*
Ghi
1 3 4 5 6
7 8






















Ông Hồ Chí Minh là một người đàn ông, chuyện vợ con của ông tôi không quan tâm. Nhưng trong câu chuyện bi thảm này, những người có lương tri đều lên án ông, ngay cả trong trường hợp ông không trực tiếp ra lệnh giết người phụ nữ bất hạnh, người đã “đầu gối tay ấp”, có con bồng con mang với mình. Ông biết, ông tất nhiên phải biết, nhưng ông đã im lặng, đã quay mặt đi trước tội ác. Người không nhân hậu với người thân của chính mình thì nhân hậu được với ai?
Vũ Thư Hiên trả lời diễn đàn X-Cà-fe.
Nhận xét trên về ông Hồ, của ông con trai của cánh tay phải của ông Hồ, xem ra quá hữu lý, nhưng theo Gấu, không đúng. Ông Hồ không giống như một người bình thường. Ông ra đời là để đóng vai cứu vớt dân Mít. Có thể thoạt đầu ông không tin, nhưng riết phải tin, vì dân Mít muốn như thế. Dân Mít, ở đây, là những người CS, và luôn cả đại đa số nhân dân bị thuốc hàng ngày từ những năm Pháp thuộc, cho mãi mãi đến bây giờ, và muôn đời về sau.
Đây là trường hợp lộng giả thành chân. Trong đời Gấu, đã chứng kiến một trường hợp y chang ông Hồ. Sau này biết thêm một trường hợp, do tay nhà văn W(illiam) Somerset Maugham (1874-1965) kể, nhưng ghê gớm nhất là trường hợp nhà văn Romain Gary. Ông này, sinh ra đời, là để đóng vai Chúa Nhập Thế Lần Thứ Nhì. Chính ông cũng tin như thế, y hệt ông Hồ, cũng tin, ông sinh ra là để đánh thắng hai thằng đế quốc thực dân cũ và mới, và để xây cái nhà Mít to lớn bằng mười bằng trăm lần so với trước đó.
Bởi thế, dù ông Hồ có muốn làm người bình thường, cũng không được!
Theo nghĩa đó, Dos phán, giả dụ Chúa Giê Su có trở lại thế gian, thì đệ tử cũng làm thịt Người để bảo vệ Thiên Chúa Giáo!
Chúng ta cứ thử tưởng tượng, Bác Hồ, một bữa tuyên bố, tớ đếch muốn làm Cha Già Dân Tộc nữa, đám đệ tử chịu nổi không?
Kim Hạnh, nữ Trùm báo Tuổi Trẻ ngày nào, chẳng đã bay chức vì cho ông Hồ làm người trở lại, cũng có bồ, cũng đưa bồ đi coi Sở Thú!
*
Maugham có mấy truyện thật xịn, nhưng suốt đời đau, vì bị giới phê bình coi là nhà văn hạng nhì, đến khi chết, nhắn lại với hậu thế, cớ sao nhà văn hạng nhì như tớ mà có nhiều độc giả quá như thế. Cuốn Lưỡi Dao Cạo của ông mà chẳng bảnh sao. Ông còn một cái truyện Gấu rất mê, Up at the Villa, chuyện một em, khi còn là con nít, được một ông bạn của bố nhắm, lớn lên, mê một anh, lấy làm chồng, anh này tối ngày say xỉn, lại còn máu mê cờ bạc, sau chết vì thượng mã phong, đại khái như vậy, còn ông bạn của bố, sắp được phong chức Phó vương Ấn độ, nghe tin em rảnh rang [available], bèn về Anh cầu hôn. Em tính sáng hôm sau gật đầu, nhưng tối hôm đó đi ăn, để mắt thương hại tay nhạc sĩ vĩ cầm ốm đói, một anh sinh viên phải bỏ chạy quê hương do chống đối nhà nước, và khi về lại villa, thì gặp anh này lết tới đó, bèn cho vô nhà, cho ăn, cho làm tình, cho hưởng thú nhất dạ đế vương, và khi anh sinh viên hỏi, tại sao mà đối xử với anh ta quá tốt như thế, em ngu quá nói thật, ấy là vì tôi thương hại anh, muốn cho anh hưởng lạc thú mà suốt đời anh không tin là anh có thể được hưởng!
Tay sinh viên phát điên lên, chửi, sao lại có thứ đàn bà khốn kiếp như mi, mi tưởng mi là thứ gì, ta là thứ gì, và bèn rút súng ra, đòm chính anh ta một phát, đi luôn.
Người đẹp cuống lên, bèn phôn cho một tay quen, một lãng tử, anh này tới, cho cái xác vô hòm xe rồi kiếm chỗ vắng thẩy xuống biển, và dặn, nè, đừng có kể cho ông Phó Vương nghe đấy nhé.
Bữa sau, em lại ngu quá, kể hết, Phó Vương đau như hoạn, nhưng vẫn tỏ ra là người quân tử, vẫn ngỏ lời cầu hôn, nhưng tuyên bố, sẽ gặp Nữ Hoàng từ chối vinh dự Phó Vương, vì sợ sau này có người khui ra thì bỏ mẹ. Em chán quá, bèn lắc đầu, tưởng ông làm Phó Vương thì tôi mới lấy, chứ già khú đế đại vương như ông, tôi lấy để làm gì!
Tuyệt!
Sự thực, em chẳng ham gì chức vợ Phó Vương, nhưng, theo bạn, có cách nào hay hơn thế, để tống anh già ra khỏi nhà, đi một mạch qua Ấn làm Phó Vương?
Anh lãng tử biết trước, chuyện sẽ xẩy ra như vậy, và phán, người như em, chỉ hợp với anh thôi!
Lần đầu đọc truyện, Gấu cứ khen hoài, cô gái hay thiệt, nghĩ ra cái mưu nói Không với ông Phó Vương thật tuyệt, nhung sau ngộ ra, chính cái chết của anh sinh viên làm cô bớt ngu đi.
Nhưng cái truyện ngắn của Maugham mắc mớ đến ông Hồ, là như thế này.
Nhân vật kể chuyện trong truyện ngắn của M. mà Gấu quên tên, kể là, ông có biết một tay làm bồi bàn cho một nhà hàng nọ. Thế rồi bẵng đi một thời gian, tình cờ gặp lại, anh bồi bàn lúc này có vợ, và được giới thiệu là bá tước gì gì đó. Hỏi, còn nhớ tui không, ông bá tước lắc đầu.
Thế rồi, sau đó, một lần, gặp bà bá tước, không thấy ông chồng, hỏi thăm, bả nói, thằng khùng đó ngỏm rồi. Hỏi, ngỏm ra sao, bả nói, vì tôi lấy anh ta, nên anh ta được mọi người kêu là ngài bá tước, như ông chồng đã mất của tôi. Thế rồi anh ta cứ nghĩ mình là bá tước thiệt. Đi đứng, ăn nói như ngài bá tước. Bữa đó, cháy nhà, cả hai đã chạy ra thoát, kẹt con chó, anh ta quay vô cứu con chó, nói sao cũng không được, vì bậc bá tước, bậc vương giả phải xử sự như vậy.
Cái lý do ông Hồ không thể nào làm con người bình thường được nữa thì cũng y chang. Cục đất thành thần rồi không thể nào trở lại làm cục đất được nữa.
*
Chúng ta đều biết câu chuyện hai ông tượng, một gỗ, một đất, trời nổi cơn lụt lội, trôi lềnh bềnh trên mặt nước, tượng gỗ cám cảnh cho tượng đất, tôi tuy lềnh bềnh, nhưng vưỡn còn, ông chỉ tí nữa, là tan ra thành đất; ông kia cười phán, tớ là đất, thì lại về với đất, còn cậu mới cơ khổ, đang được con người xì xụp quì lạy, cúng bái, bây giờ như cục kít trôi sông; con người, cái túi thịt hôi thối, như Phật nói, một bữa thức giấc thấy mình biến thành thần, là không thể trở lại làm cái túi thịt hôi thối được nữa. Bảnh như Solzhenitsyn kia mà còn bị cái vinh quang đốt cho điêu đứng, như Steiner phán về ông:
Cùng với sự xuất hiện của "Một ngày", chỉ trong "một đêm", Solzhenitsyn trở thành nổi tiếng. Ông tới gặp Anna Akhmatova, nhà thơ vĩ đại nhất khi đó hiện còn sống của nước Nga. Bà hỏi: "Liệu anh chịu được lâu, vinh quang?... Pasternak chịu, thua. Thật khó kéo dài vinh quang, nhất là thứ đến muộn." Một lời cảnh cáo nóng bỏng.
Đúng ra là Solzhenitsyn đã không bị nó đốt cháy: Ông vẫn sống như trước, một ẩn sĩ nhà quê, ăn món ăn nhà quê. Nhưng than ôi, ông mất đi, phần nào tính bao dung; dấn mình, như chưa khi nào dấn mình như thế, vào chức năng Thượng Đế ban cho, hoặc tự mình ban cho: tố cáo, lột trần Cái Ác. Hy sinh tất cả gia đình, bản thân... cho "cuộc điều tra mang tính lịch sử-văn chương": Quần đảo Gulag.
"Nếu ông ta đừng quá bám chặt vào tư tưởng cố định, idée fixe, nếu ông ta cho phép mình, một chút nghỉ ngơi, cho dù vui chơi cho dù sầu muộn, cũng được đi, như Puskhin chẳng hạn...", Tây-phương không thể hiểu, nhưng những bạn tù đã cho ông sự hỗ trợ cần thiết, đã ban thưởng cho ông, còn giá trị hơn cả Nobel văn chương. Thật dễ dàng khi chỉ trích ông, về cách đối xử với vợ con, nhưng không ai có thể trách cứ ông, về chuyện một lòng một dạ với những bạn tù... Với hàng triệu tù gulag, một nhận định nhân vô thập toàn không phải là một lời an ủi, mà là một sự được phép, bởi vì, không một thói hư tật xấu nào có thể lấy đi sức mạnh "thép đã tôi thế đấy", ở con người này: một nhà văn, một công dân.
Một linh hồn lưu vong
Chúng ta cứ thử tưởng tượng, Bác Hồ, chính ông, đã từng thổi ông lên thành vị thần, tự đút cái ống đu đủ vào đít mình thổi mình, rằng thì là suốt đời hy sinh cho đất nước dân tộc đến không màng cái thân, đếch còn thì giờ nghĩ đến vợ con, [ui chao Gấu bỗng nhớ đến DTH, hiện đang ở Tây, cũng chẳng còn thì giờ để sống nữa, vì còn lo viết, lo đại sự, lo tóm cho được sự thực về một đỉnh cao chói lọi…], thế mà đùng một cái, thê nhi tử trọc, cục gạch gói trong tờ báo chẳng thấy đâu, giờ lòi ra cục gạch mềm mại ấm áp thơm như múi mít, thì ăn nói làm sao với nhân dân?
Cà mèng như Gấu, mà cũng có lúc phởn, tự thổi chính mình, tớ sinh ra đời là để tố cáo Cái Ác Bắc Kít. Thượng Đế ban cho tớ nhiệm vụ cao cả đó!
Ui chao, bất giác Gấu lại nhớ đến Trung Uý Kiệt VNCH ở trong Một Chủ Nhật Khác. Sau khi em Oanh về Sài Gòn, Kiệt rơi vào khủng hoảng, chạy ra Bưu Điện chơi cái điện tín, SOS. Rồi chạy ra. Rồi lại chạy dzô, lấy lại cái điện. Em cũng vô phương, tình vĩ đại cỡ nào thì cũng vô ích... Khi gặp lại Oanh, kể cho Em nghe, Em cảm động lắm, đi một đường nhẹ nhàng:
-Thầy coi thường Em quá.
Thầy vặc:
-Em là cái quái gí. Mình là cái quái gì! Đôi khi cũng phải coi mình như là đống kít, thì mới sống được!
*
Đọc DTH trả lời phỏng vấn BBC, Gấu mới tá hoả ra rằng thì là, bà cũng bị hoang tưởng về cái nhiệm vụ trời trao phó cho bà, y chang Solzhenitsyn. Nhưng Solz, đến cuối đời ngộ ra, ông trở về Nga, đúng như mình tiên đoán cho chính mình, về một ngày về vinh quang, những bảnh hơn thế nữa, ông nhận giải thưởng của Putin ban cho ông, cho phép Putin tới nhà uống trà với ông! Thế mới ghê. Đa số chửi ông là phản bội lý tưởng, phản bội đủ thứ, nhưng không phải như vậy. Mới đây, trên TLS, một độc giả trả lời bài viết của một tay trên TLS, và giải ra cái chuyện tại sao ông nhận giải thưởng, thì Gấu mới hiểu ra, mấy tay Nhân Văn nhận giải thưởng của VC, là cũng như vậy. Chẳng có gì gọi là phản bội ở đây hết.
*

Solzhenitsyn's return

[letters@the-tls.co.uk]
Sir, - Zinovy Zinik (Letters, December 5, 2008) asserts that the BBC documentary chronicling Alexander Solzhenitsyn's return to Russia from exile left a brief but important 1 exchange between the writer and his wife un-translated. As the director of The Homecoming, I find this baffling. It's May 27, 1994, and '" Solzhenitsyn is about to step on to Russian soil for the first time in two decades. "It's not the time or place to smile" he says to Natalya Dimitrievna in a murmur caught on y his radio mic and clearly subtitled in English. "But don't be too gloomy either" she advises. He replies "no a girl, a strong, thoughtful expression!" before heading down the aircraft steps. One can interpret these very private remarks sympathetically or not. One can question whether we to should have included them in the finished film. I felt they were relevant and in some small way an insight into a historic moment. What one can't claim is that English viewers were in any way short-changed.
In accepting, shortly before he died, a top award from Vladimir Putin, Solzhenitsyn was, in Zinik's eyes, guilty of a "heartbreaking betrayal of everything that he said he stood for". I spent more than two months with Solzhenitsyn crossing Siberia by train en route to Moscow. On many occasions, he and his family boiled over with frustration at the fact that he was cocooned by be apparatchiks from real encounters with former zeks or ordinary citizens who had followed Solzhenitsyn’s dictum "not to live by the lie" and were desperate to meet their a hero. The Solzhenitsyns were far from unaware of the dark irony - at low points we all wondered whether the journey, despite the family's h best efforts, was turning into a visit a to a Potemkin's village. One zek, Vladimir Shatkov, was so disappointed at Solzhenitsyn succumbing to the phoney blandishments of former KGB men that he accused him of "having lost his sense of smell". When I put this accusation to the author, he told me that evolution not revolution was the way forward. "There was a time", he said, "when it would have been right to stage trials as they did in Germany. But I'm realist enough to see from the way the winds of history are blowing that no one will ever bring the communists and socialists to trial no matter how many people they might have slaughtered. Those are the winds of history." Instead he believed his job was to help "re-educate people. What they hear flies t- in the face of all they've learnt. Yet still they smile and welcome me and hear me out. So I can't possibly adopt an abusive tone. It wouldn't help to be rude."
For what it's worth, I think that Solzhenitsyn would have regarded it as a betrayal not to have engaged with Putin. He had a duty which he would not shirk, regardless of the criticism or occasional ridicule, to shine a light on Russia's terrible past and those values which he believed might deliver for it a better future.
As always with Solzhenitsyn, accepting the prize was highly considered - the product if you like of "strong thoughtful expression". As the writer told Der Spiegel in one of his last interviews, "in accepting the award I expressed the hope that the bitter Russian experience, which I have been studying and describing all my life, will be for us a lesson that keeps us from new disastrous breakdowns".
The Gulag was an absolute evil. Rebuilding Russia is a real and practical task. The one required outright opposition whatever the appalling cost. The other needs participation to and engagement. When Solzhenitsyn accepted the State Prize from Putin, it's possible that, even for a moment, Russia was indeed reminded of past horror, present to moral jeopardy and the need for conscience to guide its future.
ARCHIE BARON
Wingspan Productions,
32-34 Gordon House Road,
London NW5
TLS 2.1.2009
*
Ui chao, cà mèng như Gấu, vậy mà về, cũng còn bị chửi là bắt tay với VC, nữa là Solz.
Có thời kỳ đưa mấy anh Nazi ra tòa tại Đức, nhưng tôi thì không mù để mà không nhìn ra, ngọn gió lịch sử đã thổi ra sao, và chẳng hề có chuyện đưa đám...  VC ra tòa án quốc tế, cho dù chúng có làm thịt bao nhiêu dân Mít!
Khi nhận Giải thưởng Nhà nước của Putin, tôi biểu tỏ hy vọng, kinh nghiệm cay đắng ở Nga xô mà tôi đã trải qua là một bài học giúp chúng ta tránh khỏi thảm họa mới.
*
The Old Days
ZINOVY ZINIK
Tưởng niệm Solz

Chúng ta cứ thử tưởng tượng, Bác Hồ, chính ông, đã từng thổi ông lên thành vị thần, tự đút cái ống đu đủ vào đít mình thổi mình, rằng thì là suốt đời hy sinh cho đất nước dân tộc đến không màng cái thân, đếch còn thì giờ nghĩ đến vợ con, [ui chao Gấu bỗng nhớ đến DTH, hiện đang ở Tây, cũng chẳng còn thì giờ để sống nữa, vì còn lo viết, lo đại sự, lo tóm cho được sự thực về một đỉnh cao chói lọi…], thế mà đùng một cái, thê nhi tử trọc, cục gạch gói trong tờ báo chẳng thấy đâu, giờ lòi ra cục gạch mềm mại ấm áp thơm như múi mít, thì ăn nói làm sao với nhân dân?

Cà mèng như Gấu, mà cũng có lúc phởn, tự thổi chính mình, tớ sinh ra đời là để tố cáo Cái Ác Bắc Kít. Thượng Đế ban cho tớ nhiệm vụ cao cả đó!
Ui chao, bất giác Gấu lại nhớ đến Trung Uý Kiệt VNCH ở trong Một Chủ Nhật Khác. Sau khi em Oanh về Sài Gòn, Kiệt rơi vào khủng hoảng, chạy ra Bưu Điện chơi cái điện tín, SOS. Rồi chạy ra. Rồi lại chạy dzô, lấy lại cái điện. Em cũng vô phương, tình vĩ đại cỡ nào thì cũng vô ích, vô phương cứu chuộc, trầm luân may ra. Khi gặp lại Oanh, kể cho Em nghe, Em cảm động lắm, đi một đường nhẹ nhàng:
-Thầy coi thường Em quá.
Thầy cáu quá, vặc:
-Em là cái quái gí. Mình là cái quái gì! Đôi khi cũng phải coi mình như là đống kít, thì mới sống được!
Hiếu Chân, ông anh rể Gấu, kể câu chuyện, chắc là từ Liêu Trai, hay cổ văn TQ, một anh chàng đi làm về, thấy vợ đang ngủ với một thằng đàn ông không phải là mình (1). Thằng đàn ông xách quần chạy, cô vợ chạy vô phòng, đóng cửa lại, anh chồng cầm dao tính phá cửa, cô vợ năn nỉ, chờ em trang điểm, trước khi chết thì cũng đừng như con lọ lem. Anh chàng ra phòng ngoài, rót rượu uống, chờ. Khi con vợ lộng lẫy xuất hiện, quì xuống, anh chồng bèn ôm vợ mà... nựng, và, nịnh: Một thằng như anh, làm sao có thể lấy mạng sống một người xinh đẹp như… em?
(1)'
thằng đàn ông không phải là mình': Có câu chuyện tiếu lâm, một anh say xỉn, kéo ông bạn cùng nhậu về nhà, giới thiệu, đây là nhà tui, đây là phòng khách, đây là nhà bếp, đây là phòng ngủ, nhìn lên giường, đây là vợ tôi, và, chỉ thằng nằm kế bên vợ, đây là tôi!
*
Ralkolnikov, trong Tội ác và Trừng phạt (Dostoevsky), chủ trương tội ác cần thiết, nhưng khi giết bà già cầm đồ, anh nhận ra sự thực, "tôi đang xả những nhát búa lên chính tôi..."
Kẻ bán xới
*
Theo Gấu, đám Yankee mũi tẹt, một khi ra được hải ngoại, giống như ra ngoài cái hang của Plato, nhưng không chỉ bị chói lòa bởi ánh sáng ban ngày, mà còn bởi đỉnh cao chói lọi, bởi hai cuộc thánh chiến thần kỳ, đánh thắng hai thằng khổng lồ thực dân cũ và mới. Cái sự mù lòa thứ nhì mới thực sự khủng khiếp. Đám nhà văn của họ, dù có thoát ra được, thì cũng muôn đời trầm luân trong cái thứ văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, ông nào bà nào viết văn cũng đầy tham vọng, đem chân lý đến cho người đọc, cho nhân loại, chí ít thì cũng dân Mít. Tham vọng này làm hỏng không chỉ nội dung, mà luôn cả văn phong, dòng kể của câu chuyện: Chưa viết là đã lo giải thích, lên lớp, giảng mo ran cho người đọc, bằng một cái giọng hết sức kênh kiệu, tự cao, tự đắc, mục hạ vô nhân, vô học... "này, có thứ văn học hải ngoại ư ?" [VTH], "chỉ ngửi khói hàng xóm đủ no, rũ bụi cũng đếch thèm làm quen" [PTH], đại khái như vậy.
Nhìn những ông những bà nhà văn Yankee mũi tẹt hăm hở đi tìm sự thực, Gấu nản quá, thú thực.
Nabokov chẳng đã từng phán, "Văn chương không bắt đầu vào cái ngày, một đứa trẻ chạy trối chết từ một cánh rừng ra, và chạy và la 'chó sói, chó sói', và một con chó sói bén gót chú bé. Văn chương ra đời cái ngày chú bé la lớn 'chó sói, chó sói', và đằng sau lưng chú chẳng có con sói nào. Chuyện chú bé lập đi lập lại một lời dối trá, và sau cùng bị chó sói ăn thịt chỉ phụ thuộc, nhưng điều quan trọng ở đây là: giữa con sói ở góc rừng và con sói ở góc trang sách, có một mắt xích lóng lánh. Mắt xích đó, lăng kính đó, là nghệ thuật văn chương." Vẫn theo ông, "Văn chương là bịa đặt. Giả tưởng là... giả tưởng. Gọi một câu chuyện là 'chuyện thật, lịch sử thật', là làm nhục cả nghệ thuật lẫn sự thực. Hãy bám hiện thực. Hãy viết dưới ánh sáng của hiện thực xã hội chủ nghĩa... phiền một nỗi, Thiên Nhiên, bà mẹ đẻ ra hiện thực chủ nghĩa, vốn luôn luôn đánh lừa. Một nghệ sĩ lớn đúng ra là nên đi theo vết chân của bà, thay vì trung thành với chủ nghĩa hiện thực!"
Chỉ bằng cách dối trá nhà văn làm bật ra, indicate, sự thực!
Llosa, trong “Liệu giả tưởng là nghệ thuật nói dối” [Is Fiction the Art of Lying? 1968], cho rằng, "tất cả cái gọi là sự thực thì được làm ra bởi đủ thứ hầm bà làng, nào chứng liệu ngược ngạo, contradictory testimony, sự kiện lịch sử được dàn dựng lại, manipulated historical data, người chứng chẳng đáng tin, hồi nhớ sai lạc, lầm lẫn… một thứ chất liệu được nhà văn giả tưởng hóa, và để có được hiệu quả mỹ học, ông ta còn thêm thắt, gạt bỏ, vặn vẹo chúng. Công việc của nhà văn, theo Llosa, là trình bầy vẻ bề ngoài, tròn trịa, nguyên con, không một mối hàn, chưa từng có ai sờ mó, mầy mò, chưa từng đi thẩm mỹ viện… của sự thực. Sự thực, tự thân, thì không tuyệt đối: nó chỉ là một trong rất nhiều món đồ, dụng cụ, tools, trong tay nhà văn và có thể bị hy sinh, toàn thể, hay một phần, để phục vụ giả tưởng."
Nhà văn viết, và cố làm sao cho độc giả tin. Chỉ có vậy. Garcia Marquez chẳng đã từng kể kinh nghiệm viết của ông về người đẹp bay lên trời: chỉ đến khi ông nhìn thấy những miếng vải trải giường phơi trên sợi dây bị gió thổi tứ tung lên trời, thì mới ngộ ra, chúng chính là những bậc thang để cho người đẹp bước lên, và bye bye trần thế ô trọc này!
Một cách nào đó, Người Đẹp Bay Lên Trời của ông, là hiện thân của Chân Lý, Sự Thực. Bất cứ ai nhìn vô, là con heo xổng chuồng, là... chết.
*
Nhưng, phải đến Roland Barthes, thì mới thật rõ ràng, câu hỏi, liệu có chân lý văn chương, chân lý phê bình, và, thế nào là nhà văn, thế nào là nhà phê bình.
*
Mọi tiểu thuyết gia, mọi thi sĩ, múa may quay cuồng với những đường đao thế kiếm dựa trên bất cứ một lý thuyết văn học gì thì gì, tựu chung cũng là để nói về tuồng ảo hóa đã bầy ra đấy [nguyên văn: để nói về những sự vật, và hiện tượng, to speak of the objects and phenomena], cho dù những thứ này là do tưởng tượng, ở bên ngoài hoặc là có trước ngôn ngữ: thế giới hiện hữu và nhà văn nói: đó là văn chương. Sự vật, hay đối vật, the object, của phê bình khác hẳn: Đối vật của phê bình không phải là "thế giới" nhưng mà là một bài viết/nói, a discourse, bài viết nói đó, là của một người nào đó: phê bình là một bài viết/nói về một bài viết/nói; nó là một ngôn ngữ bậc hai, hay, một siêu ngôn ngữ (như những nhà lý luận gọi). Cái ngôn ngữ bậc hai này thao tác (operate) trên ngôn ngữ bậc nhất (hay, ngôn ngữ sự vật, language object). Từ đó suy ra, ngôn ngữ phê bình phải đụng (deal) với hai thứ liên hệ: liên hệ giữa ngôn ngữ phê bình với ngôn ngữ của tác giả được tìm hiểu, và liên hệ giữa ngôn ngữ sự vật này với thế giới. Chính sự "đụng độ, tranh chấp", giữa hai ngôn ngữ này định nghĩa, cái gọi là phê bình. Và, có lẽ, sự đụng độ này làm cho phê bình thật giống với một hoạt động tâm thần khác, lý luận học, môn này cũng đặt nền tảng trên sự phân biệt giữa ngôn ngữ sự vật và siêu ngôn ngữ.
Và bởi vì phê bình, như thế, chỉ là một siêu ngôn ngữ, cho nên, nhiệm vụ của nó, chẳng hề là khám phá ra, "những sự thực", nhưng mà là "những cái có giá trị" ["the validities"]. Tự thân, ngôn ngữ không thực, mà cũng chẳng giả; nó có giá trị, hoặc không: giá trị, valid, có nghĩa, tạo một hệ thống hài hòa những ký hiệu. Những lề luật của ngôn ngữ văn chương chẳng màng đến sự ăn ý, giữa nó với thực tại [cho dù mấy trường phái hiện thực lải nhải cỡ nào thì cũng… dẹp!], nhưng mà là sự  cúi mình chịu vô khuôn khép với hệ thống ký hiệu tác giả tạo ra (và chúng ta, lẽ dĩ nhiên, phải đem đến cho cái từ ‘hệ thống’ này một cái nghĩa rất ư là mạnh, ở đây] (1). Phê bình chẳng có tí trách nhiệm nào, về cái việc phải tuyên bố, liệu Proust nói lên “sự thực”, Ngài Baron de Charlus là Count de Montesquiou, Francoise là Céleste, hay tổng quát hơn, liệu xã hội mà Proust miêu tả đó, có y chang những điều kiện lịch sử liên quan tới vụ biến mất tầng lớp quí tộc vào cuối thế kỷ 19; vai trò của nó chỉ nhắm có mỗi một việc, là làm sao tạo ra được một ngôn ngữ mà sự hài hòa, tính lô gíc, hay nói ngắn gọn, tính hệ thống của nó, its systematics, có thể thu gom, hay tốt hơn nữa, có thể “hoà nhập” [“integrate”, theo nghĩa toán học của từ này], càng được nhiêu càng tốt nhiêu, số lượng ngôn ngữ của Proust, y hệt như một phương trình luận lý xét nghiệm giá trị suy luận chẳng cần để ý tới “sự thực” của những luận cứ mà phương trình đó điều động. Người ta có thể nói, nhiệm vụ của phê bình - đây là bảo đảm độc nhất, để cho nó trở thành phổ cập, this is the sole guarantee of its universality - hoàn toàn có tính hình thức [“formal”]: không “khám phá”, ở trong tác phẩm của tác giả, một điều gì được giấu kín, một điều gì thâm sâu, một điều gì bí ẩn, trước đó đã bị bỏ qua, không được để ý tới, [bằng phép lạ như thế nào, mà đám hậu duệ, là chúng ta, lại bảnh hơn lớp đi trước?], nhưng chỉ là điều chỉnh, ngôn ngữ mà thời đại nhà phê bình ban cho anh ta [Hiện Sinh, Mác Xít, Phân Tâm Học], so với ngôn ngữ, hay hệ thống “formal” những câu thúc luận lý được tác giả chi ly ra, theo ngôn ngữ thời đại, của riêng người đó. "Bằng chứng" của phê bình không do lệnh lạc của Thần Sự Thực [nó không diễn tiến theo những cung bậc của sự thực, theo kiểu, cứ theo như sự thực mà thi hành], bởi vì một bài viết/nói mang tính phê bình - như một bài viết/nói mang tính lý luận - chẳng là gì cả, ngoại trừ điều này: nó là [một lối nói/viết] quẩn, quanh, dằng, dai, như cố tình trì hoãn, dù thật muốn, làm bật ra, trọn hữu thể của nó, nhờ cái sự dằng dai đó mà có được, và trở thành, có nghĩa: Racine là Racine, Proust là Proust; "bằng chứng" phê bình, nếu mà có một cái thứ bằng chứng như thế, hệ tại ở khiếu năng, khả năng - không "khám phá" tác phẩm nhưng ngược lại - che chở cho nó, bao trùm lên nó, càng đầy đủ, hoàn toàn, viên mãn nhiêu, càng tốt nhiêu, bằng chính ngôn ngữ của nó.
Phê bình là gì?
Ngay từ hồi mới lớn, Gấu, đọc Roland Barthes, và đã ngộ ra, và đã xóa cho mình, mọi ảo tưởng về nhà văn, sống sót hay sống sót thì cũng mặc mẹ nó, kẻ lưu truyền chân lý thì cũng kệ cha mi!

Nhưng phải đến khi gặp Steiner thì Gấu mới nhìn vào được phần sâu thẳm, hay sự câm lặng của ngôn ngữ.
*
Nhân nhắc tới Llosa, và nhân cái sự bỏ đi Tây của DTH, Gấu bỗng nhớ, và lục, tìm đọc bài Llosa viết về hai ông nhà văn Havel và Kundera trong Tạo Sóng, Making Waves, tập tiểu luận của ông. Tin Văn scan ra đây, và rảnh, sẽ dịch, và song song, đi vài đường lèm bèm.

Llosa: A Fleeting Impression of Vaclav Havel

Like Milan Kundera. The polemic between these two great writers, the novelist and the playwright, is one of the most instructive of our times. Kundera, one of the intellectual heroes of the reform movement of Czech socialism, came to certain conclusions after the failure of the experiment. The conclusions were gloomy, but they seemed the most lucid of all. Small countries do not count in that great whirlwind that is History, with a capital 'h'. Their fate is decided by the great powers and they are the instruments, and eventually the victims, of these powers. The intellectual must dare to face up to this horrible truth and not delude himself, or others, by indulging in useless actions - like signing manifestos or letters of protest - which often just serve as self-publicity or, at best, as a form of self-gratification at having a good political conscience. When Kundera went into exile in France in 1975, to dedicate himself completely to literature, he had lost all hope that his country would one day emerge from despotism and servitude. I understand him very well. My reaction would probably have been similar to his.
But the one who was right was Vaclav Havel. Because, in fact, one can always do something. However small, a manifesto, a letter signed with a handful of people, can be the drops of water that wear through the stone. And in any case, these gestures, ventures, symbolic threats allow one to go on living with a certain dignity and perhaps might spread to others the will and confidence that are necessary for collective action. There are no indestructible regimes or powers that cannot be changed. If history is absurd, then anything can happen - oppression and crime, of course, but also freedom.
Khi Kundera bỏ đi Tây, dâng hiến đời mình cho văn chương, ông ta mất hết mọi hy vọng có ngày xứ sở của ông lại trỗi dậy... Nhưng ở lại như
Havel đúng hơn. Bởi vì, một con người luôn luôn có thể làm được một điều gì đó. Chẳng có chế độ khốn kiếp nào cứ còn hoài. Nếu lịch sử phi lý, thì chuyện gì cũng có thể - kìm kẹp dã man, tội ác, tất nhiên - nhưng tự do, cũng có thể!
Nhìn như thế, mới thú, mà mới bõ công hàng ngày mò đọc ba cái blog ở trong nước! NQT

Sự thực của những lời dối trá

Đời “giả” đề nghị một cuộc sống mà đời “thực” từ chối con người. Theo nghĩa đó giả tưởng phản bội cuộc đời, để làm cho nó đáng sống, đáng quí hơn: Đây cũng là một sự thực, của những lời dối trá.

Ngay từ cuốn truyện đầu, độc giả đã hỏi Mario Vargas Llosa, (người Peru 1937-), chuyện "thực" hả? Ông chẳng thích thú việc trả lời. Theo ông, đa số độc giả, thường đánh giá thực/giả, bằng ý niệm tốt/xấu. Những "thẩm tra viên" (inquisitors) người Tây Ban Nha đã cấm in và nhập cảng tiểu thuyết, tại thuộc địa của họ, với lập luận, chỉ là những chuyện phi lý, vô nghĩa, rất có hại cho sức khoẻ tinh thần của thổ dân da đỏ. Trong vòng 300 năm, dân Mỹ châu thuộc Tây Ban Nha phải đọc tiểu thuyết chui, và cuốn tiểu thuyết đầu tiên được xuất bản tại đây là sau Độc lập (tại Mexico, vào năm 1816). Không chỉ một vài tác phẩm đặc biệt bị cấm, mà là cả một thể loại văn chương. Những "inquisistors" đã coi đây là một luật, không có ngoại lệ, rằng tiểu thuyết luôn luôn nói dối, chúng luôn luôn đưa ra một viễn ảnh giả về thế giới. Nhiều năm trước đây, Vargas Llosa đã có lần chỉ trích họ, nhưng sau ông nghĩ, họ có lẽ là những người đầu tiên hiểu - trước những nhà phê bình, và những tiểu thuyết gia - về bản chất của giả tưởng, và những ý hướng nổi loạn của nó. Tiểu thuyết nói dối - chúng không thể làm khác - nhưng đây chỉ là một phần của câu chuyện. Phần kia là, bằng nói dối, chúng diễn tả một sự thực kỳ cục, chỉ có thể hàm ý qua dáng vẻ mập mờ, như được hóa trang thành một điều chi không phải là nó. Con người vốn không bao giờ hài lòng về mình, cho dù giầu có hay nghèo hèn, nổi tiếng hay vô danh... Họ vẫn mong một cuộc đời khác, khác với cuộc đời họ đang sống. Tiểu thuyết ra đời là để thỏa mãn cơn đói khát đó. Chúng được viết ra và được đọc, để cho con người có thể có những cuộc sống "giả". Đọc, như vậy là tạm ngưng sống, là treo lửng thời gian. Là đi từ đời sống vào trong những cuốn sách. Bên trong một cuốn tiểu thuyết luôn âm ỉ một cuộc nổi loạn, và một ham muốn. Người ta không viết tiểu thuyết để kể lại cuộc đời, nhưng đúng ra là để biến đổi nó, bằng cách thêm vô điều này, điều nọ. Theo nghĩa đó, tất cả tiểu thuyết đều "làm lại" (remake) thực tại. Ngay cả khi bạn muốn trung thành với thực tại, hiện thực 100%, bạn cũng bất lực. Sartre nói chỉ có siêu nhân mới sao chép nổi đời sống. Ông thêm vô: muốn biến câu chuyện thành một cuộc phiêu lưu, cứ kể nó ra. Theo nghĩa đó, một câu chuyện là để được viết ra, chứ không phải để sống. Những sự kiện thực phải qua một lần hóa thân, để thành chữ. Dưới ánh lửa của ngôn ngữ, chúng bị biến thái, thay đổi bản chất.
**

Bạn thích món nào, Đỉnh Cao Dối Lừa, hay Chói Lọi?

Chúng ta cứ thử tưởng tượng, Bác Hồ, chính ông, đã từng thổi ông lên thành vị thần, tự đút cái ống đu đủ vào đít mình thổi mình, rằng thì là suốt đời hy sinh cho đất nước dân tộc đến không màng cái thân, đếch còn thì giờ nghĩ đến vợ con, [ui chao Gấu bỗng nhớ đến DTH, hiện đang ở Tây, cũng chẳng còn thì giờ để sống nữa, vì còn lo viết, lo đại sự, lo tóm cho được sự thực về một đỉnh cao chói lọi…], thế mà đùng một cái, thê nhi tử trọc, cục gạch gói trong tờ báo chẳng thấy đâu, giờ lòi ra cục gạch mềm mại ấm áp thơm như múi mít, thì ăn nói làm sao với nhân dân?
Cà mèng như Gấu, mà cũng có lúc phởn, tự thổi chính mình, tớ sinh ra đời là để tố cáo Cái Ác Bắc Kít. Thượng Đế ban cho tớ nhiệm vụ cao cả đó!

*
A NOTE ABOUT THE AUTHOR

... Duong Thu Huong is no fanatical anti-Communist pamphleteer, nor does she dwell solely on the wounds caused by' Vietnam's past political struggles. Like American writer and Vietnam veteran Tim O'Brien (The Things They Carried), Duong Thu Huong is in the position of having been both a participant and a witness to Vietnam's tragedy. Her most recent novel, Untitled (1990), a soldier's story, questions the human cost of Vietnam's long war with the United States and explores the sensitive subject of her country's deep disillusionment with the nature of heroism itself.
The daughter of a schoolteacher mother and a tailor father, Duong herself defies categorization. Oddly-despite the fact that she has been a professional screenwriter for years-Duong rarely describes herself as a writer. "I never intended to write. It just happened, because of the pain," she told French journalist Michele Manceaux shortly before her arrest. As a Vietnamese woman, as a mother, as a veteran of war, as a former Communist party member, and now as an independent citizen, the power of Duong Thu Huong's voice lies in its honesty and its call to individual conscience and responsibility
Tôi chẳng hề có toan tính viết văn. Chuyện xẩy ra như thế, có thể vì nỗi đau mà ra... Quyền năng của tiếng nói DTH nằm ở trong giọng khiêm tốn chân thật, và lời kêu gọi ý thức, luơng tâm và trách nhiệm của từng cá nhân con người.

Từ lúc ông nhắm mắt, một tuần liền, mưa như thác đổ. Nước trắng xoá đất lẫn trời. Sông Hồng cuồn cuộn lũ dâng, chưa bao giờ có lũ lớn như vậy vào mùa thu, bởi khi sen tàn, cỏ ngả màu chanh là lúc các dòng sông phải thu mình và các con hồ phải lắng trong để nhìn thấu rong rêu nơi đáy nước. Vậy mà lúc đó, sông Hồng đỏ ngầu bọt, réo ào ào, hung dữ như đang mùa giông bão. Khắp Hà nội, nước mưa không tiêu kịp dềnh lên các vỉa hè, tràn vào thềm nhà, xoáy ồ ồ trên các vũng lội hình thành nơi ngã ba, ngã tư đường phố. Từ thủ đô cho đến các thành phố đồng bằng cũng như miền núi, dân chúng đứng túm tụm dưới chân các cây cột đèn, nghe loa phóng thanh tường thuật tang lễ. Thành phố cũng như thôn quê, người ta khóc như có một cuộc tàn sát tập thể vừa xảy ra trên xứ sở này.
DTH: Đỉnh cao chói lọi [DCV online]
Nếu chúng ta chấp nhận những hiện tượng siêu nhiên xẩy ra sau khi Chủ Tịch về Trời, thì chúng ta cũng phải chấp nhận Chủ Tịch là một siêu nhiên. Và ông Hồ, hiểu như thế, sẽ không có một trách nhiệm gì về những gì ông đã làm.
Vũ Ngọc Phan đã từng chê Nguyễn Tuân khi tả cảnh pháp trường, thật ghê rợn: thiên nhiên phải thần phục con người. Ở đây, với DTH, con người cúi đầu khuất phục siêu nhiên. Khuất phục ông Hồ như một ông Ác, và thần phục, như một ông Thiện. Ngắn gọn, khuất phục định mệnh. Trời kêu ai người nấy dạ.
"Định mệnh thuyết có lẽ chẳng là gì hết, ngoài điều này: nó là một định luật về những cái còn lại, những đồ dư thừa, cặn bã (1)".
(1) 'Determinism as far as it can be conceived.... is perhaps nothing else but the law of residues'. Hannah Arendt, Franz Kafka: A Revaluation.
*
Salvation or Ruin: Cứu Rỗi hay Điêu Tàn
Trong một xã hội tan rã, một khi thế hệ trẻ mù lòa đi theo chân lý muôn đời, hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu nhân dân, tai ương thảm họa là điều không thể tránh khỏi, và được báo trước. Nhưng chính cứu rỗi, chứ không phải điêu tàn mới là điều "tới mà chẳng ai biết trước, chẳng ai trông chờ, chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính nó, chứ không phải điêu tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con người.
[Hannah Arendt, trong Franz Kafka: A Revaluation, trong Essays in Understanding 1930-1954, nhà xb Schocken Books, New York: In a dissolving society which blindly follows the natural course of ruin, catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin, comes unexpectedly, for salvation and not ruin depends upon the liberty and the will of men].
Chỉ một khi thế hệ trẻ, tốt nghiệp Harvard, trở về nước, bằng tự do và ý chí của chính họ, từ chối không chịu ngồi lên đầu nhân dân, thì mới mong có cứu chuộc được.
*

Điều làm cho K trở thành rất hiện đại và cùng lúc thật kỳ kỳ trong số những người cùng thời với ông, vào thời kỳ tiền thế chiến, chính là điều, ông từ chối dâng mình cho cái ngẫu nhiên cái tình cờ cái cứ khơi khơi xẩy ra (thí dụ, ông không muốn khơi khơi lấy vợ), ông cũng chẳng mê mẩn, tự hào về thế giới như nó khơi khơi vồ lấy ông… Ông muốn xây dựng một thế giới xứng hợp với những yêu cầu của con người và phẩm giá của họ; một thế giới mà những hành động của con người do chính con người quyết định, chứ đếch có do siêu nhiên, những sức mạnh bí ẩn, do ông thiện hay ông ác, từ phía bên trên hoặc  bên dưới…
What makes Kafka appear so modern and at the same time so strange among his contemporaries in the pre-war world is precisely that he refused to submit to any happenings (for instance, he did not want marriage to "happen" to him as it merely happens to most); he was not fond of the world as it was given to him, not even fond of nature (whose stability exists only so long as we "leave it at peace"). He wanted to build up a world in accordance with human needs and human dignities, a world where man's actions are determined by himself and which is ruled by his laws and not by mysterious forces emanating from above or from below. Moreover, his most poignant wish was to be part of such a world-he did not care to be a genius or the incarnation of any kind of greatness.
This of course does not mean, as it is sometimes asserted, that Kafka was modest. It is he who once, in genuine astonishment noted in his diaries, "Ever sentence I wrote down is already perfect" which is a simple statement of truth, but was certain y not made by a modest man. He was not modest, but humble.
In order to become part of such a world, a world freed from all bloody apparitions and murderous magic (as he tentatively attempted to describe it at the end, the happy end, of his third novel, Amerika), he first had to anticipate the destruction of a misconstructed world. Through this anticipated destruction he carried the image, the supreme figure, of man as a model of good will, of man the fabricator mundi, the world-builder who can get rid of misconstructions and reconstruct his world. And since these heroes are only models of good will and left in the anonymity, the abstractness of the general, shown only in the very function of good will may have in this world of ours, his novels seem to have a singular appearance as though he wanted to say: This man of good will may be anybody and everybody, perhaps even you and me.
Hannah Arendt
Franz Kafka: A Revaluation.


ON CLOWNS: THE DICTATOR AND THE ARTIST
NOTES TO A TEXT BY FELLINI
Về những tên hề: Nhà độc tài và người nghệ sĩ.
Ghi chú về một bản văn của Fellini

The year 1989 did not mark only the bicentennial of the French Revolution, but also the centennials of two figures  who - each in his own way - knew how to exploit the hunger of the masses and their vulnerability and gullibility.
He was a tramp in the big city, using a park bench for a bed. He wore a weathered black derby and a frock coat askew on his shoulders—both tragicomic attempts at respectability. He drifted along the sidewalks, without family. He had no friends. Acquaintances saw him go into strange fits and thought him a clown. But he became a charismatic clown—the center of a show that he perfected and in which he functioned not just as leading man but as writer, director, producer, and set designer. When his little black mustache had become emblematic, when he had grown into the idol of millions, a great Hollywood star called him 'the greatest actor of us all.' His name was Adolf Hitler, born just over a hundred years ago, on April 20, 1889.
Frederic Morton, "Chaplin, Hitler: Outsiders as Actors," New York Times, April 24, 1989.
Cái năm 1989 không những chỉ kỷ niệm 200 năm Cách Mạng Pháp mà còn kỷ niệm 100 năm sinh của hai hình tượng; mỗi người một cách riêng, đã biết khai thác cái đói khát của quần chúng, điểm yếu nhược, và tính dễ mắc lừa của họ.
Một kẻ lang thang trong một thành phố lớn, lấy ghế đá công viên làm giường. Đầu đội nón đen quả dưa bốn mùa, khoác áo thụng trên vai -  nón và áo như cầu mong sự kính trọng - vừa tếu lại vừa buồn - của người đời. Lêu bêu trên những hè đường, không gia đình. Không bạn bè. Dáng điệu kỳ cục khiến có người cho rằng, đây là một anh hề. Nhưng đây quả là một tên hề làm mê hoặc mọi người - nhân vật trung tâm của một sô trình diễn, qua đó, ông đạt tới mức tuyệt hảo, không chỉ như người lãnh đạo, mà còn như nhà văn, ông giám đốc, nhà sản xuất, người tạo kiểu mẫu. Khi bộ ria của ông trở thành biểu tượng, khi ông trở thành thần tượng của hàng triệu con người, một ngôi sao lớn ở Hồ Ly Vọng gọi ông là "diễn viên vĩ đại nhất của tất cả chúng ta.". Tên ông ta là Adolf Hitler, sinh ra cách đây đúng 100 năm, vào ngày 20 Tháng Tư, 1898.
Frederic Morton: Chaplin, Hitler: Những kẻ đứng bên lề như là những diễn viên. Nữu Ước thời báo, ngày 24 Tháng Tư, 1989.

*
Hồ Chí Minh, khi đó mang tên Nguyễn Ái Quốc, tại hội nghị Tours, Pháp, tháng Chạp 1920.

Một người đương thời miêu tả ông: "Trong con người này có chất [hề] Charlot - vừa tếu lại vừa buồn".
Trích tạp chí Lịch Sử, L'Histoire, số tháng Tư & Năm 2004, đặc biệt về Việt Nam, thuộc địa, chiến tranh, và Cộng Sản
 [Indochine Vietnam, colonisation, guerres et communisme].
*

He was incapable of forming friendships, had difficulties communicating.
Không có khả năng kết bạn, có những khó khăn trao đổi, trò chuyện.
Chúng ta tự hỏi, Ông Hồ từng có bạn?
*

Charlie đóng vai Nhà Độc Tài trong phim cùng tên, trong có một xen thật nổi tiếng, nhân vật chính, trong cơn sảng khoái vì chiến thắng, tưng tưng trái banh tượng trưng cho quả địa cầu. Diễn viên nhấn mạnh những thành phần thô kệch, the grotesque elements, của chứng loạn thần kinh, cử chỉ hành động giống như một đứa con nít, của nhà độc tài. Trong khi đồng cảm với chứng khùng điên, hành động của diễn viên ttrở thành đồng lõa, một cách hàm hồ [his acting becomes ambiguously complicitous]. Từ một nhân vật, lúc đầu được coi như là một kiểu mẫu ngây ngô, trẻ con, và mang tính nghệ sĩ như thế, bỗng bật ra nét nhăn nhó quằn quại, của sự xấu xa quỉ mị.
"Hitler có thể là một thiên tài sát nhân ghê tởm nhất của lịch sử, tuy nhiên, trong cái bí quyết của ông ta, có những thành phần mà ông ta chia sẻ với của Charlie. Cả hai cùng khai thác sự đòi hỏi của kẻ ở bên lề, hãy cho ta vô với! ["Hitler may have been history's most murderous genius, yet his formula shared elements with Charlie's. Both men tapped the need of the outsider to be let in". Frederic Morton.
Về những tên hề
*
Cái gì còn lại? Ngôn ngữ còn lại
“’What remains’? ‘The Language Remains’”
Hannah Arendt
Trong bài giới thiệu tập tiểu luận Essays in Understanding 1930-1954, của Arendt, Jerome Kohn nhắc tới câu châm ngôn của Tầu, do chính Arendt đã từng trích dẫn, “Đó là một lời trù ẻo được sống vào những thời thú vị” [It is a curse to live in interesting times], và theo người viết, câu này thật tuyệt khi áp dụng vào đời và thời của Arendt, một người luôn tìm hiểu những biến động của ‘thế kỷ khủng khiếp’ với đam mê và trong nhiều năm đã tạo hứng khởi cho những bậc khoa bảng, những nghệ sĩ, nhà văn, nhà trí thức, những nhân vật của công chúng, và bao độc giả khác của tác phẩm của bà, về những khổ đau thế giới này, một thế giới “chưa từng bao giờ đẹp đến thế”, ở ngay cả những “thời kỳ đen tối nhất của nó”. Câu châm ngôn giống như một dấu ấn thật ấn tượng, lên cuộc đời riêng tư của bà.