*





*
Thu Japan
Ảnh của Nobu-Flickr

*

Rừng sau nhà, Thu cũ

Nghe nói mùa Thu ở đây đẹp lắm
Tụi mình chạy xe đuổi theo lá đổi mầu
Trên xa lộ
Trong thơ Nguyễn Du
Trong hạnh ngộ.

Note: Bài thơ này, là bài thơ đầu tiên Gấu làm được, trước đó không biết làm thơ, khi tới Canada vào mùa tuyết, 1994


Về Nhà 2010

*

Trong Lục Mạch Thần Kiếm, Thiên Sơn Đồng Mỗ lập lại nước cờ Hư Trúc, nhờ vậy thoát chết.

Gấu học tiếng Tây, chỉ với mục đích viết một cái thư cám ơn Ông Tây chồng Cô Dung, bà cô me Tây của Gấu.
Làm sao có thể tưởng tượng ra được, nếu không nhờ biết tiếng Tây, làm sao nói cho Cha Brisson biết hoàn cảnh của vợ chồng, con cái Gấu, nhờ vậy mà được cha lo lắng suốt quãng thời gian tị nạn tại Thái Lan?
Chỉ đến khi nhập trại tị nạn Thái lan, thì Gấu mới bắt đầu lo học tiếng Anh, với cao vọng, ta mà ‘đi’ được, [được đậu thanh lọc, được tái định cư nới xứ người], lần này, ta sẽ viết văn bằng tiếng Mẽo!
Lần gặp lại Cha, Cha vẫn còn nhớ đến chuyện trước khi vô trại tù quốc tế Bangkok, Gấu năn nỉ Cha tìm cách liên lạc với mấy đứa nhỏ còn kẹt lại ở Lào. Cha nói, Cha vẫn nhớ, nhưng không làm sao thực hiện được. Khi ở tù Bangkok, 3 tháng, Cha có tới thăm 1 lần, cho tiền, và đưa lại cho Gấu mớ bản thảo nhờ Cha giữ giùm.


Looking For Laos
Tìm Xứ Lào

Blog Đoàn Nhã Văn
Chúc mừng.
Trân trọng giới thiệu.

Tin Văn/NQT


Nhân Kertész và Levi ra mắt độc giả trong nước:
Trang Kertesz

Trang Primo Levi

Franz Kafka_Primo Levi, tại sao?
Không phải tôi chọn, mà là nhà xb. Họ đề nghị và tôi chấp thuận. Kafka không hề là tác giả ruột của tôi. Nói đúng ra, thì là thế này: Tôi đã hơi coi nhẹ một việc dịch như vậy, bởi vì tôi không nghĩ, là mình sẽ phải cực nhọc với nó. Kafka không hề là một trong những tác giả mà tôi yêu thích. Tôi nói lý do tại sao: Không có gì là chắc chắn, về chuyện, những tác phẩm mà mình thích, thì có gì giông giống với những tác phẩm của mình, mà thường là ngược lại. Kafka đối với tôi, không phải là chuyện dửng dưng, hoặc buồn bực, mà là một tình cảm, một cảm giác thủ thế, phòng ngự. Tôi nhận ra điều này khi dịch Vụ Án. Tôi cảm thấy như bị cuốn sách hiếp đáp, bị nó tấn công. Và tôi phải bảo vệ, phòng thủ. Bởi vì đây là một cuốn sách rất tuyệt. Nhưng nó đâm thấu bạn, giống như một mũi tên, một ngọn lao. Độc giả nào cũng cảm thấy như bị đưa ra xét xử, khi đọc nó. Ngoài ra, ngồi thoải mái trong chiếc ghế bành với cuốn sách ở trên tay, khác hẳn chuyện hì hục dịch từng từ, từng câu. Trong khi dịch tôi hiểu ra lý do của sự thù nghịch (hostile) của tôi với Kafka. Đó là do bản năng tự vệ, phản xạ phòng ngự, do sợ hãi  gây nên. Có thể, còn một lý do xác đáng hơn: Kafka là người Do Thái, tôi cũng là Do Thái. Vụ Án bắt đầu bằng một chuyện bắt giam không dự đoán trước được, và chẳng thể nào biện minh, nghề nghiệp viết lách của tôi bắt đầu bằng một vụ bắt bớ không lường trước được và chẳng thể biện minh. Kafka là một tác giả mà tôi ngưỡng mộ, tuy không ưa, tôi sợ ông ta, giống như bị sao quả tạ giáng cho một cú bất thình lình, hoặc bị một nhà tiên tri nói cho bạn biết, bạn chết vào ngày nào tháng nào.
Dịck K



Desperate Housewife


By KATHRYN HARRISON
Published: September 30, 2010

MADAME BOVARY
Provincial Ways
By Gustave Flaubert
Translated by Lydia Davis
342 pp. Viking. $27.95
Lydia Davis’s masterly translation of Flaubert’s novel reintroduces us to its bored, empty heroine.

Poor Emma Bovary. She will never escape the tyranny of her desires, never avoid the anguish into which her romantic conceits deliver her, never claim the oblivion she sought from what is perhaps the most excruciating slow suicide ever written. Her place in the literary canon is assured; she cannot be eclipsed by another tragic heroine. Instead, each day she will be resurrected by countless readers who will agonize over the misery she brings herself and everyone around her and wonder at Flaubert’s ability to, godlike, summon life from words on a page.

The power of “Madame Bovary” stems from Flaubert’s determination to render each object of his scrutiny exactly as it looks, or sounds or smells or feels or tastes. Not his talent to do so — that would not have been enough — but his determination, which he never relaxed. “Madame Bovary” advanced slowly, as slowly as it would have to have, given an author who held himself accountable to each word, that it be the right word, of which there could be only one. “A good sentence in prose,” he wrote, “should be like a good line in poetry, unchangeable.”

"Bà Bô", [Hoàng hải Thuỷ phóng tác], bản dịch tiếng Anh mới nhất, mới ra lò.

Tội nghiệp Bà Bô: Sẽ chẳng bao giờ bà chạy thoát khỏi chế độ độc tài bạo chúa, là những ham muốn của mình, chẳng hề tránh né cơn đau đớn quằn quại, mà ba thứ tiểu thuyết diễm tình đem đến cho bà, và cái chỗ của bà trong văn học, như là một nữ nhân vật bi thương nhất, sẽ chẳng thể nào bị bứng khỏi. Thay vì vậy, càng ngày bà càng tái sinh, từ biết bao độc giả, họ thổn thức về cơn đau thương mà tự bà mang đến cho bà, mọi người quanh bà, và họ tự hỏi, và họ ngỡ ngàng về cái tài năng chẳng khác gì của Thượng Đế của Flaubert, tạo ra đời sống, trên từng trang sách của ông….

Steiner chẳng đã từng viết: Flaubert đã từng phát điên lên, tại sao ‘con điếm’ Bovary cứ sống hoài, trong khi ta nằm đây, chết như một con chó ghẻ? (Flaubert cried out against the paradox whereby he lay dying like a dog whereas that ‘whore’ Emma Bovary, his creature… continued alive. G. Steiner, The Uncommon Reader).

Tuy nhiên, người mê Bà Bô nhất nhất, có lẽ là Llosa. Ông dành cả một cuốn tiểu luận về bà, (The Perpetual Orgy,1975), và, vẫn chưa đủ, cho bà sống dậy, như là một ‘bad girl’, [gái hư làm bể tim của bạn], trong một cuốn tiểu thuyết của mình, (The Bad Girl, 2007) (1)

(1)
The Bad Girl, originally published in 2006 in Spanish as Travesuras de la niña mala, is a novel by Peruvian author Mario Vargas Llosa.
Journalist Kathryn Harrison approvingly argues that the book is a rewrite (rather than simply a recycling) of the French modernist Gustave Flaubert's classic novel Madame Bovary (1856).[1] In Vargas Llosa's version, the plot relates the decades-long obsession of its narrator, a Peruvian expatriate, with a woman with whom he first fell in love when both were teenagers.


Midnight’s Other Children

By ISAAC CHOTINER

Even the sympathetic characters in Granta’s issue of “Pakistan” are full of rage at America.

Pakistan
Lovebirds and murder
Some of the best fiction comes from dangerously dislocated societies
Sep 16th 2010

Granta: Pakistan. Granta; 288 pages; $16.99 and £12.99. Buy from Amazon.com, Amazon.co.uk

LIFE in the modern West is thin gruel for writers. Rich, comfortable countries provide too little jeopardy to drive a decent plot. The 19th century produced the West’s best fiction; today, readers must look to the developing world.
It is smart of Granta, a magazine of new writing, to devote its autumn issue to Pakistan. India’s star is already high; Pakistan’s, with writers such as Mohsin Hamid and Ali Sethi, is rising. As a source of good writing, the country benefits from a highly educated elite and a dangerously dislocated society.
Granta: Pakistan” is a delight, starting with its cover, by one of the artists who decorates the jewel-coloured trucks that teeter along the country’s hot, smoggy roads covered in visions of alpine springs and blushing maidens. The surreal cheerfulness of the snow-covered peaks and scarlet lovebirds contrasts brilliantly with the darkness of the pages within.
The stories are mostly about violence, much of it against women. In Nadeem Aslam’s “Leila in the Wilderness”, a child bride’s husband, wanting a son, kills the girls she produces. Trapped, she grows wings (an echo of the magical realism born of the dark times in 1970s Latin America). The story seems to take place in some distant past, until a mobile phone rings. “The Sins of the Mother”, a story by Jamil Ahmad, a 79-year-old whose first novel is shortly to be published, tells of a Baluch couple who elope and are given sanctuary by soldiers until their tribe comes after them. They kill themselves. Their kinsmen leave their son wandering in a sandstorm.
Mohsin Hamid’s “A Beheading” ends with the event, and imagines the moments leading up to it, from the victim’s point of view. Mohammed Hanif’s “Butt and Bhatti”, a story of a gangster who loves a nurse, describes the mad randomness of Pakistan’s violence. The nurse rejects him. In his fury, he shoots into the street and hits a driver who ploughs into some schoolchildren, setting off three days of riots in which many are killed. The gangster disappears into the crowd. The nurse dreams of him.
Torn between the modern and medieval worlds, Pakistan is a painful place. The violence in these stories speaks of a new country struggling to be born. When it emerges, it may not be a pretty sight
Source: The Economist

Note: Một số báo Granta, 2 cách đọc. Một của Mẽo, một của Anh



@ home

*

@ Wasaga Beach

Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc

Ráng chiều rớt xuống cùng vào lúc cánh cò đơn chiếc bay lên
Mặt nước hồ và trời dài thăm thẳm cùng một mầu

Ráng chiều trôi theo cánh cò cô lẻ,
Màu nước thu xen lẫn với màu trời.
HNC dịch
Nguồn


Tưởng nhớ Thảo Trường

September 29, 2010
Pinochet's loving torturers
Arturo Fontaine's remarkable novel of politics, sex and torture in Chile resists the moral high ground
David Gallagher


 Qui a peur de Slavoj Zizek?

*

Ai lèm bèm về chủ nghĩa toàn trị đó?

Nhìn lại chủ nghĩa toàn trị.

Đúng ra phải nói, một cách nhìn mới, về một chủ nghĩa đã cũ, bởi vì cuốn sách GNV giới thiệu sau đây, "Người nào nói chủ nghĩa toàn trị đó?" (Did someboby say totalitariarism?, nhà xb Verso, London, in lần đầu năm 2001) của Slavoj Zizek, gồm 5 tiểu luận, là một nghiên cứu chủ nghĩa toàn trị, như là một mạng nhện những anh em bà con của nó. Kết luận cuốn sách mà tác giả đưa ra thì thật đầy tính gây hấn: Nếu chi tiết là cái tối hậu [lấy ý từ câu, "Nếu không phải Thượng Đế, thì là Quỉ, nằm trong chi tiết", GNV ghi chú], như vậy, Quỉ không hẳn nằm ở trong chi tiết của cái tạo thành chủ nghĩa toàn trị, cho bằng nằm trong cái tạo thành chính cái chỉ danh của sự đồng thuận tự do dân chủ. (The devil lies not so much in the detail of what constitutes totalitariarism as in what enables the very designation totalitarian: the liberal-democratic consensus itself).


Shostakovich: Lề phải hay lề trái?

WHOSE SIDE WAS SHOSTAKOVICH ON?
by Alex Ross, The New Yorker, March 20, 2000

How did Shostakovich's music survive Stalin's Russia?
BY ALEX ROSS

On a January evening in 1936, Joseph Stalin entered a box at the Bolshoi Theater, in Moscow. His custom was to take a seat in the back, just before the curtain rose. He had become interested that month in new operas by Soviet composers: a week earlier, he had seen Ivan Dzerzhinsky's "The Quiet Don," and liked it enough to summon the composer for a conversation. On this night, the Bolshoi was presenting "Lady Macbeth of Mtsensk," a dark, violent, sexually explicit opera by Dmitri Shostakovich. Stalin enjoyed himself less. After the third act-in which tsarist policemen are depicted as buffoons who arrest people on hastily fabricated pretexts-the Leader conspicuously walked out. Shostakovich, who had been expecting the same reception that Stalin gave to Dzerzhinsky, went away feeling, he said, "sick at heart." Two days later, Pravda published an editorial under the headline "MUDDLE INSTEAD OF MUSIC," which condemned, Shostakovich's opera outright. "From the first minute," the anonymous author wrote, "the listener is confused by a deliberately disordered, muddled stream of noise." The composer was playing a game that "may end very badly".


Witness of Poetry

Nothing reveals a poet's weakness like classic verse and that why it's so universally dodged
Brodsky
[Intro to Anna Akhmatova's Poems, selected and edited by Lyn Coffin. Norton]
Không gì tố cáo cái yếu kém của một nhà thơ cho bằng thơ cổ điển, và chính vì thế mà mấy nhà thơ Mít dởm của chúng ta tránh nó như tránh... hủi!

Thơ lục bát: Một duyên phận long đong
TYT

Note: Tay này đặt ngược vấn đề!
Thơ lục bát không long đong, nhưng nhà thơ long đong, nếu đụng vô nó, mà không đủ nội lực.

Đây là nhận định của hơn 1 nhà văn, nhà thơ, trên thế giới, khi cho rằng, ‘truyền thống’, trong có lục bát, tất nhiên, là một thách đố, đối với những nhà thơ dởm, và chính vì nó, truyền thống [ở đây, là lục bát], mà đẻ ra ba thứ thơ nhảm nhí, như tự do, không vần, tân hình thức, những nhà thơ cách tân, canh tân, hậu vệ, mở miệng....!

Trong quá khứ, cũng có hơn 1 nhà thơ Mít, đụng vô lục bát, mà thành công, thí dụ, Cung Trầm Tưởng, [Bùi Giáng nữa, ở 1 số bài, thí dụ như khi ông dịch Apollinaire], Đồng Đức Bốn, Viên Linh, [nhớ đại khái vài cái tên]

TTT phải đến khi vô tù mới trở lại được với truyền thống, một phần là vì hoàn cảnh, cái khó nó bó cái khôn, nhưng theo Gấu, chính ở trong tù ông mới ngộ ra được truyền thống, một phần là do, cái gọi là bạo lực trong thơ của ông tới được cõi viên mãn của nó: thiền.

Borges đã từng đặt ra vấn đề này, trong 1 lần nói chuyện về thơ, với sinh viên:

'Tôi nghĩ những nhà thơ trẻ thích bắt đầu bằng một điều cực kỳ khó khăn - thơ tự do. Và đây là một lỗi lầm lớn. Nếu bạn tính làm một bài sonnet, thí dụ vậy, bạn có ảo tưởng, thực sự đã có một cái gì đó: cái khung của bài thơ. Cái khung có trước, cho dù dòng thơ đầu tiên chưa được viết ra. Rồi bạn chỉ việc kiếm từ có vần có điệu. Chúng làm mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn. Nói như vậy, không có nghĩa là tôi thích một bài sonnet, hơn là một bài thơ tự do. Nếu bạn lấy một vài trang đẹp nhất, trong Lá Cỏ của Whitman, rồi hỏi tôi, liệu chúng có hơn, một bài sonnet của Shakespeare, hay Keats, hoặc Yeats, tôi cho một câu hỏi như vậy, là vô nghĩa. Tôi thích cả hai. Tại sao lại phải bỏ một, nếu có thể giữ cả ? Nhưng sự khác biệt là như thế này: Nếu bạn làm một bài thơ vần, bạn đã có sẵn một vóc dáng, và người đọc có thể tham dự vào vóc dáng đó; trong lúc nếu bạn làm thơ tự do, mọi chuyện là do bạn. Kỹ năng của bạn phải cao. Lẽ dĩ nhiên, nếu bạn là Walt Whitman, nội lực thâm hậu chỉ muốn bật ra thôi, bạn cứ làm thơ tự do, và đây là một điều đáng làm. Chuyện này đâu xẩy ra cho nhiều người trong số chúng ta. Tôi đã gặp phải lỗi lầm này, khi in tập thơ đầu. Tôi đọc Whitman, và tưởng chuyện dễ. Bởi vậy lời khuyên của tôi đối với những nhà thơ trẻ, là hãy bắt đầu bằng những thể thơ cổ điển; chỉ sau đó, mới trở thành cách mạng được. Tôi nhớ một nhận xét của Oscar Wilde - một nhận xét đầy chất tiên tri. Ông nói: "Nếu không có thơ vần, chúng ta đều trở thành thiên tài". Đây là chuyện đang xẩy ra ngày hôm nay, ít ra là tại xứ tôi. Hầu như ngày nào tôi cũng nhận được những cuốn thơ của những thiên tài hoặc mấp mí thiên tài: nghĩa là những cuốn thơ hình như chẳng có một chút ý nghĩa nào đối với tôi. Ngay cả những ẩn dụ ở trong đó, tôi không thể nào nhận ra được. Ẩn dụ đề nghị một nối kết, giữa hai sự vật. Nhưng trong những cuốn thơ đó, tôi chẳng nhìn thấy bất cứ một nối kết nào. Tôi đã phạm vào lầm lẫn thiên tài như vậy, trong tập đầu, tập hai cũng vậy, và có lẽ ngay cả tập ba; và rồi tôi khám phá ra, có một điều gì thực sự huyền ảo, và không thể nào cắt nghĩa được, về một bài sonnet: Nó có thể đẻ ra đủ thứ, đủ loại thơ, khác nhau.

Q: Về thơ vần, ông có nghĩ là, tất cả tùy thuộc vào loại thơ mà ông đã trưởng thành?

Borges: Câu hỏi thật kỳ cục. Có vẻ như ông có quá ít tò mò, về quá khứ. Nếu ông viết bằng tiếng Anh, thì đó là một truyền thống. Ngôn ngữ, tự thân, là một truyền thống. Tại sao không theo truyền thống thật dài, thật xuất sắc của những nhà thơ sonnet, thí dụ vậy? Tôi nhận thấy thật lạ lùng, khi bỏ qua thể thơ (form). Nói cho cùng, ít nhà thơ làm thơ tự do hay, nhưng rất nhiều nhà thơ bậc thầy, ở những thể thơ khác. Ngay cả Cummings cũng có nhiều bài sonnet thật tuyệt. Tôi có thuộc một số bài. Tôi không nghĩ ông có thể gạt bỏ tất cả quá khứ. Nếu làm vậy, ông sẽ gặp rủi ro khi khám phá ra những điều đã được khám phá rồi. Điều này là do sự thiếu tò mò. Chẳng lẽ ông hết tò mò về quá khứ? Không tò mò về những bạn thơ thế kỷ này? Thế kỷ trước? Thế kỷ 18? John Donne chẳng là gì đối với ông? Hay là Milton? Thật sự tôi không thể, ngay cả để "bắt đầu", trả lời câu hỏi của ông.

Q: Liệu chúng ta có thể đọc những nhà thơ quá khứ, rồi diễn giải những gì học được, bằng thơ tự do?

Borges: Điều tôi không hiểu được, đó là, tại sao ông lại muốn bắt đầu, bằng một điều thật khó, thí dụ như thơ tự do?

Q: Nhưng tôi thấy không khó.

Borges: Well, tôi không biết thơ bạn làm, thật khó mà nói. Vấn đề có thể là, làm thì dễ, nhưng đọc thì khó. Trong hầu hết trường hợp, có sự lười biếng. Lẽ dĩ nhiên, có những ngoại lệ. Thí dụ Whitman, Sandburg, Edgar Lee Masters. Một trong những lập luận của thơ tự do, đó là người đọc biết, đừng trông mong lấy ra được từ đó một thông tin nào; hoặc phải tin vào một điều gì đó - khác với một trang thơ xuôi, vốn thuộc về văn chương của tri thức, chứ không phải văn chương của quyền lực.

Q: Ông có nghĩ, có thể tạo ra những thể thơ mới?

Borges: Lý thuyết có thể đúng. Nhưng điều tôi muốn nói, và chưa nói ra được, đó là bắt buộc phải có một cấu trúc; và nếu bắt đầu bằng một cấu trúc hiển nhiên, như vậy vẫn dễ dàng hơn. Phải có cấu trúc thôi. Mallarmé có nói: "Chẳng có cái gọi là thơ xuôi (prose); đúng vào lúc bạn lo tới nhịp điệu, nó trở thành thơ (verse)." Stevenson cũng nói đại khái như vậy: "Sự khác biệt giữa thơ và thơ xuôi là do khi bạn đang đọc" - ông muốn nói những thể thơ cổ điển - "bạn mong một điều, thế là bạn có".

Nói ngắn gọn, sự khác biệt giữa một sonnet của Keats, với một trang thơ tự do của Whitman, thí dụ vậy, đó là bài sonnet, cấu trúc của nó hiển nhiên - thành ra dễ làm - trong khi nếu bạn thử làm một bài thơ như "Children of Adams" or "Song of Myself", bạn phải tự mình bịa đặt ra một cấu trúc của riêng bạn. Không có cấu trúc, bài thơ sẽ chẳng có hình dạng, và tôi nghĩ, nó chẳng thể chịu nổi một chuyện như thế đâu.
Borges: Nói về thơ

Mới… lúc nãy, GNV lại gặp lại vấn đề ‘long đong’ này, nhân đọc cuốn thơ tuyển của Mandelstam, với lời Tựa của chính bà vợ của thi sĩ.
Một bài viết thật tuyệt. Post tại đây, rồi, lèm bèm sau!
Bài Tựa này, và nhận xét của Akhmatova về Mandelstham, còn giải thích tại làm sao... TTT không có ‘tiền thân’ [‘fore-runner’]!

*

Foreword by Nadezhda Mandelshtam

I think that the most difficult task in the world is the translation of verses, particularly of a true poet, in whose verses there is no discrepancy between the form and the content (or meaning) - both of them always new and but a bit different (with no great disparity between them) - and where the ego of the poet is always strikingly felt. Marina Tsvetayeva said she could write as Mandelshtam did but that she didn't want to. She was a great poet but she was greatly mistaken. She could be influenced by Mayakovsky and Pasternak and remain Tsvetayeva because they were innovators and therefore easily aped. But Mandelshtam composed verses in tradition, which is far more difficult to imitate.
Mr Robert Lowell's translations are very free; Mr Paul Celan's into German also free. But both are a very far cry from the original text. As far as I know the translations of Mr Greene are the best I ever saw. I can't give my opinion about the Italian translations, as I don’t know Italian as well as English, French and German. As for Elsa Triolet's, they are as naive and vulgar as she was.
Mandelshtam said that the contents are squeezed from the form as water from a sponge. * If the sponge is dry, there would be no moisture at all. So, to render the content - which Mr Greene has succeeded in doing - is to give, in a way, the form or harmony, the harmony which can't be rendered in translation, the harmony which is quite simple and at the same time mysteriously complicated. Poetry is a mystery.
Nadezhda Mandelshtam, 1976 (1)

Translator's Preface

[Mandelshtam] had no poetic forerunners - wouldn't that be something worth thinking about for his biography? In all of world poetry I know of no other such case. We know the sources of Pushkin and Blok, but who will tell us where that new, divine harmony, Mandelshtam's poetry, came from?
Anna Akhmatova
M. không có tiền thân, liệu điều này có tính đếm đến, khi lèm bèm về tiểu sử của ông? Trong trọn thế giới thi ca mà tôi biết, chưa hề có một trường hợp như thế. Chúng ta biết nguồn thơ của Pushkin, của Blok, nhưng ai bảo cho ta biết sự hài hòa mới mẻ, thần thánh, thơ của Mandelstham, đến từ đâu?

Translation it is that openeth the window, to let in the light; that breaketh the shell, that we may eat the kernel.
King James Bible, 1611: 'The Translators to the Reader'

(1) Tôi nghĩ cực trần ai là cái chuyện dịch thơ, nhất là thơ của 1 thi sĩ thứ thực, thứ thơ không làm sao mò ra đâu ra nội dung đâu là hình thức của thơ, cả hai thì đều mới tinh, và lại hơi khác khác, khi phải so với nhau, thành ra mới khó lần đường ranh giữa chúng, và chính tại đây mà cái tôi của nhà thơ được cảm nhận một cách thật dữ dội và đầy kinh ngạc.
Marina Tsvetayeva nói, bà có thể làm thơ như Mandelshtam nhưng không thèm làm, bà nói thế là nói bậy, tuy bà là một nhà thơ vĩ đại. Bà có thể bị ảnh hưởng bởi Mayakovsky và Pasternak và vẫn là Tsvetayeva, bởi vì họ là những nhà thơ canh tân, và do đó, thật dễ chôm chĩa, phỏng theo.
Nhưng Mandelshtam làm thứ thơ theo truyền thống, và như thế, thật khó bắt chước.
Bản dịch của Mr Robert Lowell thì quá phóng túng, Của Mr Paul Celan qua tiếng Đức, cũng phóng túng, Nhưng cả hai thì đều là một tiếng khóc quá xa nguyên bản. Như tôi biết, bản dịch của Mr Greene là bảnh nhất, tôi từng được đọc. Tôi không thể phán về những bản dịch tiếng Ý, vì không biết tiếng Ý, mà chỉ biết có tiếng Anh, tiếng Tây, và tiếng Đức. Về bản dịch của Elsa Triolet, thì nhảm quá, như cô em này thì ngây thơ và dung tục.
Mandelshtam nói, nội dung thì được vắt ra khỏi hình thức, như người ta vắt một miếng bọt biển dùng để lau bảng. Nếu cái miếng bọt biển khô, thì làm sao vắt, dù chỉ được tí ẩm, ướt?
Thành thử, đem đến nội dung, như Mr Greene đã thành công trong khi dịch, là đem đến, một cách nào đó, hình thức, hay hài hòa, một thứ hài hòa không thể nào đem lại được, qua dịch thuật, thứ hài hòa thật đơn giản, và cùng lúc, thật đa đoan một cách rất ư là bí ẩn.
Thơ là một huyền nhiệm.
Nadezhda Mandelshtam, 1976


Ngô Bảo Châu, Nobel Toán


Linda Lê : “J'aime que les livres soient des brasiers"

Cách viết của bà chẳng giống ai, chẳng thuộc về 1 típ nào cả. Không phải một cách viết trôi, chảy, mà được làm bởi những khảm khắc, những chạm nổi, những cú láy. Nó gây cảm tưởng về những cú rít, huýt, cắn, xé, ngoạm…. Ngôn ngữ của bà đã được cấu tạo như thế nào?

Nó được tạo nên bằng một sự trộn lẫn dịu dàng. Khi còn con nít, tôi nói tiếng Việt với cha tôi, tiếng Pháp với mẹ tôi. Giữa chị em, chúng tôi nói với nhau bằng 1 thứ tiếng pha trộn giữa tiếng Việt và tiếng Pháp. Bây giờ chúng tôi chỉ nói tiếng Pháp. Đã lâu lắm rồi, tôi không nói tiếng Việt nữa. Thứ tiếng đó chỉ còn lại trong tôi, như là những mẩu, mảnh, lâu lâu lại thốt ra, nghe thật kỳ cục.



Kỷ niệm, kỷ niệm


Qiu

Thầy Vũ


Len Deighton: Thi sĩ của truyện điệp viên


Ghi chú trong ngày

3.10.2010

Như những lời chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.
Lần Cuối Sài Gòn

"America wanted compromise," he [Kissinger] said. "Hanoi wanted victory."
Kissinger: Vietnam Failures 'we Did To Ourselves'

Phải đến bây giờ Kissinger mới hiểu ra sự thực, về cuộc chiến Việt Nam, khi thú nhận, Mẽo đánh giá thấp sự lỳ lợm của VC Miền Bắc.
TV post lại lời phát biểu của ông, ở đây, và nhân đó, so sánh với cái tâm lý ‘ngựa Hồ hí gió Bắc’ [ăn cơm quốc gia], của những ông như DT.

Tuy nhiên, nếu Kissinger đọc TH, như Gấu đọc, khi còn nhỏ, ông có lẽ sẽ vẫn nghĩ như trên, nhưng phát biểu khác đi một chút:
Hà Nội muốn… ăn cướp!

Đây là sự khác biệt đưa đến băng hoại Mít hiện nay.