*

Diary
















*

Hãy cho anh khóc bằng mắt em

Note: Trên TLS số 5 Tháng Chín, 2008, có bài điểm cuốn Một Ngày Làm Rung Chuyển Thế Giới Cộng Sản.
Tin Văn scan, để tặng mấy anh VC nằm vùng Đào Hiếu, Lữ Phương, kèm câu này, trích trong bài điểm": "first we need to interrogate Nagy, then we will hang him by the tongue": “Trước tiên, chúng ta cần tra hỏi Nagy, sau đó treo hắn ta lên, bằng cái lưỡi của hắn"


tặng cho em nguyên một đóa trăng rằm
thôi câu chuyện tình nói cho nhiều rồi cũng vậy
trăm năm dài rồi sẽ đụng nghìn năm
tất cả qua đi, điều gì còn ở lại
một đóa hoa quỳnh trong cõi trăm năm
NBS

Thời Chúa Sẩy Thai




Gấu nhà văn
Kurtz des ténèbres [Kurtz của bóng đen]

Bien qu'il n'ait jamais disparu, le courant brun qui coulait rapidement du cœur des ténèbres vers la mer en nous emportant sur le fleuve Congo est de retour. Et avec lui revient le personnage de Kurtz qui, lui non plus, n'a jamais disparu, ou s'il l'a fait, il était « parti très loin, comme dirait Kafka, pour rester ici ».
Thì, tất nhiên, nó chẳng bao giờ biến mất, cái dòng nước đục ngầu, đỏ như máu, của sông Hồng, chảy từ trái tim của bóng đen, là thành phố Hà Nội, ra biển, đưa chúng ta dạt dào lưu vong, sau khi thoát hải tặc Thái lan, mãi tít tới miệt Công Gô, và, ăn Tết Công Gô xong, lại trở về.
Và cùng về với nó, là nhân vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng hề biến mất, hay là, nếu anh ta làm như thế, “anh ta đi rất xa, nói như Kafka, để ở lại đây”.
Ui chao, nghe cảm khái cứ như thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ, và những đấng Yankee mũi tẹt, giang hồ khắp thế giới, đi đến đâu là biến nhà người, đất người thành bãi đánh hàng:
Từ thuở mang gươm đi dựng nước
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long

 *
Cầu Việt Trì, trên sông Hồng, nơi ông cụ Gấu, vào năm 1946, được một đấng học trò làm thịt,
xong, thẩy xuống sông, kèm cục đá tổ bố, để cho khỏi nổi lên.

Kurtz, như thế, họ hàng với Colonel Sutpen, trong Absalom, Absalom!
Cũng dòng Yankee mũi tẹt, gốc gác Hải Dương [cùng quê PXA], hay Sơn Tây [cùng quê Tướng Râu Kẽm]?
Gấu bảnh hơn cả PXA & Râu Kẽm: Sinh Hải Dương, nhưng gốc dân Sơn Tây!
Gấu về Bắc lần đầu, năm 2000, là để tìm hỏi coi ông bố mình mất ngày nào, và đến chỗ ông mất, trên, ngày xưa chỉ là một bãi sông, thắp nén hương cho bố, rồi đi.
Mấy ông bạn văn VC nói, đi làm cái quái gì nữa, anh mua cái nhà, khu Thanh Xuân chẳng hạn, vừa gần Tướng Về Hưu vừa gần tụi này!
Đi rất xa, chỉ để ở lại đây!
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm!
*
Motifs
In the novel, Conrad uses the river as the vehicle for Marlow to journey further into the "heart of darkness." The descriptions of the river, particularly its depiction as a snake, reveal its symbolic qualities. The river "resembl[es] an immense snake uncoiled" and "it fascinates [Marlow] as a snake would a bird." Not only is Marlow captivated by the river, representing as it does the jungle itself, but its association with a snake gives this "fascination of the abomination" its metaphorical characteristics. The statement that "the snake had charmed me" alludes to both the idea of snake charmer and the snake in the story of Genesis. While typically, a snake charmer would charm the snake, in this case, Marlow is charmed by the snake, a reversal which puts the power in the hands of the river, and thus the jungle wilderness. Furthermore, the allusion to the snake of temptation from the story of Adam and Eve demonstrates how the wilderness itself contains the knowledge of good and evil, and upon entering that wilderness Marlow will be able to see, or at least explore, the characteristics of humanity as well as good and evil.
Heart of Darkness [Wikipedia]
Miêu tả sông Hồng, đặc biệt, như một con rắn, làm bật ra chất biểu tượng của câu chuyện... Nó hớp hồn Marlow, như con rắn trước con chim [như con cua NDT co rúm người trước con ếch TH! Coi hồi ký NDM]
Reception
In a post-colonial reading, the Nigerian writer Chinua Achebe famously criticized the Heart of Darkness in his 1975 lecture An Image of Africa: Racism in Conrad's "Heart of Darkness", saying the novel de-humanized Africans, denied them language and culture, and reduced them to a metaphorical extension of the dark and dangerous jungle into which the Europeans venture. Achebe's lecture prompted a lively debate, reactions at the time ranged from dismay and outrage—Achebe recounted a Professor Emeritus from the University of Massachusetts saying to Achebe after the lecture, "How dare you upset everything we have taught, everything we teach? Heart of Darkness is the most widely taught text in the university in this country. So how dare you say it’s different?"[3]—to Cedric Watts' A Bloody Racist: About Achebe's View of Conrad (1983),[4] which sets out to refute Achebe's critique. Other critiques include Hugh Curtler's Achebe on Conrad: Racism and Greatness in Heart of Darkness (1997).[5]
In King Leopold's Ghost (1998), Adam Hochschild argues that literary scholars have made too much of the psychological aspects of Heart of Darkness while scanting the moral horror of Conrad's accurate recounting of the methods and effects of colonialism. He quotes Conrad as saying, "Heart of Darkness is experience...pushed a little (and only very little) beyond the actual facts of the case."[6]
Heart of Darkness is also criticized for its characterization of women. In the novel, Marlow says that "It's queer how out of touch with truth women are." Marlow also suggests that women have to be sheltered from the truth in order to keep their own fantasy world from "shattering before the first sunset."
Adaptations
The most famous adaptation of Conrad’s Heart of Darkness is Francis Ford Coppola's 1979 movie Apocalypse Now, which translates the context of the narrative from the Congo into Vietnam and Cambodia.
Heart of Darkness [Wikipedia]


Three Reviews

Tứ Khúc



Gấu có nhớ nhà không?

Trong Ngàn Lẻ Một Đêm, có câu chuyện một anh ở Sài Gòn, đêm nằm mơ, Đức Thánh Trần xúi, mày phải đi đến thành phố đó, ở xứ đó đó, ở đó một kho tàng đang đợi mày. Thế là nghe theo, bèn xuống cá bé, ra cá lớn, thoát công an biên phòng, thoát hải tặc, tới được thành phố kia, mệt quá, vô nhà thờ nghỉ, gặp một tay cũng đang nằm nghỉ, hỏi chuyện, nói lý do, tay này cười nói, sao tin mộng mị, tao cũng thường nằm mơ, có người xúi, phải đến Sài Gòn, tới cái nhà đó đó, có kho tàng đang đợi mày. Anh chàng kia nghe nói, mới ngộ ra, kho tàng ở ngay nhà mình! Thế là hồi chánh, đào kho tàng lên, an hưởng tưổi già!
Nếu không vượt biển, nếu không lưu vong, làm sao biết kho tàng ở ngay nhà mình?
Gấu đọc, cứ cười mãi, và cầu chúc cho mấy anh hồi chánh, người nào cũng vớ được của, khi trở về.
Nhưng, nhớ là phải chia cho VC, không, nó bắt bỏ mẹ!


Một thời để yêu, để hát, và để chết

Tình đầu

Bởi vì đây là một hồi ức, tôi phải giấu tên của nàng, và, nếu như phải gọi tên nàng ra, để cho đỡ nhớ, thì tôi sẽ đưa ra một đầu mối, theo kiểu của những nhà thơ Divan thường sử dụng, nhưng tôi phải gợi ý thêm ở đây, là, đầu mối này, như tất cả phần còn lại của câu chuyện của tôi, sẽ có thể khiến bạn lạc đường.
Tên của nàng là Bông Hồng Đen, theo tiếng Ba Tư, nhưng, theo như tôi biết, cho tới nay, chẳng có ai trên bến cảng Sài Gòn, nơi mà chiều chiều, nàng vô tư nhảy xuống tắm biển, và chẳng có ai trong số bạn học của nàng ở trường trung học của người Pháp, để ý đến chuyện tên nàng là Bông Hồng Đen, ấy là vì, mớ tóc dài long lanh sáng ngời của nàng thì không phải mầu đen mà là mầu hạt dẻ, và cặp mắt nâu của nàng thì cũng mầu hạt dẻ, nhưng xẫm hơn một chút, so với mầu tóc.
Khi tôi thật khôn khéo, thật tế nhị, nói với nàng, tên nàng có nghĩa là Bông Hồng Đen theo tiếng Ba Tư, nàng nhướng mày, nàng luôn làm như vậy, mỗi khi nàng đột nhiên trở nên nghiêm túc, và, trề môi ra một tí, nàng nói, lẽ dĩ nhiên, nàng biết tên của nàng có nghĩa là gì, và nàng nói thêm, tên của nàng là được đặt theo tên của bà nàng, một phụ nữ người Albanian.
Về “bà phu nhân” đó, tức mẹ nàng, theo như mẹ tôi cho biết, bà chắc hẳn đã lấy chồng rất sớm, bởi vì khi anh tôi được năm tuổi, tôi, ba tuổi, vào những buổi sáng mùa đông, mẹ tôi đưa hai anh em chúng tôi tới công viên Macka Park, ở Nisantasi, mẹ tôi đã nhìn thấy cô bé con cùng bà mẹ, chẳng khác chi một thiếu nữ, và cô thiếu nữ đã làm mẹ này thì đang dỗ cô bé con ngủ - tức là “nàng” - nằm trong một cái xe đẩy thật lớn.  Mẹ tôi có lần nhắc tới chuyện, bà của cô bé, người Albanian, xuất thân từ hậu cung của một vì pasha, ông này, hoặc đã làm một điều gì hết sức bậy bạ, trong những năm ngưng chiến, hay tự hạ nhục chính mình, khi chống đối Ataturk, nhưng tôi chẳng có một chút quan tâm nào tới những biệt thự có từ thời Ottoman đã bị đốt rụi, hay những gia đình đã từng ở trong đó, cho nên tôi chẳng nhớ chính xác chuyện này ra sao. Còn cha tôi, ông nói bằng một giọng nói chẳng có vẻ chi thù nghịch hay khinh khi, cha của cô bé Bông Hồng Đen, đã nhanh chóng trở nên giầu có trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, nhờ những làm ăn, chuyển nhượng với những công ty Hoa kỳ và Hà lan mà ông ta là một người đại diện, và nhờ những nhân vật có thế lực, ảnh hưởng, trong chính quyền, mà ông ta quen biết.
Tám năm sau cuộc gặp gỡ của chúng tôi tại công viên, khi gia đình tôi mua một căn nhà ở khu Bayramoglu, một nhà nghỉ mùa hè ở phía đông thành phố, rất thời thượng đối với những nhà giầu mới nổi vào thời kỳ thập niên 1960 và 70, và vào lúc này, tôi có thể nhìn thấy nàng cưỡi xe đạp. Vào thời đại hoàng kim của thành phố, khi vùng này chưa phát triển và vắng người, vào những buổi đẹp trời, tôi thường tắm biển, hay dùng thuyền đi ra xa phiá bên ngoài, thả lưới, bắt cá thu, cá song, hay chơi đá banh trên bãi biển, và vào những buổi chiều mùa hè, khi tôi đã được mười sáu tuổi, khiêu vũ với mấy cô gái. Tuy nhiên, sau đó, khi tôi học xong trung học, và đã bắt đầu học về kiến trúc, tôi có thói quen ngồi trên sàn nhà, tầng chệt, vẽ và đọc. Với đám bạn con nít nhà giầu của tôi, chúng gọi bất cứ ai đọc bất cứ một cuốn sách nào ngoài những cuốn sách, cuốn tập của nhà trường, là một nhà trí thức, hay một nhân vật mờ ám bị “bủa vây bởi những mặc cảm”. Lời bình phẩm thứ nhì, như trên, họ thường nói bừa bãi – và nó có thể còn có nghĩa, bạn có những vấn đề tâm lý, bạn bị mát, hay cũng có thể, bạn bị lo âu về vấn đề tiền bạc. Tôi thì thực sự lo âu, khi bị dán cho cái nhãn “trí thức”, bởi vậy, hy vọng thuyết phục đám bạn nhí nhà giầu, mình không phải là một thứ hợm hĩnh, trưởng giả học làm sang, và bất lực, tôi bắt đầu nói với chúng, tôi đọc những cuốn sách của tôi – Woolf, Freud, Sartre, Mann, Faulkner của tôi – “chỉ để dzui thôi mà” [như bạn hiền ĐT từng nói], tuy nhiên, đám đó lại truy tiếp, "dzui thôi mà" sao gạch đít gạch chân tùm lum, tà la nhiều đoạn?
Chính là thứ tai tiếng như trên đã khiến cho nàng để ý đến Gấu tui, vào một mùa hè muộn màng - điều này, mặc dù sự kiện, tất cả mùa hè đó, hay tất cả những mùa hè, trước khi tôi trải qua nhiều thì giờ với đám bạn bè, hai đứa chúng tôi gần như chẳng ai thèm đề ý đến ai.
Khi tôi cùng đám bạn, vào giữa đêm khuya, kéo nhau đi nghe nhạc discos, như là một bầy con trai trai hạnh phúc, hay chạy xe (đôi khi đụng xe), trên những chiếc Mercedes, Mustang, hay BMW, chủ xe là một người nào đó, trên Đại lộ Badat (khi đó được gọi là Đại lộ Công viên của thành phố Á châu, chỉ cách chỗ ở của chúng tôi chừng nửa giờ), hay là chúng tôi dùng ghe máy chạy ra một mỏm đá trơ trọi, ở đó, chúng tôi bầy ra những hàng vỏ chai soda hay rượu vang, rồi dùng súng săn, thứ thật bảnh, của mấy ông bô giầu có, chúng tôi chơi trò bắn bia, và cố gắng làm cho mấy cô gái đừng hoảng sợ la thét lên, hay chúng tôi nghe Bob Dylan, hay Beatles, trong khi chơi bài poker,  Monopoly, Bông Hồng Đen và tôi, khi đó, chẳng ai thèm để ý đến ai.
Đám thanh thiếu niên ồn ào, náo động là lũ chúng tôi đó dần dần rã ra cùng với mùa hè kết thúc, và rồi những cơn bão lodos chợt tới với thành phố, quất túi bụi lên những bến cảng vào mỗi tháng Chín đuổi chạy có cờ mấy chiếc thuyền buồm, ghe máy chậm chân. Trong khi mưa cứ thế trút xuống, Bông Hồng Đen, lúc này đã mười bẩy tuổi, chẳng biết làm gì cho qua thì giờ, bèn ghé thăm căn phòng mà tôi thường ngồi vẽ, vào những giờ phút trọng đại như thế, tôi ban cho nó một cái tên thật xứng đáng với nàng: xưởng họa của Gấu. Tất cả những bạn bè của tôi cũng thỉnh thoảng ghé, cũng bầy đặt thử tài hội họa, này, đưa tao cây bút chì, cho tao tờ giấy vẽ, trong khi nhìn, với cặp mắt đầy nghi ngờ, những cuốn sách của tôi, và chuyện này thì cũng chẳng có gì là lạ, so với tai tiếng của Gấu. Như tất cả hầu hết đám chúng tôi sống ở Thổ nhĩ kỳ thời kỳ này, giầu hay nghèo, nam hay nữ, Bông Hồng Đen cũng cần chuyện vãn để cho qua ngày, và đỡ buồn.
Vào lúc bắt đầu, chúng tôi chia sẻ với nhau ba chuyện ngồi lê đôi mách, những câu chuyện thuộc loại rỉ tai lưu truyền trong đám bạn bè mùa hè vừa qua - đứa nào mê đứa nào, và đứa nào vì vậy mà ghen đến điên lên – tuy nhiên, tôi thực sự chẳng để ý đến mấy chuyện đó. Bởi vì nhiều khi tay tôi dính sơn, cho nên, có khi, nàng giúp tôi pha trà, hay mở một tuýp mầu, trước khi trở về chỗ của nàng hay ngồi, ở một góc phòng, và, đá văng đôi giầy ra khỏi đôi bàn chân, nàng nằm dài ra sô pha, lấy một cánh tay làm cái gối. Một bữa, không nói với nàng, tôi đi một đường ký họa, cảnh nàng nằm dài trên sô pha. Tôi nhận thấy, nàng có vẻ thích, và thế là lần tới, tôi chơi thêm một bức ký họa nữa.
Lần tới, khi tôi nói, tôi sẽ vẽ nàng, nàng hỏi, “Anh muốn em ngồi như thế nào?”, như một kiều nữ chưa từng bao giờ đứng trước máy quay phim, hay như một ngôi sao nho nhỏ ước ao sẽ có ngày trở thành minh tinh, run run, không biết để tay để chân như thế nào, và ở đâu.
Khi tôi ngắm nghiá cái mũi dài của nàng, để vẽ làm sao cho thật tới, một nụ cười như thấp thoáng nở ra trên miệng nàng; ôi trán nàng mới cao làm sao, nàng thì cao, với đôi chân dài, mầu nắng hun, nhưng khi nàng đến thăm tôi, nàng mặc một cái váy dài, bó sát người, thật nhã, chiếc áo này là của bà nàng truyền lại, thành thử tôi chỉ nhìn thấy đôi chân thon thẳng của nàng. Trong khi phác hoạ, trong khi trầm tư, chiêm ngưỡng những làn cong mềm mại của hai trái cau, hay hai trái đào, hay hai gò bồng đảo nho nhỏ, và làn da trắng một cách lạ thường nơi cổ cao, một cái bóng của sự ngượng ngùng, tủi thẹn, bỗng nhẹ nhàng bay qua trên khuôn mặt thiên thần.
Vào những lần đầu đến thăm, chúng tôi nói chuyện thật nhiều, và nàng là người hay nói. Bởi vì tôi gạn lọc ra, một chút mây mù ở trong đôi mắt, và trên đôi môi của nàng, và nói như giao hẹn, này đừng có bao giờ buồn thê buồn thảm như vậy nữa nhé, và nàng như được dịp, xổ bung ra, những trận cãi cọ giữa hai đấng sinh thành, và những trận thư hùng giữa bốn ông em trai, và những sự trừng phạt của ông bố đối với tụi em của nàng (những cái bạt tai, đá đít, cấm ra khỏi nhà, cấm “ra biển gọi thầm”, trên những chiếc thuyền máy) – và nỗi buồn bã, xót xa của bà mẹ khi ông bố lo săn đuổi những người đàn bà khác, nàng nói, nàng nói chuyện đó, vì nàng biết mẹ nàng và mẹ tôi là hai bạn chơi bài, và cũng đã từng than thở với nhau nhiều lần, về chuyện hai ông bố cùng mê chạy theo gái, và khi nói những chuyện đó, nàng nhìn thẳng vào mắt tôi.
Dần dần, cả hai đứa chúng tôi chìm vào im lặng. Có những lần, khi tới thăm, nàng bước thẳng tới chỗ nàng thuờng hay ngồi, hay nàng sẽ ngồi, nơi ngồi làm mẫu (những bức ký họa của tôi thời gian này ảnh hưởng nặng nề Bonnard), hay nàng sẽ mở ra coi một cuốn sách tình cờ có đó, và nằm đọc trên sô pha, lâu lâu đổi cách nằm. Những lần sau này, vẽ hay không vẽ, thì cũng thành lệ: nàng gõ cửa, và đi vô phòng, chúng tôi cũng chẳng nói chi nhiều ngoài một hai câu chào hỏi, và tới nằm tại một góc sô pha, và đọc cuốn sách của nàng mang theo, đôi khi, từ một khoé con mắt, nàng nhìn tôi đang vẽ nàng. Sáng nào cũng vậy, cũng thành lệ, làm việc được một chút, là tôi nghĩ tới nàng, và tự hỏi, khi nào nàng tới, và như thể nàng cũng biết như vậy, cho nên ít khi nàng bắt tôi phải chờ đợi lâu, và khi nàng tới, là tới cùng với nàng nụ cười, hơi có vẻ bẽn lẽn, và trong một dáng điệu như muốn bầy tỏ, này hãy tha lỗi cho em, nếu em có làm phiền gì đến anh, nếu em có đến muộn, và trong cái dáng điệu hãy bỏ qua cho em như thế đó, nàng tới góc sô pha quen thuộc, và trải người nằm xuống.
Một trong những đề tài rất ít khi được nhắc tới, là tương lai của chúng tôi.