*

 






Thơ là để trao cho thi sĩ. Borges phán.
GCC thêm vô, nhưng có những bài thơ, được trao cho, chỉ 1 thi sĩ.
Thí dụ bài “Vietnam”, của Szymborksa.
Thi sĩ Mít không thể làm được bài này.
Bởi vì phải đau cuộc chiến Mít tới cỡ nào thì mới làm nổi bài thơ trên.
Cũng thế, là bài sau đây, cũng của Bà:

Vermeer

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.

Một khi mà người đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.

Bài thơ này, GCC đọc trên NYRB, 11.11.2010, bèn chôm liền.
Tình cờ sao, tay Prospero, cũng đọc, nhưng trên lưới, và cũng chôm liền, và đi một đường vinh danh thực là tuyệt vời: Bài thơ chống lại Tận Thế

Bạn phải đau nỗi đau Việt Nam tới cỡ nào thì mới làm nổi bài thơ “Vietnam”, và chính vì đau nỗi đau VN như thế, thì mới lại làm ni bài thơ chống lại Tận Thế như thế!

"God reveals in utter clarity that which we can't understand; that which we can understand He lays out in riddles."
Tạm dịch: Ông Giời bày ra cái th
ật rõ ràng để chúng ta đếch hiểu nổi. Còn cái chúng ta hiểu được, thì ông bày ra qua thai đố.

Liệu hai bài thơ trên, minh họa, câu trên?

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.
Prospero

Tôi mê cái dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra, chẳng cần tới ai. Tôi cũng mê sức căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm lộ ra đẳng cấp nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.

Ui chao, phán như thế mới là phán chứ, nhỉ?

Nhưng bạn đã nhận ra sức căng của thời tiết, vào lúc trời đất rơi vào thu phân?

… tóc em rối giữa hai đầu ngọn gió
hình như rừng rơi vào thu phân.

TMT

Giọt mưa trời khóc

CHINESE POEM

I read a Chinese poem
written a thousand years ago.
The author talks about the rain
that fell all night
on the bamboo roof of his boat
and the peace that finally
settled in his heart.
Is it just coincidence
that it's November again, with fog
and a leaden twilight?
Is it just chance
that someone else is living?
Poets attach great importance
to prizes and success
but autumn after autumn
tears leaves from the proud trees
and if anything remains
it's only the soft murmur of the rain
in poems
neither happy nor sad.
Only purity can't be seen,
and evening, when both light and shadow
forget us for a moment,
busily shuffling mysteries. 

ADAM ZAGAJEWSKI 

Thơ Tầu

 Tôi đọc thơ Tầu,
viết từ một ngàn năm trước.
Thi sĩ nói về những giọt mưa đêm,
rơi trên mái thuyền tre,
và sau cùng đem đến sự bình an cho trái tim của mình.
Liệu chỉ là tình cờ,
Tháng Chạp lại tới,
với sương mù,
và hoàng hôn nặng nề?
Liệu chỉ là nhân duyên
Một người nào đang sống, ở đâu đó?
Thi sĩ đặt nặng vào giải thưởng, thành công
nhưng thu này, thu tới
vặt lá ra khỏi đám cây cao ngạo
và nếu có gì còn lại,
thì chỉ là tiếng thầm thì của mưa
trong những bài thơ
chẳng hạnh phúc, mà cũng chẳng buồn bã.
Chỉ có sự tinh khiết là không thể nhìn thấy
Và buổi chiều, khi cả hai, ánh sáng và bóng tối,
đều quên chúng ta trong thoáng chốc
vì bận bịu trao đổi những điều bí ẩn


Liệu chỉ là nhân duyên
Một người nào đang sống, ở đâu đó? 

Tuyệt!

Đúng ‘air’ Lý Thương Ẩn:
Gặp đã khó, xa nhau càng khó;
Có nhau trên đời, chưa từng gặp nhau,
Lại càng cực khó!

Thôi thì cứ hẹn, kiếp sau, kiếp khác, mình gặp nhau,
Thì Gấu này sẽ kể cho nghe,
Về cái đêm mưa ao thu dâng đầy, nhé? (1)

Note: Bài thơ Tầu này, Gấu Cái mê lắm.

Bài này nữa:

WAIT FOR AN AUTUMN DAY
(FROM EKELOF)

 

Wait for an autumn day, for a slightly
weary sun, for dusty air,
a pale day's weather. 

Wait for the maple's rough, brown leaves,
etched like an old man's hands,
for chestnuts and acorns, 

for an evening when you sit in the garden
with a notebook and the bonfire's smoke contains
the heady taste of ungettable wisdom. 

Wait for afternoons shorter than an athlete's breath,
for a truce among the clouds,
for the silence of trees,

for the moment when you reach absolute peace
and accept the thought that what you've lost
is gone for good. 

Wait for the moment when you might not
even miss those you loved
who are no more. 

Wait for a bright, high day,
for an hour without doubt or pain.
Wait for an autumn day. 

Adam Zagajewski
[From Eternal Enemies]

Đợi một ngày thu
[Từ Ekelof]

Đợi một ngày thu, trời mền mệt, oai oải,
không gian có tí bụi và tiết trời thì nhợt nhạt

Đợi những chiếc lá phong mầu nâu, cộc cằn, khắc khổ,
giống như những bàn tay của một người già,
đợi hạt rẻ, hạt sồi, quả đấu

ngóng một buổi chiều, bạn ngồi ngoài vuờn
với một cuốn sổ tay và khói từ đống lửa bay lên
chứa trong nó những lời thánh hiền bạn không thể nào với lại kịp.

Đợi những buổi chiều cụt thun lủn,
cụt hơn cả hơi thở của một gã điền kinh,
đợi tí hưu chiến giữa những đám mây,
sự im lặng của cây cối,

đợi khoảnh khắc khi bạn đạt tới sự bình an tuyệt tối,
và khi đó, bạn đành chấp nhận,
điều bạn mất đi thì đã mất, một cách tốt đẹp.

Đợi giây phút một khi mà bạn chẳng thèm nhớ nhung
ngay cả những người thân yêu ,
đã chẳng còn nữa.

Đợi một ngày sáng, cao
đợi một giờ đồng hồ chẳng hồ nghi, chẳng đau đớn.
Đợi một ngày thu (2)

ADAM  ZAGAJEWSKI

1945-

We're separated from nature as if by a glass wall-and this is the subject of this Polish poet. Poets have always been fascinated by the incomprehensible behavior of some creatures, for instance, the moth, which strives toward light and burns itself in the flame of a candle or kerosene lamp. Thence come comparisons: Love, as a fire which lures the lovers to their destruction. Yet moths, because they come from darkness into our circle of light, are, at the same time, messengers of that which is the most other. In this poem, people have their small security in a lighted house, but beyond the window, immeasurable spaces of the cosmos stretch, and the moths are like visitors from other galaxies.

MOTHS 

Moths watched us through
the window. Seated at the table,
we were skewered by their lambent gazes,
harder than their shattering wings.

You'll always be outside,
past the pane. And we'll be here within,
more and more in. Moths watched us
through the window, in August. 

Translated from the Polish by Renata Gorczynski, Benjamin Ivry, and C. K. Williams
Czeslaw Milosz tuyển chọn (1)

Chúng ta chia cách với thiên nhiên như thể bởi một bức tường kính – và đây là đề tài của bài thơ trên đây của một thi sĩ Ba Lan.
Thi sĩ thì luôn luôn sững sờ bởi cách ứng xử ‘cà chớn, khó hiểu’ của vài giống vật, thí dụ của mấy đấng thiêu thân, cứ thấy lửa là lao vô để mà tự huỷ.
Và từ đó, là sự so sánh:
Tình yêu, như lửa, “lừa, dụ, lùa” mấy kẻ yêu nhau vào huỷ diệt. Tuy nhiên, thiêu thân, bởi là vì chúng từ bóng tối tới vòng ánh sáng thành ra, cùng lúc, còn là những thiên sứ của một miền Đất Hứa Cực Đất Hứa, từ 1 Cõi Khác, Kiếp Khác, Cõi Sau, Đời Sau, Next To Never….
Trong bài thơ này, chúng ta có tí tiện nhi, yên ổn trong căn nhà sáng đèn, trong quá cửa sổ, là những không gian không thể đo luờng của vũ trụ triển nở, và thiêu thân là những vị khách từ những thiên hà khác.

Thiêu thân

Thiêu thân dòm chúng ta qua cửa sổ
Ngồi ở bàn, chúng ta bị xiên xéo bởi những ánh mắt
Hơn là bởi những tiếng đập cánh của chúng

Bạn ơi, bạn luôn ở bên ngoài
Quá cửa kính. Và chúng tớ thì ở bên trong, hằng hà, lúc nhúc.
Thiêu thân dòm chúng ta
Qua cửa sổ. Tháng Tám

Một vị độc giả mê thơ, nhận ra, GCC dịch thơ Adam Zagajewski tới hơn, so với dịch Simic.
Quả thế, nhưng đây là do cảm quan.
Mỗi lần đọc thơ Adam Zagajewski, thấy thoải mái vô cùng, còn đọc/dịch thơ Simic, là sợ…  đau.



*

NYRB July 12, 2012 

IMMIGRATION
AND NATURALIZATION

We were that rag head family
Catching rainfall in a still.
The old famines had us spooked,
Thirst-myths passed on to us sons
By our drunk, teary father,
Smack of rock still on his tongue.

Once he had to bite his tongue,
He told us, so his family
Could drink of him. His father
Didn't have to ask. But still,
He said, you boys are good sons.
Just do my will. And don't speak.

We didn't. Nobody spoke
To us, either, though our tongues
Could parrot, palate the sounds.
Yes. Yes, that was my family,
Awed by leavened bread, turnstiles,
Drinking fountains; my father,

Screaming Respect your father
In public; me, who did not speak.
Come dawn we poured out the stills
And prayed in a stranger's tongue
For the health of our family
And the rising of the sun.

Can I be my father's son
Without being my father?
Or am I unfamiliar
Because of the way I speak?
This foreign, farangi tongue
That borrowed some words and stole

The rest, imperial style.
I want to be a good son,
But without biting my tongue.
I'm thinking of my father.
It feels like treason to speak
Publicly of my family

But is it still a family
When the son cannot speak
The mother tongue of the father?

-Amit Majmudar


ps. K dang gom may bai tho dich cua anh de lam mot bai "Tho Dich Nguyen Quoc Tru" . K cung muon tim nhung bai viet ve "Tho la gi ?" cua cac tac gia anh hay de cap toi ma tim kho qua, vi anh de bai lung tung, ma viet cung lung tung  . K muon thu thap de lam mot thu guidance cho minh ( va gian tiep, cho nguoi khac ...)

Tks. Many Tks

Cái vụ dịch thơ này, thú vị thật.
Đã được 1 bạn văn, thay mặt GCC, chào hàng với 1 nhà xb ở trong nước, nhưng trục trặc vào giờ chót, đành bỏ.
Vả chăng, GCC thực sự cũng không “khứng”! Vì sợ cú kiểm duyệt.
Bây giờ K mà bắt tay vô thì tuyệt quá, vì thể nào trong khi biên tập như thế, cũng ngứa tay nhặt sạn.
Tks again. Tôi sẽ đi 1 đường thu thập những bài viết về thơ của mấy đấng như Simic, Zagajewski…
NQT

Vẫn về thơ dịch. Một vị độc giả TV đang chuyển Bi Khúc Bốn Tháng Sáu, của Liu Xiaobo qua tiếng Việt, từ nguyên tác. Tin Văn "xuất bản", tất nhiên, tuyệt tác này, cùng với 1 số bài giới thiệu. GCC có đề nghị, hay là xb ở trong nước, nhờ…. Mở Miệng chẳng hạn, vị độc giả phán, Trên Đỉnh Non Tản là quá OK rồi!

Tks

MY QUARREL WITH THE INFINITE

I preferred the fleeting,
Like a memory of a sip of wine
Of noble vintage
On the tongue with eyes closed ...

When you tapped me on the shoulder,
O light, unsayable in your splendor.
A lot of good you did me.
You just made my insomnia last longer.

I sat rapt at the spectacle,
Secretly ruing the fugitive:
All its provisory, short-lived
Kisses and enchantments.

Here with the new day breaking,
And a single scarecrow on the horizon
Directing the traffic
Of crows and their shadows.

Charles Simic

Gấu Cà Khịa Với Vô Cùng 

Ta thích phù du
Như kỷ niệm một ngụm vang
Thứ đường được
Đọng ở lưỡi
Mắt nhắm tít lại 

Khi mi vỗ vai ta
Ôi ánh sáng, huy hoàng mi, làm sao nói ra được
Mi đối với ta thật tốt
Mi làm cơn mất ngủ của ta dài thêm ra

Ta ngồi mê ly coi cải lương
Tiếc nuối thầm nỗi tàn phai:
Tất cả cái tạm bợ, sớm nở tối tàn của nó
Những nụ hôn và những say mê.

Giờ đây, ngày tới,
Độc một thằng bù nhìn ở nơi chân trời
Chỉ dẫn cuộc lưu thông
Của lũ quạ,
Và những cái bóng của chúng.
 

OCTOBER LIGHT  

That same light by which I saw her last
Made me close my eyes now in revery;
Remembering how she sat in the garden 

With a red shawl over her shoulders
And a small book in her lap,
Once in a long while looking up 

With the day's brightness on her face,
As if to appraise something of utmost seriousness
She has just read at least twice, 

With the sky clear and open to view;
Because the leaves had already fallen
And lay still around her two feet.

Charles Simic

Ánh sáng Tháng Mười

Cũng ánh sáng này tôi nhìn nàng lần sau cùng
Bây giờ nó làm tôi nhắm mắt lại và mơ màng
Nhớ lại nàng ngồi trong khu vườn 

Khăn đỏ choàng trên vai
Cuốn sách nhỏ trên đùi
Nàng nhìn lên một lúc thật lâu 

Với ánh sáng ban ngày rạng rỡ trên khuôn mặt
Như thể để thẩm định một điều gì thật sự nghiêm trọng
Nàng vừa đọc ít nhất là hai lần, 

Bầu trời thì trong, mở ra để nhìn ngắm,
Bởi vì những chiếc lá đã rụng
Phủ quanh chân nàng.

FROM MEMORY
 

The narrow street rears up from memory –
let it be this poem's larynx-
and the thick gray smoke above the coking plant,
casting sparks into the sky like a volcano,
repaying its debt to the stars. 

My street: two proud old maids
with narrow lips-they'd survived Siberia
and Stalin; a young actor, craving fame,
and Professor G., who'd lost an arm in the Uprising
and wore his empty shirtsleeve like a sail. 

I don't know anything yet, nothing's happened,
not counting the war or the massacre of Jews.
In winter gray snow lurks on rooftops,
alert as an Indian, dreading spring.
Vacation comes, a peeled orange. 

A greedy priest gulps Gospels
in the crimson, Neo-Gothic church;
oh, heart of hearts, Christ's wounded breast.
Thank God for cream puffs after Mass
to help erase your Latin tortures. 

In the barracks new recruits are training,
one of my friends plays the trumpet
like Miles Davis, only better.
Young ladies promenade
in wide starched skirts.
The ugly earth, gashed by flat
black rivers, scarred
like a German student's cheek,
held still all day; at night
it crooned in two languages, 

and we also lived in two idioms,
in the cramped jargon of the commonplace, of envy,
and in the language of a great dream.
At noon the clouds' eye gently
opened, the eye of tears and light.

Adam Zagajewski: Mysticism for Beginners

Từ hồi ức 

Con phố hẹp bò ra từ hồi ức –
Thì cứ coi nó là thanh quản của bài thơ này –
Khói xám xịt, đặc kịt, bên trên nhà máy than,
Khạc lửa lên bầu trời như miệng núi lửa,
Trang trải nợ nần của nó cho những vì sao 

Con phố của tôi: Hai mụ tớ già, kiêu ngạo
Với cặp môi mỏng dính - Họ đã sống sót Siberia và Stalin;
một diễn viên trẻ, thèm khát danh vọng,
Và Giáo sư P., mất một cánh tay trong Vụ Vùng Lên
Cái tay áo mất cánh tay của ông phất phơ, phe phảy như 1 cánh buồm. 

Tôi chưa biết cái gì, chưa cái gì xẩy ra,
Nếu không tính cuộc chiến và cuộc tàn sát dân Do Thái.
Mùa đông, tuyết xám rình rập trên đỉnh mái nhà,
Cảnh báo, như một tên Da Ðỏ, mùa xuân đáng sợ.
Nghỉ hè tới, một trái cam bóc vỏ. 

Một vị linh mục tham ăn nhai nát Phúc Âm
Trong nhà thờ Tân – Gothic đỏ rực;
Ôi, trái tim của những trái tim, ngực bị thương của Chúa Ky Tô.
Cám ơn Chúa, vì những bánh kem sau lễ Mass
Nhờ chúng mà lũ con chiên chúng con xóa được những cú tra tấn La Tinh.

Trong trại lính, tân binh được tuyển mộ
Một trong những đứa bạn của tôi thổi kèn
Như Miles David, thua chẳng thua, mà còn bảnh hơn
Những thiếu nữ trẻ dạo chơi
Trong những áo sơ mi, cứng ngắc vì hồ, và thật rộng. 

Trái đất xấu xa, được vạch bằng những con sông đen,
Nông toèn, đầy sẹo, như cái má của 1 sinh viên người Ðức,
Vẫn cố đứng vững một ngày như mọi ngày; vào ban đêm,
Nó ngâm nga bằng hai ngôn ngữ
Và chúng ta, thì cũng sống bằng hai thành ngữ
Trong một thứ tiếng lóng chật hẹp, tù túng, tầm thường, cũ rích, của thèm muốn
Và trong ngôn ngữ của giấc mộng lớn.
Vào buổi trưa, con mắt của đám mây dịu dàng mở ra
Con mắt của những giọt nước mắt và ánh sáng. (1)


ps. K dang gom may bai tho dich cua anh de lam mot bai "Tho Dich Nguyen Quoc Tru" . K cung muon tim nhung bai viet ve "Tho la gi ?" cua cac tac gia anh hay de cap toi ma tim kho qua, vi anh de bai lung tung, ma viet cung lung tung  . K muon thu thap de lam mot thu guidance cho minh ( va gian tiep, cho nguoi khac ...)

Tks. Many Tks

Cái vụ dịch thơ này, thú vị thật.
Đã được 1 bạn văn, thay mặt GCC, chào hàng với 1 nhà xb ở trong nước, nhưng trục trặc vào giờ chót, đành bỏ.
Vả chăng, GCC thực sự cũng không “khứng”! Vì sợ cú kiểm duyệt.
Bây giờ K mà bắt tay vô thì tuyệt quá, vì thể nào trong khi biên tập như thế, cũng ngứa tay nhặt sạn.
Tks again. Tôi sẽ đi 1 đường thu thập những bài viết về thơ của mấy đấng như Simic, Zagajewski…
NQT

Vẫn về thơ dịch. Một vị độc giả TV đang chuyển Bi Khúc Bốn Tháng Sáu, của Liu Xiaobo qua tiếng Việt, từ nguyên tác. Tin Văn "xuất bản", tất nhiên, tuyệt tác này, cùng với 1 số bài giới thiệu. GCC có đề nghị, hay là xb ở trong nước, nhờ…. Mở Miệng chẳng hạn, vị độc giả phán, Trên Đỉnh Non Tản là quá OK rồi!

Tks


Thơ Mỗi Ngày

Album

@ Lake Huron, Canada Day
*


“Official Inquiry Among Grains of Sand”
“Một cuộc điều tra chính thức giữa những hạt cát”


Vang Bóng Một Thời TSVC



*

*

Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển
 

Hải Âu Thì Thầm

Người ta gọi như vậy
Và lắc đầu
Như những người đi biển

Tiếng oa oa của một hải âu
“đáng thương và buồn”
[It’s not my words]
Bị kẹt cứng trong lồng ngực của mình

Để lấy ra
Họ bèn mổ bụng hải âu
Như cá
Phơi mớ xương suờn ra

Xương của một con tầu
Và họ đóng lại,
Quấn dây kẽm, thép, nhốt cứng

Xảm, bịt, chét…  cứng,
Tha hồ biển, tha hồ giông bão
Và bây giờ
Trong cái vỏ mới
Vang lên:

Tiếng leng keng đần độn
Tín hiệu cầu cứu,
Hay là tiếng gõ của mỏ chim
Lên chấn song cái chuồng giam giữ nó?

A Seagull Lies Dying on the Shore
This Is Another Seagull


CORRIDOR

FOR RUTH AND MARIA BUCZYNSKI

I liked the comic rituals of young poets,
the panicked moments, the anxieties
before the reading, the slow passage
through a dark corridor toward the lighted stage,
performing poems to a drowsy
public that woke up now and then,
the great and lesser envies and the moment when
the inarguable charm of one good line,
an unexpected metaphor or image meant
that all was-temporarily-forgiven.
Sometimes someone would ask uncertainly-
but won't you tell us how to live?
-I thought it was funny then, but not now.
I liked the silence not without
its deeper meanings, the jokes, the chats
with timid readers and finally
the signing of the books with the names
that we knew, without question,
truly belonged to us.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Hành Lang

Gấu thích những nghi lễ tiếu lâm của những nhà thơ trẻ
Những khoảnh khắc hoảng loạn, những xao xuyến
Trước khi đọc, đi chầm chậm qua hành lang tối thui về phía sân khấu sáng choang,
Trình diễn những bài thơ trước công chúng lơ tơ mơ, lúc thức, lúc ngủ,
những ham muốn nhớn hơn, hoặc bé hơn, và khoảnh khắc, khi
sự quyến rũ không thể nào bàn cãi của một dòng thơ thần sầu,
một ẩn dụ không mong đợi, hay một hình ảnh, có nghĩa,
tất cả thì - chốc lát thôi - được tha thứ.
Thi thoảng, có một ai đó sẽ hỏi, không chắc chắn lắm,
Nhưng mà này, ông thi sỡi, đừng có dậy chúng tớ
làm sao sống cái cuộc đời chó má này đấy nhé!
Lúc đó thì Gấu thấy thật là tức cười – nhưng bây giờ, thì không.
Gấu thích sự im lặng, không phải không có những ý nghĩa sâu thẳm của nó,
những câu chuyện tiếu lâm, những chát chiếc,
với những độc giả rụt rè,
và sau cùng, là ký tên sách
với những cái tên mà chúng ta biết,
đếch cần hỏi,
thực sự thuộc về chúng ta. (1) 

JOSEPH STREET

I often walk down Joseph Street, I enter Joseph's dreams,
always seeking to detect where that peculiar
street leads; it turns where
there is nothing, and I wonder what I am,
a passerby who won't last long.
The happiness and sorrow gathered here will save
no one, although the harvest may be abundant.
Years pass, I remain, memory is uncertain,
unheard prayers lie underfoot,
sparrows are eternity's frail emblem,
the rain is only recollection, the silhouettes
of unknown persons walk without casting shadows.
Toward evening the light grows feebler and death
rides swiftly on its high cart, laughing.

Phố Joseph

Gấu thường xuống phố Joseph Street, vô những giấc mộng của Joseph
Luôn luôn cố tìm coi con phố đặc biệt này dẫn đi đâu; nó ngoặt ở chỗ nào,
chẳng có gì và Gấu băn khoăn mình là cái gì
một bộ hành chẳng trụ lâu
Hạnh phúc và buồn đau tụ ở đây, con phố Trương Minh Giảng
[quãng gần Cổng Xe Lửa Số 6]
sẽ chẳng cứu được ai, mặc dù mùa gặt tràn đầy
Năm tháng qua đi, Gấu còn lại, hồi nhớ thì không chắc chắn,
những lời cầu nguyện ở nhà thờ Vườn Xoài thì không nghe được,
dưới chân.
Những con chim sẻ là biểu tượng mong manh của vĩnh cửu
Mưa chỉ là hồi tưởng, nhũng hình bóng
những con người vô danh bước bước,
chẳng để lại cái bóng của họ ở phía sau
Về chiều tối ánh sáng trở nên lờ mờ và
Thần Chết phóng chiếc xe cao lêu khêu của nó, cười vỡ phố.

JOSEPH STREET IN WINTER

FOR JOACHIM RUSSEK

In winter Joseph Street is dark,
a few pilgrims flounder through wet snow
and don't know where they're going, to which star,
and maybe they stop short
like the gardener, who leans
against his shovel handle, dreaming,
and doesn't see that war
has unexpectedly erupted
or that the hydrangea has bloomed.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Mùa Đông, phố Joseph

Mùa Đông, con phố Joseph
[Trương Minh Giảng], tối thui,
Một vài giáo dân Khu Vườn Xoài
Loạng quạng đi trong mưa ướt nhèm
Không biết họ đi đâu, nhắm theo vì sao nào
Và có thể, họ ngưng cái rụp
Như người phu quét đường dừng chổi đứng nghe
Hay như người làm vườn, ngưng bất thần
Và tì người lên cán xẻng,
Mơ màng,
Đếch biết VC mở ra Cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân
Hay là, hoa tú cầu nở rộ.


London:
Ông phán, đâu đó, vài lần, several times and in different places, thơ tốt vinh danh “ở đây” và “bây giờ” [“good poetry honors the here and the now]. Tuy nhiên – và tuy nhiên – ông không cho biết nơi chốn, thời gian, địa điểm, you do not name places, you do not name locations, you do not have dates. Trong thơ của ông, thời kỳ Việt Nam, Việt Nam như thế thì không như thế, Vietnam as such isn’t. Đầy nỗi đau, nhưng như thế thì không như thế, it’s full of pain but as such isn’t.
Simic:
Đúng vậy, đề tài của tôi thì luôn luôn là lịch sử đương thời… Lý do tôi không gọi tên, vì tôi nghĩ tên đếch có nghĩa gì cả, names mean nothing.
London:
Như vậy là chúng ta lại trở về với [đề tài] vô danh, anomanity.

Alexander Neubauer: Poetry in Person


Vang Bóng Một Thời TSVC

*

Lời Phi Lộ của TSVC, do GCC viết. Đăng trên số Mỹ Từ Pháp.

TSVC là gì?

Tôi biết Lộc, và J. Huỳnh Văn, là qua Tập san Văn chương. Không biết ai là người đầu tiên đưa ra việc làm báo. Khi có tôi, mọi chuyện đã được quyết định. Tôi nhận lời,  phần lớn là vì hai người bạn mới. Nhất là J. Huỳnh Văn. Như một hậu quả tất nhiên của những buổi bỏ sở ra ngồi quán cà phê gốc me đường Nguyễn Du, hoặc bên đường Hai Bà Trưng, quãng gần ngã tư Gia Long, khi bên kia quá ồn.  Số là lúc này, Bưu Điện đã phân đôi, thành Bưu Vụ, và Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương, chuyên lo việc lên đồ biểu điện đàm/ điện tín, dưới quyền của ông T. nghe nói người của Mỹ. Vào những ngày cuối cùng, trong lúc Đà Nẵng đang trong cơn hỗn loạn, tôi còn cố liên lạc với Phòng Điện Toán, xin con số điện đàm/ điện tín ... "Anh có biết Đà Nẵng sắp sửa đi đoong không..."  tôi nghe tiếng người bạn bên kia đường dây hốt hoảng. Quay qua phòng sếp, một đống hồ sơ vẫn y nguyên. Đã hơn tuần, ông chưa vô sở: người Mỹ đã đưa ông và gia đình đi từ mấy ngày trước.
Huỳnh Văn là linh hồn của cả bọn, là tinh thần, và Tổng thư ký, của tờ báo. Không có anh, chắc tờ báo không ra quá số hai. Sài-gòn nhỏ xíu: chiến tranh, nỗi sợ hãi, đời sống riêng tư của mỗi con người... làm người ta co cụm lại. Đám bạn bè tuy biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên nhau, khi có anh. Anh nói, anh biết tôi từ hồi Nghệ Thuật, từ những ngày, thỉnh thoảng ghé quán Cái Chùa, thấy một gã lúc nào cũng đeo kính đen, ngồi trơ một mình tại một chiếc bàn ở góc quán. Nếu không có Tập san Văn chương, chúng tôi chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và có thể chẳng bao giờ người đọc biết anh là một thi sĩ. Cũng chẳng mấy người biết anh dậy học, cho một trường tư ở Biên hòa. Có thể những dòng Cầm Dương Xanh đã rong ruổi cùng với anh, suốt quãng đường Sài-gòn - Biên-hòa, và ngược lại. Chúng xuất hiện lần đầu tiên, và cũng là cuối cùng trên Tập san Văn chương.
Huy Tưởng, thay mặt tôi tới gia đình đốt những nén hương tưởng niệm, sau đó gửi ra vài dòng. Về câu hỏi, chị còn nhớ...?: Thời gian sau này, bạn bè nhiều nhưng thật tình là tôi không được quen biết hết, chỉ có các anh là bạn cũ trước 75 thì tôi mới nhớ thôi.

Thật đơn giản, nhưng... 

Ba mươi năm sau, một tập san cùng tên xuất hiện ở hải ngoại. (2) Những dòng hồi tưởng ở trên, là do tôi muốn anh em chủ trương làm quen với những người đã cũ, hoặc đã chết. Muốn anh em chia sẻ cùng chúng tôi không khí ngột ngạt của Sài-gòn hồi đó. Tôi hi vọng vào khoảng cách giữa các thế hệ. Hoàng Cầm và tôi là người cùng thời, nhưng ông có trước tôi một thời đại không lập lại nữa, hay dùng chữ của ông: một gia phả tinh thần mà dù đã được rũ bụi thì tôi cũng không đơn giản làm quen". (Phạm Thị Hoài, Đọc Mưa Thuận Thành  của Hoàng Cầm, Tạp chí Thơ, Mùa Đông, 1997). Tôi không hiểu anh em trong ban chủ trương khi đồng ý với nhau về một danh xưng, có biết, có những người đã gắn bó với nhau chung quanh một cái tên như vậy. Rằng nó đã có một tiền thân?  Hay đây chỉ là tình cờ?  Và chủ trương, đường lối của tờ báo mới mẻ này có gì tương tự với tờ cũ không? Và liệu người cũ có cần làm một nghi lễ rũ bụi, trước khi ngồi xuống bàn viết, ở đây?

Bởi vì Tập san Văn chương quả có những nét riêng: nó cách mạng, lật đổ theo tinh thần bất bạo động, hoặc theo hiểu hiền lành của nhà văn Nga, Chekhov. Bây giờ, sau hơn ba mươi năm, trong số ít ỏi những thực sự quan tâm và gắn bó với một nền văn chương Miền Nam trước 75, có người đã nhận ra, bên cạnh cuộc cách mạng lớn, do Sáng Tạo hô hào, có một cách mạng nhỏ, thầm lặng của Tập san Văn chương. Ngay trong lời phi lộ số ra mắt, khi định nghĩa nhà văn, một người được thông tri đầy đủ (những dữ kiện của thời đại anh ta đang sống), chúng tôi đã hoài vọng một điều: hãy đưa ra thật nhiều thông tin, hãy giới thiệu những dòng tư tưởng đang ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, rồi để cho người đọc tự do chọn lựa, theo khẩu vị của họ. Cho phép tôi dùng chữ khẩu vị, theo nghĩa của Roland Barthes: Chữ viết ở khắp nơi, khi mà những từ có mùi, có vị (tri thức, savoir,mùi vị, saveur, trong tiếng La-tinh là cùng một nguồn).  Vả chăng, việc lập lại một cái tên theo dòng thời gian, vốn vô thường, liệu có liên quan đến lịch sử, vốn ưa lập lại? Hoặc đến huyền thoại Quy Hồi Vĩnh Cửu, vốn rất hàm hồ?

Cách mạng là một từ đã bị bão hòa. Ai cũng có, hơn một ý niệm, về nó. Michel Foucault, trong bài "Khai sáng là gì? (What is Enlightenment?)", viết: Ngày nay, khi một tờ báo đưa ra câu hỏi đối với độc giả, là để thâu gom một số ý kiến, về một vấn đề mà mọi người, nhiều hoặc ít, đã hiểu tại sao câu hỏi được đặt ra: chẳng hi vọng nhiều ở những cuộc thăm dò dư luận như thế. Vào thế kỷ thứ 18, giới in ấn, chủ báo thường hỏi công chúng về một vấn đề chưa có câu trả lời. Ông đưa ra thí dụ: vào năm 1784, một tờ báo Đức, Berlinische Monatschrift, đã đặt câu hỏi: Khai sáng là gì? (Was ist Aufklarung?).  Và người trả lời, là Kant. Bài viết của Kant, theo M. Foucault, chỉ nhỏ nhoi thôi, nhưng nó mở ra một lối đi thận trọng vào lịch sử tư tưởng, về một câu hỏi mà triết học hiện đại vẫn chưa có đủ khả năng để trả lời, và cũng chẳng bao giờ rũ khỏi. Nó đã được lập lại, dưới những hình thức khác nhau, từ hai thế kỷ, bởi những triết gia, từ Hegel qua Marx, hay Max Weber tới Horkheimer hay Habermas, và tội thay, tất cả đều đã thất bại, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, khi phải đối đầu với nó. Giả sử tờ báo Đức kia vẫn còn sống, và nó lại đặt ra câu hỏi: triết học hiện đại là gì? Có thể chúng ta sẽ nghe một tiếng dội: triết học hiện đại là một toan tính nhằm trả lời một câu hỏi đã được khinh xuất đặt ra từ hai thế kỷ trước: Khai sáng là gì?

Bởi vì có thể vẫn là một định nghĩa tương tự đã được đặt ra, khi Tập san Văn chương ra đời hải ngoại: nhà văn là người được thông tri đầy đủ những dữ kiện của cả hai miền, về thời đại của chúng ta, với tất cả những vấn nạn của nó.

NQT

(1) George Steiner, viết về  F. R. Leavis, trong Ngôn ngữ và Im lặng
(2) Bài viết cho tạp chí Văn Chương dự tính ra mắt tại hải ngoại.


CANVAS

I stood in silence before a dark picture,
before a canvas that might have been
coat, shirt, flag,
but had turned instead into the world.

I stood in silence before the dark canvas,
charged with delight and revolt and I thought
of the arts of painting and living,
of so many blank, bitter days,

of moments of helplessness
and my chilly imagination
that's the tongue of a bell,
alive only when swaying,

striking what it loves,
loving what it strikes,
and it came to me that this canvas
could have become a winding-sheet, too.

Adam Zagajewski: Without End

Tấm vải bố

Tôi ngồi im lặng trước bức hình u tối
trước tấm vải bố có thể trở thành
áo khoác, sơ mi, cờ,
thay vì vậy, trở thành thế giới

Tôi ngồi im lặng trước tấm vải bố u tối,
chất chứa sự thích thú, sự nổi loạn và tôi nghĩ
về nghệ thuật hội họa và sống
của biết bao ngày trống rỗng, cay đắng

của những khoảnh khắc vô vọng
và cái sự tưởng tượng lạnh lẽo của mình,
lưỡi chuông,
chỉ sống,
khi lắc lư

Đánh 1 cú thật mạnh vào cái yêu
Yêu cái đánh 1 cú thật mạnh
Và tôi tự dưng có ý nghĩ,
tấm vải bố
cũng có thể trở thành tấm vải niệm.
 

ELEGY FOR THE LIVING 

The joy of the moment turns suddenly
into a black hood with openings
only for eyes, mouth, tongue, grief. More grief.
The living see off their days
that flee
like negatives, exposed once
but never developed. 

The living exist, so light-mindedly, so nonchalantly,
that the dead are abashed.
They smile sadly: Children
we were like you, just the same.
Above us, robinias blossomed,
and in the robinias, nightingales sang. 

Bi khúc cho người sống

Niềm vui khoảnh khắc bất thình lình
biến thành 1 cái mũ chụp đầu có những lỗ hổng
Chỉ dành cho
Mắt
Mồm
Lưỡi
Và nỗi đau. Nhiều nỗi đau.
Người sống nhìn ngày đi
Như những tấm phim
Ðã 1 lần được phơi
Nhưng chẳng bao giờ được rửa.

Người sống hiện hữu, tất nhiên, nhưng bông lông,
cà chớn, hời hợt, chẳng ra làm sao cả,
khiến người chết lúng túng
Người chết bèn cười buồn: Lũ nhỏ kia ơi,
Chúng ta thì cũng như chúng mi, y hệt như vậy.
Trên đầu chúng ta, hoa robinia nở rộ
Và trong đám robonia,
những con sơn ca ca hát. 

Adam Zagajewski: Without End (1)

An ủi

Ví thử luân hồi là có thật
Ta về soi lại vạn kiếp xưa
Xem thử kiếp nào ta gây tội
Mà đeo nhau mãi đến bây giờ 

Biết đâu ta từng là bọ ngựa
Cắn cổ người tình lúc giao hoan
Kiếp này tạ tội ngàn đêm lẻ
Trả từ ngọn tóc đến bàn chân 

Hay trước ta là tù giữ ngục
Hành nhau đến ma dại thân tàn
Kiếp này tha mãi từng sợi cỏ
Tự kết cho mình chiếc lồng son 

Thản hoặc trước ta là con nhện
Chiều chiều sau ngõ cứ giăng tơ
Kiếp này gom hết bao mầu sắc
Dệt cho người hạnh phúc như mơ 

Hoặc giả ta là sam thuở trước
Thảo nào thấy trông trống trên lưng
Nhìn quanh cả biển người trùng điệp
Chỉ lụy một người, có lạ không 

Thôi thế kiếp này ta tu nhé
Không hờn, không oán, chỉ cười vui
Đừng trách, đừng buồn, đừng kể lể
Mai sau làm mây trắng ven trời

Đặng Lệ Khánh

Note: Bài này tuyệt quá.

Tks. NQT

GCC bỗng nhớ cái mail của....:

Kiếp trước mi đúng là đỉa!
[Nguyên văn: Cha này kiếp trước là con đỉa, nên dai quá]

Hà, hà!

SEPTEMBER EVENING
YES, IN LVOV

The white church of the Carmelites on a low hill
and right beside it Franciscan Street, where my
grandfather was once the stern director of a school
(he grew kinder only with age).
Heaps of stones, the pockmarked pavement,
as if someone had been hunting treasure.
Yellow leaves cling to the gaunt trees,
cautiously, without conviction.
This is the building they entered,
and the gate that likes only shadows.
But now there's nothing anyway, just me,
shivering from the cold, and the empty September evening.
I must jot down a few words so that winter
may chew its black bread of forgetting.

Adam Zagajewski

Chiều Tháng Chín
Đúng rồi, ở Lvov

Nhà thờ Carmelites màu trắng ở trên một ngọn đồi thấp
Và kế ngay nó, là con phố Franciscan Street,
nơi ông tôi đã từng là một vị giám đốc nghiêm khắc của một ngôi trường
(chỉ già đi thì ông mới trở nên hiền)
Những đống đá, mặt đườnng vỉa hè rỗ
Như thể một người đó săn tìm kho tàng
Lá vàng bám cây gầy,
thận trọng, không tin tưởng
Đây là tòa nhà họ đi vô
Và cái cổng thì chỉ khoái những cái bóng
Nhưng bây giờ thì còn gì nữa đâu, chỉ còn mình tôi
Run rẩy trong lạnh giá, trong buổi chiều Tháng Chín
Tôi phải lèm bèm vài lời, biết đâu nhờ vậy
mùa đông có thể nhóp nhép nhai mẩu bánh đen của sự lãng quên của nó

K.I.G.
GALCZYNSKI, OF COURSE

I listen to Saint-Saens's Requiem and think about poetry.
It's August, the wind wrestles the trees
and yellow bindweed blossoms in suburban hedges.

You were my parents' favorite poet,
they didn't read much poetry otherwise.
What drew them to your books?

They must have liked the humor, the risky
jokes of a cautious artist:
"too much wind for my wool,"

and the funny name of your company, "Terror
& Tummy," a firm that thrived
even in times of the greatest terror.

A light touch and brashness, and disarming charm,
right? My parents were completely different,
they lacked the talents you possessed
in such abundance-but I think
they wanted to rescue what they'd been-I don't know
what to call it, that unseen something

that runs through your poems too,
but well concealed, deeply hidden
like the gold coin under a miser's mattress,
the stubborn, ardent striving that is
the whisper of great poetry and may become
the quiet, patient hymn of life.

Adam Zagajewski

K.I.G.
GALCZYNSKI, LẼ DĨ NHIÊN

Tôi lắng nghe Kinh Cầu Saint-Saens's Requiem
và nghĩ về thơ
Tháng Tám, gió lay mạnh cây
Và bìm bìm vàng nở rộ ở những hàng rào ngoại ô

Bạn là nhà thơ mà ông bà già tôi mến mộ
Họ ít đọc thơ
Chẳng hiểu cái gì làm họ mò tới những sách của bạn?

Họ hẳn phải thích những lời bông đùa tếu tếu,
mà cũng đáng ngại của một nghệ sĩ thận trọng:
“nhiều gió quá cho cái [áo] len của tôi”

Và cái tên tức cười của công ty của bạn, “Terror & Tummy”,
một hãng xưởng đã phát đạt ngay cả vào những thời kỳ khủng bố lớn lao nhất

Một cú vẩy, nhanh, nhẹ, bất cẩn, một mê hoặc giải trừ, đúng không?
Ông bà già tôi khác hẳn
Họ thiếu những tài năng mà bạn sở hữu dư dả như thế đó –
nhưng tôi nghĩ
Họ muốn giải cứu điều mà họ đã từng – tôi không biết làm sao gọi -
một điều gì không nhìn thấy

Nó cũng rong ruổi ở trong những bài thơ của bạn
Và được giấu diếm thật kỹ, thật sâu
Như đồng xu vàng ở dưới tấm nệm của 1 kẻ keo kiệt
Cái cú đánh bướng bỉnh, mãnh liệt
Và cũng là
Tiếng thì thầm của thơ ca lớn
và có thể trở thành một bài tụng ca
lặng lẽ, kiên nhẫn của cuộc đời


 Liu Xiaobo

Bi Khúc Bốn Tháng Sáu

Phiên Khúc 17

Bắc Kinh, khuya 1/6/1991
Tưởng niệm năm thứ nhì ngày 4/6

Dâng Tặng:

Em đã không nghe ba mẹ khuyên ngăn, trốn khỏi nhà qua khung cửa nhỏ nhà vệ sinh, khi em cầm ngọn cờ ngã xuống, tuổi mới mười bảy. Tôi thì vẫn sống, đã 36. Trước vong linh em, còn sống tiếp chính là phạm tội, làm thơ tặng em càng là một sự sỉ nhục. Kẻ sống phải câm miệng, lắng nghe lời từ mộ phần. Viết thơ cho em, tôi không xứng. Tuổi mười bảy của em vượt lên hết thảy ngôn ngữ và vật kiến tạo bởi bàn tay con người. 

Tôi vẫn sống
Còn có cái danh thối không lớn không nhỏ
Tôi không có can đảm và tư cách
Cầm một bó hoa tươi hoặc một bài thơ
Bước tới trước nụ cười mười bảy tuổi 

Tôi biết
Mười bảy tuổi không có bất kỳ oán trách nào 

Tuổi mười bảy cho tôi biết
Đời sống đơn sơ không hoa lệ
Như sa mạc nhìn không thấy tận cùng
Không cần cây cỏ không cần nước
Không cần hoa điểm tô
Cũng đã có thể gánh chịu mặt trời bạo ngược 

Mười bảy tuổi ngã xuống trên đường
Đường từ đó mất hút
Mười bảy tuổi ngủ giấc dài trong bùn đất
An lành như trang sách
Mười bảy tuổi đến với đời
Không luyến lụy điều gì
Ngoài lứa tuổi thơ ngây trong trắng
Mười bảy tuổi khi ngừng hơi thở
Không tuyệt vọng, như là kỳ tích
Đạn xuyên qua dãy núi
Co thắt làm nước biển điên cuồng
Vào thời khắc tất cả loài hoa,
Chỉ có một màu
Mười bảy tuổi không có tuyệt vọng
Không hề tuyệt vọng
Mười bảy tuổi tình yêu chưa tròn vẹn
Để lại cho người mẹ tóc bạc kín đầu 

Người mẹ đã khóa trái cửa, nhốt chặt
Tuổi mười bảy ở nhà
Người mẹ từng cắt đứt huyết thống gia tộc cao quý
dưới ngọn cờ hồng
Được ánh mắt em, lúc lâm chung, thức tỉnh
Bà đem di chúc của mười bảy tuổi
Đi khắp tất cả mộ phần
Mỗi một lần bà sắp quỵ ngã
Mười bảy tuổi đều dùng hơi thở vong linh
Đỡ bà đứng vững
Dìu bà lên đường 

Vượt lên lứa tuổi
Vượt lên cái chết
Mười bảy tuổi
Đã vĩnh hằng.

Dã Viên dịch từ nguyên tác

Note:

Bản tiếng Anh: For 17.
Bản tiếng Việt, Phiên Khúc 17,
“muợn” Phiên Khúc 20
của TTT, trong Tôi Không Còn Cô Độc

Tặng những người đã ngã cho Phiên Khúc 20

Ta vừa hai mươi tuổi
nhân loại cũng hai mươi
ôi nhân loại hai mươi
thóc gặt dư ăn
bột xay thừa nặn bánh 

ta kêu lên hờn căm
khi quá thể chúng cắt tình ruột thịt
hỡi mẹ hiền nhìn mẹ rưng rưng
yêu chẳng được yêu khóc không dám khóc 

hôm nay ta xông ra ngoài phố
ngày 20
nắm tay tròn cáu giận
má phừng lửa yêu thương
môi bỏng niềm tủi cực
đêm qua ai thét giữa đêm dài
tỉnh dậy ôi nao nức
ấy là tiếng hét trong hồn ta
ngã xuống ngã xuống
những kẻ dâng linh hồn cho giặc
những kẻ tối tăm quên cốt nhục
những kẻ bán đứt quê hương
ngã xuống ngã xuống
chân giậm chật đường
kéo về khắp ngả
phá cho tan hoang
nổ tung căm phẫn
chưa biết chị là ai
đau như đạn xuyên giữa ngực mình
chị trúng thương rồi chị trúng thương rồi
đây chúng tôi
hò reo mà ghê khiếp
địch ríu không chạy kịp
ta thoi vào mặt ngã sóng soài
ngã xuống ngã xuống
những người làm bẩn tuổi hai mươi 

ta đi hôm nay ngày hai mươi
rồi hẹn rằng chưa đủ
mắt nhìn suốt ngày mai
chân đạp tung áp bức
thóc gặt về người phải dư ăn
bột mịn màng thừa bánh để dành
hỡi người khốn khổ
ở đây Ðông Âu hay Bắc Phi
hãy đổ ra ngoài phố
đến lượt phiên khúc hai mươi
không phải câm mà không biết nói
máu đỏ tươi cho ánh ngói cười
nóc nhà thương và mái học đường
tường trắng sáng là màu tự do
khung cửa lớn và gương loang loáng
chúng tôi giành lại đất nước thân yêu
các anh giành lại đất nước thân yêu
những lời ấp ủ ngàn xưa
ta hát lên to lớn
con cháu ngày sau còn nghe rõ
mà nhớ
đất ta là của ta
đừng ai hòng cắt xẻ
chúng ta thương yêu nhau
cùng là con một mẹ
chiếm lại trọn đất đai
xoá sạch oán thù
nhường nhau là hết nói
ôi hai mươi
nhân loại trẻ như hoa búp
con về dựng lại cửa nhà
trẻ con đi học trên đường rộng
chữ đầu tiên em học là gì
thưa yêu

các em ơi anh đương tuổi hai mươi
em rồi cũng thở tuổi hai mươi
tuổi hai mươi đời vui phơi phới
anh sẽ xin trao tận tay các em
đất nước nguyên lành tình sông núi
cả lòng người thơm hương dạ hội
trọn ngày mai ngày mai ngày mai
không hết mùa hai mươi bay nhẩy
khi em cất lời ca rún rẩy
anh ngủ giấc dài rất thơ ngây

TTT



Your telephone call

Your telephone call broke in
While I was writing a letter to you.
Do not disturb me when
I’m talking to you. Our two
absences cross,
and one love rips itself apart
like a bandage

Adam Zagajewski

Điện thoại em

Điện thoại em reo
Trong lúc anh đang viết thư cho em
Đừng làm phiền anh khi
anh đang nói chuyện với em chứ. Hai
cái vắng của chúng ta đụng nhau đánh cộp
Và một tình yêu rách bươm ra
như miếng băng


CLOUD

Poets build a home for us-but they themselves
can't dwell in it
(Norwid in the poorhouse, Holderlin in a tower).

At dawn mist above the forest,
a journey, the rooster's husky call,
the hospitals are shut, uncertain signals.

At noon we sit in a cafe on the square,
we observe the azure sky
and a laptop's azure screen;

a plane writes out the pilot's manifesto
in clear, white script,
perfectly legible to the farsighted.

Azure is a color that happily
promises great events,
and then sits back and waits.

A leaden cloud draws close,
terrified pigeons rise
gracelessly into the air.

Storms and hailstones gather
in dark streets and squares,
and yet the light doesn't die.

Poets, invisible like miners,
hidden in the shafts,
build a home for us:

lofty rooms rise
with Venetian windows,
splendid palaces,

but they themselves
can't dwell in it:

Norwid in the poorhouse, Holderlin in a tower;
the jet's lonely pilot
hums a lullaby; awaken, Earth.

Adam Zagajewski: Unseen Hand


Mây

Thi sĩ xây nhà cho chúng ra – nhưng họ thì không thể ở trong đó
(Norwid trong viện tế bần, Holderlin, một ngọn tháp)

Rạng đông, sương mù trên khu rừng
một chuyến đi, tiếng gọi khàn khàn của con gà trống
Bịnh viện đóng cửa, những tín hiệu không rõ rệt

Trưa, chúng ta ngồi cà phê quảng trường Bưu Điện Xề Gòn
Nhìn bầu trời thiên thanh
Và màn hình thiên thanh của cái laptop

Một cái máy bay vẽ ra bản tuyên ngôn của viên phi công
bằng 1 thứ chữ sáng sủa, màu trắng
đọc thật rõ với những kẻ viễn thị

Thiên thanh là màu hớn hở
hứa hẹn những sự kiện lớn
rồi ngồi xuống, và đợi

Một đám mây màu chì tới gần
Đám bồ câu khiếp sợ bay lên,
chẳng tí duyên dáng, vào bầu trời

Dông tố, mưa đá tụ tập
Trong những con phố và quảng trường
Tuy nhiên ánh sáng đếch, hoặc chưa, chịu chết

Thi sĩ, vô hình như mấy anh thợ mỏ
ẩn náu trong hầm
Xây nhà cho chúng ta

Những căn phòng cao ngất dâng lên
với những cửa sổ Vienne
những cung điện tuyệt trần

Nhưng, chính họ - những thi sĩ, trong có GCC, tất nhiên –
không thể ở, trong đó.

Norwid trong viện tế bần, Holderlin trong 1 ngọn tháp;
Viên phi công ư ử một bài ru em
Hãy thức giấc, Trái Đất




*


*


*

Nhân nói đến lục bát, mới đọc bài viết của DTL về Lục Bát Cung Trầm Tưởng, và bỗng nhớ tới Phan Nhật Nam, lần “mới” gặp Tháng Tám năm ngoái. Anh phán, lục bát đúng là cửa tử của thơ Mít. Gấu phản biện, phải nói, nó còn là cửa sinh nữa, thí dụ lục bát CTT, lục bát Viên Linh.... và dẫn câu của Brodsky, thơ vần, nói chung, thơ cổ điển...  cho thấy rõ sự kém cỏi của những nhà thơ dởm, bắt đầu làm thơ bằng thơ tự do.
Ý này thì Borges cũng đã nói rồi.

Nhưng quả thế thật. GCC rất sợ thơ lục bát của những đấng đếch làm được thơ, đếch phải thi sĩ!

Cứ thấy lục bát là co rúm người lại!

Thơ lục bát Cung Trầm Tưởng còn rất nhiều bài hay, đâu chỉ có mấy bài PD phổ nhạc. DTL, cũng nhà thơ, đúng ra nên viết về những bài được ít nói đến mới phải. Bài viết của bạn ta nhảm, chẳng nói được tí chó gì về cõi thơ lục bát, của CTT, cũng như của nhiều nhà thơ khác.

Hai câu thơ lục bát sau đây của CTT mà chẳng bảnh sao:

Tháng Giêng buốt sẻ đôi đằng
Nửa chì mưa đục, nửa băng giá hồn
[Nhớ đại khái, không biết có đúng không]

GCC cũng có tí kỷ niệm với CTT. Ông có ghé nhà Gấu, khi Gấu chưa có Gấu Cái, [BHD thì cũng không còn, hà hà!], và căn nhà còn là nơi tụ họp bạn Xì Tẩy, và Gấu khi đó nổi danh là "Mòng", và CTT, cũng như MT, là những đại cao thủ trong cõi Xì Tẩy.
Mai Thảo "đến chỉ một lần", sau đó, phán, trên chốn giang hồ, ăn tiền của tụi nó thấy tội quá!
Toàn thứ học đòi đánh Xì, mua con Ách thứ năm, thứ sáu...
Ý MT muốn nói, nhìn thấy trên mặt bàn có ba con Xì rồi, thì thứ Mòng, như Gấu, vẫn tin, còn 1 con nữa nằm trong cỗ bài, đâu có biết là nó là con Tẩy nằm dưới đáy chiếu bài!
Về nick Mòng này, Phạm Đình Chương nói, “lịch sự” hơn. Ông là bạn của Hiếu Chân, ông anh rể của Gấu, và chắc có nghe MT loan truyền về Gấu Mòng.
Và bèn nói với HC, anh có thằng em nổi tiếng “phong nhã” trên chốn giang hồ!

Lên xe tiễn em đi , chưa bao giờ buồn "xế"!

Giới thiệu Cung Trầm Tưởng, tốt nhất, là một người sống cùng thời với ông, và sống những ngày "chưa" chiến tranh, tuyệt vời [chiến tranh chưa hứa hèn những điều khủng khiếp], của Miền Nam, như ông.
Thời của "Paris có gì lạ không em"?  "Ga Lyon đèn vàng", "Cho anh một tí Paris.... "
Những bài thơ tình của thời đó, mới đích thực là thơ "thời cuộc".
 
"Tình nhớ" mà mắc mớ gì tới phản chiến?, "ông bạn" Đặng Tiến có lẽ đi Paris mất tiêu rồi, không sống "Những ngày ở Sài Gòn", khi đó, nên không cảm nhận ra chăng?
Xin đừng nghĩ là Gấu chọc quê: Những ngày đẹp như thế, bỏ qua, ai mà không tiếc?

Ui chao, mấy cách đây chỉ vài... phút, ông bạn nhà thơ hậu duệ Cao Chu Thần, mail cho Gấu, mà còn nhắc tới cái câu, "Buổi sáng tôi chào Good Evening..." để mà xuýt xoa, cảm khái, tiếc hùi hụi "không khí thời chưa chín" [chưa chiến]

Nơi tôi làm việc là tầng lầu trên cùng một building, bất động sản của người Pháp; tôi là chuyên viên kỹ thuật lo sửa chữa máy móc, trông coi đường dây liên lạc vô tuyến điện thoại, viễn ký, viễn ảnh từ Sài Gòn tới những thành phố lớn, thủ đô các quốc gia trên thế giới. Do hoàn cảnh địa dư, buổi sáng tôi có thể chào buổi chiều, "Good Evening", với một đồng nghiệp ở California; nếu rảnh rang, tôi có thể hỏi thăm hoặc bông đùa đôi câu với một nữ điện thoại viên ở Hongkong, hoặc Tokyo… Buổi chiều, tôi có thể biết thời tiết một Paris buổi sáng; tôi hỏi thăm những đồng nghiệp không bao giờ gặp mặt, có phải tuyết bắt đầu rơi, mùa đông ở nơi xa xôi đó có gì tương tự với những ngày giá lạnh của miền quê hương cũ…

Những ngày ở Sài Gòn (1965)

Giấc mơ Paris chính là giấc mơ phản chiến.
Một mai qua cơn mê, anh bèn đi Paris, anh bèn làm thi sĩ!
*

Gấu này cũng có một vài kỷ niệm với Cung Trầm Tưởng.
Gấu quen ông, cùng thời gian quen... Cao Bồi. Cũng trên cái chiếu xì, tại nhà Gấu. Cao Bồi hình như chỉ ghé một, hoặc hai lần. Hai người hình như cũng không quen nhau. Cái nhà nhà nước cấp, khi Gấu còn độc thân, ở chung cư NBK, sau này, rước Gấu Cái, bằng thuyền, từ Cai Lậy về, đám bạn Xì bèn dạt qua nhà NDT, cũng kế bên, cũng thuộc một chung cư, khác, của Bưu Điện.

Nhưng với thi sĩ, với thơ, tuyệt nhất là những vần lục bát của ông.

Mùa đi bỏ lại gốc dừa cội măng
Tháng Giêng buốt sẻ đôi đằng
Nửa chì mưa đục nửa băng giá hồn

Đọc, một phát, ở trong cái "không khí thời chưa chín" đó, là nó bèn cắm sâu vào hồn bạn.
*

Pamuk, trong Hồi Ức Istanbul, có nói đến cái không khí tuyệt vời trước khi tai họa đổ ập xuống:

Ôi, ôm Em trong tay mà đã nhớ Em những ngày sắp tới [khi ở trong Trại Tù VC]
 
Đúng là cái không khí của thời của Gấu, thập niên 1960. Viết về cái thời đó, không dễ, cả ở hai phiá của cuộc chiến. Gấu muốn nói, giữa mấy anh VC nằm vùng, và lớp người như Gấu, không thể nào chọn VC được.

Cái bát cơm tám thơm quá thơm, thành ra ngần ngại.
[Câu này là muốn nhắc tới “dụ ngôn” của Nguyễn Đức Quỳnh, CS như chén cơm gạo Tám Thơm, trộn thuốc độc, Quốc Gia như chén cơm gạo hẩm, trộn cứt]

Lạc Đường là một thí dụ. So với nó, thái độ ngậm miệng ăn tiền, [hitman], của HPNT, coi bộ lại.. có lý!
Gấu đọc Lạc Đường, chịu không nổi, thú thực.
Sượng quá, biến thành hà!
[Thân em như củ khoai hà, cho chó lảng, cho gà gà chê!]

Điều này, có một tay, viết blog, lạ làm sao tiên đoán được:

Hồi ký và tiểu sử: hai thể loại hung hiểm, có thể làm gãy tay bất kỳ ai dám chạm vào.
Blog Nhị Linh

Nothing reveals a poet's weakness like classic verse and that why it's so universally dodged
Brodsky [Intro to Anna Akhmatova's Poems, selected and edited by Lyn Coffin. Norton]

Không gì tố cáo cái yếu kém của một nhà thơ cho bằng thơ cổ điển, và chính vì thế mà mấy nhà thơ Mít dởm của chúng ta tránh nó như tránh... hủi!

Thơ lục bát: Một duyên phận long đong
TYT

Note: Tay này đặt ngược vấn đề!
Thơ lục bát không long đong, nhưng nhà thơ long đong, nếu đụng vô nó, mà không đủ nội lực.
Đây là nhận định của hơn 1 nhà văn, nhà thơ, trên thế giới, khi cho rằng, ‘truyền thống’, trong có lục bát, tất nhiên, là một thách đố, đối với những nhà thơ dởm, và chính vì nó, truyền thống [ở đây, là lục bát], mà đẻ ra ba thứ thơ nhảm nhí, như tự do, không vần, tân hình thức, những nhà thơ cách tân, canh tân, hậu vệ, mở miệng....!
Trong quá khứ, cũng có hơn 1 nhà thơ Mít, đụng vô lục bát, mà thành công, thí dụ, Cung Trầm Tưởng, [Bùi Giáng nữa, ở 1 số bài, thí dụ như khi ông dịch Apollinaire], Đồng Đức Bốn, Viên Linh, [nhớ đại khái vài cái tên]
TTT phải đến khi vô tù mới trở lại được với truyền thống, một phần là vì hoàn cảnh, cái khó nó bó cái khôn, nhưng theo Gấu, chính ở trong tù ông mới ngộ ra được truyền thống, một phần là do, cái gọi là bạo lực trong thơ của ông tới được cõi viên mãn của nó: thiền.
Source

 Cung Trầm Tưởng 

Đêm Sinh Nhật

mưa rơi đêm lạnh Saigon
mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi?
mưa hay trời cũng thế thôi
đời nay biển lạnh, mưa bồi đất hoang.
hồn tu kín xứ đa mang
chóng hao tâm thể, sớm vàng lượng xuân
niềm tin tay trắng cơ bần
cuối hoàng hôn lịm bóng thần tượng xưa.
đêm nay trời khóc trời mưa
gió lùa ẩm đục, trời đưa thu về
trời hay thi khóc ủ ê?
cổ cao áo kín đi về buồn tôi.

Nguồn Dac Trung


 Liu Xiaobo

Bi Khúc Bốn Tháng Sáu

Phiên Khúc 17

Bắc Kinh, khuya 1/6/1991
Tưởng niệm năm thứ nhì ngày 4/6

Dâng Tặng:

Em đã không nghe ba mẹ khuyên ngăn, trốn khỏi nhà qua khung cửa nhỏ nhà vệ sinh, khi em cầm ngọn cờ ngã xuống, tuổi mới mười bảy. Tôi thì vẫn sống, đã 36. Trước vong linh em, còn sống tiếp chính là phạm tội, làm thơ tặng em càng là một sự sỉ nhục. Kẻ sống phải câm miệng, lắng nghe lời từ mộ phần. Viết thơ cho em, tôi không xứng. Tuổi mười bảy của em vượt lên hết thày ngôn ngữ và vật kiến tạo bởi bàn tay con người. 

Tôi vẫn sống
Còn có cái danh thối không lớn không nhỏ
Tôi không có can đảm và tư cách
Cầm một bó hoa tươi hoặc một bài thơ
Bước tới trước nụ cười mười bảy tuổi 

Tôi biết
Mười bảy tuổi không có bất kỳ oán trách nào 

Tuổi mười bảy cho tôi biết
Đời sống đơn sơ không hoa lệ
Như sa mạc nhìn không thấy tận cùng
Không cần cây cỏ không cần nước
Không cần hoa điểm tô
Cũng đã có thể gánh chịu mặt trời bạo ngược 

Mười bảy tuổi ngã xuống trên đường
Đường từ đó mất hút
Mười bảy tuổi ngủ giấc dài trong bùn đất
An lành như trang sách
Mười bảy tuổi đến với đời
Không luyến lụy điều gì
Ngoài lứa tuổi thơ ngây trong trắng
Mười bảy tuổi khi ngừng hơi thở
Không tuyệt vọng, như là kỳ tích
Đạn xuyên qua dãy núi
Co thắt làm nước biển điên cuồng
Vào thời khắc tất cả loài hoa,
Chỉ có một màu
Mười bảy tuổi không có tuyệt vọng
Không hề tuyệt vọng
Mười bảy tuổi tình yêu chưa tròn vẹn
Để lại cho người mẹ tóc bạc kín đầu 

Người mẹ đã khóa trái cửa, nhốt chặt
Tuổi mười bảy ở nhà
Người mẹ từng cắt đứt huyết thống gia tộc cao quý
dưới ngọn cờ hồng
Được ánh mắt em, lúc lâm chung, thức tỉnh
Bà đem di chúc của mười bảy tuổi
Đi khắp tất cả mộ phần
Mỗi một lần bà sắp quỵ ngã
Mười bảy tuổi đều dùng hơi thở vong linh
Đỡ bà đứng vững
Dìu bà lên đường 

Vượt lên lứa tuổi
Vượt lên cái chết
Mười bảy tuổi
Đã vĩnh hằng. 



Cali Tháng Tám 2011

Thú thực Gấu không nghĩ có ngày được đọc lại những trang TSVC. Đọc 1 phát, là kỷ niệm cũ những ngày mới quen Joseph Huỳnh Văn trở lại. Cái truyện ngắn dịch Joyce, anh thích lắm, cái dòng giới thiệu, “mười lăm truyện ngắn trong Dubliners đúng là mười lăm mảnh đời xé ra từ xứ Ái nhĩ lan, từ thành phố Dublin nghèo khổ.”

Không có Joseph, không có Tử Lộc, là GCC không viết cho tờ TSVC. Lúc đó GCC quá chán đời rồi. Quá chán viết nữa. Bao nhiêu bài viết phê bình đọc sách, dịch dọt, vứt thùng rác sạch, thế rồi bây giờ lại được đọc lại, trước khi đi xa, cảm khái chi đâu.

Sau 1975, GCC chỉ còn có 1 người bạn, là Joseph HV.

Trước 1972, thì cũng đã thế rồi. Những lần chịu không nổi, là mò tới anh, anh bày 1 cái chiếu ra ở dưới bếp, không phải chỉ để nhậu, mà là để cho thằng bạn mình ngồi xuống, khóc.

Đến nhà như thế, mà hầu như chưa 1 lần Gấu nói gì với mấy đứa nhỏ, cũng như bà xã anh, dù 1 câu chào hỏi.
Nhớ có lần khóc khủng khiếp quá, rống lên như bò, chắc thế, cả nhà chạy xuống bếp, bà xã anh và mấy đứa nhìn Gấu sợ quá, không hiểu chuyện gì xẩy ra

Lần nói chuyện đầu tiên với bà xã anh, là qua điện thoại, sau khi anh mất. Bà có vẻ bực đám bạn trẻ, sau 1975. Theo Bà, mấy người bạn cùng ngồi bàn cà phê bữa đó giá mà biết anh bị tim, ngất đi, cứ để anh nằm xuống, nghỉ ngơi một lát, có thể anh chưa mất. Họ hoảng quá chở anh tới 1 tay bác sĩ ở gần đó, tay này hoảng quá, kêu chở ngay đi nhà thương, do di chuyển nhiều, vết thương vỡ ra...
Không phải như vậy, theo NDT, cũng có mặt bữa đó. Anh nói, Joseph đang ngồi, gục xuống, và đi liền lúc đó....
Ghi lại ở đây, để gia đình hiểu rõ về lúc ra đi của anh.

Chỉ có mấy người bạn cũ của anh ấy những ngày trước 1975 là tôi còn nhớ, chị viết, trong mẩu giấy gửi anh bạn, nhà thơ HT, thay mặt Gấu tới nhà đốt nén hương trước bàn thờ của anh.

Lạ là GCC không phải thứ hay khóc, trước người khác, tuy bi lụy. Như thể có 1 đấng nào đó biết, GCC rất cần khóc, nên ban cho Gấu Joseph HV. Anh nói, mi bi lụy quá.
Và với NLV: Tội thằng Trụ quá.
Y chang Bà Trẻ của Gấu than thở, uổng quá, mi dư sức đi tu, làm đệ tử Phật, nhưng bi lụy quá, thành ra sống cũng khó, mong gì tu.
Rồi những bài thơ của Joseph nữa. Những bài viết của Tử Lộc.
Cám  ơn tất cả các bạn, và… quê nhà, ở bên đó.

NQT

Ui chao, giá mà Gấu đi tu, nhỉ!
Không đi tu thì thờ Cô Ba cũng thế!
Hà,, hà!

Từ trước 1975, đúng hơn, từ lúc xin làm đệ tử Cô Ba, Gấu gần như chẳng gặp bạn văn, đừng nói bạn quí. Điều mà Gấu tự hào, là chưa từng ngửa tay xin tiền bạn, để đi hút, hoặc chích; trước 1975, thì cũng dễ, nhưng cả sau 1975; và điều này là nhờ Gấu Cái, bà lo gia đình, lo mấy đứa nhỏ, Gấu chi phải lo cho thân Gấu, về mặt cơm đen!
Bạn C có lần ra Bưu Điện kiếm Gấu, trao tiền [hình như 20 đô, hồi đó quí lắm, của bạn Luận, 1 trong Thất Hiền từ Mẽo gửi về cho], mà còn phải gật gù khen, cậu hơn tớ, tớ chẳng biết kiếm tiền, chỉ trông vào Viện Trợ Mẽo!
Ý anh muốn nói, từ bà con đi thoát được. Nhưng cái cụm từ “Viện Trợ Mẽo” còn có ý nghĩa khác: Thời gian Gấu còn ăn bám bà cụ C, mỗi lần bà cô của bạn C. tức phu nhân Đại Tá Út, tỉnh trưởng Bạc Liêu, về Sài Gòn, là bạn C trịnh trọng thông báo Thất Hiền, Viện Trợ Mỹ tới rồi, hà, hà!
Cho tới khi gặp Joseph.
Biết anh cùng đám bạn cũ của Gấu làm tờ TSVC, Gấu vì quá quí anh nên cầm lại cây viết.
Không phải hoàn toàn không cầm đến cây viết, nhưng chỉ những khi kẹt quá, thì đành ghé VL, lấy tiền, rồi sau đó, viết bài cho tờ TT, trừ.

Sau này, về già, Gấu tự hỏi, giả như tình cờ gặp bạn quí, ngửa tay xin tiền đi chích, thì sao, nhỉ?

Hà, hà!