD câu này, thuổng của tay nhà văn Cesare Pavese, trong một bài viết về ông, trên tờ Le Magazine Littéraire, Oct 2008:
“Il est une chose plus triste que d’avoir raté ses idéaux: les avoir réalisés”
Le Métier de vivre
“Nỗi buồn ‘buồn ơi là buồn’ vì làm hỏng những lý tưởng lớn lao của mình, là: thực hiện chúng”
Cái tít của cuốn sách, Nghề sống, Le Métier de vivre, cũng có thể áp dụng cho PD!
Có vẻ như câu của tay Pavese này tương tự câu của Alain: Thực hiện những lý tưởng của mình xem ra dễ hơn là làm hỏng chúng!
Sống đã khó, sống sót lại càng khó.
Cả đời PD chưa bao giờ ông được hưởng cái thú thất bại!
Tuy nhiên, những kẻ thất bại, thí dụ như Gấu, cảm ơn ông rất nhiều, khi đi tù VC!


Nhà thơ Hữu Loan đã ra đi

Màu tím hoa sim
Hữu Loan 

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo

Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu... 

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
Trích Net

Trong bài thơ Mầu Tím Hoa Sim, có mấy chi tiết, rất đỗi bình thường, nhưng đúng là thứ ‘chi tiết là Thượng Đế trong văn chương’, chúng là điềm triệu, tiên báo tai ương, của không phải chỉ một đôi bạn đời:

Được tin em gái mất
Trước khi em lấy chồng 

Hai câu thơ, hai cái tin, đảo ngược trật tự thời gian, phá bỏ quy luật ‘bôn lưu đáo hải bất phục hồi”, "bất thuận nghịch", irreversible…
Tuy nhiên, chúng còn nói lên ý của Brodsky, thơ là thời gian được cấu trúc lại, "a means of restructuring time".
Hình ảnh “anh chồng độc đáo” trong đám cưới trong bộ đồ nhà binh, nói ra cái thái độ của ông với chế độ.

Thi sĩ, như thế, còn là một con người với những chi tiết rất đỗi đời thường. Những người yêu thơ Hữu Loan, đa phần bị cuộc tình đẹp, đau thương, cuộc đời đau thương nhưng thật dũng cảm, ‘độc đáo” của ông, lấn lướt, không đọc tới cái phần rất ư đời thường của nó.
*
Đẩy lên một mức nữa, chính những chi tiết rất đỗi đời thường làm nên thơ.
Thơ là bề mặt của đời sống, bề mặt hiểu theo nghĩa, nhưng thắc mắc, băn khoăn siêu hình phải ngoi lên đó để mà thở.
Italo Calvino, nhà văn Ý, trong bài viết về thi sĩ Pháp, Francis Ponge, đã nhắc đến những vần thơ thần sầu vì quá đỗi bình thường này.

Những vì vua không đụng vô những cánh cửa.
Họ không biết thứ hạnh phúc đó….
Les rois ne touchent pas aux portes.
Ils ne connaissent pas ce bonheur: pousser devant soi avec douceur ou rudesse l’un de ces grands panneaux familiers, se retourner vers lui pour le remettre en place – tenir dans ses bras une porte.
*
PD: Hai nhạc sĩ Dzũng Chinh và Anh Bằng phổ nhạc bài thơ “Màu tím hoa sim” một cách rất tốt, nhưng dùng hình thức “tiểu khúc” bình dân, ngắn ngủi chỉ có một đoản khúc Pop Boléro, Slow Rock giản dị, dễ nghe, dễ hiểu...
Và cũng vì lý do các ông không có kinh nghiệm đi kháng chiến nên không đem được nhiều cảm xúc buồn thương hay hùng vĩ vào âm nhạc.
Còn tôi, tôi muốn soạn một “đại khúc” (grand music) bi hùng dài tới 5-7 đoạn, một “chant patriotic”. Có thế thôi!

Bằng thái độ nói không với chế độ, cả một đời, chỉ một người… nhìn theo cách đó, đại khúc, ‘grand music’, khúc ca ái quốc, ‘chant patriotic’ của PD, quả là “làm hỏng’, raté, thay vì ‘thực hiện’, réalisé, nó. (1)
Chán thật!
“Il est une chose plus triste que d’avoir raté ses idéaux: les avoir réalisés”
Cesare Pavese
*
Cũng lạ, là, VOA đi tới hai bài về Hữu Loan ra đi, BBC hình như vờ?
Chi tiết đời thường bất thường?

Sự ra đi của một thi sĩ, là sự kiện đau buồn nhất, cho một ngôn ngữ, dân tộc. Khi Brodsky mất, vào năm 1996, Tolstaya viết, tuy sống lưu vong gần như suốt đời, ông được coi là nhà thơ vĩ đại của cả nửa thế kỷ, và chỉ cầu mong ông sống thêm 4 năm nữa là "thế kỷ của chúng ta" có được sự tận cùng vẹn toàn. Ông rời Nga-xô đã hai chục năm, cái chết của ông khiến cho căn nhà Nga bây giờ mới thực sự trống rỗng.
Cái chết của Pasternak mà chẳng ghê gớm sao?

*
The explosion of grief and celebration at Pasternak's funeral in 1960 marked a turning point in Soviet history.
*

Người thơ bận việc làm người
Nguyễn Duy

Ông là nhà thơ đàn anh, người đồng hương xứ Thanh của tôi, nơi nổi tiếng “địa linh, nhân kiệt”. Ông cũng thuộc loại “nhân kiệt”, không chỉ là “hào kiệt” mà còn là “cùng kiệt”, một thường dân kiệt quệ theo nghĩa đen.
//
Hồi còn ở quê, Ðò Lèn, huyện Hà Trung, giáp với huyện Nga Sơn quê ông, tôi chỉ biết ông qua lời đồn và giai thoại. Cha tôi từng đẩy xe thồ suốt những năm 1960, từng quen biết với ông Tú Loan – tức nhà thơ Hữu Loan một thời. Có lần cha tôi hỏi: “Mày đi học có biết thơ của ông xe thồ này không?”. Tôi nói không (nhà trường hồi đó không dạy thơ Hữu Loan). 

Cha tôi nói ông Tú Loan hay chữ lắm, đỗ tú tài Tây, làm quan cách mạng thời khởi nghĩa bốn lăm, thời kháng chiến chống Pháp, làm thơ nổi tiếng, nhưng rồi chỉ vì cái tính ngang tàng, ngang bướng mà bỏ về làm dân đen, đi thồ đá, thồ dưa, thồ chiếu, đủ thứ… Cho đến đầu thập niên 1970, sau mấy năm làm lính, khi theo học khoa văn Ðại học Tổng hợp Hà Nội, tôi mới được đọc thơ Hữu Loan. 

Rồi gần 20 năm sau tôi mới được gặp ông… 

TP.HCM, một ngày thu năm 1988. Tôi đang điều hành cuộc họp cơ quan thường trú của báo Văn Nghệ, tại trụ sở 43 Ðồng Khởi, chợt có người đến tìm gặp, xưng là nhà thơ Hữu Loan, từ quê vào. Lật đật chạy xuống phòng khách, tôi thấy một ông già hom hem, râu tóc lam nham, áo quần xốc xếch, hao hao giống thi sĩ Bùi Giáng, ngồi co một cẳng lên ghế. Cái cách đó đích thị Hữu Loan rồi, theo hình dung của tôi. 

//
Tôi ôm chầm lấy ông như người quen thân lâu ngày chưa gặp. Ông nói tuy chưa gặp tôi nhưng có đọc thơ tôi và rất vui mừng vì xứ Thanh bây giờ có “đứa” làm thơ được như vậy. Ông có người con đang làm thợ ở Ðồng Nai, vào thăm con, rồi đạp xe đi lang thang thăm những ai mà ông muốn gặp… 

Tôi xin ông ngồi uống trà, chờ cho tôi kết thúc cuộc họp trong chốc lát nữa. Chừng 15 phút sau, tôi trở lại phòng khách cơ quan, thấy lão thi sĩ đang nằm thẳng cẳng trên ghế xalông, đầu gối lên cái cặp giả da to đùng, ngáy ngon lành. Chiếc xe đạp lấm láp của ông dựng giữa phòng khách và cạnh đó có đôi dép nhựa sứt quai. 

Tôi gọi cho mấy người bạn văn nghệ, những người sùng bái thơ Hữu Loan. Chúng tôi quyết định đãi ông một bữa trưa sao cho ông thích thú. Một bữa tiệc “hùng vĩ” – như cách gọi của ông. Tiếp đến tiệc trà. Chúng tôi ngẩn ngơ nghe ông đọc thơ vanh vách, giọng sang sảng. Một bữa tiệc thơ “dữ dội”, những Ðèo Cả, Màu tím hoa sim, Hoa lúa, Trung đoàn đi qua… 

Hữu Loan kể vắn tắt về những năm tháng ông sống, cả trong kháng chiến, sau hòa bình và nhất là thời gian cực kỳ gian nan, lận đận ở chính quê nhà, sau khi ông bỏ Hà Nội về làng. Một cuộc đời thật ngang tàng, ngang trái mà cũng thật hiên ngang. Một cuộc đời tất tả, bận rộn. Chúng tôi hỏi, ông bận việc gì nhất? Ông thản nhiên trả lời: “Bận việc làm người”…

//
Sau này, tôi đã mấy lần về thăm ông tại làng quê ông. Chuyện đời, chuyện thơ dài lắm, nhưng lần gặp đầu tiên năm 1988 ấy vẫn để lại trong tôi những ấn tượng mạnh nhất về ông. Cũng sau lần gặp đó, tôi có làm bài thơ bốn câu tặng ông mà đến nay mới có dịp chép lại:

Thơ tặng cụ Tú Loan

Ngang tàng… ngang trái… nghênh ngang
Hồn sim tím một chiều hoang bên đời
Người thơ bận việc làm người
Một mai thánh hóa lên trời làm sao

(TP.HCM, 19-3-2010)
Blog Quê Choa

Bài này thật tuyệt!
Đúng là thi sĩ viết về thi sĩ.
Tks. NQT
*
Hữu Loan, đúng là týp người mà Hàn Lâm Viện Thụy Điển vinh danh, khi phát Nobel cho Cao Hành Kiện:
Lịch sử của cá nhân chống lại lịch sử của đám đông, của tập thể.

Của bè lũ Bắc Kít!
Hà, hà!
*
Hình ảnh “làm sao” thần sầu, tuyệt bút!
Sao ở đây là “star”. Làm sao, là "trở về ngôi", ngày nào, của thi si sĩ:
Bao giờ ta trở về ngôi,
Hồn thơ còn lại luân hồi thế gian.
* 

What gets left of a man amounts
to a part. To a spoken part. To a part of speech.

Những gì còn lại của một người dồn
một mảnh. Mảnh ngôn. Mảnh lời.
Joseph Brodsky (A Part of Speech). 
*
Ta còn để lại gì không,
Kìa non đá lở, nọ sông cát bồi.
....

Ta van cát bụi bên đường,
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.
Để ta trọn một kiếp say,
Cao xanh liều một cánh tay với trời.
Nói chi thua được với đời,
Quản chi những tiếng ma cười đêm thâu.
Tâm linh đốt nén hương cầu,
Nhớ quê rằng rặc ta sầu đó thôi
Bao giờ ta trở về ngôi,
Hồn thơ còn lại luân hồi thế gian.
Một phen đã nín cung đàn,
Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm.
Vũ Hoàng Chương: Nguyện cầu

Lấy câu dưới đây, của Steiner, vinh danh Koestler, tặng Hữu Loan, cũng thú:
Có những con người, đàn ông hay đàn bà, ở vào những thời đại, ở vào những xã hội, họ đưa mình ra, “đành làm” chứng nhân thiết yếu, cần thiết, không có không được, và chính là nhờ vào hiện hữu cá nhân, cảm quan riêng tư của một con người như thế mà những ý nghĩa lớn lao, rộng rãi hơn của thời đại được tập trung, được xoáy chiếu, và trở nên sáng sủa, visible.
*

Hình như tờ Khởi Hành, của Viên Linh có tặng HL giải thưởng Thơ thì phải?
*

Phan Nhiên Hạo: Được biết gần đây báo Khởi Hành có giải thưởng Văn Chương Toàn Sự Nghiệp, xin anh cho biết thêm về giải thưởng này?
Viên Linh: Giải văn chương Khởi Hành hay giải Toàn Sự Nghiệp của Khởi Hành hai năm tổ chức một lần, trị giá 5.000 mỹ kim, trong có 3.000 hiện kim, còn 2.000 dùng để mua vé máy bay, di chuyển, cho tác giả được giải tới lãnh. Giải không nhất thiết, tuy chủ yếu, nhằm trao cho một nhà văn nhà thơ có sự nghiệp hoạt động lâu dài, và hiện còn ở Việt Nam nhưng không được phép xuất bản sách. Năm 2005, chúng tôi đã tổ chức trao giải cho nhà văn Nguyễn Thụy Long, tác giả Loan Mắt Nhung, và nhất là năm truyện ngắn xuất sắc đăng trên Khởi Hành năm đó. Năm 2007, chúng tôi đã tổ chức trao giải cho nhà thơ Hữu Loan, tác giả Màu Tím Hoa Sim. Cả hai tác giả đều đã có thư gửi qua cảm tạ văn nghệ sĩ và đồng bào hải ngoại. Năm nay 2009, Khởi Hành đang thăm dò bạn đọc về giải này, mời bạn đọc đề cử, góp ý với chúng tôi qua địa chỉ sau đây:
Email: vienlinh@khoihanh.com ; hay phamcongkh@yahoo.com
Thư gửi về : P.O. Box 670, Midway City, CA, 92655, U.S.A.
http://khoihanh.com

Phan Nhiên Hạo: Anh có thể cho biết nguồn tài chính khá lớn cho giải thưởng này đến từ đâu được không?
Viên Linh: Tất cả đều do độc giả đóng góp, với danh sách công khai trên báo Khởi Hành.
Nguồn

Nhà Thơ Hữu Loan: Giải thưởng văn chương Khởi Hành 2007

*
Tên Quảng Trường Ba Đình là do tôi đặt. Đó là một địa danh ở huyện Nga Sơn, sao lại đặt cho nơi chôn của ông Hồ?
Hữu Loan



Nhà thơ Hữu Loan đã ra đi

Nhà Thơ Hữu Loan: Giải thưởng văn chương Khởi Hành 2007

Cái cú giải thưởng VL này, thật là tuyệt vời. Gấu chỉ nhớ mài mại, bèn gõ Google, ra liền. Ra cái cú PNH phỏng vấn VL, mò ra trang net của Khởi Hành, đọc cái cuộc nói chuyện giữa hải ngoại và Hữu Loan, thú quá, bởi vì đây không phải chỉ là hải ngoại nói chuyện với trong nước không thôi, mà còn là thế hệ đàn em nghe thế hệ đàn anh dặn dò, ui chao vậy mà cả hải ngoại lẫn trong nước đếch có một thằng nào con nào nhắc tới cái cú giao lưu thần sầu này.
Trong nước, đám BVVC của Gấu rét quá, đã đành, đám hải ngoại, cộng mấy cái loa “vòa là”, lông hồng [hồng mao] gì gì cũng vờ, thế mới tếu!
*
Bài thơ Mầu Tím Hoa Sim sở dĩ được quí mến nâng niu trân trọng, bởi vì nó hay, nó thực, nó tự nhiên, nó chi tiết đời thường… tất nhiên, nhưng nó càng trở nên của quí của hiếm, ấy là vì khi nhà nước bắt nhà thơ làm tự kiểm, thì ông bèn nghỉ chơi với nhà nước, và về nhà làm anh thơ nặng thợ đẽo đá, thồ đá.
Trong thế giới CS trên toàn thế giới, chưa hề có một trường hợp như vậy. Ông Trùm Mác Xít Lukacs phải khai tử cuốn Tân Thánh Kinh của chủ nghĩa CS, là cuốn Lịch Sử và Ý Thức Giai Cấp, Nguyễn Tuân phải bye bye Vang Bóng Một Thời, Nguyễn Đình Thi phải từ bỏ thơ tự do, còn nhiều nữa…
*
Những gì Italo Calvio viết về Conrad xem ra có thể áp dụng vào trường hợp Hữu Loan, theo nghĩa này: Chính cái sự nói không với chế độ, và cùng với nó, cuộc sống cực kỳ khó khăn sau đó, “bảo đảm” thơ của ông.
Thơ của tao đẹp như thế, vì đời của tao còn đẹp hơn thế.
Tao bận làm người đến quên làm thơ!
*

Những vì đại uý thuyền trưởng của Conrad
Italo Calvino

Conrad mất đã được 30 năm, vào ngày 3 Tháng Tám 1924, trong căn nhà nhà quê của ông ở Bishopsbourne, gần Canterbury. Ông thọ 66 tuổi. Ông dùng 20 năm trong số đó để đi biển, và 30 năm để viết. Thành công từ khi còn sống nhưng phải liền sau khi ông vừa nằm xuống thì mấy nhà phê bình mới viết về ông: Vào tháng Chạp năm 1924, trên tờ Nouvelle Revue Francaise, số đặc biệt dành trọn cho ông, có bài của Gide và Valéry: Cái xác chết của vì thuyền trưởng theo sóng đưa đi nằm phơi trên bãi cát bờ biển được phủ bằng những vòng hoa vinh danh nhất mực của giới tinh anh nghệ sĩ trí thức. Ngược lại, ở Ý, những bản dịch của ông được xếp vào thể loại phiêu lưu mạo hiểm của nhà xb Sonzogno, nhưng Emilio Cechchi đã đánh động giới thưởng ngoạn thứ thiệt.

Nhà thơ Hữu Loan đã ra đi

Hình ảnh đưa nhà thờ (1) Hữu Loan về nơi an nghỉ

Note: Cái tít đánh máy sai.

Nhà thơ Boris Pasternak mất ngày 30 Tháng Năm 1960. Đám tang của ông là một sự kiện lạ thường, và phải nói, kỳ bí, mystical event: dấu hiệu đầu tiên cho thấy quyền lực vô biên của nhà nước không thể vượt nổi thi ca.
Cái thông báo của nhà nước thì rất ư là khiêm tốn, chiếm một chỗ thật khiêm nhường, và thật nhỏ xíu, và cái lời nhắn, advice, độc nhất về đám tang, thì là một mẩu giấy viết tay, vô danh, dán bên cạnh ô cửa bán vé tầu ở ga Kev Station ở Moscow, nơi những hành khách mua vé đi Peredelkino, thuộc địa của nhà văn, the writers’colony, ở ngoại vi Moscow.
Mẩu giấy ghi:
“4 giờ chiều ngày Thứ Năm, 2 Tháng Sáu, đám tang Boris Pasternak, nhà thơ vĩ đại nhất của nước Nga ngày này, the present day, bắt đầu cử hành”.
Lời nhắn tin bị gỡ đi nhiều lần, và lại được dán lên bởi một bàn tay vô danh.
Nghi lễ Chính Thống giáo được cử hành thầm lặng tại nhà, dacha, Pasternak, chiều hôm trước. Sáng hôm sau, bốn dương cầm gia hàng đầu, leading pianists – Stanislav Neigauz, Andrei Volskonky, Marya Yudina (bà này đã từng gọi Stalin là tên tội lỗi lớn, a great sinner), và Sviatoslav Richter – trình diễn mấy giờ đồng hồ. Trong số những người khiêng hòm ra khỏi nhà, có Andrei Sinyavsky và Yuli Daniel (sau bị bắt vì những bài viết ly khai), và Lev Kopelev. Vừa ra bên ngoài là họ đụng đầu với một biển người, trên mặt người nào cũng đượm nét đau thương - bạn bè, sinh viên, công nhân, thợ thuyền và dân quê. Một ông Hữu Thỉnh mũi lõ, thuộc Hội Nhà Văn Liên Xô, mở cửa chiếc xe limousine lớn, mầu đen, và tính ghé vai khiêng hòm, nhưng đám sinh viên la lớn, đi chỗ khác chơi. Rất nhiều người nài nỉ cho ghé tí tay, tí vai vô hòm, đưa thi sĩ tới nghĩa trang.
D.M. Thomas: Cái chết của một thi sĩ, Death of a poet [in Alexander Solzhenitsyn: A century in his life]

Nhà thơ HL hình như cũng gọi Bác Hồ của chúng ta bằng cái tên gì gì đó!

*

*

Thứ Sáu, ngày 8 tháng 3 năm 1996, vào lúc 5 giờ chiều, buổi tưởng niệm thi sĩ Joseph Brodsky (tháng Năm 24, 1940 - tháng Giêng 28, 1996), Nobel văn chương 1987, tại nhà thờ St. John the Divine, New York, có lẽ đã đúng như ý nguyện của ông. Thay vì cuộc sống vị kỷ, những người bạn của ông đã nhắc nhở nhau về những chu toàn, the achievements, ngôn ngữ - the language - của người quá cố:

Death will come and will find a body
whose silent peace will reflect death's approach
like any woman's face
(Chết sẽ tới và sẽ thấy một xác thân
mà sự bình an lặng lẽ sẽ phản chiếu cái chết tới gần
như gương mặt của một người đàn bà nào đó). 

Tuy sống lưu vong gần như suốt đời, ông được coi là nhà thơ vĩ đại của cả nửa thế kỷ, và chỉ cầu mong ông sống thêm 4 năm nữa là "thế kỷ của chúng ta" có được sự tận cùng vẹn toàn. Ông rời Nga-xô đã hai chục năm, cái chết của ông khiến cho căn nhà Nga bây giờ mới thực sự trống rỗng.
Ông sang Mỹ, nhập tịch Mỹ, yêu nước Mỹ, làm thơ, viết khảo luận bằng tiếng Anh. Nhưng nước Nga là một xứ đáo để (Chắc đáo để cũng chẳng thua gì quê hương của mi...): Anh càng rẫy ra, nó càng bám chặt lấy anh cho tới hơi thở chót. 

-Bao giờ ông về?.
-Có thể, tôi không biết. Có lẽ. Nhưng năm nay thì không. Tôi nên về. Tôi sẽ không về. Đâu có ai cần tôi ở đó?
-Đừng nói bậy, họ sẽ không để ông một mình đâu. Họ sẽ công kênh ông trên đường phố... tới tận Moscow... Tới Petersburg... Ông sẽ cưỡi ngựa trắng, nếu ông muốn.
-Đó là điều khiến tôi không muốn về. Tôi đâu cần ai ở đó.