*








Thầy Vũ

Trau chuốt áo quần, trau chuốt ngôn từ, đi dạy không thấy dùng xe gắn máy mà chuyên trị xích lô- Vũ Khắc Khoan là vậy! Một tác phong tiểu tư sản điển hình?
CTC

Gấu cũng học thầy Vũ Khắc Khoan, năm học cuối bậc trung học, lớp 12 ban Toán, B.8, trường Chu Văn An, và hình ảnh ông thầy họ Vũ của Gấu khác hẳn!
Vì là ban Toán, thầy thì dậy môn Sử, môn phụ, mỗi tuần chỉ có 1 giờ, thành ra ít khi Thầy tới lớp! Có tới thì cũng không phải để dậy sử, mà toàn nói chuyện về văn, về kịch, về bất cứ chuyện chi, trừ sử! Thầy ăn mặc cũng ngang tàng lắm, chuyên đi cái xe solex, và rất nhiều khi, trong bộ đồ thể thao, với cây vợt trên tay, Thầy chạy xe tàng tàng tới cổng trường nói vọng vô, vì lớp B.8 ở kế ngay cổng trường, hôm nay nghỉ, thầy bận đi đánh quần vợt!
Thời gian viết cho báo Vấn Đề, Gấu chẳng bao giờ gặp Thầy, và chỉ liên lạc bài vở qua Mai Thảo.

Lần bị thầy Vũ rũa, là qua Mai Thảo nhắn lại. Anh nói, ông thầy của bà Sơ [Sơ Dạ Hương] ra lệnh, mục Tạp Ghi thỉnh thoảng phải đi ít đường về mấy thi văn đoàn... Mũi Né!
Lần đó, chắc là Thầy nhận thư than phiền của nhà văn THT, cũng nên!
Chuyện này kể ra rồi!
*

Năm học Đệ Nhất Chu Văn An, ông thầy dậy sử của Gấu là Vũ Khắc Khoan. Học ban B. B8, ngay cổng ra vào, khi nhà trường còn nằm nhờ truờng Pétrus Ký, miếng đất sau trở thành Trung Tâm Học Liệu. Người hồi đó đi solex, rất nhiều khi tới cổng vẫy vẫy, ra ý, hôm nay Thầy bận, rồi đi. Nếu có vô lớp thì cũng ít khi nói về sử, mà thường là về kịch, về “chúng ta đã xuống thuyền”, và về…Hà Nội.

Có một lần ông kể chuyện, về mấy anh Tây mũi lõ, ở bên chánh quốc, thất nghiệp, đói rã họng, bèn kiếm cách xuống tầu tới Đông Dương, tới Hà Nội, không phải để kiếm việc làm, thiếu gì, nhưng mà là để làm “cái bang”, mỗi khi cần tí tiền, là ra nhà hàng Godard, lấy cái nón trên đầu xuống, lật lên, xin tiền đám Mít quí phái, và đám Tây Đầm.
Lũ Tây Đầm ngượng lắm, vừa thấy cái nón lật lên, là thẩy tiền liền. Thấy "đường được", là tếch. Nhất định không chịu kiếm việc làm. Thế mới thú.
Đám Mẽo làm hùng hục, chỉ mãi đến khi quá chán cuộc chiến Mít, mới nghĩ ra trò này: Ăn xin thay vì làm việc!
NKTV

Gấu nhớ là, đã học được qua thầy Vũ, câu của Pascal, trong 1 trong những giờ học trên.
Chúng ta đã xuống thuyền. Nous sommes embarqués.

Gió O ra số đặc biệt về Thầy Vũ, và tờ Vấn Đề của Thầy, với Mai Thảo là người chắc là thư ký tòa soạn. GNV viết thường trực cho VD trong thời gian khá lâu, với cái tên Tuấn Anh. Tuấn là tên thằng con trai lớn. Anh, tên cô bạn, còn là… bạn thân của…  Gấu Cái, từ những ngày còn học tiểu học Cai Lậy. Đây là cô bạn xuất hiện trong một số ‘giả tưởng’ của Gấu, như Cõi Khác, thí dụ. Hay trong Cầm Dương Xanh. Một trong những ‘thánh nữ’ của GNV. Cái người mà, chưa gặp, chỉ nghe nói tên thôi, là GNV đã biết ngay, đây là ‘người của mình’, nhưng… muộn mất rồi!
*
Câu ‘Chúng ta đã xuống thuyền’ của Pascal thường được dùng theo cái nghĩa của đám hiện sinh, chúng ta đã nhập cuộc, đã dấn thân. Bữa trước đọc một bài viết của một tay thi sĩ ở trong nước lèm bèm về câu này, nhưng ông ta hiểu theo nghĩa, chúng ta bị ép buộc, bị đẩy xuống thuyền, và hình như ông còn nhớ sai tên chủ nhân câu nói. (1)

(1)
Còn hơn thế, nhà văn hôm nay cần học chấp nhận sinh phận làm “kẻ bị đẩy xuống tàu”. Đây là từ dùng của Albert Camus. Không phải là nhập cuộc (engagement), bởi nhập cuộc ít nhiều còn mang tính tự nguyện, mà là bị đẩy xuống, theo nghĩa mạnh nhất của từ này. Ông thêm: Nhà văn như kẻ đi trên dây giữa hai bờ vực, một bên là tuyên truyền cho thế lực, bên kia là xa hoa giả trá. Hắn cần giữ thăng bằng giữa hai thứ quyền lực đầy cám dỗ đó. Hơn nữa, giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và đất nước, tổ quốc và thế giới, trách nhiệm công dân và ý hướng tính sáng tạo của nghệ sĩ trước vũ trụ vô cùng. Do đó, hắn luôn phải chấp nhận sống cùng bấp bênh và hiểm nguy thường trực. Vì chỉ như thế, hắn mới còn “sáng tạo” theo đúng nghĩa nguyên ủy của từ.
Insara

Note: Giá mà Insara cho biết gốc gác của 'từ dùng của Albert Camus’, thì thật tuyệt, vì, biết đâu, Camus ‘đạo’ của Pascal?
*

Một trong những độc giả thật thân của TV, mới đây, khuyên Gấu những câu thật chí tình. Vị này cũng rất bực cái mục Dọn như một vị cũng rất thân khác, và cũng như vị này, rất bực cái vụ lôi mail riêng, của hai vị gửi cho TV, nhiều khi vờ xin phép luôn!
Luôn cả những mail, những hình ảnh riêng tư trong gia đình GNV!
Cái vụ vờ, không xin phép này, quả có xẩy ra, nhưng TV delete tên tác giả, coi như ‘vô danh’, vậy mà cũng bị rũa, và đành phải xin lỗi công khai ở đây, ấy là vì, thói đời, ai được khen mà chẳng phổng mũi, chẳng muốn khoe cho thiên hạ biết?

Còn cái vụ mail riêng, hình ảnh riêng, thì, xin trình rõ như thế này: TV quả là nhà của Gấu. Nhà theo cái nghĩa rất riêng và rất công. TV sẽ tà tà giải thích sau, nhưng bật mí một tí là, nó liên quan đến cái sự tò mò của bất cứ con người, rất ư muốn biết những điều rất ư là riêng tư, của một con người có tí tên tí tuổi.

Note: Mục 'Dọn', kể như vĩnh viễn bị khai tử kể từ hôm nay, 15.9.2910, như yêu cầu của mấy vị quí độc giả. NQT

*

GNV này nhớ, có thời kỳ Thầy Vũ còn làm báo hàng ngày, cùng với ông anh rể của Gấu, là Nguyễn Hoạt, còn ký Hiếu Chân, tờ Ngày Nay thì phải. Và có lần, trong một bài viết của Thầy, có nhắc đến Koestler, và cái kinh nghiệm ‘làng kháng chiến’ gì gì đó của dân Do Thái, sau này được ông Nhu áp dụng  một cách ‘không thông minh và sáng tạo’ vào Miền Nam, là ấp chiến lược, kết quả ra sao thì chúng ta đều rõ, nhưng do Thầy Vũ nhắc tới Koestler, làng kháng chiến, và ấp chiến luợc, và quan niệm của Thầy trong bài viết, thật khó mà làm văn chương dù cái thứ mạt hạng, là nghệ thuật quần chúng, ‘cuộc cách mạng của đám đông’, ở một tờ báo hàng ngày, GNV hăng tiết vịt, gửi một cái thư cho Thầy, quả quyết, có thể có thứ ‘văn học cao’ ở một cái mục như.. Tạp Ghi của GNV chẳng hạn.
Lạ, là lá thư được đăng lên, nhưng chẳng bao giờ GNV dám thố lộ với ai về chuyện GNV là tác giả của nó.

*

Bài viết ‘bọn ngốc’ của TTT, là bài viết ở trang bìa, bìa sau của tờ VD, và mục này, chính TTT bịa ra, để xả hơi, vào thời gian ông bị một số băng đảng, nào là [tạp chí] TB, nào là NS..  xúm lại phạng ông tơi bời. Bài viết 'bọn ngốc' hình như có nhắc tới bài viết của Nhượng Tống khi dịch Mái Tây, và từ 'bọn ngốc' này hình như của Nhượng Tống?

GNV có hai kỷ niệm về vụ này.

Một, về chính mục ‘Bài Viết Trang Bìa’, lần ngồi với nhà thơ tại Quán Chùa, và do GNV viết thường trực cho nó, ông hỏi, báo [VD, tháng này] ra chưa. Gấu trả lời, chưa; sao trễ vậy, thiếu 1 bài; bài nào, bài của anh, bài viết trang bìa! Ông bật cười.

Kỷ niệm kia, liên quan tới ‘bọn ngốc”!

&&

Nguồn hình: Gió O

Bài viết ‘Trái Tim Trong Thành Phố’, của GNV, ký tên Sơ Dạ Hương, viết về Hà Nội, sau được in trong Những Ngày Ở Sài Gòn. Hồi đó, viết phê bình điểm sách, đành lôi tên cúng cơm NQT ra, phòng ngừa nếu có ‘phản biện’, đâu có khốn nạn như lũ HV, mỗi lần muốn phạng ai, là phịa ra một cái tên giả, nào HN, nào NTH!


Bài viết về Thầy Vũ của nhà thơ CTC, gọi là ‘tản mạn’, là hơi bị nhảm. Ít lắm thì cũng ‘những kỷ niệm về Thầy Vũ’.
Gấu cũng không ngờ là bạn CTC học thầy Vũ tới 3 năm, vậy mà kỷ niệm về Thầy có vẻ hơi bị ít.

Và, tản mạn, thật!

Một trong những vị học trò của Thầy Vũ là Tướng Râu Kẽm! Trong một lần tranh cử với tông tông Thiệu, Râu Kẽm khoe, đã từng biếu Thầy Vũ 500 ngàn tiền Nguỵ để Thầy làm văn nghệ.

Thầy Vũ làm tờ Nghệ Thuật, bằng số vốn đó. Nhờ nó mà Gấu Nhà Văn ra đời, với truyện ngắn ‘thần sầu’ Những Ngày Ở Sài Gòn!

Người chuyên môn ngồi xích lô khi đi dạo, từ tòa soạn báo này tới báo khác, là Mai Thảo chứ không phải Thầy Vũ. Chưa ai nhìn thấy MT đi xe gắn máy, và nếu có, thì phải là thứ 4 bánh.

GNV nhớ có lần ngồi Quán Chùa với TTT, và không hiểu làm sao câu chuyện bỗng tạt qua Mai Thảo. TTT nói về bạn của ông, đại khái, mấy thứ sống độc thân, đàn ông, hay đàn bà thì cũng rứa, rất trái tính trái nết, MT, không. Gấu cũng không hiểu tại sao ông lại nhận xét về khía cạnh này của MT.

Sau này, về già, nhớ lại, Gấu nhận ra, ông anh của Gấu gần như không có bạn, trong số những người cùng nhóm ST. Nếu có, thì chỉ một, là Ngọc Dũng. Và chính thái độ của đám đàn em đi liền sau ông, là đám HPA, Gấu…lúc nào cũng chỉ có TTT, ngoài ra là chấm hết, đã khiến cho hố thẳm giữa ông và bạn bè trong nhóm càng trở nên sâu thẳm, chưa nói đến những người thuộc nhóm khác, như VP, như NS.

NS đã có thời cùng nhóm ST, sau tách ra và nhập vô nhóm TB. Cuộc đụng độ giữa nhóm này với TTT, hình như không liên quan tới NS, bởi vì có lần Thế Nguyên nhờ GNV nhắn giùm với TTT. muốn gặp ông để... hoà giải. GNV cũng ngây thơ làm đúng lời yêu cầu, TTT gắt nhặng lên, TN là thằng nào, tao đâu biết nó là mà hoà giải, mà hoà giải cái gì chứ?
Lâu rồi, không nhớ đúng câu nói, nhưng nội dung đúng như trên.

Ở đời phải có người yêu, kẻ ghét, sống như hòn bi ve, lăn đâu cũng lọt, thì chán lắm! Ông anh có lần an ủi thằng em, lần bị chúng xúm lại làm thịt!

Đâu ngờ ông anh cũng đâu có ít, kẻ thù?

Và lại càng có ít, bạn!

*

Thần Tháp Rùa
Vũ Khắc Khoan

Wednesday, September 15, 2010 

VIÊN LINH

Nhà văn, kịch tác gia Vũ Khắc Khoan sinh năm 1917 tại Hà Nội, từ trần vào tháng 9, 1986 tại Minesota, Hoa Kỳ. Song song với hoạt động văn học, ông là một giáo sư thường trực tại các trường Chu Văn An Hà Nội, sau này vào Sài Gòn, dạy tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ, các Ðại Học Văn Khoa, Ðại Học Ðà Lạt và nhiều trường khác.
Tác phẩm của ông không nhiều, song cuốn nào cuốn nấy đều gây âm hưởng sâu rộng, bền bỉ, chẳng hạn Thần Tháp Rùa, Thành Cát Tư Hãn, Mơ Hương Cảng, Thằng Cuội Ngồi Gốc Cây Ða. Người viết bài này khi còn niên thiếu được học ông tại Chu Văn An Hà Nội, Sài Gòn, khi trưởng thành cùng được viết với ông trên nhiều tờ báo: Sáng Tạo, Nghệ Thuật, cũng chính ông đã đưa người viết vào làm tổng thư ký Tòa Soạn Nhật báo Ðất Tổ của Phật Giáo, trong giai đoạn đấu tranh khá căng thẳng giữa tôn giáo vào chính phủ của hai ông Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, khoảng 1967, 1968. Từ đó ông bảo “gọi bằng anh được rồi.” Nhân ngày giỗ thứ 24 của ông, xin trích đăng lại dưới đây những đoạn trong cuốn hồi ký đang soạn, [cũng xin thêm những chú thích trong ngoặc vuông hầu giúp người đọc tránh được những thắc mắc không cần thiết].
Viết về Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam, khởi từ 1954 tới 1975, có nghĩa là khởi từ các nhóm Tự Do, Quan Ðiểm, tiếp một chút ngược lên nhóm Chân Trời Mới. Sau Quan Ðiểm, sau Chân Trời Mới, mới tới những Nhân Loại, Văn Nghệ Mới, Bách Khoa, Sáng Tạo, Hành Trình, Ðất Nước, Văn Nghệ Nghĩa là sau Ðỗ Thúc Vịnh, Vũ Khắc Khoan, Mặc Ðỗ, Nghiêm Xuân Hồng; sau Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, mới tới những Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc và Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên; và Nguyễn Văn Xuân, Vũ Hạnh, Võ Phiến; rồi Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Ðức Sơn, và Thế Nguyên, Diễm Châu, Ðỗ Long Vân.
- Cái bắt buộc đó từ 1975, 1976 anh Khoan và tôi cùng phải đối diện: Tổ chức The Ford Foundation ở Nữu Ước, thường tài trợ cho công việc nghiên cứu văn hóa, khi miền Nam sụp đổ, trong quĩ còn vài trăm ngàn phải tiêu cho hết, nên đã treo đâu 18 cái học bổng cho “các học giả và tác giả Ðông Dương gồm cả Việt Miên Lào.” Anh Khoan và tôi, hai nhà văn duy nhất được chọn với hai đề tài văn học (bên cạnh 16 người khác được chọn cho những đề tài kinh tế chính trị tôn giáo triết học.) Tôi nhớ một số trong những người kia là Tướng Lào Vang Pao, ông Dohamide Abu Talib, người Chăm Việt Nam, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy về vấn đề Chính đảng, Linh Mục Lương Kim Ðịnh, Thượng Tọa Thích Giác Ðức về hai đề tài tôn giáo, cựu đại sứ cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa ở Mỹ, Nguyễn Kim Phượng (không rõ đề tài, hình như về Tổ Chức Công Quyền của Việt Nam Cộng Hòa), anh Cao Thế Dung viết về một đề tài nông nghiệp thóc gạo gì đó, và một vài học giả Mỹ chuyên về Việt Nam. Trong khi tôi viết về Văn Học Miền Nam thì anh Khoan viết về Tuồng Chèo Việt Nam.
Với học bổng này, đây là lần thứ ba kịch tác gia Vũ Khắc Khoan và tôi, hai thầy trò, có nhiều dịp gặp nhau vì cùng làm việc trong một khung thời gian chung, cho một công việc nhiều liên hệ chung. Lần đầu là nhật báo Ðất Tổ của Phật Giáo, do [cố] Hòa Thượng Thích Thiện Minh chủ trì, đâu vào khoảng 1966,1967. Trước đó, biết tôi từng làm thư ký tòa soạn nhật báo Dân Ta của nhà thơ Nguyễn Vỹ, nên khi nhật báo Ðất Tổ cần một thư ký tòa soạn, anh đề bạt tôi. Lần thứ hai là khi Cục Quân Huấn, lúc đó Ðại Tá Cao Ðăng Tường làm cục trưởng, có tổ chức một cuộc thi kịch cho toàn quân, anh Khoan và tôi được mời làm giám khảo. Lúc ấy anh là trưởng ngành kịch của trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ, còn tôi là ủy viên kịch trong Ban Chấp Hành Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Ðội do Ðại Tá Anh Việt Trần Văn Trọng làm chủ tịch.
Với cuộc chấm giải kịch Quân Ðội, anh em tuyệt đối không bàn luận với nhau, trừ ngày chót quanh bàn họp, vở anh chọn trao giải nhất thì tôi chọn trao giải nhì; vở anh chọn trao giải nhì thì tôi chọn trao giải nhất. Dường như Ðại Tá Cao Ðăng Tường, trưởng ban tổ chức, đã góp ý kiến để đi đến quyết định, tôi không còn nhớ như thế nào, vì buổi họp hôm ấy khá vui, quanh một bàn ăn thịnh soạn, và nhất là trong bữa ăn, Ðại Tá Hùng, hai ba tháng sau đó được bổ nhiệm làm tổng cục phó Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, lúc ấy đã cứ gọi “Thằng Thiệu” ra đả kích, dù lúc ấy ông Thiệu đang là tổng thống.
Vũ Khắc Khoan ít nói, nói thì chắc. Lời anh nói ra là một câu văn đã gọt giũa, không thừa, đôi khi có thể thiếu, chứ không thừa. Cái thiếu nếu có, người nghe phải tự hiểu là gì. Khi nói, Vũ Khắc Khoan nhìn sâu vào mắt người đối diện, cặp mắt đôi khi có gân máu. Ánh mắt anh lúc ấy cũng nói, một thứ tiếng nói không âm thanh. Tiếng nói, cử chỉ, cái nhìn của anh là một. Chủ thể là chủ thể, chớ lầm, và chủ thể đang nói, đang hành động. Anh cũng ngắt lời ngay nếu đối tượng lòng vòng, hay lơ mơ, hay đang tìm cách thoái thác. Từ lúc là học sinh đệ thất đệ lục học anh đôi giờ Sử ở Chu Văn An Hà Nội tới khi cùng làm việc với anh ở Sài Gòn, tiếp xúc lại ở Hoa Kỳ, chưa bao giờ tôi thấy nơi anh một hành động một cử chỉ sơ suất. Phóng khoáng thì luôn luôn, mà sơ suất thì không.
Khoảng 1951, khi còn ở Hà Nội, tôi đã được đọc Vũ Khắc Khoan. Còn nhớ đó là vở kịch Giao Thừa. Người độc giả nhỏ tuổi lúc đó ở tôi đã rất thích cái cảnh một nhân vật loay hoay với cái bàn năm chân, và một nhân vật loay hoay định nghĩa chữ “Giao Thừa.” “Kịch” đi vào tôi với cái bàn năm chân của Vũ Khắc Khoan từ đó.
Anh Khoan trong suốt thời gian quen biết chỉ nói về kịch với tôi dăm ba lần, lần anh làm giám khảo Giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc bộ môn kịch, năm tôi gửi vở Con Ðường Ngựa Chạy dự thi - chỉ đoạt giải đồng hạng, năm đó chỉ có một giải đồng hạng cho hai người, không có giải nhất - lần anh và tôi cùng làm giám khảo Giải Thưởng Kịch của quân đội do Cục Quân Huấn tổ chức, và một lần liên quan đến tác phẩm dài đầu tay của tôi in năm 1966: cuốn Thị Trấn Miền Ðông. Khi sách do tạp chí Văn xuất bản, nó là một tân truyện, song thực ra nó là vở kịch cùng nhan đề đã đăng làm ba kỳ trên Tạp chí Văn Nghệ. Trần Phong Giao, người gây dựng tạp chí Văn ở Việt Nam nói kịch không thể bán được, muốn Văn in, phải sửa nó thành tân truyện. Người tác giả trẻ là tôi lúc đó đã nhượng bộ: chữ kịch, các ghi chú của kỹ thuật kịch, bị xóa bỏ, và Thị Trấn Miền Ðông được in ra dưới dạng một truyện cỡ trung. Một tân truyện.
Anh Khoan sau đó gặp tôi trước tòa soạn tuần báo Kịch Ảnh, trên đường Phạm Ngũ Lão, nghiêm nghị nói: “Tưởng cậu không để ai thuyết phục được mới phải?” Lời này làm tôi hơi cay, tuy lời lẽ anh thường là như thế. Nhớ hồi còn ở trong lớp, bọn ngồi bàn chót nói chuyện ầm ĩ, anh bắt cả bàn đứng dậy, từ tốn nói:
“Các anh nhìn xuống mặt ghế.”
“à?”
“Nhìn xem các anh chiếm mất bao nhiêu diện tích chỗ ngồi?”
“???”
“Nhiều người tử tế đàng hoàng đang mong ước những diện tích đó. Tùy các anh!”
“Tùy anh,” hay “tùy các anh,” là mấy chữ Vũ Khắc Khoan ưa dùng, hay dùng.

Tác giả Thành Cát Tư Hãn lúc nào cũng lừng lững như một pho tượng. Trên sân khấu trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ, chỉ cho Trần Quang một động tác trước khi Thành Cát Tư Hãn kéo màn. Trong Ðêm Mầu Hồng một giờ sáng, ngồi sau một mặt bàn tròn, gõ bàn mà ngâm Hồ Trường. Ði trên hành lang Phủ Quốc Vụ Khanh Văn Hóa, bước xuống quán nhậu Hải Biên, mái tóc chải ngược về phía sau, hai vai chắc nịch, cặp mắt mở lớn, rọi thẳng, bước đi vững chãi; anh có cái điệu bộ đi thẳng vào đám đông như biết đám đông sắp giãn ra, để sau đó nhìn theo sau lưng anh mà ngưỡng mộ một tấm thân nam tử.
Vũ Khắc Khoan đứng trong nhóm Quan Ðiểm từ Hà Nội, “trí thức tiểu tư sản với vận động lịch sử,” hình như có một thời gian có liên lạc với cuộc vận động của Phật Giáo. Anh là người muốn tôi giữ vai trò Tổng Thư Ký Tòa Soạn nhật báo Ðất Tổ, đúng vào lúc chính phủ của hai ông quân nhân Thiệu Kỳ và Phật Giáo đi đến chỗ quyết liệt. Rất ngần ngại bởi tình thế lúc đó, vả đang bận rộn với một vài báo khác, tôi đã lưỡng lự. Anh nói, Ðất Tổ cần một người có nghề báo đã đành, Ðất Tổ còn cần một người có thiện cảm với Phật Giáo, và là người quen biết tin được, vì thế anh mới đề nghị tôi.
Không có cách gì từ chối, tôi đã trải qua những ngày tháng làm báo căng thẳng, bởi tòa soạn luôn luôn bị rình rập, theo dõi. (Một tòa soạn rất ít người lui tới, chỉ có các chú nhỏ xẹt qua ném bài vào bàn, chỉ có các bà già đem bản thảo tới. Một ông thầy nữa của tôi ở Hồ Ngọc Cẩn là Lữ Hồ, viết hàng ngày cho Ðất Tổ, chỉ lái cái xe Deux Chevaux sát lề, quăng bài đã cuộn quanh một cục đá qua cửa, rồi chạy luôn.) Mỗi ngày những cái tựa nẩy lửa, những bài viết dữ dội. Chúng tôi có thể bị bắt bất cứ lúc nào.
Có một hôm, sau cuộc họp báo của phe quân nhân, đặc phái viên Ðất Tổ, Nguyễn Khắc Nhân, bạn tôi, hiện là chủ nhiệm Người Việt San Diego, chạy về tòa soạn với lời nhắn “mấy ông Ðất Tổ” của ông Nguyễn Cao Kỳ. Lời nhắn tôi cho là đứng đắn và thành thật: “Anh về nhắn mấy ông Ðất Tổ, chúng ta là những người trẻ, có gì thì nói thẳng với nhau.”
Nhưng những người trẻ chưa có dịp nói thẳng với nhau thì Ðất Tổ bị đóng cửa. Anh Khoan, sau đó tôi biết rõ, hay cười giật mỗi khi nhìn tôi. Anh chẳng nói gì, cười giật, và trong mắt nhìn thấy cả nụ cười.
Vũ Khắc Khoan viết khó khăn. Anh giữ mục Nhật ký Văn Nghệ khi tôi làm tổng thư ký tòa soạn tuần báo Nghệ Thuật (chủ nhiệm là Mai Thảo). Khi giỏi, gần một trang, khi không, nửa trang, thường thường lại không có. Cho nên ít khi tôi chờ bài anh, vì chờ đợi hoài công.
Cũng chẳng giục; hỏi thì có hỏi mà không giục. Anh viết thất thường, tôi không coi anh là người viết báo, như Bình Nguyên Lộc, Mặc Ðỗ, Võ Phiến, rất đều đặn. Anh chỉ là người viết tác phẩm. Những gì anh có thể đăng báo là những thứ lặt vặt, những thứ tiền-tác-phẩm, những gỗ vụn, ngói vỡ mà người kiến trúc là anh không dùng làm gì được trong việc xây dựng ngôi nhà lớn. Khi đó, anh có một chút để đăng báo, chẳng hạn, Nhật Ký Văn Nghệ.
(Trích Hồi Ký Văn Học, chưa hoàn tất)
Nguồn

Note: GNV có làm tờ Đất Tổ, với VL.
Còn kéo thêm một tay nữa, nhân viên UPI, cho anh.
Lo dịch tin UPI.
Từ bản gốc, tại văn phòng UPI!

Kịch Giao Thừa, GNV có đọc, nhưng ở Sài Gòn. Và cũng còn nhớ nhân vật chính trong kịch loay hoay với cái bàn 5 chân: phải để đâu, cái chân thứ 5 đó?
Ai thì cũng nghĩ ngay ra được, cái chân thứ 5 nếu có, thì phải ở giữa bàn.
Tại sao băn khoăn?
Sau này, GNV sử dụng toán để giải thích, qua bài toán cơ bản: Bàn 3 chân, và bàn 4 chân, cái nào vững hơn?

Bạn nghĩ sao?


Thời gian làm cho Đất Tổ cũng có một số kỷ niệm thật thú vị. Một lần, GNV đang ngồi tại toà soạn thì cả một gia đình, mặc đồ tang, trong có một bà tuyệt đẹp, từ bên ngoài ùa vào, cứ thế ngồi quì vái lạy GNV, và phiá sau bà, là cả một đống con nít, cũng khăn tang áo sô!
Vị nữ phu nhân thật đẹp, hoá ra là phu nhân một sĩ quan vừa tử trận, và được Đất Tổ… chiếu cố, với những lời lẽ hình như là không được đẹp, liên quan tới tham nhũng, lính ma, lính kiểng gì gì đó.
Hoảng quá, GNV vội vàng chạy ra khỏi tòa soạn!

Cái tay trẻ măng, vừa mới làm cho UPI, Gấu quên mẹ mất tên, là bị GNV chiêu dụ, đầu quân cho VL, làm ngoài giờ, chuyên dịch tin, trong số đó, có những tin thật nóng hổi, chỉ mình anh ta biết, khi ngồi trước cái máy viễn ký tại văn phòng UPI.
Theo cái kiểu PXA, ngồi trước máy viễn ký tại văn phòng Time, chôm tin cho VC!
*

Cái chiêu 'khổ nhục kế', thay vì cho du đãng tới đập phá tòa soạn, thì khăn sô áo tang... , thì cũng thường thôi, nhưng cái buồn cười ở đây, là tại sao mà họ lại nhầm một tay cà tàng như GNV, là một nhân vật quan trọng ở trong tòa báo?
Và, tại làm sao mà GNV lại cứ không thể nào quên được hình ảnh một người vợ thật đẹp trong chiếc áo tang?
Quái quỉ thật.

[Không lẽ tình cảnh của GNV lúc đó, cũng y chang tay Cớm Qiu, dưới đây, và nó báo hiệu số phận của mấy bà vợ sĩ quan, sau ngày 30 Tháng Tư?
Ui chao, khùng mất!
Đúng là thằng khùng!
Chưa từng gặp tôi, sao mà mê tôi thê thảm như thế, ư?]

*

thị trấn miền đông
của Viên Linh
Sơ Dạ Hương đọc, đăng trên báo Văn Học [của Phan Kim Thịnh, Sài Gòn] số 68, 1/11/1966. 

Đây có lẽ đây là một trong những bài đọc sách đầu tiên của Sơ Dạ Hương, sau bài đọc cuốn Sau Cơn Mưa, của Lý Hoàng Phong, trên trang VHNT của báo nhật báo Dân Chủ, của Vũ Ngọc Các (?).
Sơ Dạ Hương sau lấy tên thật là Nguyễn Quốc Trụ.

Sách Thị trấn miền Đông, tân truyện của Viên Linh, Tập San Văn xb, loại sách bỏ túi, giá 25 đồng.
Khung cảnh nơi câu chuyện xẩy ra là một thị trấn nhỏ mang tên Tây phố nằm ven quốc lộ số một, câu chuyện bắt đầu cùng với sự lục tục trở về của mấy người con khi nghe tin người mẹ chết. Gia đình họ là một gia đình danh giá và khá giả nhất nhì trong vùng.

Bản copy bài điểm sách, VL đưa cho tôi, là từ một máy fax tại tòa soạn Khởi Hành ở Tiểu Sài Gòn.
Anh nói, lai lịch bản gốc cũng thú vị, và ly kỳ lắm. Mày có nhớ cô nào tên là H. không? H. này không phải của mày, quen tao, không phải bồ tao, mà là bồ của anh của Bông Hồng Đen của mày. Nhớ chưa?
A, nhớ rồi! Nhớ cả một đoạn đời rồi.


Gấu nhớ là, đã học được qua thầy Vũ, câu của Pascal, trong 1 trong những giờ học trên.
Chúng ta đã xuống thuyền. Nous sommes embarqués.
Câu ‘Chúng ta đã xuống thuyền’ của Pascal thường được dùng theo cái nghĩa của đám hiện sinh, chúng ta đã nhập cuộc, đã dấn thân. Bữa trước đọc một bài viết của một tay thi sĩ ở trong nước lèm bèm về câu này, nhưng ông ta hiểu theo nghĩa, chúng ta bị ép buộc, bị đẩy xuống thuyền, và hình như ông còn nhớ sai tên chủ nhân câu nói. (1)

(1)
Còn hơn thế, nhà văn hôm nay cần học chấp nhận sinh phận làm “kẻ bị đẩy xuống tàu”. Đây là từ dùng của Albert Camus. Không phải là nhập cuộc (engagement), bởi nhập cuộc ít nhiều còn mang tính tự nguyện, mà là bị đẩy xuống, theo nghĩa mạnh nhất của từ này. Ông thêm: Nhà văn như kẻ đi trên dây giữa hai bờ vực, một bên là tuyên truyền cho thế lực, bên kia là xa hoa giả trá. Hắn cần giữ thăng bằng giữa hai thứ quyền lực đầy cám dỗ đó. Hơn nữa, giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và đất nước, tổ quốc và thế giới, trách nhiệm công dân và ý hướng tính sáng tạo của nghệ sĩ trước vũ trụ vô cùng. Do đó, hắn luôn phải chấp nhận sống cùng bấp bênh và hiểm nguy thường trực. Vì chỉ như thế, hắn mới còn “sáng tạo” theo đúng nghĩa nguyên ủy của từ.
Insara 

Thú thực, ông nhà thơ này khủng quá, ông gán cho Camus nhiều câu, nhiều ý khủng quá.  Hơn nữa, câu gạch đít trên, hình như sái văn phạm, GNV đọc, mà thực sự không thể hiểu ý của nhà thơ định nói cái gì!
Camus quả là một nhà văn đi trên dây, nhưng một đầu dây là quê hương Algérie mà ông chỉ là 1 kẻ ăn cướp, một tên thực dân, một tên ‘chân đen’, và một bên là nước Pháp của ông, cái dây này được đưa vào ám dụ, như là một bên là sự bần cùng, và một bên là ánh sáng mặt trời, mặt trời Địa Trung Hải.

“Il y a la beauté et il y a les humiliés.”
“Le bonheur et l'absurde sont inséparables”

“Il y a la beauté et il y a les humiliés.”
Có cái đẹp và có những người bị sỉ nhục.

Ui chao sao mà đúng y chang tình cảnh Mít, trước và sau Anus Mundi [hậu môn của thế giới]
Trước, cả nhân loại nằm mơ ngủ dậy, biến thành Mít.
Sau, Mít, có nghĩa là, bị sỉ nhục! 

Vào thời cực thịnh của Camus tại miền nam Việt Nam, trên tờ Sáng Tạo của nhóm, Thanh Tâm Tuyền đã coi Camus muốn làm một kẻ "juste", đứng ở lưng chừng trời, ngó xuống thế gian... và kết luận: cái chết của Camus đã nhốt chặt ông vào quá khứ.
Khi gọi Camus là một "juste", Thanh Tâm Tuyền gợi đến kịch phẩm "Những người công chính" (Les Justes) của Camus, (bản tiếng Anh dịch là Những Tên Sát Nhân Chính Trực, The Just Assassins); người viết đọc, vẫn những ngày đầu, thời mới lớn, trong một thành phố Sài Gòn đang còn thanh bình, và chỉ còn nhớ mài mại, đây là về một tay khủng bố không chịu ra tay khủng bố, chỉ vì có những đứa trẻ tại hiện trường.

Ui chao, lại nhớ đến tên khủng bố, VC nằm vùng DH, tà tà chạy Honda, tà tà thẩy bom vô trạm gác Ngụy, tà tà đi tiếp!
DH đã từng tuyên bố, do đọc Camus mà đi làm Cách Mạng!

Có vẻ như, trong khi vinh danh Vũ Hoàng Chương, TTT đã vinh danh Camus, như là một lời tạ lỗi:

Làm thơ. Làm thơ hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý, đẩy đưa đời người vào cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý ấy là chính chúng ta, cõi phi lý ấy chính là đời chúng ta. Như đêm nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ chẳng bao giờ giống một đêm nào ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay làm thơ như tận tụy với một mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng thì vẫn là cái “không thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi chi, biết không làm được mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng là tự nhiên của thơ và của việc làm thơ.
*
Nhưng, liệu có ai bị đẩy xuống tầu không nhỉ?

Ui chao, Gấu có một kỷ niệm thật là tuyệt vời về một kẻ bị đẩy xuống tầu, là, bà cụ thân sinh của Gấu, những ngày tù cải tạo tại nông trường Đổ Hoà, Cần Giờ, chiến khu Rừng Sát ngày nào.


Nhưng, liệu có ai bị đẩy xuống tầu không nhỉ?
Ui chao, Gấu có một kỷ niệm thật là tuyệt vời về một người bị đẩy xuống tầu, là bà cụ thân sinh của Gấu, những ngày tù cải tạo tại nông trường Đỗ Hoà, Cần Giờ, chiến khu Rừng Sát ngày nào.

Trại tù, đúng hơn, nông trường cải tạo Đỗ Hòa nằm ở giữa một vùng rừng tràm, như một cù lao giữa bạt ngàn sông rạch, vô phương trốn trại, ở phía bên kia con sông từ bến Sài Gòn đổ ra tới Vũng Tầu. Có một bến đò, ở bên này sông. Bà cụ Gấu mỗi lần đi thăm nuôi, là ra bến tầu Sài Gòn, lên con phà Cần Giờ, tới bến đò, xuống phà, ở đó có một cái ghe nhỏ, đưa thân nhân qua bên kia bờ sông.
Cho tới bây giờ, lâu lâu Gấu còn mơ thấy, cảnh bà cụ Gấu lóp ngóp bò vào cái ghe nhỏ, vượt con sông, nhiều lúc sông cũng chẳng hiền lành gì, đi thăm nuôi thằng con trời đánh không chết.

Thế rồi, bữa thăm nuôi lần đó, chẳng có con đò nhỏ nào hết! Tới khuya, Gấu nghe đám bảo vệ Trại bàn tán xôn xao, phà Cần Giờ bữa nay bị đám vượt biển cướp, lái mẹ ra tới Vũng Tầu, rồi ra biển lớn, thoát rồi!
Ui chao, Gấu nghĩ đến cảnh, biết đâu bữa đó, bà cụ Gấu có mặt trên chiếc phà đó, và, như vậy là cụ bị chúng cưỡng ép xuống thuyền, cưỡng ép vượt biển mất rồi.
Ở nơi xứ người, nửa chữ tiếng Anh không biết, làm sao cụ sống!
*

V/v ‘con sông chẳng hiền lành gì.’
Bất giác lại nhớ cái lần cũng đến gần 20 tên tù cải tạo như Gấu, thuộc một đội khác, buổi sáng sớm hôm đó, vượt sông, đi lao động ‘ngoài luồng’, nghĩa là, đi làm lén, cho những phi vụ lén, hoặc với một số gia đình thường dân cần lao động, hoặc với một cơ sở khác, tạo quỹ đen cho nông trường cải tạo Đỗ Hòa, GNV nghĩ, chắc vô túi mấy thằng cán bộ Trại; và ghe lật, chết tất cả.

Lạ, và thật khủng khiếp, mỗi lần nhớ, là Gấu nhớ luôn một điều, đó là một buổi sáng gần Tết, thời tiết rất lạnh.
Thế là cứ Tết đến, hoặc cứ mỗi lần lành lạnh, nhớ đến những ngày Đỗ Hoà, là, đôi khi, lại nhớ đến lần chết hụt đó.

Bởi vì, giả như đội của Gấu được trao phi vụ đó, nhỉ?