*




*

*

Xì Lô @ the airport, the first day in Canada, cc 1994

*  *

Hi, Mom.
Merry Têt and Happy New Year to U
Richie & Jennifer


Thơ mỗi ngày


Diễn Văn Nobel 2010
Nobel Lecture
December 7, 2010

In Praise of Reading and Fiction
Ca Ngợi Đọc và Giả Tưởng


Đêm giữa ban ngày


Ghi chú trong ngày

Sự thực, như đã trình bày ở trên, sự có mặt của tạp chí Sáng Tạo, một dấu mốc quan trọng của 20 năm văn học miền Nam, chỉ là một tình cờ. Như bất cứ một tình cờ nào khác trong dòng sống.
Sự thực, chẳng có một ông Mai Thảo / Nguyễn Đăng Quý nào được CIA tuyển dụng. chọn trước. “Cài, cấy.” Sự thực, cũng chẳng có một ông Duy Thanh nào vì tế nhị phải “chối từ” thân thế.
Sự thực, đôi khi đơn giản tới mức độ gây “buồn lòng” cho những người thích thêu dệt, với óc trinh thám, tiểu thuyết.
Sự thực chỉ là: Nếu không có người mẫu Trúc Liên, không có “Thiếu nữ từ tranh bước ra” thì, chưa chắc đã có Graham Tuckers. Mà, không Graham Tuckers, phải hiểu, đồng nghĩa với việc không có Sáng Tạo!

Nguồn DTL.com

Ông bạn thi sỡi Du Tử Lê này, thú thực, đúng thứ ngây thơ cụ. Cái chuyện Xịa tài trợ làm tờ Sáng Tạo, thì rõ như ban ngày, nhưng những ông như Duy Thanh, Thanh Tâm Tuyền, và có thể cả Mai Thảo, khi ngửa tay nhận tiền, cũng không hề biết đó là tiền của Xịa.
Đây là trường hợp đã xẩy ra cho rất nhiều tờ báo rất uy tín, với không biết bao nhiêu là nhà văn nhà thơ Tây Phương, toàn những thứ hách xì xằng, cộng tác, không ai biết, tờ báo do Xịa chi tiền!
Người phịa ra mặt trận chống tư bản, chống phát xít trước, hướng về cái nôi Cách Mạng là Điện Cẩm Linh, là Ilya Ehrenburg.  Trên TV có giới thiệu.
Koestler, nhân đó, mới đề nghị Mẽo mở ra Mặt Trận Bảo Vệ Văn Hóa Tự Do, nhưng sau ông cũng bị Mẽo đá đít. Vụ này lý thú lắm, để thủng thẳng, Gấu trình bày tài liệu, dẫn chứng..  sau!

Tờ HL cũng có đóng góp của Xịa đấy, và của cả VC nữa, đấy. Còn KT đó, thử hỏi anh ta thì biết! Hỏi NT, hay NMG, cũng được. Vụ này, GNV nghe qua NMG, hình như cũng đã lèm bèm trên TV rồi. NTV hỏi lại KT, xừ luỷ xác nhận có. Tờ TC cũng được đưa đề nghị, nhưng một tay trong tòa soạn, [không phải NTV mà là TDT], từ chối, không nhận. Tiền VC tài trợ HL, là danh sách độc giả dài hạn, do đám bỏ chạy bợ đít VC đóng góp.

Người "sáng tạo" ra cái ý nghĩ dùng tiền Xịa nuôi báo văn nghệ, không hề đòi hỏi, mi phải chống Cộng, chỉ cần viết thứ văn chương ra văn chương [thế là chống Cộng rồi] là me xừ Koestler.
Đây nè, ông ta đang nói chuyện bữa khánh thành cái cơ quan, mà sau này, chi tiền luôn cho cả VP làm bộ VHMN, lẽ dĩ nhiên là dưới 1 cái ô dù khác, nhưng vẫn là đô la Mẽo!

Ngay cả quỹ WJC gì gì đó, chi tiền cho VC viết văn hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng bộ mặt lưu vong Mít, theo 1 nghĩa nào đó, là cũng tiền Xịa, nếu chúng ta hiểu đúng đắn ý tưởng của Koestler, khi đề nghị Mẽo mở ra cái gọi là Hội Nghị vì Tự Do Văn Hoá.
Czeslaw Milosz, thi sĩ, Nobel văn chương, cũng rất rành vụ này. Ông đã từng bốc phét, dư sức viết cả 1 cuốn sách về đề tài này, nhưng đếch thèm viết. Trên TV cũng có nhắc tới, để thủng thẳng, tìm coi nó ở đâu!

*

Cái vụ ra đời của HL cũng ly kỳ và ‘cần thiết’ y chang cái vụ Koestler đẻ ra Hội nghị Văn hóa Tự Do [1950]. Số là, lúc đó, Đảng ta quá cần 1 tờ báo của phe ta, ở hải ngoại, mà phải 1 tên Ngụy, thứ thiệt, làm chủ thì mới ăn khách. Vớ được ngay ông KT, còn gì bằng, lính Ngụy thứ thiệt, ba gai ba ghiếc chẳng sợ thằng nào hết. Thế là Đảng ra lệnh cho Vịt Kìu iêu nước giúp nó 1 tay, tao ra mặt không tiện! Nhưng, Xịa cũng có ý nghĩ đó, mạt cưa mướp đắng gặp nhau là vậy. Thế là cũng vẫy vẫy KT, đến đây tao chi cho tí tiền.

Khổ 1 nỗi, Đảng không khứng chuyện bắt cá hai tay như vậy. Và anh Xịa thì cũng không tin KT làm nên trò trống gì [dân lính tráng i tờ rít biết gì về văn chương, mấy anh Xịa chắc nghĩ thế], thế là bèn cho 1 tên agent qua VN thăm thú tình hình, coi tờ HL có về được trong nước hay không. Bị ngay VC tóm, chụp hình hồ sơ tài liệu, rồi thả. Đến khi NT về gặp ông em lo xb Đất Tầu Đất Ta, bị anh cớm VC tóm, đưa cho coi hồ sơ nhận tiền Xịa, và ra lệnh, đừng có về nữa, không, tao bắt luôn, chứ không đá đít ra khỏi cửa khẩu như Thầy Cuốc.
NT đâu có dám về nữa!
Hà, hà!

Hội nghị vì Tự do Văn hóa

Đọc đầu vào [input] Congrès, pour la Liberté de la Culture, trong cuốn Milosz's ABC's làm Hai Lúa nhớ tới vụ MT nhận tiền của Mẽo làm tờ Sáng Tạo.

Về cái vụ Hội nghị này, tôi [Milosz] có thể viết cả một cuốn sách, nhưng viết làm đếch gì. Nói cho cùng, có hàng đống sách viết về cái gọi là "diễn biến hòa bình" [cập nhật hóa cụm từ "liberal conspiracy": "âm mưu tự do"], như nó được gọi. Một giai đoạn quan trọng trong Chiến Tranh Lạnh.

Vấn đề là như thế này, Nữu Ước thì quá ưa, và quá ư, Mác xịt, trước khi cuộc chiến xẩy ra, và ở trong cái thành phố đó, hai băng đảng Trốt kít và Xì ta lin nít, gặp nhau là ăn tươi nuốt sống lẫn nhau [Milosz: eating each other].

[Hai Lúa không hiểu, tình trạng có giống như Sài Gòn hồi trước Cách Mạng không].

Khi cuộc chiến bùng nổ, tình báo Mẽo, OSS [The Office of Strategic Services], bèn muớn một đám tả phái ở Nữu Ước, của cái gọi là NCL, hay Tả nhưng đếch phải CS [Non-Communist Left]. Họ hiểu rất rõ sự quan trọng của ý thức hệ, đặc biệt là ở Âu Châu, nơi bất cứ một cái đầu nào kha khá một chút, là dính bả Cộng Sản. 

[Hai Lúa lại nhớ tới miền nam Việt Nam, những ngày 1954, ngoài cái đám di cư ra, còn thì đều là mê... miền bắc. Hai Lúa cũng đã có lần kể chuyện, vô nam, còn là thằng con nít, tới trình diện ông chú, Ông Th. Ông 'chưởi': Nước nhà độc lập rồi dzô đây làm gì?, trong Gòa không Goà không, và Tên Của Cuộc Chiến

Sau đó OSS đổi thành CIA, và lập tức tiến hành cuộc chiến "phản-ý thức hệ", tức Chống Cộng. Nhưng người đẻ ra cái ý nghĩ, thành lập một hội nghị Chống Cộng ở Tây Bá Linh vào năm 1950, là Arthur Koestler. Ông đã từng là một viên chức Cộng Sản, trong cái chuồng nổi tiếng Willi Munzenberg, vào thập niên 1930. Koestler làm việc cho trung tâm này. Bây giờ, ở Paris, sau khi cắt bào đoạn nghĩa với Đảng, ông mơ màng tưởng tượng làm sao thành lập được một cái đảng cũng giông giống như Đảng Cộng Sản, nhưng là vì lý tưởng tự do. Một trung tâm ý thức hệ tự do, đại khái dzậy. Mấy tay như Melvin Lasky và những tay ở New York khác đã hỗ trợ ông. Sau hội nghị Berlin, có quyết định là sẽ lấy Paris là nơi đặt đại bản doanh. Và một cái tên Tây nữa chứ, cho phải phép. Thế là ra lò cái tên Hội nghị vì Tự do Văn hóa.

Như thế, cái gọi là Đại hội này, là một tác phẩm đã kinh qua những giai đoạn ý thức hệ Mác xít, Xét lại, và Trốt kít. Chỉ những đầu óc đã kinh qua cả mấy cái lò đó, thì mới hiểu ra được sự nguy hiểm của một hệ thống Xì Ta Lìn Nịt, bởi vì chỉ có họ, những con người độc nhất ở phương Tây, mong ước cái chuyện vá trời, là Chống Cộng, vào thời kỳ đó, ở Tây Phương.

Nói ngắn gọn, chủ yếu là giới trí thức Do Thái  ở Nữu Ước đã thành lập ra cái gọi là Hội nghị.  Jozef Czapski và Jerzy Giedroyc thì đã tham dự ngay từ hội nghị Berlin. Đó là lý do tại sao tôi quen thuộc ngay từ hồi đầu với cả đám.

Vào lúc đó, chẳng ai biết tiền ở đâu ra. Người ta nói, có một số cơ sở thương mại lớn hỗ trợ, và thực sự là vậy. Rồi tới năm 1966, bí mật bật mí, tiền Xịa, và những cơ sở thương mại kia chỉ là bình phong. Vả chăng, cái kiểu đặt đại bản doanh ở Paris, đủ thấy, tiền từ đâu đâu rót xuống. Nhưng khi biết được, Xịa, dân Tây, vốn ghét Mẽo, bèn tẩy chay hoàn toàn.

Ngày nay, nhìn lại, tôi nhận ra một sự thực, cái gọi là âm mưu, xúi  bẩy người ta nếm mùi tự do, the liberal conspiracy, như thế, là rất đáng làm, nên làm, và rất chính đáng.
[Đó cũng là nhận định của một số người Việt về cái chuyện MT lấy tiền Mẽo làm tờ Sáng Tạo. Có trách ông, là ông làm báo thì ít, mà đi vũ trường, bao gái, thì nhiều!]

Hội nghị trên đúng là một đối lực, chống lại chiến dịch tuyên truyền qua đó, những người Xô Viết mở rộng ảnh hưởng tới mọi xó xỉnh. Hội nghị đã cho xb nhiều tờ báo có giá trị rất cao, bằng những ngôn ngữ chính của Âu Châu: Preuves ở Paris, Encounter ở London, Quadrant ở Úc, Tempo Presente, với một trong chủ biên là Ignazio Silone ở Rome, Der Monat, Đức, Quardernos, Tây Ban Nha. Họ muốn kéo cả Kultura vào cùng một rọ, nhưng Giedroyc, từ chối, mặc dù ông ta quá cần tiền cho tờ báo.

Tôi thì cũng rứa. Tiền thì cũng muốn hít, nhưng đau thì vẫn thấy đau, cứ như gái ngoan ngồi phải cọc!

Lẽ dĩ nhiên, còn nghi ngờ nữa chứ. Tiền có mùi gì kỳ quá hé!

Nói cho cùng, thì cũng tội quá nghèo. Mà mấy ông chủ Mẽo ở Paris hồi đó thì quá giầu. Ngày nay, nghĩ lại, tôi cũng thấy mủi lòng, ấy là nói về thái độ của mình đối với Michael Josselon. Ông chủ chi địa, mọi chuyện đều trông vào ông. 

Tôi thật sự không ưa, cái vẻ tự mãn của ông ta, và nhất là điếu xì gà. Cả đám những ông chủ Mẽo này đều mắc một cái tội là hay quên, nhất là những lỗi lầm của họ. [Thì cái vụ Việt Nam chưa hết đau, nỗi đau hội chứng, hậu hội chứng, thì đã chui đầu vào bẫy Iraq!]. Một trong những lỗi lầm của đám họ, ở Paris hồi đó, là chơi một cái văn phòng hách xì xằng, ở trong một khu đắt tiền nhất Paris, trên Đại lộ Montaigne.

Để chứng tỏ, tuy quen biết, nhưng tôi chẳng có thớ gì, ở trong Hội nghị, là, tôi đã bị từ chối visa nhập cảnh Mẽo. Lỗi đâu phải ở Hội nghị, tuy nhiên....

Một trong những nỗi đau của ông chủ chi địa Josselon, là qua tiền của ông, rất nhiều nhà văn nhà thơ lên hương, thoát ra khỏi lục địa Âu Châu cằn cỗi, nghèo khổ, nhập thiên đàng Mẽo, nhưng ông chủ không làm sao vỗ ngực nói, này, nhờ tao cho mày tiền đó!
*

Người khui ra vụ MT nhận tiền Xịa làm tờ ST, là NS, do thù TTT. Có thể tới lúc đó, TTT mới biết, và do tính của ông, rất ghét chuyện bửn, thế là ông rãn ra, và, cũng hết mẹ nó tiền, do bao gái nhảy nhiều hơn là do làm báo. GNV tin rằng, VP, vì lý do này, khi lấy tiền Mẽo làm bộ VHMN, đã đổi cái tên Mẽo thành cái tên Việt!


Mémoirs
Đóa hoa hồng vùi quên trong tay

I wish you will have another book...

Tks.

Tôi sẽ dịch tiếp cuốn “Gọi người đã chết”, thay cho lời chúc Tết năm nay.
Cuốn này, ngay khi vừa mới ra được hải ngoại, tôi đã dịch, được 1, 2 chương đầu, rồi lo đi bán bảo hiểm nhân thọ...
Bây giờ nhớ lại những ngày tù Bangkok, nghĩ đến anh bạn tù người Mã Lai nằm kế bên, nhớ tới.... bèn lôi ra dịch tiếp.

*
*

GNV & HPA @ Paris 1999

Tính làm 1 chuyến dối già, mà coi bộ phiêu quá rồi!

Phận lưu vong

*

Cầu Việt Trì, trên sông Hồng, nơi ông cụ Gấu, vào năm 1946, được một đấng học trò làm thịt, xong, thẩy xuống sông, kèm cục đá tổ bố, để cho khỏi nổi lên.

Kurtz des ténèbres [Kurtz của bóng đen]

Bien qu'il n'ait jamais disparu, le courant brun qui coulait rapidement du cœur des ténèbres vers la mer en nous emportant sur le fleuve Congo est de retour. Et avec lui revient le personnage de Kurtz qui, lui non plus, n'a jamais disparu, ou s'il l'a fait, il était « parti très loin, comme dirait Kafka, pour rester ici ».
Thì, tất nhiên, nó chẳng bao giờ biến mất, cái dòng nước đục ngầu, đỏ như máu, của sông Hồng, chảy từ trái tim của bóng đen, là thành phố Hà Nội, ra biển, đưa chúng ta dạt dào lưu vong, sau khi thoát hải tặc Thái Lan, mãi tít tới miệt Công Gô, và, ăn Tết Công Gô xong, lại trở về.
Và cùng về với nó, là nhân vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng hề biến mất, hay là, nếu anh ta làm như thế, “anh ta đi rất xa, nói như Kafka, để ở lại đây”.

Ui chao, nghe cảm khái cứ như thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ, và những đấng Yankee mũi tẹt, giang hồ khắp thế giới, đi đến đâu là biến nhà người, đất người thành bãi đánh hàng:
Từ thuở mang gươm đi dựng nước
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long

NKTV

*

Cái đồn lúc đó không trơ trụi thùi lụi, chỉ hai cái lô cốt như trên. Chung quanh là trại lính, lính Tây, lính Ta, tức lính Ngụy, tức Việt Gian, tức Bảo Chính Đoàn. Xa chút nữa, là những thửa vườn, ruộng của vợ con lính. Cả 1 khu bề thế.
Chỉ đến khi trở về, hơn  nửa thế kỷ sau đó, nhìn hai cái lô cốt trơ trọi, Gấu mới ngộ ra cái thế yểm bùa của nó. Cái Ác Bắc Kít, bị phù thuỷ Cao Biền, bị danh tướng thiên triều Mã Viện, trấn áp, bao nhiêu đời, [cái này là hiện thực huyền ảo nhe, đừng chửi Gấu, Tây mới cai trị sau này, sao mi dám lần tới thời kỳ lập nước], phải đợi đến ngày 30 Tháng Tư 1975, mới thoát ra được, và gây họa cho giống Mít, đúng như nhà thơ ông anh tiên đoán: Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này!

Khủng khiếp thật.

Thảo nào Thảo Trường gật gù, mi về chụp cái hình “cột đồng Mã Viện”, qua Việt Trì đốt nén hương cho ông cụ mi, xong, là đi, chẳng cần phải về nữa!
*

THE LASTING POWER OF "HEART OF DARKNESS"

Joseph Conrad's slim novel may be the single most influential hundred pages of the 20th century, writes Robert Butler in his latest Going Green column ...

From INTELLIGENT LIFE Magazine, Winter 2010

It was a beautiful moment in 1887 when a veterinary surgeon in Northern Ireland invented a new kind of tyre, to smooth out the bumps when his son was on his tricycle. Within ten years John Dunlop’s pneumatic tyre—inflated canvas tubes, bonded with liquid rubber—had become so successful that the American civil-rights leader Susan B. Anthony could claim, “The bicycle has done more for the emancipation of women than anything else in the world.”

The invention didn’t free everyone. The raw material for the pneumatic tubes came from the rubber vines of the Congo, and the demand for rubber only deepened the damage that had been inflicted in that region by the demand for ivory. A century later, the pattern hadn’t entirely changed: the coltan required for mobile phones comes from the same area, where war has claimed millions of lives over the past 12 years.

Our awareness of the shadowy stories of supply and demand also goes back to one man, a contemporary of Dunlop’s. Between June and December 1890, a 32-year-old unmarried Polish sailor called Konrad Korzeniowski made a 1,000-mile trip up the Congo for an ivory-trading company on a paddleboat steamer called Roi des Belges. It took him nine years to find a way to write about what he saw. Joseph Conrad’s “Heart of Darkness” is a story within a story, which starts with five men on a boat moored in the Thames, and one of them, Marlow, a veteran seaman and wanderer, telling of a journey up a serpentine river into the centre of Africa, where he meets another ivory trader, Kurtz. Six pages in, Marlow tells the others, “The conquest of the earth, which mostly means the taking it away from those who have a different complexion or slightly flatter noses than ourselves, is not a pretty thing when you look into it too much.”

Published in 1902, “Heart of Darkness” had an immediate political impact—it was widely cited by the Congo Reform Movement—but it wasn’t an instant classic. Twenty years later, T.S. Eliot wanted to choose a quotation from it for “The Waste Land”, but his colleague Ezra Pound dissuaded him: “I doubt if Conrad is weighty enough to stand the citation.” Three years after that, Eliot chose another line from the novella as one of the epigraphs for “The Hollow Men”. (“Mistah Kurtz—he dead.”) “Heart of Darkness” had become part of the cultural landscape. In 1938 Orson Welles adapted it for a Mercury Theatre live radio production. He went on to write a screenplay in which he planned—with Wellesian gusto—to play both Marlow and Kurtz. He couldn’t get the movie made and was forced to move on to a project about a media mogul called Charles Foster Kane.

In the late 1970s, Francis Ford Coppola took “Heart of Darkness” and transplanted it to Vietnam as “Apocalypse Now”, with Martin Sheen as Captain Willard, the Marlow character, a special-operations officer, sent on a mission to “terminate…with extreme prejudice” the life of the deranged Captain Kurtz, played by Marlon Brando. In this version the Mekong River becomes the Congo. The irony was hard to miss: just as Britain, once colonised by the Romans (“1,900 years ago—the other day”, writes Conrad), had become an imperial power, so had the United States, once colonised by the British, now become one too. With the success of the movie, the novella’s place on the campus syllabus was assured. “Apocalypse Now” launched a thousand sophomore essays comparing and contrasting the book and the movie.

And now “Heart of Darkness” is a graphic novel by Catherine Anyango, with the ivory domino pieces—lightly touched on by Conrad in the opening pages—looming in the foreground of the opening drawings. The theme of traceability, where things come from and the journey that they take, is vividly dramatised. It’s a story for today. One day in June last year, Jeff Swartz, CEO of the leisurewear company Timberland, woke up to find the first of 65,000 angry e-mails in his inbox. These were responses to a Greenpeace campaign that said Brazilian cattle farmers were clear-cutting forests for cattle and the leather from the cattle was going into Timberland shoes. Swartz has written up his experience for the Harvard Business Review. His first action, he says, was to admit that he didn’t know where the leather came from. It wasn’t a question he had asked.

As “Heart of Darkness” has moved from one medium to another, it has made a good claim to be the single most influential hundred pages of the 20th century. If you consider its central theme—how one half of the world consumes resources at the expense of the other half—it’s easy to see its relevance becoming even greater. Only the resources will no longer be ivory for piano keys, or rubber for bicycle tyres.

Conrad’s artistic challenge was to make the world he saw visible to others. It’s a political challenge too. Sometimes writers reveal a hidden situation, sometimes campaigners do, and sometimes it’s just an accident. Few of us had much idea about the conditions in which copper is mined—everyday copper for plumbing, electrics, saucepans and coins—before 33 Chilean miners found themselves trapped 2,000 feet underground. 
  

Robert Butler is a former theatre critic. He blogs on the arts and the environment at the Ashden Directory, which he edits. Picture Credit: Gastev (via Flickr).

Ideas  GOING GREEN  Intelligence  winter 2010
*

how one half of the world consumes resources at the expense of the other half:

Câu trên chôm và áp dụng vào xứ Mít, được: Bằng cách nào anh Yankee mũi tẹt, tức nửa nước Mít phía Bắc, 'tiêu thụ', thằng em Nam Bộ, tức nửa nước Mít phía Nam.
Đọc bài điểm sách trên, thì ngộ ra 1 điều, lịch sử nhân loại, và cùng với nó, là lịch sử văn học thế giới, hoá ra chỉ qui về… hai cuốn truyện: Trái Tim của Bóng Đen, một nửa thế giới tiêu thụ tài nguyên của 1 nửa thế giới còn lại; Bóng Đêm giữa Ban Ngày, 1 nửa nhân loại và sau đó, toàn thể nhân loại, thoát họa Quỉ Đỏ.
Khi viết Bếp Lửa, TTT không hề nghĩ rằng, cuốn sách của ông là cũng nằm trong truyền thống trên.

Bởi vì nó cũng thuật câu chuyện một nửa nước Mít làm thịt một nửa nước Mít.

“The conquest of the earth, which mostly means the taking it away from those who have a different complexion or slightly flatter noses than ourselves, is not a pretty thing when you look into it too much.”
Published in 1902, “Heart of Darkness” had an immediate political impact…

Cuộc chinh phục Miền Nam, nghĩa là cuộc làm thịt đám Ngụy, thì không bị được đẹp cho lắm, nếu nhìn thật gần, và nhìn thật ‘nâu’ [‘lâu’, đọc giọng Bắc ], và thật nhiều…
Xb vào năm 1954, BL lập tức trở thành một cú chính trị ‘đéo phải đạo’ [dám gọi cái chuyện đi lên chiến khu, vô rừng, theo Chiến Kháng, "cũng là 1 thứ đánh đĩ"!]….


Giấc mơ làm chó

*

Chó muốn sủa sao cũng được, không bị kiểm duyệt. Ảnh On the net

Một người quen của tôi, lâu ngày gặp lại, anh tếu táo tâm sự.

- Ông biết không, thỉnh thoảng ra đường hay xem truyền hình và báo chí, nhìn những cô, cậu chó (tôi dùng chữ cô, cậu vì tuổi của chó được tính khác với con người) được những ông tây, bà đầm ôm ấp, vuốt ve, nâng niu, hỏi han, hôn hít… mà nhiều khi (bạn tôi bảo): thèm tới muốn… chết.

Rồi từ sự “thèm“ ấy anh bảo nó còn được nâng lên hàng ganh tị, ấy là khi những ông tây, bà đầm kia sẵn sàng bỏ ra cả vài ba trăm, thậm chí vài ngàn ê-u-rô để sắm cho những cô, cậu chó của mình những món đồ ăn, đồ chơi, đồ trang sức – những món đồ mà… giời ơi, đến ngay cả những thằng người… Việt bằng xương, bằng thịt chúng mình còn phải mơ ước và thèm khát. Chưa kể những khi trái gió, trở trời, những cô, cậu chó bị khụt khịt, bị “ươn người“ hay đau răng, sổ mũi… lập tức các cô, cậu chó cũng sẽ được các ông tây bà đầm tức tốc trở ngay tới những phòng mạch hơi bị hoành tráng… rồi được đội ngũ các y, bác sĩ ân cần chẩn trị. Và trước khi các cô, cậu chó ra về còn được các y bác sĩ ve vuốt, cầu chúc cho mau chóng bình phục và hẹn ngày, giờ… tái khám. Nhìn những cô, cậu chó của các tây đại nhân mà những thằng… người Việt chúng mình cũng thấy thèm… tới chóng mặt.

Bạn tôi bảo: Một bận, nghe anh phàn nàn về chuyện chó tây sướng hơn cả người Việt, một vị tây đại nhân ngồi hóng hớt đã phát bẳn lên, rồi bảo.

- Chúng mày dở người à? Nó chỉ là những con chó thôi, làm sao có thể ví chúng với con người được?

Anh bạn tôi nhe răng cười, chống chế.

- Tao biết! Rồi anh im lặng. Bụng lại thầm nghĩ: Ngài thì hiểu đếch gì về ước mơ rất… chó ấy chứ.

Anh bảo: Cái thèm mà tôi muốn nhắc đến và so sánh là cái thèm của những người dân chân lấm tay bùn của nước Đại Việt bên kia bờ đại dương kìa – những người mà hì hục từ tờ mờ sương, gánh cả gánh rau ra chợ, ngồi vêu mặt để chờ bán được một hai chục ngàn đồng; những người (hơi bị trai tráng) phải rồng rắn kéo nhau ra chốn thị thành, rồi ngồi túm năm tụm ba nơi ngã ba, ngã tư đường để chờ các đại “ân nhân“ tới… hót đi thông cống, cào phân, đổ rác, khuân gạch, xúc vữa, làm đĩ đực…. với giá vài ba chục ngàn đồng. – Không sao! Miễn là ngày hôm đó không bị “móm“ là được; Những người từ xứ đồng quê chiêm trũng, quanh năm mặt bán cho đất, lưng bán cho trời vẫn không đủ ăn; Những người cả năm thu nhập, cộng nọ, trừ kia chỉ còn được vài ba trăm đồng bạc…v.v.

Tôi bảo bạn.

- Thì ngài cứ huỵch toẹt mẹ nó ra là người Đại Việt (người Việt thời hiện đại) mình còn khổ nhục hơn con chó… của Tây cho bà con dễ hiểu.

- Ừ! – Bạn tôi chép miệng. – Kể ra nếu đem thân phận dân Đại Việt mình mà so sánh với con chó của các tây đại nhân xứ này thì quả là phũ phàng thật. Chả trách nhiều khi xem phim ảnh tây, những thằng người của nước Đại Việt xa xôi mình cứ xuýt xoa, ao ước: Giá được hóa thân làm con… chó của tây đại nhân thì hạnh phúc biết nhường nào…

Tôi đùa bạn.

- Để ước mơ ấy trở thành sự thực, ngài phải làm một cuộc cách mạng.

Bạn tôi trợn ngược mắt hỏi lại.

- Ông bảo sao? Làm cách mạng? Thôi, tôi kiếu bố! Gớm, cái xã hội mình, bố lọ mọ xúc cứt, đổ phân cho tụi nó thì bố sẽ được vinh danh làm chủ nhân ông. Ngược lại bố dở người, xin gột quần, gột áo, rồi vén tay, vén chân tụi nó lên, là bố chỉ còn phương lên „ngồi cúng cụ“ cùng ông bà ông vải trên nóc tủ. Ông nên nhớ mọi cuộc cách mạng của người Việt sẽ chỉ dẫn đến một ground zero! Nghĩa là: Đánh một trận sạch không kình ngạc. Đánh hai trận tan tác chim… muông.

– Đúng! Tôi đáp. Nhưng ông đừng hiểu lầm về một cuộc cách mạng mang tính ý thức hệ, mang tính “chuyển lửa về rừng” hay “diễn biến hoà bình“, có địch-ta hay thua-thắng, mà đó là một cuộc cách mạng hóa… chó.

Bạn tôi nhăn mặt, cười sằng sặc.

- Hơ hơ! Cách mạng hóa chó? Ông nhặt đâu cụm động danh từ lạ tai thế? Nghĩa là những công dân của nước Đại Việt XHCN sẽ phải làm một cuộc hành hương về nguồn? Phải trở lại từ cái nôi hoang dã của mình để làm cách mạng long trời, lở đất? Nghĩa là: Nhà nhà hoá chó? Người người hoá chó? Một cuộc hoá chó toàn diện? Và lúc ấy tôi-ông-chúng ta sẽ phải học cách chia, cách xưng hô, gọi nhau (cách sủa) theo những ngôi thứ mới: I am chó; you are chó, she/he/it are chó; we are chó và they are chó? – Ôi! – bạn tôi xoa hai tay soàn soạt lên mặt, nói – Một xã hội chỉ thấy nhung nhúc toàn chó là chó. Một mô hình xã hội chó – mà không – phải gọi là xã hội XHCN chó sẽ hình thành. Chúng ta sẽ có một Quốc hội chó. Có tổng bí thư chó. Có thủ tướng chó. Có chủ tịch nước chó. Và cũng sẽ có đầy đủ các ban bệ với các bộ trưởng chó tương quan. Chó từ trung ương tới địa phương. Chó từ miền xuôi, tới miền ngược. Chó từ miền Nam ra ngoài Bắc. Mà biết đâu chừng những “khúc ruột ngàn dặm… chó“ từ khắp nẻo hành tinh cũng sẽ hồ hởi trở về để nguyện tận trung báo quốc. Rồi trong xã hội chó ấy cũng sẽ hình thành những nhân cách chó, tư tưởng chó, đạo đức chó. Một xã hội chó tương lai – mọi nơi, mọi chốn, mọi ngóc ngách, phố phường đều nhan nhản những lớp, khoa, trường chuyên đào tạo làm chó… sẽ mọc lên… Tới lúc đó thằng chó tôi, thằng chó ông – những thằng chó chạy nhông, những thằng chó hoang chúng ta sẽ được những đồng chí chó khả kính của mình “đả thông”, và “quán triệt” phương pháp sủa, phương pháp liếm, phương pháp trung thành, phương pháp giữ nhà, và thậm chí cả phương pháp đớp… cứt của chủ sao cho gọn gàng, sạch sẽ… Không! – Bạn tôi đang gà gật đế chuyện, bèn vỗ đét lên đùi, bảo. – Không được! Làm cách mạng là phải mang tới một hương sắc mới, khí thế mới, động lực mới, phải có sự thay da đổi thịt đàng hoàng, chứ làm cách mạng mà chỉ để hoá thân làm chó, rồi sủa theo đúng bài bản, hoặc sủa vạ cho sướng miệng, tới lúc không còn sức để sủa lại bị tụi nó cho một xuất “triệt để“, vậy thì cuộc cách mạng ấy có long trời lở đất đến đâu, xét cho cùng cũng chỉ là cách mạng chó đểu.

Tôi trêu bạn.

- Vậy là ông không chịu hoá thân để làm cách mạng. Mà như thế mãi mãi sẽ chỉ là giấc mơ…

© Việt Hà

© Đàn Chim Việt


Ở hay Về?

V/v Hoàng Ngọc Hiến ra đi

*

Hoàng Ngọc Hiến
[NQT chụp tại nhà riêng của ông,
tại Hà Nội,  Tháng Sáu, 2001].

Cái hình ở trên bài viết của BBC về HNH là của Tin Văn đấy nhé!

Câu này được ‘gợi hứng’ từ 1 câu chuyện tiếu lâm, do HHT kể, trên báo Ngôn Luận, chắc thế, GNV không đọc, nhưng lại nghe một em kể cho nghe, lần đến nhà em trồng cây si, ở ngay phòng khách, dòng dã cả một thời đi học, cùng với cả đám Thất Hiền.
Hai chị em, nghe nói đã từng học CVA, thế mới lạ, quen biết nhạc sĩ CT, rất nổi danh tài sắc. GNV mê cô em, nhưng dưới mắt em, thì Gấu quá cù lần, thành ra cũng chỉ yêu theo cái kiểu "chiêm ngưỡng và kính trọng."!
Cả đám mê hai em, tối nào rảnh là cũng kéo đến nhà. Em nào nhảy đầm cũng giỏi, và rất mê, Gấu nhà văn đành phải nhờ bạn C. đứng đầu Thất Hiền, về cái môn này, dạy cho vài đường, tango thì 4 bước nhé, hay là valse chậm, nhưng Gấu mê nhất là điệu boléro, điệu này thì chẳng học cũng biết, hình như còn có tên là ‘bà già đi chợ’, hay ‘bà già đạp xế đạp’!


Câu chuyện tiếu lâm, "còn cái ô là của chú đấy nhé", hình như Gấu cũng đã từng lèm bèm rồi, nhưng nhân cái vụ BBC chôm hình của TV bèn lôi ra kể lại, cũng là 1 cách cảnh báo mấy đấng Bắc Kít làm cho Đài này, chớ có nghĩ là ăn cướp được Miền Nam, thì cái gì cũng được phép ăn cướp.
Gấu vì quá nhớ Đất Bắc mà mò về, có thể mất mạng với VC, nhờ vậy mà có được tấm hình kỷ niệm với nhà văn hóa số 1 Bắc Kít, ‘cái nước mình nó vốn vậy’, vậy mà mấy anh bồi Hồng Mao cứ làm như đồ chùa, đâu có được!

Trên TV đã ghi rõ: Bản quyền Tin Văn, nhưng tha hồ xài, nếu dùng cho cá nhân, for personal use. BBC ban tiếng Việt, tốt nhất, nên rút tấm hình xuống, như thủ tướng VC ra lệnh dẹp [?] mấy cái bài “bốc thuý” ông, dịch từ báo chí quốc tế, mà anh cớm chính trị khui ra.
Nếu không, thì GNV đành… chịu thua, cái sự lì lợm của… Bắc Kít!
Hà, hà!

Bài vở trên TV đa số là đồ chôm, "biệt kích văn nghệ" mà, thành thử gặp cái thằng nó ‘bựa’ hơn mình, thì đành "đi hàng đầu"!

Note: Nhân tiện, đề nghị BBC sửa từ ‘dành’ dưới đây, trong 1 bản tin.
Viết sai chính tả như thế này, nhột lắm!

Wozniacki nói: "Đôi khi trong các trận đấu hoặc trong quần vợt, một trái bóng có thể thay đổi tất cả. Tôi đã không thắng ở trái bóng quyết định thắng thua của trận đấu. Và từ đó cô ấy đã thi đấu tốt hơn ở các điểm quan trọng nhất. Cô ấy dành được điểm quan trọng nhất, điểm cuối cung, quyết định trận đấu."

Lý Na trở thành cầu thủ Trung Quốc đầu tiên lọt vào chung kết giải Úc mở rộng đơn nữ, Grand [Slam], sau khi thắng cây vợt số một thế giới Caroline Wozniacki tại Melbourne

Cái tít chữ bự, trên, cũng thiếu 1 chữ [‘slam’nghĩa là gì nhỉ?]

**

Bìa 1, bản ở hải ngoại, do lái buôn sách mang qua, cùng một lố những cuốn sách khác, nhờ vậy mà Những Ngày Ở Sài Gòn của GNV sống sót địa ngục VC!
Bìa 2, blog NL
Thử đọc đoạn cuối TD và đoạn cuối Nỗi Buồn Chiến Tranh: y chang!
Cũng những bức thư rời, lả tả, cũng cái giọng văn rã rời, của… cùng 1 nỗi buồn, 1 thân phận tình yêu?

Chưa chắc đã có sự chôm chĩa, hay ảnh hưởng, nhưng, có thể, chúng không thể khác, ở cả hai cuốn?

*

Va, petit livre, et choisis ton monde. Topffer
Hãy lên đường, cuốn sách nhỏ bé, và chọn lựa cái thế giới của mày.

*


Tình Yêu như Trái Phá

Bài phỏng vấn có nhiều phòng trống mời gọi sự tưởng tượng của các độc giả của nhà văn Hoàng Hải Thủy … (lth)
*
“ Anh lấy bút hiệu Công Tử Hà Đông hay đấy.’
Lúc ấy có anh  bạn tôi, nói:
“ Công Tử Hà Nội” mới hay chứ.”
Anh Chu Tử nói:
“ Công Tử Hà Nội thì còn nói gì nữa.”
*
Tôi cũng mê nhạc Trịnh Công Sơn, mê chết đi được.
Lth 

Theo tôi, những người "mê chết đi được", nhạc TCS, phải là…  VC!
Đây là hiện tượng "phản ứng ngược", trong vật lý, contre-réaction, và nó đã xẩy ra với bài thơ Tẩu Khúc của Thần Chết của Paul Celan.

Hay, 1 thứ khôi hài đen, “Người Đức sẽ không bao giờ tha thứ cho người Do Thái, vì vụ Lò Thiêu”!

Chúng ra mê nhạc TCS khác với VC mê nhạc TCS. Ông Chánh Tổng An Nam ở Paris, "hình như" cũng đã ngửi ra được điều này, khi phán, chỉ có ở Miền Nam, mới có thứ nhạc sĩ như TCS.
*

Nhạc TCS  đã giúp đám bỏ chạy bợ đít VC, đám VC chính hiệu nuốt được nỗi đau 3 triệu con người chết vô ích, và nỗi nhục về tình trạng băng hoại như hiện nay ở trong nước.

Bản thân Trịnh cũng đậm nỗi đau đó, chính vì thế mà ông viết ra thứ nhạc đó! 

Tình Yêu như Trái Phá, 1 cách nào đó, còn là nỗi mong mỏi của họ Trịnh. Ông thèm được “chọn bên” [chọn VC trong cuộc chiến, và khi nó chấm dứt, chọn đi cải tạo như bạn bè Miền Nam của ông, chọn đi vượt biển, như cả Miền Nam], và bất cứ 1 chọn lựa nào, thì ông cũng không thể!

Nơi em về trời xanh không em?

TCS hỏi, đau thương như thế, chính là vì ông đếch có một nơi nào để về.
PXA chẳng đã từng than, địa ngục chật cứng, đếch có chỗ cho tớ!

NKTV
*


Trang Kundera

La mémoire de Prague: Hồi ức Prague

Pour Kundera, «Kafka est le prophète d'un monde sans mémoire» et Gustáv Husák, septième président de son pays, est le «président de l'oubli». Pour lutter contre l'oubli, les Tchèques ont trouvé la meilleure solution: écrire. Ils furent aussi les premiers à élire un écrivain, Václav Havel, comme président.


Khi Đỏ là Đen