*





Jennider @ Paris 3.2011

*

Mon, March 14, 2011 11:11:35 AM

iPod Pic



Hang Son Doong


Thơ mỗi ngày

Gấu này đã từng thú nhận, không làm sao đọc được thơ, nói gì chuyện dịch thơ.
Thế mà sau này, dịch ào ào, điếc không sợ súng!
Tuy nhiên, bạn không thể nào không dịch thơ.
Chính vì chúng ta không dịch thơ, nên Thầy Cuốc, mỗi lần viết về thơ, đành phải lôi mấy bài ca dao ra đọc chơi! Còn mấy ông VC, thì lại lôi thơ Maia ra để xúi Mít đi vô chỗ chết.

Trong bài Kẻ Lạ Lạ Linda Lê viết:

Tôi xin kết luận những triển luận này về những người biệt xứ bằng việc trích dẫn Marina Tsvetaieva, nữ thi sĩ Nga có một số phận bi thảm, Tị nạn ở Pháp, ngày 6/7/1926, bà đã viết cho Rainer Maria Rilke: “Goethe đã nói ở đâu đó rằng người ta không thể thực hiện được cái gì lớn lao bằng tiếng nước ngoài – điều đó, bao giờ tôi cũng thấy có vẻ sai. […] Làm thơ đã là dịch rồi, từ tiếng mẹ đẻ sang một thứ tiếng khác, bất kể đó là tiếng Pháp hay tiếng Đức. Không một ngôn ngữ nào là tiếng mẹ đẻ….

DT dịch

Cái việc dịch thơ quả đúng như vậy, nó cũng là…  làm thơ.
Nhưng phải Borges, phán, mới thú. 

Nhận định "bản dịch trung thực hơn nguyên tác" của Borges, là do thuở nhỏ, ông học tiếng Anh trước khi có thể đọc được tiếng Tây Ban Nha. Ông sống trong cả hai ngôn ngữ: tiếng Anh là để nói chuyện với bố mẹ, tiếng Tây Ban Nha, trong cuộc sống thường nhật. Chính vì vậy, sau này, khi đọc Don Quixote bằng nguyên bản Tây Ban Nha, ông thấy đây là một bản dịch dở, so với bản tiếng Anh của thời thơ ấu. (When later I read Don Quixote in the original, it sounded like a bad translation to me). Và, "thừa thắng xông lên", ông bèn coi tác phẩm Don Quixote, của Cervantes, là một tác phẩm giả. Ông chứng minh, đồ "zin", là của một tác giả tên là Pierre Menard (do ông bịa ra). Ông được coi là một trong những người kể chuyện vĩ đại nhất của thế kỷ 20: một người viết những bài điểm sách, về những cuốn sách không hề có, của những tác giả "giả" (a man who wrote book reviews of nonexistent books by imaginary authors).

Nguồn

*

Don Quixote GNV @ Mexico

Quả thế thật! Pierre Menard, một nhà văn hiện đại “tái lập” Don Quixote, từng chữ, từng chữ y chang, nhưng đọc lại khác hẳn!

Rõ nhất là trường hợp câu thơ của Huy Cận, “củi 1 cành khô lạc giữa dòng”, bị anh thợ sắp chữ lắc đầu, thơ gì ngu quá, “lạc mấy dòng”, mới đúng, và Huy Cận, khi đọc bài thơ khi in ra, phải thú thực, bản của anh thợ in này, mới là bản đích thực!
* 

He [Menard] không muốn soạn [compose] một Quixote khác, another Quixore - nhưng mà là, Quixote, đích thị nó. “the Quixote itself”. Borges viết.

Dịch là nhắm cái chuyện bất khả, mission impossible, đó!
*

It is a revelation to compare Menard's Don Quixote with Cervantes'. The latter, for example, wrote (part one, chapter nine):
. . . truth, whose mother is history, rival of time, depository of deeds, witness of the past, exemplar and adviser to the present, and the future's counselor.
Written in the seventeenth century, written by the "lay genius" Cervantes, this enumeration is a mere rhetorical praise of history. Menard, on the other hand, writes:
. . . truth, whose mother is history, rival of time, depository of deeds, witness of the past, exemplar and adviser to the present, and the future's counselor.
History, the mother of truth: the idea is astounding.
Menard, a contemporary of William James, does not define history as an inquiry into reality but as its origin. Historical truth, for him, is not what has happened; it is what we judge to have happened. The final phrases -exemplar and adviser to the present, and the future's counselor-are brazenly pragmatic.
The contrast in style is also vivid. The archaic style of Menard-quite foreign, after all-suffers from a certain affectation. Not so that of his forerunner, who handles with ease the current Spanish of his time. 

Bản tiếng Anh của “Pierre, Author of the Quixote”, của Borges, người dịch: James E. Irby
Bản tiếng Tây, của P. Verdevoye:

Comparer le Don Quichote de Ménard à celui de Cervantès est une révélation. Celui-ci, par exemple, écrivit (Don Quichote, première partie, chapitre IX) :

... la vérité, dont la mère est l'histoire, émule du temps, dépôt des actions, témoin du passé, exemple et connaissance du présent, avertissement de l'avenir.

Rédigée au XVIIe siècle, rédigée par le « génie ignorant " Cervantès, cette énumération est un pur éloge rhétorique de l'histoire. Ménard écrit en revanche: ...

.. la vérité, dont la mère est l'histoire, émule du temps, dépôt des actions, témoin du passé, exemple et connaissance du présent, avertissement de l'avenir.

L'histoire, mère de la vérité; l'idée est stupéfiante.

Ménard, contemporain de William James, ne définit pas l'histoire comme une recherche de la réalité mais comme son origine. La vérité historique, pour lui, n’est pas ce qui s'est passé; c'est ce que nous pensons qui s'est passé. Les termes de la fin - exemple et connaissance du présent, avertissement de l'avenir - sont effrontément pragmatiques.
Le contraste entre les deux styles est également vif.  Le style archaïsant de Ménard - tout compte fait étranger - pèche par quelque affectation. Il n'en est pas de même pour son précurseur, qui manie avec aisance l'espagnol courant de son époque. 

Il n'y a pas d'exercice intellectuel qui ne soit finalement inutile….

Yêu từ cú nhìn đầu tiên

Note: Có hai bản dịch tiếng Anh, khác nhau,
từ hai cuốn thơ  khác nhau, của WS
Có ba bản dịch tiếng Việt khác nhau.
Bản của Gỗ Mùn, có vài từ, hơi bị lạ, chắc do phong thổ?

They're both convinced
that a sudden passion joined them.
Such certainty is beautiful,
but uncertainty is more beautiful still.

Cả hai người đều tin tưởng
rằng đam mê bất chợt đính kết họ với nhau
Niềm tin ấy tuyệt đẹp
nhưng sự bất tất cũng đẹp kém gì đâu

Goldmund

Sudden passion.
Muốn dịch từ này cho tới, là phải nghĩ đến cú "sudden death", trong môn chơi đá banh, khi hai đội tranh tài phải đá thêm hiệp phụ, và chỉ một cú đưa banh vô màng lưới đối phương, là cả một quốc gia cùng lăn ra chết, trong 1 trận đại chiến, thí dụ chung kết World Cup.
Hay cú giẫy đành đạch, rồi cứng người ngã xuống, và á khẩu, ú a ú ớ, của ông Thông trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua của Nguyễn Tuân, sau khi lụy một nước cờ!
Theo Gấu, nên dịch là "đam mê bất thần".
Gấu đoán Gỗ Mun chưa từng gặp cảnh này. Gặp là biết liền. Bởi vậy, Tây mũi lõ mới gọi là cú sét đánh.
"Sét đánh" mà hạ giá thành « đam mê bất chợt » thì nhảm quá!
Đam mê bất chợt thì làm sao “nám đen hết cả người, rồi chết đứng như Từ Hải” được?
Có 1 phim Nhật diễn tả cú này, không chỉ xẩy ra 1 lần, trong 1 đời, mà nhiều lần, trong nhiều đời, Gấu coi đúng cái lần chạy trốn quê hương, qua đất Thái, lên xe đò từ  U Đôn, biên giới Thái –Lào, đi suốt đêm tới sáng, tới  Bangkok; chủ xe đò cho chiếu phim DVD, đúng câu chuyện “Sudden Death”... Và GNV ngộ ra liền “ngôn sứ”: Mi qua đời thứ nhì rồi, nhớ lập lại cái xen chạy theo em BHD ở cổng trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn!

"Certainty" không phải là niềm tin.
Dịch như thế, sợ biến những cặp tình nhân thành con của Chúa, của Phật!
"Certainty" là chắc như bắp! Chính xác. Không thể chệch đi đâu được.
Bất tất, "uncertainty", Gấu chịu thua từ này!

  … nhưng sự bất tất cũng đẹp kém gì đâu: Sai ý câu của Szymborska. Nguyên tác có nghĩa, sự không chắc thì còn đẹp hơn nhiều.

The Turn of the Century
Wislawa Szymborska

It was supposed to be better than the rest, our twentieth century.
But it won't have time to prove it.
Its years are numbered,
its step unsteady,
its breath short. 

Already too much has happened
that was not supposed to happen,
and what was to come
has yet to come. 

Spring was to be on its way,
and happiness, among other things.
Fear was to leave the mountains and valleys.
The truth was supposed to finish before the lie. 

Certain misfortunes
were never to happen again
such as war and hunger and so forth.

The defenselessness of the defenseless
was going to be respected.
Same for trust and the like. 

Whoever wanted to enjoy the world
faces an impossible task.
Stupidity is not funny.
Wisdom is not cheerful. 

Hope
is no longer the same young girl
et cetera. Alas. 

God was at last to believe in man:
good and strong.
But good and strong
are still two different people.

How to live-someone asked me in a letter,
someone I had wanted
to ask the same thing. 

Again and as always,
and as seen above
there are no questions more urgent than the naive ones.

Bước ngoặt thế kỷ, đỉnh cao thời đại

Hình như bảnh nhất, lúc đó, [30 tháng Tư 1975]?
So với cái còn lại, thế kỷ 20 của chúng ta.
Nhưng than ôi, vì xẩy ra những cú tiếp theo sau 30 Tháng Tư,
nên chưa có thì giờ để kiểm chứng!

Bước ngoặt của thế kỷ?
Những năm tháng của nó, thì đều được tính đếm.
Những bước đi, sao lảo đảo như tên say rượu.
Hơi thở của nó, cụt ngủn, như của một kẻ đang hấp hối
Quả là có quá nhiều chuyện xẩy ra,
Đúng ra không nên xẩy ra
[Đánh tư sản mại bản, lùa dân Sgn đi kinh tế mới, sĩ quan Ngụy đi cải tạo 10 ngày…
và cả nước bỏ nước ra đi, cho đến giờ này, vưỡn đi]
Và cái sẽ xẩy ra thì chưa xẩy ra, và có lẽ chẳng bao giờ xẩy ra!
Mùa Xuân trên TP Hồ Chí Meng thì vẫn đương trên đường đi tới của nó,
và sẽ chẳng bao giờ tới!
Và cùng với nó, là hạnh phúc, trong nhiều chuyện khác nữa!
Sợ là phải rời bỏ nhà cửa, rừng núi, thung lũng
Vì chúng cho Tầu Phù đào lấy Bô Xịt [Bullshit]!
Sự thực phải nói mẹ ra hết, rồi tha hồ mà nói dối!
Một số bất hạnh của dân Mít
Đừng bao giờ xẩy ra nữa!
Thí dụ như Lò Cải Tạo, Cái Ác Bắc Kít, Chiến Tranh, Cái Đói Mít, vân vân…

Hà , hà!
Đúng là dịch nhảm quá!

Foreword by Czeslaw Milosz

One 

Poetry that speaks to the enduring and irreversible coordinates of human fate-love, striving, fear of pain, hope, the fleeting nature of things, and death-leads us to believe that the poet is one of us, and shares in that fate. "We," the subject of such poetry, is determined neither by nation nor by class. But it would not be quite right to claim that its theme is therefore an eternal human nature, for as our consciousness changes, we humans try to confront ultimate things in new and different ways. In Szymborska's poetry the "we" denotes all of us living on this planet now, joined by a common consciousness, a "post-consciousness," post-Copernican, post-Newtonian, post-Darwinian, post-two-World-Wars, post-and-inventions-of-the-twentieth-century. It is a serious and bold enterprise to venture a diagnosis, that is, to try to say who we are, what we believe in, and what we think.

Thơ ca, nói về những tọa độ hoài huỷ và không thể đảo ngược của phận người – tình yêu, phấn đấu, sợ đau, hy vọng, sự lừng lững cứ thế bỏ đi của bản chất của sự vật, và cái chết – và từ sự kiện như thế, khiến chúng ta tin rằng, thi sĩ là một kẻ trong chúng ta, và chia sẻ với chúng ta  phận người.
“Chúng ta”, đề tài của thứ thơ ca như thế, thì được xác định, không phải do quốc gia, hay do giai cấp. Nhưng, cũng thật đúng, khi cho rằng, những đề tài của nó, là về bản chất muôn đời của con người. Bởi vì, khi ý thức của chúng ta thay đổi, thì chúng ta, như là con người, sẽ cố gắng đối đầu với sự vật, theo những cung cách mới, khác biệt. Trong thơ của Szymborska, “chúng ta”, là tất cả những người sống trên trái đất, kết hợp với nhau bằng 1 thứ ý thức chung, [và nó có tên là], hậu-ý thức, hậu-Copernic, hậu-Newton,hậu-Darwin, hậu-hai-Thế Chiến, hậu-và-những phát kiến-của-thế kỷ 20. Đúng là 1 công trình nghiêm trọng, và táo bạo, khi dám mở ra 1 cuộc điều tra, mổ xẻ, về, chúng ta là ai, chúng ta tin vào cái gì, và chúng ta nghĩ về cái gì.

PRISON GUARDS SILHOUETTED
AGAINST THE SKY

I never gave them a thought. Years had gone by.
Many years. I had plenty of other things
To worry about. Today I was in the dentist's chair
When his new assistant walked in
Pretending not to recognize me in the slightest
As I opened my mouth most obediently.

We were necking in some bushes by the riverbank,
And I wanted her to slip off her bra.
The sky was darkening, there was thunder
When she finally did, so that the first large
Raindrop wet one of her brown nipples.

That was nicer than what she did to my mouth now,
While I winced, while I waited for a wink,

A burst of laughter at the memory of the two of us
Buttoning ourselves, running drenched


Past the state prison with its armed guards
Silhouetted in their towers against the sky.

Charles Simic: The Voice at 3.AM


*

Li-Young Lee

WHEN LI- YOUNG LEE visited Pearl London's class in March 1995, he was thirty-seven years old and had written two books of poems. His visit coincided with the release of a third book, his prose-poem memoir, The Winged Seed: A Remembrance. In lush language, the book unfolds Lee's extraordinary biography: his father was for a time Mao's personal physician, but on the establishment of the People's Republic his parents fled to Indonesia, where Lee was born in Jakarta in 1957. The following year, with Indonesia becoming increasingly anti-Chinese under President Sukarno, Lee's father was arrested and imprisoned for nineteen months. After his release the family traveled in exile for five years, moving from Hong Kong to Macao to Japan before arriving in the United States. Lee's father then attended seminary in Pittsburgh and settled the family in the small town of Vandergrift, Pennsylvania, where he became minister of a Presbyterian church.

The themes of memory, father, language, God, selflessness, and humility that animate Lee's memoir play out as well in his first book, Rose (1986) and even more deeply in The City in Which I Love You (1991), honored as best second volume of poems by the Academy of American Poets. In London's copy of this second volume, one line in "The Cleaving" is marked with especially urgent asterisks and underscoring: "What is it in me would / devour the world to utter it?" In their conversation London asked Lee about that line, and Lee's response illuminates his impulse toward the visionary: “As I was writing the poem," he answers, "I wanted to write from a place of unknowing, not from knowledge .... My wish was that the poem would move toward a kind of ecstatic utterance."

Lee, who studied biochemistry before shifting to poetry in his senior year at the University of Pittsburgh, now lives in Chicago with his wife and two children. Over the years he has worked in warehouses and as a karate teacher, and he has taught poetry at Stanford University and the University of Iowa. Since his visit to London's class he has written two additional volumes of poetry, Book of My Nights (200I), which won the William Carlos Williams Award, and Behind My Eyes (2008).
*
 

LEE: I feel a poetic truth is closer than any truth that we can approach. The closer something is to poetry, the closer it is to reality. Let's just take the lyric poem as an example-the manifold quality of a lyric poem, the instantaneousness of a lyric poem, the feeling that many consciousnesses are simultaneously being enacted-that is closer to reality. The lyric moment is reality. But we don't always live in that reality. The lyric moment is closer to the truth, to me, than a narrative which is a fictive process.
My hope when I was writing this book was that I could proceed by a deeper compass than narrative fictive logic. I don't think I escape narrative in this book, but I wish I could. 

Note: Câu trả lời trên chứa chất trong nó tham vọng viết văn của GNV:
Văn phải được chuyên chở bằng thơ. Gấu này không thể chịu nổi văn Bắc Kít, câu cụt thun lủn, chưa viết đã hăm he lên lớp, hăm he giải thích, hăm he chính luận.
Không tin, đọc SCN là thấy liền!

Gấu nhớ là, khi viết xong câu văn dưới đây, trong truyện ngắn đầu tay, Những Ngày Ở Sài Gòn, Gấu sướng mê tơi, lấy xe chạy rong suốt 1 cõi Sài Gòn, ta sẽ là nhà văn, ta sẽ viết 1 cuốn tiểu thuyết nối liền hai thành phố….

Ui chao, sao mà rồ dại một cách tuyệt vời như thế cơ chứ!

Niên học cuối cùng của Lan Hương ở bậc trung học bắt đầu bằng những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội, tôi thức giấc sớm, thân thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một buổi sáng nào đó trong Hà Nội, tưởng như chiến tranh đã hết.

Cuối cùng/bắt đầu/ xô đẩy/… câu văn chạy tới đâu, tình yêu BHD rạt rào tới đó!


Ghi chú trong ngày

Phạm Công Thiện qua đời, thọ 71 tuổi

Nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng, dịch giả, giáo sư, cư sĩ Phật giáo Phạm Công Thiện vừa qua đời ngày 8 tháng 3 năm 2011 tại Houston,
Texas, thọ 71 tuổi, theo Cáo bạch ngày 9 tháng 3, 2011 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ cũng như sự xác nhận của gia đình.

Note: Trước khi PCT mất ít ngày, tình cờ TV đi một đường về ông, và nhân tiện, về Heny Miller

*

Mặt trời không bao giờ có thực và ký ức Sài Gòn

*

Vào cái thời Sài Gòn mê PCT, thì may thay Gấu đã đi làm, đã viết lách tí ti, đã có một, hai truyện ngắn thật hách xì xằng, đã hay ngồi Quán Chùa, và khiến PCT phát bực, và đã có lần phạng Gấu và đồng bọn, cái đám, tay cầm hoặc nách cặp, 1 cuốn sách loại Sách Bỏ Túi, Livre de Poche, hay 1 tờ Tin Nhanh, L’Express, lắc la lắc lư đi từ tiệm sách Xuân Thu trên đường Tự Do, qua La Pagode, ngay kế bên.

Nhưng liền ngay sau, ông viết, tớ chửi tụi nó, cũng là chửi tớ.

Tất nhiên, những dòng trên, là của Gấu, để diễn tả 1 hồi ức về ông và những ngày ở Sài Gòn.
Thú vị nhất, theo Gấu, là có lần Gấu đọc ông, chê Simone Weil, ngắn thôi, và Gấu bèn vờ bà này, cho đến khi ra được hải ngoại, đọc 1 bài viết của Steiner, và sau đó, trúng cái rìu phá băng của bà bổ trúng đầu, đúng những ngày Trần Trường, và hơn thế nữa, được biết tới 1 độc giả, cũng rất rành về Simone Weil.
Giả như những ngày đó, không đọc những dòng mà PCT viết về SM thì sao, nhỉ?

TV sẽ giới thiệu bài viết trên NYRB về Henry Miller. Cũng là 1 cách tưởng nhớ 1 thời, trong đó có PCT, mà GNV này chẳng nợ nần gì!

Hà, hà !

Ngày sinh của Rắn

Trường giang Mỹ Tho
Source

V/v  GNV vs PCT

Một bạn văn của GNV cho biết, vụ PCT phạng Gấu, không nhắc tên bất cứ 1 ai, có thể là cả nhóm ‘tiểu thuyết mới’, và cái người cầm tờ báo, lắc la lắc lư, nhún nhẩy, từ bên Xuân Thu qua Quán Chùa, theo anh ta, là 1 bạn quí của GNV, đúng hơn!

Anh bạn văn này, ít tuổi hơn Gấu, đã từng là học trò của PCT, khi ông dạy học trên Đà Lạt.

Anh nhắc GNV vụ nhà thơ NS phạng PCT, chẳng có tí bằng cấp. Gấu cũng nhớ vụ này. Sau vài số báo, PCT có trả lời, và có trưng 1 số bằng cấp ông có, nhưng ông hỏi NS một câu khá đau, trong khi cuộc chiến đang trên từng cây số, không lẽ thi sĩ mà lại lo làm chuyện của cớm ư? [ý thì như vậy, nhưng cách nói nhẹ nhàng hơn nhiều].

NS sau đó, chọn sự « im lặng của biển cả » [cái này thuổng, silence de la mer].

Cái sự kiện PCT, nổi cộm vì những tác phẩm hố thẳm, ý thức mới…. , khiến người ta quên ông là nhà thơ, nhà văn.
« Mặt trời không bao giờ có thực » rất tuyệt, với riêng Gấu.

Ông chẳng khùng điên tí nào khi viết, thứ thiệt, của ông.  

Cái vụ khùng, điên của cả ba ông PCT, BG, NDS, theo GNV, là do thiếu 1 ngày lính mà ra.
Bạn ra khỏi cuộc chiến đó, bằng cách trốn nó, thể nào cũng bị tổn thương nặng nề hơn những kẻ khác. (1)

Chứng cớ, với riêng PCT: Không phải tự nhiên mà PCT nhắc đến cuộc chiến, khi trả lời NS!

Sau khi “ngộ” Simone Weil, đúng lúc xẩy ra biến cố Trần Trường, như kể lại trong bài viết đã post trên TV, nhớ lại PCT đã từng chê SW, Gấu nghĩ, có thể ông không đọc được bà.
Tuy nhiên, khi ông mất đi, Gấu, đọc tiểu sử của ông, mới biết, PCT thuộc gia đình Thiên Chúa Giáo.
Như vậy, thật khó có thể nghĩ PCT không đọc được, mà phải nói, “không chịu được” SW.

Chứng cớ: Ông bỏ Ky Tô Giáo, qui y Đạo Phật, và trở thành 1 vị chức sắc có hạng.
Nên nhớ, lại nên nhớ, SW đã từng coi cái ngày quân đội Nazi tiến vào Paris, là Ngày Hội Lớn của Đông Dương, của những dân tộc bị Tây mũi lõ cai trị!

(1)

Borges, trong bài viết về Ác Mộng, trích dẫn Coleridge: Những kẻ quá khiếp sợ vì những ma quỉ do mình tưởng tượng ra, thì thể nào cũng biến thành khùng!

*

Cú này, là TPG [Thư Trung, Tin Văn Vắn, báo Văn] đáp lễ NS, vì loạt bài Một bông hồng cho văn nghệ.
Sự thực loạt bài của NS đập tên sa đích văn nghệ, là GNV, nhưng cũng đá giò lái TPG, thư ký tòa soạn Văn, vì dám trả lời NS, qua bài viết ngắn Bông hồng hay bông cứt lợn?


TCS_2011

Borges, trong bài viết "Những tiền thân của Kafka", có nhắc tới những con người, ôm trong mình đủ hết những giấc mộng hải hồ, chứa trong nhà, đủ hết bản đồ những xứ sở, những thành phố, những con ga, những ngoại ô đèn vàng… vậy mà chưa bao giờ dám rời thành phố, hay quá nữa, con phố của mình.

Tôi nghĩ TCS khi viết "Em còn nhớ hay em đã quên", là ở trong tâm trạng đó: ông giữ giùm Sài Gòn cho tất cả mọi người đã từng ở đó, và vì một lý do gì đó, phải đành đoạn bỏ đi.

Gấu này, lần đầu nghe, chợt thấy mình là tác giả bài ca, và người ra đi kia, là BHD.
Thực sự là như vậy.
[Mi đừng đem ta ra làm trò cười!]

Em còn nhớ hay em đã quên ?
Nhớ đường dài qua cầu lại nối
Nhớ những con kênh nối hai giòng sông
Nhớ ngựa thồ ngoại ô xa vắng
Nỗi xôn xao hàng quán đêm đêm

Ui chao, bạn đọc, bạn nghe, rồi bạn đọc bài thơ sau đây, thì cái nỗi nhớ Sài Gòn mới tràn đầy.

Phố dài như nỗi đợi
Như giấc mơ chẳng hề tận cùng

LONG STREET 

Thankless street-little dry goods stores
like sentries in Napoleon's frozen army;
country people peer into shop windows and their reflections
gaze back at dusty cars;
Long Street trudging slowly to the suburbs,
while the suburbs press toward the center.
Lumbering trams groove the street,
scentless perfume shops furrow it,
and after rainstorms mud instead of manna;
a street of dwarves and giants, creaking bikes,
a street of small towns clustered
in one room, napping after lunch,
heads dropped on a soiled tablecloth,
and clerics tangled in long cassocks;
unsightly street-coal rises here in fall,
and in August the boredom of white heat. 

This is where you spent your first years
in the proud Renaissance town,
you dashed to lectures and military drills
in an outsized overcoat-
and now you wonder, can
you return to the rapture
of those years, can you still
know so little and want so much,
and wait, and go to sleep so swiftly,
and wake adroitly
so as not to startle your last dream
despite the December dawn's darkness.

Street long as patience.
Street long as flight from a fire,
as a dream that never
ends.

Adam Zagajieski: Eternal Enemies

*

Đám tang Pasternak

TCS vs LS

Khi TCS mất, cả thành phố Sài Gòn ngày nào là hang ổ của Mỹ Ngụy để tang ông. Hãy nhìn lại rừng người đưa tiễn ông tới nơi an nghỉ cuối cùng, là đủ hiểu.

Viết về ông, một lần, Gấu này đã viện tới Elias Canetti, nhà văn Đức, Nobel văn chương, khi ông mừng sinh nhật lần thứ năm mươi nhà văn Herman Broch:

Đừng sợ nữa. Bạn sợ như vậy là đã quá đủ cho đám tụi mình rồi. Tất cả chúng mình đều phải chết. Nhưng bạn chưa chắc đã phải chết. Có lẽ những bản rất tình ca của bạn, là cái phải đại diện cho cả lũ chúng mình với hậu thế. Bạn đã phục vụ chúng tớ bằng tình bạn trung thành và chân thực. Thời của lũ chúng ta chắc là chưa buông tha cho bạn đâu.

[Nguyên văn tiếng Đức, bản dịch tiếng Anh của Joachim Neugroschel, trong Lương Tâm Của Chữ, The Conscience of Words : Don' t be afraid, you have been afraid enough for us. We have all to die; but it is still not certain whether you too have to die. Perhaps your very words are what must represent us to posterity. You have served us with loyalty and honesty. The age will not release you].

Ui chao, đúng là tiên tri!
Lịch sử ]Mít] quả đếch chịu tha cho TCS.

Nhân 10 năm kỷ niệm ông chuồn, chúng xúm nhau làm thịt ông, cái thây ma chắc cũng chẳng còn, cái linh hồn, chắc cũng đã đầu thai, hay vẫn còn phải nằm trong Lò Luyện Ngục, theo quan niệm của Tây Mũi Lõ, bất cứ thằng cha nào, khi còn sống, quậy quá, tốt xấu đếch cần biết, là phải vô Lò Luyện Ngục chừng 20 niên, để sám hối!

Cũng trong bài viết Ác Mộng, Nightmares, Borges cho rằng Địa Ngục, Hell, không phải là ác mộng, mà giản dị chỉ là một phòng tra tấn, a torture chamber. Những điều ghê rợn, atrocious things, xẩy ra ở đó, nhưng nó không có không khí của một ác mộng, như là ở  "Bắc Bộ Phủ" [‘lâu đài  phong nhã, “noble castle”, chữ của Borges, ông để trong ngoặc].
Theo ông, đây là điều mà Dante đem đến cho chúng ta, có lẽ, lần đầu tiên, trong văn chương.

*

Il faut savoir voir Lisbonne pendant le temps exact d'un sanglot. La voir tout entière, par exemple, dans la première lumière du matin. Ou la voir complètement dans le dernier reflet du soleil sur la Rua da Prata. Puis pleurer. Parce que, même si c'est la première fois qu'on la voir, on a l'impression d'y avoir déjà vécu toutes sortes d'amours tronquées, d'illusions perdues et de suicides exemplaires.
Vous marchez pour la première fois dans les rues de Lisbonne et vous avez à chaque coin le vague souvenir d'y être déjà passé. Quand ? Vous ne savez pas. Mais vous êtes déjà venu ici avant d'y aller pour la première fois.

le quartier littéraire de Lisbonne 

Ôi chao giá như viết nổi như dòng như trên đây. Về Sài Gòn
Phải nhìn Sài gòn vào đúng thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà nức nở. Mà nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu, bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết những cuộc tình thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó mới đến Sài Gòn, lần đầu.

Góc văn của Lisbonne


«Mais suis-je celui qui vit ici, / qui est retourné ici / qui y est retourné, retourné / et qui y retourne encore?», se demandait l'employé de bureau Bernardo Soares qui, comme M. Pessoa, ne quittait jamais Lisbonne et donc n'y retournait jamais...
Nhưng tôi là ai, phải chăng là kẻ sống ở đây, ở Sài Gòn/ Kẻ trở về đây/ Trở về, trở về/ Và còn trở về?
Tôi là kẻ chẳng bao giờ rời Sài Gòn, như tay nhạc sĩ họ Trịnh kia, nên chẳng bao giờ trở về.
J'y étais déjà venu avant d'y être jamais allé.
Tôi là kẻ đã từng tới Sài Gòn, trước khi chưa từng tới đó.
*
Góc văn của Sài Gòn, như của Lisbonne, là Quán Chùa.
Cũng có con đường Tự Do, thay vì Rua da Prata, nhưng, bởi vì thiếu một góc biển của Lisbonne, cho nên cuối đường là bến tầu, với lòng mình phơi trên kè đá, với những ống khói tầu mệt lả, và ném mẩu thuốc cuối cùng xuống lòng sông, là ném cả hy vọng, cùng cuộc đời trôi theo, cùng muôn trùng những chuyến vượt biển, theo ngón tay trỏ của pho tượng Đức Thánh Trần.
*
Ôi chao, nhớ ơi là nhớ, góc quán, góc bàn, những cây me bên ngoài, khúc đường này là cuối con đường Gia Long, đầu kia, là Ngã Sáu Sài Gòn....
*
...vivre à Lisbonne comme s'il était une allumette froide tandis que les maisons de ceux qui l'avaient aimé tremblaient à travers ses larmes:
Sống ở Lisbonne như thể nó là một cây diêm lạnh giá, trong khi những căn nhà của những con người yêu thương nó run rẩy qua những dòng nước mắt.
Ôi chao đúng cái cảnh Gấu chạy theo em mà nước mưa, nước mắt, nước mũi chảy ràn rụa.
Parce que, même si c'est la première fois qu'on la voir, on a l'impression d'y avoir déjà vécu toutes sortes d'amours tronquées, d'illusions perdues et de suicides exemplaires.
Bởi là vì, ngay cả khi, lần đầu tiên bạn nhìn thấy Sài Gòn, bạn có cảm tưởng đã sống, ở trong đó, tất cả những cuộc tình cụt ngủn, những ảo tưởng mất đi, và những cú tự làm thịt mình đáng làm gương cho hậu thế.

Số là "cô bạn" của tôi thì ở mãi bên Chợ Lớn. Tôi thường là chọn ca trực đêm, để dễ bề nói dối bà xã. Khi bớt việc, trao Đài cho một nhân viên phụ, thế là "chàng", trong túi thủ thẻ nhà báo quân đội, giấy chứng nhận hợp lệ tình trạng quân dịch, người và xe cứ thế phóng thẳng một mạch qua Chợ Lớn, ngồi cho tới khuya, ỷ y nếu có quá giờ giới nghiêm, đã có lá bùa hộ mạng, chứng nhận đây là phóng viên tiền tuyến của báo quân đội, đang đi công tác!
Ôi, làm sao quên được cảm giác, khi về, vắng tanh, phóng xe như điên trên đường phố Sài Gòn, mà hồn của mình thì vẫn luẩn quẩn ở một con hẻm ở đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn, nơi có căn nhà, có "giàn thiên lý, có người tôi thương"!...
Nguồn 

Con phố dài ở đây, là đường Hồng Thập Tự. “Đài” của Gấu, số 5 Phan Đình Phùng, tầng trên cùng. Gấu hạ san, băng con hẻm, qua đường HTT, rồi quẹo phải và cứ thế phóng một mạch.
Khuya, khi về mới thật tuyệt, ấy là vì hệ thống đèn ngã tư được “cài đặt” theo chế độ đồng bộ: bạn đi đúng vận tốc được chỉ định, là không hề bị 1 cái đèn đỏ nào hết, cứ tới ngã tư là đèn tự động bật qua xanh, như chờ sẵn bạn!

Mùa Xuân trên thành phố HCM quang vinh!
[Will spring never come, will spring never come?]


… cái tay đọc lời bi ai [elegy] tới nhất, về TCS là tay Le Huu Khoa, khi lọc ra chỉ một lời nhạc của TCS:

Chim thiêng hót lời mệnh bạc.

Đúng là cả cuộc đời của TCS gói ghém ở trong câu này.

L'oiseau sacré chante le destin tragique

Connu avec Pham Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam actuel, Trinh Cong Son se veut avant tout poète et chante « les rêves en ruines de ses êtres ». Son œuvre raconte l'exil collectif de son peuple mais aussi l'éphémère de l'amour et de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa méditation sur la souffrance, ses textes construits autour d'un lieu de fractures né du passage des guerres offrent un fond de réinterprétations extrêmement riches du bouddhisme, du taoïsme. L'évidence esthétique du texte fait corps avec l'inexistence de l'être.
Được biết đến cùng với Phạm Duy như là một trong hai nhà soạn nhạc lớn lao nhất của Việt Nam hiện nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước hết, như là một nhà thơ và hát "những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông kể cuộc lưu vong tập thể của dân tộc ông, và về sự phù du của tình yêu và cái đẹp. Từng bước, Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của mình về sự khổ đau, những bài ca của ông xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy đi cầy lại, và chúng tạo nên một cái nền của những tái diễn giải cực kỳ giầu có, tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài ca làm bật ra nỗi vô thường của kiếp người.
Le Huu Khoa: Mảng lưu vong [La Part d'Exil]

Tuyệt!

Un jour se noyer et flotter

Ah ! la lune en haut
Assis je suis en bas
La course de l'eau la limpidité
Mon âme l’eau trouble
Les hérons s'envolent crient le calme absolu
Les chemins de la vie proches
Mais les pas ralentissent de fatigue
Ah ! la lune en haut
Assis je suis en bas
Les chemins tordus
La lumière soudaine
Depuis l'oiseau sacré chante le destin tragique
Chaque goutte de l'infini
Se noie disparaît sans appel de retour

Traduit par Le Huu Khoa
Le Huu Khoa: Mảng lưu vong [La Part d'Exil] 

Lời Việt:

Cũng sẽ chìm trôi

Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một dòng í-a trong veo, sao lòng ối-a còn đục
Bầy vạc í-a bay qua, kêu mòn ối-a tịch lặng
Đường đời í-a không xa, sao chồn ôi-à gối chân
Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một đường í-a cong queo, nắng vàng ối-a đột ngột
Từ độ í-a chim thiêng, hót lời ối-a mệnh bạc
Từng giọt í-a vô biên, trôi chìm ôi-à tiếng tăm
*
Note: Tks K. Gấu

Ui chao, cái đám theo đóm ăn tàn, viết hết cuốn sách dầy cộm này tới cuốn khác về TCS, liệu có viết được, chỉ một mẩu, như trên?

Nỗi buồn nhạc Trịnh, hay là âm điệu tủi thân và mất nước:

Huzun

Nỗi buồn thỉu buồn thiu mà Lévi-Strauss miêu tả là điều mà một người Tây Phương cảm thấy, khi ông làm một cuộc nghiên cứu những thành phố rộng lớn bị cái nghèo đói hành hạ của vùng nhiệt đới, khi ông nhìn ngắm những mớ người hỗn độn và cuộc sống ngổn ngang của họ. Nhưng ông không nhìn thành phố qua con mắt của họ. Tristesse có trong nó, một con người Tây Phương, cảm thấy tội lỗi đầy mình và cố xoa dịu nỗi đau, mặc cảm tội lỗi của một tên thực dân, bằng cách từ chối không chấp nhận những bản kẽm, những định kiến, hòng tô son điểm phấn lên những cảm tưởng của mình. Huzun, về mặt khác, không phải là một tình cảm thuộc về một người quan sát đứng ở bên ngoài, không nhập cuộc. Tùy mức độ gia giảm, âm nhạc cổ điển Ottoman, âm nhạc bình dân Thổ nhĩ kỳ, đặc biệt nhạc abaresque vốn trở thành bình dân trong thập niên 1980, tất cả đều diễn tả cùng một xúc động, mà chúng ta cảm thấy, giữa đau đớn thân thể, và nỗi sầu miên man. Và những người Tây Phương tới thành phố đã thất bại không nhận ra điều này. Ngay cả Gérard de Nerval (mà sự buồn bã riêng tư của chính ông đã khiến ông tự tử), đã nói đến chuyện, ông hoàn toàn lột xác, hoàn toàn mới mẻ, tươi rói, nhờ những mầu sắc, cuộc sống đường phố, sự hung bạo, và những lễ nghi của Istanbul. Ông ghi nhận, đã nghe tiếng đàn bà cười lớn trong những nghĩa địa của Istanbul. Có thể ông tới Istanbul trước khi thành phố đi vào cơn tưởng niệm, hồi nhớ, nghĩa là khi đế quốc Ottoman còn oanh liệt hiển hách, hay có thể bởi vì chính ông ta đang cần trốn thoát nỗi buồn của mình, những điều này đã gợi hứng cho ông trang điểm rất nhiều trang trong Du ngoạn tới Đông phuơng, với những màn quái dị sáng ngời của Đông Phương.
*
Ông ghi nhận, đã nghe tiếng đàn bà cười lớn trong những nghĩa địa của Istanbul:
Ui chao, liệu đây cũng là tâm trạng Gấu khi nghe Tình Nhớ, đứng trước một cái giường sắt lạnh lẽo, tại Trung Tâm Ba tuyển mộ nhập ngũ Quang Trung, vào một ngày cận Tết, ngay sau Mậu Thân, và tự hỏi, liệu thằng em trai tử trận đã từng có lần nằm trên chiếc giường này…?
Tình Nhớ thì có liên quan gì tới phản chiến?
DT
Và những người Tây Phương tới thành phố đã thất bại không nhận ra điều này.
Ui chao, liệu đám Yankee mũi tẹt cũng đã thất bại, và không nghe ra "nhạc Trịnh"?
*

Note: V/v Trịnh Cung vs Trịnh Công Sơn.

Gấu không nghĩ, TCS ghiền rượu là do thói ưa xu nịnh, sau 1975, nhưng mà là do, sau khi hát... Nối Vòng Tay Lớn ở trên Đài Phát Thanh Sài Gòn.
Đây là thời điểm đỉnh cao chói lọi của nhà thơ, nhà nhạc sĩ, nhà hát rong. Ông nghĩ, Giấc Đại Mộng của dân Mít đã trở thành hiện thực. Sau đó, ông ngẫm ra, mình bị lừa, ông như Nàng Kiều bị Hồ Tôn Hiến Víp Va Ka lừa. Ông ghiền rượu là vì như vậy: Vì đã lầm Kẻ Đại Ác mà khuyên Từ Hải Miền Nam đầu hàng Bắc Bộ Phủ! (1)
(1) Một độc giả Tin Văn, vặc Gấu, tại sao lại gọi Víp Va Ka là Hồ Tôn Hiến?
Hồ Tôn Hiến là ai, thì mọi người đều rõ. Ông này được lệnh Bắc Bộ Phủ chiêu hàng giặc Ngụy ở tít Miền Nam, và bèn chơi cái đòn "tiếng địch Ô giang", [cùng lúc với đòn PXA], nghĩa là bằng những bài ca phản chiến của nàng Kiều họ Trịnh.
Thành công rồi, những lúc rảnh việc triều đình, ông nhậu nhẹt lai rai, và cho vời nàng Kiều đến gẩy đàn, ban cho vài ly, vì biết nàng Kiều ghiền rượu, sau khi bị ông Víp… lừa!
Cái vụ này Gấu biết qua một nhà thơ. Ông này là bạn của họ Trịnh, chắc có lần cũng đã được họ Trịnh kéo đi uống ké. Nhưng lần sau, kêu đi uống ké tiếp, nhà thơ lắc đầu, than, nhìn cái cảnh mày gân cái cổ gầy lên mà hát, để lấy ly rượu sao thảm quá, tao đếch có đi, vì quá thương mày!
Sáu Dân


Gọi Người Đã Chết


Văn Chương Ai Điếu


Mémoirs

**

@ KT's

**

*

Đây là cái note của KT, kèm cuốn sách của anh. Sau đó, là chuyến đi Tây đầu tiên, cũng thời gian đó, bạn quí HPA đang ở Tây.

Có 1 kỳ niệm thật tếu, là, khi đến phi trường chẳng làm sao nhận ra KT, thế rồi có một bà tiến tới gần, hỏi, có phải Gấu Đực & Gấu Cái đó không.
Bà xã KT.
Bà nói, tôi đã nói với ông KT, là khó nhận ra nhau lắm, vì anh ở Canada qua, xa nhau bao nhiêu năm, dễ gì nhận ra nhau. Bà nói thêm:
Nhưng khi HPA qua, thì nhận ra ngay.
GNV ngạc nhiên quá, hỏi, tại sao. Bà trả lời, cứ thấy ai gầy nhom, trông như đang đói ăn, là biết liền.

Ui chao, đám Việt Minh, khi về Hà Nội, thời kỳ đánh Tây, bị bắt, đúng là do cực khổ quá mà ra.
Anh nào cũng ốm nhom, xanh lét, và nhất là, đều thèm phở.
Thế là đám mật thám Tây chờ sẵn ở mấy tiệm phở, tóm thằng nào là y chang vừa ở rừng về!