*

 


Thơ Mỗi Ngày


Truyện Kiều ABC

*


ANTENNAS IN THE RAIN

The salesgirl in a shoe store on the rue du Commerce, Vietnamese,
she tells you kneeling, I come from boat people.
I switched on the shortwave radio: someone sobbing in Bolivia.
Christ's face in S. Luigi dei Francesi.
One thing is sure: the world is alive and burns.
He read Holderlin in a dingy waiting room.
Boat people-the only nation free of nationalism.

Bài thơ thần sầu này, GCC cứ lần lữa hoài, không dám dịch. Cứ sờ sợ, Cứ hồi hộp. Không hiểu tại sao.
Lại nhớ hồi còn con nít, ở xứ Bắc Kít, mỗi lần ăn cơm, được người lớn ban cho cục thịt, không dám ăn, cứ phải giấu xuống đáy bát, chờ đến giờ chót, thì mới đem ra ăn, và ăn thì cũng rất ư là dón dén, dè xẻn, chỉ sợ hết!
Ui chao, cái bài thơ hay quá làm nhớ đến cục thịt hồi còn nhỏ!
Hà, hà!

To K:

Không phải anh Gấu bad, nhưng anh sống thật với lòng mình quá, nghĩ gì là nói liền . Và cái tài liên tưởng thì khỏi nói .

Tks

NQT

ANTENNAS IN THE RAIN

The salesgirl in a shoe store on the rue du Commerce, Vietnamese,
she tells you kneeling, I come from boat people.
I switched on the shortwave radio: someone sobbing in Bolivia.
Christ's face in S. Luigi dei Francesi.
One thing is sure: the world is alive and burns.
He read Holderlin in a dingy waiting room.
Boat people-the only nation free of nationalism.

Bài thơ thần sầu này, GCC cứ lần lữa hoài, không dám dịch. Cứ sờ sợ, Cứ hồi hộp. Không hiểu tại sao.
Lại nhớ hồi còn con nít, ở xứ Bắc Kít, mỗi lần ăn cơm, được người lớn ban cho cục thịt, không dám ăn, cứ phải giấu xuống đáy bát, chờ đến giờ chót, thì mới đem ra ăn, và ăn thì cũng rất ư là dón dén, dè xẻn, chỉ sợ hết!
Ui chao, cái bài thơ hay quá làm nhớ đến cục thịt hồi còn nhỏ!
Hà, hà!

To K:

Không phải anh Gấu bad, nhưng anh sống thật với lòng mình quá, nghĩ gì là nói liền . Và cái tài liên tưởng thì khỏi nói .

Tks

NQT

Szymborska

HARD LIFE
WITH MEMORY
 

I'm a poor audience for my memory.
She wants me to attend her voice nonstop,
but I fidget, fuss,
listen and don't,
step out, come back, then leave again. 

She wants all my time and attention.
She's got no problem when I sleep.
The day's a different matter, which upsets her.  

She thrusts old letters, snapshots at me eagerly,
stirs up events both important and un-,
turns my eyes to overlooked views,
peoples them with my dead. 

In her stories I'm always younger.
Which is nice, but why always the same story.
Every mirror holds different news for me. 

She gets angry when I shrug my shoulders.
And takes revenge by hauling out old errors,
weighty, but easily forgotten.
Looks into my eyes, checks my reaction.
Then comforts me, it could be worse.

She wants me to live only for her and with her.
Ideally in a dark, locked room,
but my plans still feature today's sun,
clouds in progress, ongoing roads. 

At times I get fed up with her.
I suggest a separation. From now to eternity.
Then she smiles at me with pity,
since she knows it would be the end of me too. 

-Wislawa Szymborska 

(Translated from the Polish by
Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak)

NYRB March 8, 2012



ANTENNAS IN THE RAIN

The salesgirl in a shoe store on the rue du Commerce, Vietnamese,
she tells you kneeling, I come from boat people.
I switched on the shortwave radio: someone sobbing in Bolivia.
Christ's face in S. Luigi dei Francesi.
One thing is sure: the world is alive and burns.
He read Holderlin in a dingy waiting room.
Boat people-the only nation free of nationalism.

 

CORRIDOR

FOR RUTH AND MARIA BUCZYNSKI

I liked the comic rituals of young poets,
the panicked moments, the anxieties
before the reading, the slow passage
through a dark corridor toward the lighted stage,
performing poems to a drowsy
public that woke up now and then,
the great and lesser envies and the moment when
the inarguable charm of one good line,
an unexpected metaphor or image meant
that all was-temporarily-forgiven.
Sometimes someone would ask uncertainly-
but won't you tell us how to live?
-I thought it was funny then, but not now.
I liked the silence not without
its deeper meanings, the jokes, the chats
with timid readers and finally
the signing of the books with the names
that we knew, without question,
truly belonged to us.

Adam Zagajewski

 

Hành Lang

Gấu thích những nghi lễ tiếu lâm của những nhà thơ trẻ
Những khoảnh khắc hoảng loạn, những xao xuyến
Trước khi đọc, đi chầm chậm qua hành lang tối thui về phía sân khấu sáng choang,
Trình diễn những bài thơ trước công chúng lơ tơ mơ, lúc thức, lúc ngủ,
những ham muốn nhớn hơn, hoặc bé hơn, và khoảnh khắc, khi
sự quyến rũ không thể nào bàn cãi của một dòng thơ thần sầu,
một ẩn dụ không mong đợi, hay một hình ảnh, có nghĩa,
tất cả thì - chốc lát thôi - được tha thứ.

Thi thoảng, có một ai đó sẽ hỏi, không chắc chắn lắm,
Nhưng mà này, ông thi sỡi, đừng có dậy chúng tớ
làm sao sống cái cuộc đời chó má này đấy nhé!

Lúc đó thì Gấu thấy thật là tức cười – nhưng bây giờ, thì không.
Gấu thích sự im lặng, không phải không có những ý nghĩa sâu thẳm của nó,
những câu chuyện tiếu lâm, những chát chiếc,

với những độc giả rụt rè,
và sau cùng, là ký tên sách
với những cái tên mà chúng ta biết,
đếch cần hỏi,
thực sự thuộc về chúng ta.

 

THE GREEN WINDBREAKER

When my father strolled through Paris,
often in the green windbreaker
that he had ordered tailor-made
(one of the few luxuries
in his rather modest life),
when he spent long hours in the Louvre,
studying the paintings of Corot and other lesser
masters from centuries past,
I didn't yet know, I couldn't know,
how much destruction lay hidden
in the years just then approaching,
as if that green windbreaker brought him ill luck,
but now I begin to recognize,
to suspect that catastrophe
had been stitched into all his clothing,
regardless of color or shape,
and even the greatest master painters
could give him no assistance here.

Adam Zagajewski
 

Chiếc áo khoác màu xanh

Khi cha tôi dạo chơi Paris
thường là trong chiếc áo khoác màu xanh
mà ông thửa từ một anh thợ may
(một trong ít ỏi những thú chơi ngông
trong cuộc đời khá bình dị của ông)
Khi ông trải qua hàng giờ đồng hồ ở điện Louvre
Nghiên cứu những bức họa của Corot, hay những bậc thầy khác
không được bảnh như Corot trong những thế kỷ đã qua
Tôi không hiểu, và vưỡn không thể hiểu
Bao nhiêu là hoang tàn, đổ nát, huỷ diệt nằm ẩn giấu
Trong những năm tháng đang xáp tới gần
Như thể chiếc áo khoác màu xanh
 mang điềm xấu, câu trù eỏ đến cho ông già tôi.
Nhưng bây giờ thì tôi bắt đầu nhận ra
Và nghi ngờ rằng tai ương
Đã dính cứng vào tất cả những gì mà ông già tôi mặc
Bất kể màu sắc quần áo, hay là hình dáng, kiểu cọ gì
Và ngay cả những bậc tổ sư hội họa, thì cũng vô phương,
chẳng đem đến cho ông già của tôi một tí hỗ trợ,
hay
an ủi nào.


Thơ Mỗi Ngày

*

NYRB 23 Feb 2012

Bóng và Khói

Hãy sống đời của bạn như thể bạn đã chết,
Che Guevara tuyên bố
OK. Nào hãy thử coi nó sẽ ra sao.
Chẳng có gì khác cả, như tớ đây nhận thấy,
Trái đất, thì cũng vẫn Thiên Đàng
Thượng Giới thì vẫn xa vời như trước
Những đám mây cũng vẫn những cái cổng di động cũ kỹ, từ thuở thời gian bắt đầu
Chẳng có vòng tròn, chẳng có tình cảm đổ vỡ
Chỉ có những bản nhạc của những người trẻ
Và những bản nhạc của những người già,
Hy vọng một điều gì khác.
Hãy làm cho họ hết vô tri đi.
Chúa ơi,
Nói cho họ biết những cái bóng thì đã không còn, khói đã được thông thoáng, thổi sạch.
Nói cho họ biết rằng ánh sáng thì không hề là một ẩn dụ.

Valentine's

Bí Mật của tôi
My Secret
Charles Simic

“Thơ thì làm ở trên giường, như Êu”
“Poetry is made in bed like love”

“For a lazy man I’m extremely industrious.”
—William Dean Howells

Như 1 tên đại lãn, tôi cực kỳ siêng năng.

 Nhà văn nào thì có cũng có bí quyết về cái cách mà họ làm việc. Với tôi, thì là viết ở trên giường. Bảnh quá nhỉ, bạn có thể nghĩ như vậy. Mark Twain, James Joyce, Marcel Proust, Truman Capote, và cả một đống những nhà văn khác, thì cũng vừa đo giường vừa viết như tôi. Vladimir Nabokov còn thủ cả một mớ thẻ văn ở dưới gối, phòng hờ những lần ngủ đếch được, thì bèn lôi ra, nào, bi giờ mình mần thịt em Lo, em Li, em Ta, mỗi em một cú. Tuy nhiên, tôi chưa từng nghe về những nhà thơ khác mần thơ trên giường – tuy nhiên, chuyện quá tự nhiên, “quá tình” nếu như mà bạn mượn cái lưng trần của em, và bèn đi một dòng thơ?
Thực, thì có Edith Sitwell, người mà theo như truyền thuyết, nằm trong quan tài, sửa soạn cho nỗi ghê rợn cực lớn lao đối diện với trang giấy trắng. Robert Lowell nằm dài trên sàn, và viết, và tôi thỉnh thoảng cũng làm như thế, nhưng thú thực, tôi thích một cái nệm, và lạ làm sao, tôi chưa hề bị cám dỗ bởi 1 cái trường kỷ, một cái võng, hay bất cứ 1 cái ghế dễ chịu, thoải mái nào khác.
Vì một lý do nào đó, tôi chưa hề thố lộ với ai, bí quyết sáng tạo của rôi, như ở trên vừa kể ra. Vợ tôi thì biết, tất nhiên, và tất cả những con mèo, con chó mà chúng tôi đã từng nuôi.

Thơ Mỗi Ngày

PIANO TUNER 

AT THE CHICAGO PHILHARMONIC 

At intermission a man in a corduroy jacket
emerges from backstage, lays his hands on the piano like
an experienced obstetrician, and vanishes, while the heedless
audience breathes deeply.
We're alive, the musicians say.
We're listening,
say the elegant ladies. And the performance continues,
although the night
has long since seized the city's strategic points and
Venus shines
with its cold beam.

Adam Zagajewski

Người lên dây đàn piano

Vào lúc tạm nghỉ, một người đàn ông trong cái áo jacket nhung kẻ vạch
Từ phía sau sàn diễn xuất hiện, để tay của mình lên cây đàn piano
Như một nhà sản khoa có kinh nghiệm, và rồi biến đi
trong khi khán thính giả không chú ý, thở thật sâu. Chúng ta còn sống, đám nhạc sĩ phán.
Chúng ta lắng nghe,
những vị phu nhân thanh lịch nói. Và buổi trình diễn tiếp tục
mặc dù đêm,
kể từ lúc đó, nắm giữ những cứ điểm chiến lược của thành phố
và Vệ Nữ sáng lên
Với chùm sáng lạnh của nó.

FALLING ASLEEP OVER

A VOLUME OF CAVAFY

Late evening, after a hard day,
falling asleep over a volume of Cavafy
in an armchair well acquainted with my frailties
(and occasional inspired moments),
I saw those men, old and young,
who endured failure superbly, with grace,
and accepted the catastrophe of their nations, their cities
(systematically subdued by Rome),
not easily, but with unequaled
brilliance-their consolation came in speech,
the peerless, plastic speech of the Iliad or Sophocles,
along with something no conquest could take from them (or so they thought):
their place in the Hellenic world.
Thus Myris, Aimilianos, the poet Phernazis,
also a certain prince from western Libya,
not to mention the famous Antony,
who bade a brave farewell to Alexandria,
or the comic, clumsy Julian
(who could have been a Communist agitator).
All of them-except improper Julian -
were taken up with preparations
for eternal rest, a beautified defeat;
and almost all stir our sympathy,
though few of them are heroes
(cunning, not honor, drives them).
While our drowsiness is, after all, just
a trifling sketch, a foretaste of a greater whole
(as editors of literary supplements say).
Our defeats still doze
(or so at least it seems),
while the last passersby return
to their narrow apartments,
at night, when the heart beats slower
and the thick, gray smoke of the quotidian
flees the chimney like a ghost
(our life burns).

Adam Zagajewski

Thiếp ngủ trên tập thơ của Cavafy

Chiều muộn, sau một ngày nặng nhọc
Bèn thiếp đi trên một tập thơ của Cavafy
Trên chiếc ghế bành quá quen với những thói bạc nhược của tôi
(và những giây phút mặc khải họa hoằn nữa chứ)
Tôi nhìn thấy họ, những người đàn ông, đàn bà, già cũng như trẻ
đã chịu đựng sự thất bại thật là bảnh, thật là thanh, với ân sủng,
và chấp nhận những tai ương của những quốc gia của họ, thành phố của họ
(tuần tự, hệ thống, bị La Mã chinh phục)
Không dễ dàng, nhưng mà với một sự sáng chói không sao bì -
sự an ủi của họ thì ở trong diễn văn,

thật vô song, thật mềm mại
thí dụ như trong Iliad, hay Sophocles

Kèm theo đó là một điều gì đó mà không chiến thắng nào có thể lấy đi của họ
(hay là, có thể họ nghĩ như vậy):
Vị trí của họ trong thế giới Hy Lạp.
Như thế, Myris, Aimilianos, thi sĩ Phernazis,
còn là một ông hoàng nào đó từ vùng phía Tây Lybia
chưa nhắc tới Antony trứ danh
người đã phán lời giã từ can đảm thành phố Alexandria,
hay là tay tiếu lâm, lóng ngóng Julian
(có thể là 1 tên khích động VC nằm vùng?)
Tất cả họ - ngoại trừ tên cà chớn Julian –
Thì đều được làm quen với những sửa soạn
cho cú nghỉ dài dài [ở Trại Cải Tạo?], tức Trại Tù VC,
sự thất trận được mỹ hóa,

và làm chúng ta hài lòng
Mặc dù có vài kẻ trong số đó là anh hùng
(sự xảo quyệt, không phải danh dự, xô đẩy họ).
Trong khi sự thẫn thờ của chúng ta thì, nói cho cùng,
chỉ là 1 màn vặt vãnh, cú nếm trước cho cả 1 cục lớn lao hơn sau đó
(như đám biên tập mấy phụ trang văn học phán)
Sự bại trận của chúng ta thì lơ tơ mơ, ngầy ngật
(hay, ít nhất, nó có vẻ như thế)

Trong khi những bộ hành cuối cùng trở về

những căn phòng chật hẹp của họ
vào ban đêm, khi trái tim đập chậm hơn
và đám khói dầy, xám thường nhật
bốc lên từ ống khói
như 1 bóng ma
(đời của chúng ta cháy)

Valentine's

Jackstraws

My shadow and your shadow on the wall
Caught with arms raised
In display of exaggerated alarm,
Now that even a whisper, even a breath
Will upset the remaining straws
Still standing on the table 

In the circle of yellow lamplight,
These few roof-beams and columns
Of what could be a Mogul Emperor's palace.
The Prince chews his long nails,
The Princess lowers her green eyelids.
They both smoke too much,
Never go to bed before daybreak.

Charles Simic: Jackstraws

jack·straw: Trò chơi rút 1 cọng rơm trong 1 bó, làm sao không đụng tới những cọng còn lại [a game in which a set of straws or thin strips is let fall in a heap with each player in turn trying to remove one at a time without disturbing the rest]

Rút cọng rơm

Bóng của GNV và của BHD thì ở trên tường
Xoắn vào nhau, bốn cánh tay dâng cao
Trong cái thế báo động hơi bị thái quá,
Và bây giờ, chỉ cần một lời thì thầm,
có khi chỉ một hơi thở thật nhẹ
Cũng đủ làm bực mình cả đám còn lại
Vẫn đứng trên mặt bàn 

Trong cái vòng tròn ánh sáng đèn màu vàng
Vài cây xà, cây cột
của cái có thể là Cung Ðiện của Hoàng Ðế Mogul.
GNV cắn móng tay dài thòng,
BHD rủ cặp mí mắt xanh.
Cả hai đều hút thuốc lá nhiều quá,
Chẳng bao giờ chịu đi ngủ trước khi đêm qua.

 *

Bí Mật của tôi
My Secret
Charles Simic

“Thơ thì làm ở trên giường, như Êu”
“Poetry is made in bed like love”

“For a lazy man I’m extremely industrious.”
—William Dean Howells

Như 1 tên đại lãn, tôi cực kỳ siêng năng.

 Nhà văn nào thì có cũng có bí quyết về cái cách mà họ làm việc. Với tôi, thì là viết ở trên giường. Bảnh quá nhỉ, bạn có thể nghĩ như vậy. Mark Twain, James Joyce, Marcel Proust, Truman Capote, và cả một đống những nhà văn khác, thì cũng vừa đo giường vừa viết như tôi. Vladimir Nabokov còn thủ cả một mớ thẻ văn ở dưới gối, phòng hờ những lần ngủ đếch được, thì bèn lôi ra, nào, bi giờ mình mần thịt em Lo, em Li, em Ta, mỗi em một cú. Tuy nhiên, tôi chưa từng nghe về những nhà thơ khác mần thơ trên giường – tuy nhiên, chuyện quá tự nhiên, “quá tình” nếu như mà bạn mượn cái lưng trần của em, và bèn đi một dòng thơ?
Thực, thì có Edith Sitwell, người mà theo như truyền thuyết, nằm trong quan tài, sửa soạn cho nỗi ghê rợn cực lớn lao đối diện với trang giấy trắng. Robert Lowell nằm dài trên sàn, và viết, và tôi thỉnh thoảng cũng làm như thế, nhưng thú thực, tôi thích một cái nệm, và lạ làm sao, tôi chưa hề bị cám dỗ bởi 1 cái trường kỷ, một cái võng, hay bất cứ 1 cái ghế dễ chịu, thoải mái nào khác.
Vì một lý do nào đó, tôi chưa hề thố lộ với ai, bí quyết sáng tạo của rôi, như ở trên vừa kể ra. Vợ tôi thì biết, tất nhiên, và tất cả những con mèo, con chó mà chúng tôi đã từng nuôi.

SEPARATION


I read almost with envy my contemporaries' verse:
divorces, partings, wrenching separations; anguish, new beginnings, minor deaths;
letters read and burned, burning, reading, fire, culture,
anger and despair-the very stuff of potent poems;
stern verdicts, mocking laughter of the lofty moralists,
then finally the triumph of the all-enduring self.

And for us? No elegies, no sonnets about parting,
a poem's screen won't rise between us,
apt metaphors can't sever us,
the only separation that we don't escape is sleep,
sleep's deep cave, where we descend alone
-and I must keep in mind that the hand
I'm clasping then is made of dreams.

Charles Simic

 Xa cách

Tôi đọc mà phát thèm thơ những người cùng thời:
Ly dị, bỏ đi, đau đớn mỗi người một ngả
Nhức nhối, khởi đầu mới, chết lãng xẹt;
Thư đọc, và đốt, cháy, đang đọc, lửa, văn hóa
giận dữ và chán chường - bảnh nhất thì cũng chỉ tới cỡ đó, thứ thơ ca mãnh liệt;
những lời tuyên án nghiêm khắc, cái cười chế nhạo của mấy đấng đạo đức kiêu căng
Và sau cùng là sự chiến thắng của cái tôi to tổ bố, vừa dai vừa dài vừa dở như hạch.

Và cho chúng ta ư? Không bi khúc, ai điếu, không trường đình, đoản đình tiễn biệt
Màn hình bài thơ không hiện ra giữa chúng ta
ẩn dụ oách hay không oách chẳng thể phục vụ chúng ta.
Cú chia cách độc nhất mà chúng ta không thể trốn thoát là… ngủ.
Cái hang sâu hoắm của giấc ngủ, nơi chúng ta xuống, một mình -
Và luôn tỉnh táo, ghi vô trong đầu, cái bàn tay
[Ở trong rạp xi nê, bữa trước khi đi trình diện
Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, Quang Trung]
Cái bàn tay mà Gấu cầm bữa đó,
thì làm bằng những giấc mộng.

*

Fernando Pessoa

Note: Bài thơ trên TV đã dịch, nhưng không làm sao kiếm ra. Đành dịch một lần nữa vậy, vì bất ngờ, GCC nhớ ra cái điệu nhạc trên là của một bài nhạc sến.
1 giai thoại liên quan tới bản nhạc này. BHD lần ngân nga, thời gian bản nhạc thịnh hành, cuộc tình còn ngon cơm, khoẻ re,"đường vào tình yêu trăm lần vui vạn lần buồn"...,"đôi khi lầm lỡ, [đánh mất ân tình cũ] đánh chết nhân tình cũ…."
Và bèn cười!
Bi giờ thì hiểu ra rồi.
Em quả đánh chết thằng cha Gấu thiệt! Hà, hà!

Gấu nghe trong đêm,
chạy dài theo con phố 

Gấu nghe trong đêm,
chạy dài theo con phố,
từ một quán hầm lân cận,
một điệu nhạc xưa,
không rõ là bản nào.
Và nó làm Gấu bỗng nhiên nhớ
điều chưa từng nhớ. 

Điệu nhạc xưa? Cái đàn ghi ta cũ.
Gấu không thể nói về điệu nhạc, không thể nói….
Gấu cảm thấy nỗi đau nhỏ máu,
nhưng không thể nhìn thấy cái móng cào
Gấu cảm thấy - không khóc-
rằng thì là Gấu đã khóc rồi. 

Quá khứ nào điệu nhạc mang lại cho Gấu?
Chẳng phải của Gấu, hay của bất cứ ai, mà chỉ là quá khứ:
Mọi chuyện, mọi điều thì đều đã chết
Cho Gấu, hay cho mọi người,
trong thế giới qua đi, qua đi...

Tới giờ rồi. Giờ nghỉ chơi với cuộc đời
Nó khóc, và Gấu khóc, trong đêm buồn
Đó là nỗi sầu đau, là lời thở than mập mờ,
không làm sao định nghĩa được
Về mọi điều hiện hữu, bởi vì nó hiện hữu (1)

(1)

Khổ thơ chót, GCC dịch trật:

Chính là thời gian, cái thời gian đã lấy đi đời sống,
đang gào than, và tôi khóc giữa đêm buồn .
Chính là nỗi tiếc thương, một lời than vãn rất vu vơ,
về những gì hiện hữu, vì nó đang hiện hữu .

(Nói một cách hơi cải lương rằng thì là - nhưng không bảo đảm đúng- :
Đời sống đã mất, nỗi đau vẫn còn )
K.

Tks. Many Tks
NQT

Đời sống đã mất, nỗi đau vẫn còn. Đúng như thế.
GCC mấy ngày hôm nay đau nỗi đau, giả như mình… đi xa, thì có còn nhớ.... BHD nữa không?

ALL LOVE LETTERS ARE

All love letters are
Ridiculous.
They wouldn't be love letters
if they weren't
Ridiculous. 

In my time I also wrote love letters
Equally, inevitably
Ridiculous.

Love letters, if there's love,
Must be
Ridiculous.

But in fact
Only those who've never written
Love letters
Are
Ridiculous. 

If only I could go back
To when I wrote love letters
Without thinking how
Ridiculous.

The truth is that today
My memories
Of those love letters
Are what is Ridiculous.
(All more-than-three-syllable words,
Along with uncountable feelings,
Are naturally
Ridiculous. ) 

21 OCTOBER 1935

Fernando Pessoa

Bao lá thư tình

Bao lá thư tình thì đều
Cà chớn
Chúng không thể là thư tình, nếu không
Cà chớn

Trong đời Gấu cũng viết thư tình
Thì đều
Cà chớn,
như nhau, không thể nào tránh được.

Thư tình, nếu có tình yêu
Phải
Cà chớn

Nhưng đúng ra,
Chỉ những kẻ chưa từng viết thư tình
Thì mới
Cà chớn

Giả như Gấu có thể
Trở lại cái  thời Gấu viết thư tình
Mà không nghĩ
Nó cà chớn như thế nào

Sự thực, là, bây giờ
Những hồi ức của Gấu
Về những lá thư tình
Là cái gọi là
Cà chớn

(Mọi từ quá ba con chữ
Cùng với chúng là những tình cảm không thể nào kiểm tra được
Thì đương nhiên
Cà chớn)