*


Về Nhà 2010

*

Looking For Laos
Tìm Xứ Lào


Blog Đoàn Nhã Văn
Chúc mừng.
Trân trọng giới thiệu.

Tin Văn/NQT


đâu phải một thứ mưa ô-buy vào thành phố

Chúng ta có ít trang sách quá về Hà Nội.
Nguyễn Tuân phán, nhân đọc Nguyễn Huy Tưởng.

Trong nước đang ì xèo về Hà Nội.
Anh 'đầu bạc' lôi cả Nguyễn Huy Tưởng ra mà nức nở, nhưng đúng ra, 'cỡ' như anh, phải nhắc tới 1 người viết bảnh nhất về Hà Nội.
Bảnh nhất, theo cả nghĩa hiện đại nhất, đương thời nhất, nghĩa là trong cái nghĩa 'đi hay ở đều là chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa, hoặc cái chết.'
Thanh Tâm Tuyền.
Và tất nhiên, thơ nhất:
Cả hai tập thơ Tôi không còn cô độc, và Liên Đêm, là về Hà Nội. Về Liên

Sau ông anh, tới thằng em. Là GNV.
Gấu nhớ Hà Nội.
Còn TTT không thể quên Hà Nội.
Có khác.

Anh Môn

Hà Nội là cái quái gì!
Tôi còn Mai Thảo yêu vỡ Hà Nội khi về
Thanh Tâm Tuyền 

Le Grand Maulnes (1913), Mặc Đỗ dịch tiếng Việt với nhan đề như trên, là “bản gốc”, cho nhiều tác phẩm, cũng nổi tiếng chẳng kém. Frédéric Beigbeder, tác giả cuốn Bảng Phong Thần Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu nhà văn nổi tiếng Mẽo, Scott Fitzgerald đã từng đọc Anh Môn, trước khi viết Gatsby? “Bạn nào biết, làm ơn viết thư cho tôi hay liền, bởi vì những tương tự giữa hai cuốn làm phiền tôi lắm lắm…”.
Nhưng đâu chỉ Anh Môn, mà tác giả, Alain-Fournier (1886-1914), cũng là bản gốc cho nhiều tác giả - nổi tiếng, lẽ tất nhiên - thí dụ như Fowles, nhà văn Hồng Mao có cả một câu lạc bộ riêng, gồm những độc giả mê ông. Với ông này, Anh Môn có tên là Miền Đã Mất, The Lost Domaine, như một tiểu luận của ông, mở ra bằng một câu trong một lá thư vào năm 1911 của Alain-Fournier:
 "Tôi mê điều huyền diệu chỉ khi nó bị thực tại ôm chặt không sao rứt ra nổi, chứ không phải cái thứ huyền diệu làm thực tại bực mình, hoặc tính chơi cha nó”.
[I like the marvelous only when it is strictly enveloped in reality, not when it usepts or exceeds it].

Fowles viết: Tôi ngờ rằng, Miền Đã Mất (Anh Môn) là một cuốn sách hiếm, lạ, mà một độc giả sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều, nếu chỉ đọc, mà chẳng bao giờ tìm hiểu nó.

Đúng là ao ước về một độc giả lý tưởng, người yêu lý tưởng: Hãy chiêm ngưỡng, nhưng nhớ đừng tra hỏi. Như thể họ sợ rằng, “sờ” vào đó, hoặc quá nữa, mở nó ra, là một việc làm báng bổ, phạm thánh! Một cuốn sách như thế, một nhan sắc như thế, là để thờ phụng chứ không phải để sàm sỡ!

Tuy nhiên, Fowles nói, nếu độc giả Anh ngữ, muốn tìm hiểu, có thể đọc cuốn  “Anh Môn” của Robert Gibson, trong loại sách hướng dẫn đọc những bản văn tiếng Pháp, của nhà xb Grant and Cutler, London, 1986. 

Le Dur Désir De Durer: Ao ước cươnng cường trường thọ

Frédéric Beigbeder truy tìm nguồn gốc từ ao ước: Désir. “Dé”, là từ tiếp đầu ngữ “de”, “de” là từ tiếng Latinh “siderere”: ngôi sao. Như vậy ao uớc có nghĩa là ao ước một ngôi sao đã mất, một ngôi sao mà người ta chạy theo năn nỉ, “chờ tôi với”, nhưng chẳng bao giờ bắt kịp. Và đây chính là thông điệp của cuốn Anh Môn: Tôi không phải một cuốn sách. Tôi là một giấc mộng.

Như tác giả của nó, đã viết cho bạn mình, là Jacques Rivière, vào năm 1910: “Je cherche l’amour” [Tôi tìm tình yêu].

Ở miền nam, Anh Môn có một vị trí giống như Hoàng Tử Nhỏ của Xanh Tếch [Saint-Exupéry]. Ông bạn của Gấu tôi, thi sĩ Joseph Huỳnh Văn mê cuốn này lắm. Nhưng cái ngôi sao thất lạc mà anh chẳng bao giờ bắt gặp, lạ một điều, lại chính là…. Hà Nội! Người tình mà bạn tôi tìm kiếm, là Hà Nội, theo như tôi hiểu được, qua lời kể của bà xã của anh, Chị Văn, qua một lần trò chuyện viễn liên, sau khi Gấu tôi được tin anh mất, và xin được số điện thoại của gia đình. Gia đình không còn ở con hẻm đường Trương Minh Giảng, gần cổng xe lửa số 6 nữa, mà rời về Phú Nhuận. Cô con gái lớn đã lập gia đình, và hiện đang ở Mỹ.

Chị cho biết, thời gian trước khi mất, anh Hiến [Joseph Huỳnh Văn] vui lắm, chứ không như những ngày đó đâu. Bạn nhiều lắm, nhất là mấy anh trẻ, rất mê thơ, và rất quí mến anh Hiến. Họ định ra một tạp chí Thơ, y như hồi các anh làm tờ Tập San Văn Chương, nghĩa là kéo nhau ra quán tối ngày. Anh Hiến mất cũng tại một quán cà phê. Chị bùi ngùi nói, anh có bịnh tim, đang ngồi nói chuyện gục xuống, giá mà mấy người bạn để anh nằm nghỉ thoải mái, và thoa bóp cho anh, thì chắc không sao. Họ cuống lên chở vội tới một tay bác sĩ, tay này sợ trách nhiệm, hối chở ngay tới bệnh viện, dọc đường anh mất… À, mà anh biết không, anh Hiến có một bài thơ về Hà Nội.
Tôi hỏi: Anh Hiến có ra Hà Nội lần nào, chị nói chưa.

Hỏi bài thơ, không có. Không có chứ không phải không còn. Và nói có, thì bài thơ cũng chỉ ở trong đầu anh Hiến…

Chuyện như thế này:
Vào những ngày anh Hiến như sống lại, nghĩa là anh lại có hứng làm thơ, anh cứ lẩm nhẩm ở trong đầu, một bài thơ về Hà Nội. Lâu lâu, hứng lên, giữa đám bạn bè mới quen, anh đọc một, hoặc hai câu. Nghe họ kể lại, hay lắm. Nhưng hỏi xong chưa, anh nói chưa xong, chưa được…
Rồi anh mất, và bài thơ đi luôn cùng với anh. 

Lạ một điều hỏi mấy anh từng nghe anh đọc, một hay hai câu mà họ nói là hay đó, chẳng ai nhớ, dù chỉ một từ, một hình ảnh….
Nghe kể lại, tôi biết, anh nhớ tới thằng bạn Hà Nội đã đi xa, và những ngày đầu hai đứa quen nhau, khi làm tờ Tập San Văn Chương.
Cũng là những ngày hai đứa luôn nói về Thơ,
Và, lẽ tất nhiên, về Huế.
Và Hà Nội. 

Frédéric Beigbeder viết: Có thứ tình kiểu cách, có thứ đam mê lãng mạn. có thứ tình thăng hoa kiểu Stendhal; Alain-Fournier sáng tạo ra cú sét đánh một chiều (coup de foudre unilatéral). Ngay một khi hai chiều, nó trở nên chán ngấy! Yêu thì đẹp, nhưng trường kỳ được yêu, là không thể chịu đựng nổi. Trong một cặp như vậy, một người đau khổ, và một người buồn bực.Tốt nhất, nên làm kẻ đau khổ, nghĩa là kẻ đi tìm tình yêu, chứ đừng làm một kẻ buồn bực.
Và như tất cả những cuốn tiểu thuyết dành cho tuổi mới lớn: chúng đòi hỏi một điều thật là ác nghiệt, rằng, những kẻ đẻ ra chúng tôi, phải chết trẻ. Kẻ Xa Lạ của Camus, Ông Hoàng Nhỏ của Xanh-Tếch, Boris Vian, năm 39 tuổi, Raymond Radiguet, 20 tuổi… Alain-Fournier, trung uý, tử trận năm 28 tuổi, tại khu rừng Saint-Rémy, ngày 22 tháng Chín năm 1914.

Fowles đọc Anh Môn hồi còn trẻ, và sau này, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của riêng mình, Magus, dưới bùa chú của Anh Môn [“ảnh hưởng rất nhiều bởi Anh Môn”: very much under its influence, như ông viết trong tiểu luận nói trên]. Hơn thế nữa, ông hành hương tới những thánh địa, của cả hai, cuốn sách và tác giả của nó. “Nói gắn gọn, tôi trở thành một cây si, lúc nào cũng cảm thấy mình gần gụi với Alain-Fournier hơn bất kỳ một tiểu thuyết gia nào khác.”
Cũng là thường tình, theo ông, bởi vì đây là một khía cạnh thuộc bùa chú của một cuốn sách mà bạn đọc vào lúc mới lớn, và bị nó hớp hồn. Sau này, cho dù bạn cay đắng khắc nghiệt hơn, trong cách đọc của mình, nhưng chẳng thể nào nặng lời với mối tình đầu tuyệt vời đó. Tôi nhắc lại, đây chỉ là một khía cạnh của bùa chú, bởi vì, trong rất nhiều trường hợp, khi đọc lại một cuốn sách mà hồi nhỏ bạn đã từng say mê, bạn ngạc nhiên về chính mình, một cuốn sách dở như vậy, mà cớ sao…
Con gái thấy chó đái cũng cười: Vấn đề trên thực sự không liên quan tới văn chương mà tới tuổi đầu đời, khi con người [còn] ngạc nhiên vì sự tự nhiên của sự vật: thời đại hoàng kim của nhà văn đếch cần văn chương [écrivain sans littérature]. Nếu ao ước có nghĩa là ao ước một vì sao đã mất, điều mà Fournier chỉ ra, chính là một trong những phát giác cay đắng nhất của tuổi trẻ. Cái cô con gái nhìn chó đái cũng cười, vào một buổi tắm sông, cảm thấy, rồi nhìn thấy một dòng nước nong nóng, hồng hồng chảy từ trong mình xuống hai bên đùi, biết rằng mình đã ra khỏi tuổi thơ, và biết thêm một điều, về sự mất mát do thời gian trôi qua đi và không hề trở lại, rằng không thể tắm hai lần trong một dòng sông… Đó là cái tuổi mà chúng ta biết rằng chúng ta chẳng thể làm mọi điều mà chúng ta mơ mộng, rằng nước mắt là bản chất của mọi chuyện ở trên đời, “buồn hay vui đều cần tới nó” như cô viết trong truyện ngắn Những Dòng Sông [Thảo Trần]…. Nói gắn gọn: đột nhiên, chúng ta nhận ra rằng cái nghịch lý đen thui, khốn khổ khốn nạn nằm ở ngay trái tim của phận người: thoả mãn ao ước là cái chết của nó [… that the satisfaction of the desire is also the death of the desire].

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến… nhé!
Như bài thơ mang theo cùng chuyến đi sau cùng của bạn tôi.
Như Hà Nội chẳng bao giờ tới được…
Merde!
NQT

Góc Hà Nội

Nhưng, phải là... BHD, phán, thì mới hết ý về Hà Nội, về những kẻ không còn Hà Nội:
Mi đâu có yêu thương gì ta.
Mi thương một đứa con nít, 11 tuổi, là ta, từ đời thuở nào, và, Hà Nội của mi ở trong con bé con đó.

*

Anh nhớ em cùng một lúc với thành phố
với những con đường anh đi qua một lần
để đến nhà em anh băng ngang một vườn hoa vắng
(lần trở về anh ngồi xuống ghế dài
nếu là buổi chiều quạnh hiu mây lá mùa thu)
một phố bình dân có chợ và những quán ăn
giản dị như trang nhật kí của anh
ngày bắt đầu yêu em

Nét cong môi hồng mắt tình cờ
ngực hoa yếu đuối
những miền không gian được gọi qua
tình yêu không thẹn thùng
đâu phải một thứ mưa ô-buy vào thành phố
năm cửa ô hồi sinh trên xác năm cửa tù
mưa nắng cùng rủ nhau xuống Sinh từ ngõ Hội vũ
bao nhiêu đường tình tự ga Hàng cỏ
nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang
tà áo bàn tay hương trẻ con
hoàng hôn tỉnh
kim khí khua trong bước trở về nhà cửa
sự vắng mặt không thể lâu hơn nữa
thù nghịch tan vào hơi thở
trong giấc hôn mê thôi khóc tiếng mèo đêm
tình yêu mầu nhiệm hoàn thành
vĩnh viễn

Liên những bài thơ tình thời chia cách
TTT

*
Hà Nội-Hà Nội


Tác phẩm của GNV & Thảo Trần tại thư viện do thân hữu TV tặng

Tks. NQT


@ home

*

@ Wasaga Beach

Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc

Ráng chiều rớt xuống cùng vào lúc cánh cò đơn chiếc bay lên
Mặt nước hồ và trời dài thăm thẳm cùng một mầu

Ráng chiều trôi theo cánh cò cô lẻ,
Màu nước thu xen lẫn với màu trời.
HNC dịch
Nguồn

Ui chao, dịch thế này sợ hết mẹ mất mùa thu, dù mới chớm!
GNV đang tính đi một đường về hai câu thơ thần sầu trên, nhân một cái tin buồn, về một người bạn rất thân của cô bạn, mới mất.
Và về câu thơ của Gấu, làm vào những ngày gặp lại cô bạn nơi xứ người,  lấy hứng khởi từ hai câu thơ trên, và, sau đó, đã đi thêm một đường diễn dịch trong bài viết Dạ Vũ Ký Bắc:

Phương Nghi lúc nào cũng vội vội, vàng vàng
Mùa Thu không đâu xa mà ở trong đôi mắt
Hồ Thu và đôi mắt của cô cùng một mầu
NQT: Sinh nhật 

Mấy câu trên, lấy ý từ Đằng Vương Các Tự, của Vương Bột, một trong tứ trụ, thời Sơ Đường

Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.

Trần Trọng San, [trong cuốn Hán Văn, nhà xb Bắc Đẩu, lần in thứ bẩy tại Canada], dịch là:
Ráng chiều rơi xuống cùng cái cò đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc.

Trong nguyên tác, động từ "bay", "phi", chỉ dùng một lần, để tả hai vật cùng bay một lúc, tề phi, một, từ dưới bay lên, và một, từ trên rơi xuống.
Thành thử TTS, tuy đã nhận ra cảnh tuyệt vời này, dịch "ráng chiều rơi xuống", nhưng sau đó, ông lập lại động từ bay một lần nữa, trong "đều bay", hỏng!

Theo Hai Lúa, câu dịch đại khái phải như thế này:
Ráng chiều rơi xuống cùng lúc với cái cò đơn chiếc kia bay lên.
Bởi vì, phải cả hai cái bay như thế, mới nối liền một dải, như câu sau cho thấy:
Hồ Thu cùng Trường Thiên - nhờ ráng chiều rớt xuống và cái cò cô đơn bay lên cùng một lúc -  nên mới  - cộng được cả trời đất - trời đất từ nay xa cách mãi - bỗng chốc được liền lại - kéo dài thành một vạch - là nhất sắc mùa thu!

Câu thơ của Hai Lúa, từ ý thơ trên, nhưng, vì thiếu một cái cò đơn chiếc, mà thành ra dư ra...  hai hồ thu.
Bởi vì có tới ba hồ thu, ở đây.
Mùa Thu không ở đâu xa, [đâu cần phải vội vội vàng vàng đi tìm], mà ở ngay trong đôi mắt của cô.
Hồ Thu và Đôi Mắt của cô cùng một mầu. 

Cái ý "cộng thành một", nhờ hai vật cùng bay, một xuống, một lên, làm người đọc liên tưởng tới cảnh người đẹp bay lên trời trong Trăm Năm Cô Đơn, và để tả nó, Garcia Marquez đã phải sử dụng những nấc thang vải, hay một cái thang vải kiểu ốc xoắn, như ông kể lại trong bài trả lời phỏng vấn.

Khi viết tới đoạn Người Đẹp Remedios bay lên trời, tôi loay hoay hoài, làm sao cho người đọc tin nổi đây. Bữa đó, tôi ra vườn và thấy người đàn bà vẫn thường tới lo việc lau chùi, quét dọn; lúc đó bà ta đang phơi những tấm khăn trải giường, và đang năn nỉ gió: "mày đừng thổi bay tứ tung những tấm khăn của tao nhe!", thế là tôi vớ ngay lấy, và sử dụng những tấm khăn đang phất phơ trong gió kia, như là cái thang cuốn, nhờ đó Người Đẹp cùng bay lên trời với chúng. Đó là cách tôi làm cho độc giả tin. Đối với bất cứ một nhà văn, vấn đề là, độ khả tín. Bạn có thể viết bất cứ điều gì, chừng nào còn tin được.
Garcia Marquez trả lời phỏng vấn báo Paris Review về chuyện nghề

Nói một cách khác, tất cả những toan tính trên đây, của thơ, của thi sĩ, là để giải cho được lời trù yểm của... Tản Đà.

Trời đất từ này xa cách mãi

Đọc Thơ Đường, sững sờ trước cái đẹp của nó, Hai Lúa lẩn thẩn, cứ nghĩ tới cái đẹp của một thời La Hy, như Lukacs đã từng phán về nó. Thơ Đường, giống như Hùng Ca của Tây Phương, là một Cái Đẹp khép kín, tròn trịa, con người không sao thay đổi chi được, mà chỉ có thể chiêm ngưỡng.
Trong Thơ Đường, chưa có cái gọi là tâm thức lưu vong, chỉ xuất hiện sau đó, cùng với tiểu thuyết. Nếu Đỗ Phủ có nói tới cái khổ làm người, ông cũng không hề phát giác ra nỗi cô đơn của nó, một khi những thần thi như Lý Bạch đã nhẩy xuống sông ôm vầng trăng mà... tịch!

Nếu tiểu thuyết là để diễn tả cõi không nhà siêu việt, thì thơ sẽ là căn nhà của một cõi không nhà siêu việt đó!
Trong Lý thuyết về Tiểu thuyết (1916), lưu vong có nghĩa: trục xuất ra khỏi Hy Lạp cổ.
Nếu thế, Thơ, sau Thơ Đường có nghĩa: Bị trục xuất ra khỏi thơ Đường?
Thơ là một cõi lưu vong khi không còn…. thơ Đường?
NQT

Cái hỏng nhất, của câu dịch của ‘Huỳnh huynh đệ’, là đã không nhận ra, chỉ hai câu trên, diễn ra 1 trường song đấu giữa ‘nhất thời’ và ‘vô cùng’: hình ảnh thoáng qua mắt con người, ráng chiều rớt xuống cùng lúc cánh cò cô đơn bay lên

đấu với
vs

mầu xanh vô cùng của mặt nước hồ thu kéo dài đến suốt bầu trời!

Nhưng thiếu anh cu lùn Richie, tức là thiếu sự hiện diện của con người, thua!
Nên nhớ, 'tương truyền', Vương Bột làm 2 câu trên khi mới 7, hay 8 tuổi!
Có thể nhỏ hơn!


Tưởng nhớ Thảo Trường

 Qui a peur de Slavoj Zizek?

*

Ai lèm bèm về chủ nghĩa toàn trị đó?

Nhìn lại chủ nghĩa toàn trị.

Đúng ra phải nói, một cách nhìn mới, về một chủ nghĩa đã cũ, bởi vì cuốn sách GNV giới thiệu sau đây, "Người nào nói chủ nghĩa toàn trị đó?" (Did someboby say totalitariarism?, nhà xb Verso, London, in lần đầu năm 2001) của Slavoj Zizek, gồm 5 tiểu luận, là một nghiên cứu chủ nghĩa toàn trị, như là một mạng nhện những anh em bà con của nó. Kết luận cuốn sách mà tác giả đưa ra thì thật đầy tính gây hấn: Nếu chi tiết là cái tối hậu [lấy ý từ câu, "Nếu không phải Thượng Đế, thì là Quỉ, nằm trong chi tiết", GNV ghi chú], như vậy, Quỉ không hẳn nằm ở trong chi tiết của cái tạo thành chủ nghĩa toàn trị, cho bằng nằm trong cái tạo thành chính cái chỉ danh của sự đồng thuận tự do dân chủ. (The devil lies not so much in the detail of what constitutes totalitariarism as in what enables the very designation totalitarian: the liberal-democratic consensus itself).


Shostakovich: Lề phải hay lề trái?

WHOSE SIDE WAS SHOSTAKOVICH ON?
by Alex Ross, The New Yorker, March 20, 2000

How did Shostakovich's music survive Stalin's Russia?
BY ALEX ROSS

On a January evening in 1936, Joseph Stalin entered a box at the Bolshoi Theater, in Moscow. His custom was to take a seat in the back, just before the curtain rose. He had become interested that month in new operas by Soviet composers: a week earlier, he had seen Ivan Dzerzhinsky's "The Quiet Don," and liked it enough to summon the composer for a conversation. On this night, the Bolshoi was presenting "Lady Macbeth of Mtsensk," a dark, violent, sexually explicit opera by Dmitri Shostakovich. Stalin enjoyed himself less. After the third act-in which tsarist policemen are depicted as buffoons who arrest people on hastily fabricated pretexts-the Leader conspicuously walked out. Shostakovich, who had been expecting the same reception that Stalin gave to Dzerzhinsky, went away feeling, he said, "sick at heart." Two days later, Pravda published an editorial under the headline "MUDDLE INSTEAD OF MUSIC," which condemned, Shostakovich's opera outright. "From the first minute," the anonymous author wrote, "the listener is confused by a deliberately disordered, muddled stream of noise." The composer was playing a game that "may end very badly".


Bashevis Revisited
Harold Bloom

Some of the short stories of the impenitent Bashevis will survive, though I am wary of selecting them. The ones I like in Yiddish, such as “A Friend of Kafka” and “Blood,” do not please me in English, and those that seem to work in translation alienate me in the original, one being “Short Friday.” My friends and students seldom agree on particular stories and I cannot resolve their perplexities.

In a larger sense I uneasily concede that Singer cannot be dismissed. In his own very enigmatic mode his work subtly reacts to the Shoah even as he overtly appears mostly to evade it. There is no way to confront that horror aesthetically. Only indirection can hope to convey response and Singer became a master of intricate evasions, too endless throughout his work to enumerate.

No Yiddish writers who survived after 1945 could be anything but witnesses whether or not they had suffered experientially. What Baudelaire termed aesthetic dignity, by which he meant a quality transcending mere content, cannot be denied to Singer, however unpleasant I find him. Bashevis revisited is a necessary obligation for those who have no desire to abandon their Jewish identity.

September 20, 2010 12:30 p.m.


Witness of Poetry

*

Tờ TLS số Sept 10, 2010 có bài về Milosz và Brodsky, “Causework”, với cái tiểu tít, ‘quyền của nhà thơ trong thời không tưởng’, the poet’s authority in the age of utopia. Đây là một bài điểm một số sách mới xb và một cuốn phim chuyển thể cái thư của Brodsky viết về hai đấng sinh thành, trên TV đã từng dịch Một căn phòng rưỡi. Bài này tuyệt, và phần nào đó, trả lời câu hỏi liên quan đến HC và thái độ của ông trước nhà cầm quyền.

Những nhà thơ trữ tình sẽ trở nên ra sao, một khi thay vì phục vụ nàng thơ, ‘service to the muse’, thì phục vụ nhà nước, 'service of the nation'? Liệu cái thứ thơ trữ tình, như của…  cô Tú, thí dụ, vượt ra khỏi biên cương, và vươn tới cõi xuyên quốc gia, transnational ? Liệu những nhà thơ, ngay cả khi lưu vong, trốn thoát, escape, cái bản đồ tinh thần, the mental mape, của quê hương mẹ đẻ? Đó là một số những câu hỏi mà một vài cuốn sách mới xuất bản, đề ra, kể cả cuốn phim chuyển từ tiểu luận, đúng ra, thư của Brodsky, viết về ông bô bà bô của mình, Một Căn Phòng Rưỡi. Vượt lên trên tất cả, là những toan tính trầm trọng, serious, nhằm tìm hiểu liên hệ của nghệ thuật thơ ca với cuộc sống của những thi sĩ.


Sau khi thoát khỏi Auschwitz, Primo Levi còn phải trải qua một cuộc hành trình gian khổ trước khi về được tới Turin quê nhà vào tháng Năm năm 1945. Có được là người xuất bản vào năm 1947 nhưng không mấy được chú ý, cả chục năm sau đó nó mới được “phát hiện” và nhanh chóng trở thành một hiện tượng lớn của văn chương thế giới. Primo Levi còn là tác giả của không ít tác phẩm văn học khác. Năm 1987, ông tự sát tại nhà riêng, cái chết của ông cho đến giờ vẫn được coi là một bí ẩn.

+ Còn nhà văn người Hung: Kertész Imre, cuốn tiểu thuyết cũng kinh điển, Không số phận.
Blog NL
*

Sự bặt tiếng của Levi trong nhiều năm, 1 phần là do tụi Tây mũi lõ, không chịu nổi ông, 1 phần là do số phận của Levi, nó như vậy!

Còn Kertez, ông còn phải chịu thêm chủ nghĩa toàn trị, xong, mới nhẹ tội!

"Auschwitz must have been hanging in the air for a long, long time, centuries, perhaps like a dark fruit slowly ripening in the sparkling rays of innumerable ignominious deeds, waiting to finally drop on one's head." (from Kaddish for a Child not Born, 1990)
[Auschiwitz còn treo lơ lửng hàng hàng thế kỷ, như một trái đen, từ từ chín đỏ nhờ hằng hằng những tia nóng của những chiến công nhục nhã, và sau cùng rớt trúng đầu bạn]

2002 Nobel Laureate in Literature…
for writing that upholds the fragile experience of the individual against the barbaric arbitrariness of history
[Trao giải Nobel văn chương 2002... vì cố níu cái kinh nghiệm mỏng manh của một cá nhân nhằm chống lại cái tùy hứng man rợ của lịch sử]. 

Cả hai vòng hoa trên đều có thể áp dụng vô xứ Mít.
Chỉ thiếu có cái giải Nobel văn chương.
Thôi đành an ủi bằng Nobel Toán vậy.
Tks me-xừ NBC!

Phải có một mắc mứu ‘cốt tuỷ, chết chóc, thánh thiện, ma quỉ…’,  giữa Cái Ác Bắc Kít, từ đó, đẻ ra Cái Đẹp NBC!
Ngô Bảo Châu, Nobel Toán


On Poetry
The Age of Citation
By DAVID ORR
Published: September 17, 2010


Ngô Bảo Châu, Nobel Toán


Linda Lê : “J'aime que les livres soient des brasiers"

Tuổi thơ của bà trải qua tại quê hương của bà, là Việt Nam. Văn chương là thế nào đối với bà, khi đó?
Tôi luôn luôn cảm thấy rất xa lạ đối với Việt Nam, do sự học hành trong tiếng Pháp, do cung cách, cách ứng xử của tôi, luôn luôn dụt dè, thụt lui. Chị em tôi, và tôi hoàn hoàn không giống những đứa trẻ ở đó. Chính là cái cảm giác cô đơn, cách biệt thật xâu sa đó đã khiến tôi bỏ chạy, vượt thoát, thật sớm sủa, qua những cuốn sách. Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã phát triển một thứ ham muốn, đói thèm đối với tất cả những gì ở cách xa tôi, những gì có vẻ thật khổng lồ, quá khổ đối với tôi.
Thí dụ?
Những tác phẩm của Victor Hugo, khổng lồ đối với tôi! Từ mê mẩn vóc dáng khổng lồ ở nơi Hugo, tôi mò qua tính khí bạo phát, nổ như tạc đạn, ở nơi thiên tài sáng tạo người tchèque, Ladislas Klima. Với ông này, cũng lại là một sự trái ngược hẳn với con người của tôi, vốn rất ư dịu dàng, đôi khi vẫn có những khoảnh khắc căng thẳng cao độ.
Bà viết để bẻ gẫy, triệt tiêu sự căng thẳng, hay là để duy trì nó?
Duy trì chứ. Khi viết, tôi muốn như đi trên một sợi dây căng thẳng, luôn luôn là vậy. Nếu đôi khi tôi không hài lòng và nếu tôi sửa đổi một số bản văn của những cuốn sách của tôi, thì chính là vì, vào những lúc đó, tôi không vượt qua được dòng điện cao thế, thì cứ nói như vậy.
Sợi dây căng thẳng, dòng điện cao thế, ở đâu ra vậy?
Tôi luôn có cảm tưởng là tiếng Pháp gây khó cho tôi, nếu tôi không cố kiếm cho bằng được, cách viết của riêng tôi. Viết như thế, thường xuyên là một sự thử thách. Có khi tôi ngồi hàng giờ đồng hồ, chẳng kiếm ra, dù chỉ một từ vừa ý… và sau cùng bỏ đi lang thang, nổi quạo với chính mình, cho đến khi tìm ra ra từ. Tôi nhận ra chính là trong khi tản bộ như thế mà tôi tìm ra những ý nghĩ sáng ngời, trong chuyển động… Trong khi, nếu cứ ngồi lỳ ở bàn, vô phương. Tôi cần phải bước những bước lớn, chẳng thèm nhìn chung quanh, chẳng cần nhìn thấy gì, xoáy vào những ý nghĩ của mình. Tôi luôn luôn tự nhủ mình, phải là một bản văn phát hào quang, ‘phát sáng’, đó là từ một tôi thật mê.
*

La frange crantée de linda le ressemble à un casque corinthien (1)

Dịch giùm, cau tren, thoi.
Tks
Khoe luon: Cung mong vay.
*

La frange diềm, tua viền crantée cắt khấc, cắt nấc de linda le ressemble à un casque mũ cát corinthien xem hinh casque corinthien : http://qc.images.search.yahoo.com/search/images?p=casque+corinthien&toggle=1&cop=mss&ei=UTF-8&fr=yfp-t-716

Kho thiet – phai biet an du - Chac giong nhu cai mu casque co nhieu tang.
Vao google xem cai mu corinthien nhu the nao, casque thoi Trung co.

(1) Dịch… tạm: Cái riềm cắt khc của Linda Lê thì giống như một cái mũ cát thời Trung Cổ.
Có vẻ như người phỏng vấn muốn diễn tả mái tóc của Linda Lê, và từ đó, ra hình tượng, một nữ kỵ sĩ thời Trung Cổ, chăng?
Coi hình:

*

CASQUE CORINTHIEN NOIR ...

*



Kỷ niệm, kỷ niệm

Thì trang TV cũng rứa, đẩy hết đời thực, đời hiện tại vào 1 góc…. nhường chỗ cho…. BHD!

*

"Je serai ta femme".
LH, 16.8.1967

... sự sống sót của chàng là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó.
 Thời gian

Note: Hình chụp tại Đài Liên Lạc VTĐ số 5 Phan Đình Phùng Sài Gòn.
Bàn giấy ông trưởng đài, có cái bảng tên của ông: TBT.
*

Cuộc Tình Bỏ Đi  kết thúc không đến nỗi bi thảm như Một Chủ Nhật Khác.
Cô Thùy, tức Nicole của Scott, sau tái giá.
Nàng nói với ông chồng sau:
-Tôi yêu Kiệt và chẳng bao giờ quên anh ấy.
Ông chồng sau trả lời:
-Lẽ dĩ nhiên là như vậy. Làm sao em quên anh ấy? Mà tại làm sao mà em phải quên anh ấy?
Đà lạt
*

Không ai kèn cựa với người đã chết.
Mà em muốn nhắc để cám ơn anh.
Đã rèn luyện em trong cay đắng của đời.
Và đã thương yêu em như một Bà Trời.
Văn Tế

"C'est l'âge où tout le monde avait vingt-six ans," ["Đó là thời mà đứa nào cũng 26 tuổi"], Gertrude Stein diễn tả những năm tháng tuyệt vời băng đảng Mẽo của bà, những Fitzgerald, Hemingway, Pound... ở Paris.

Gấu cũng có thể nói như vậy, về thưở mới lớn của mình, thập niên 1960, và của băng đảng 'tiểu thuyết mới' ở Sài Gòn.
Thời của Stein là 'thế hệ bỏ đi', bị cuộc chiến chê, còn của Gấu, sắp bị cuộc chiến làm thịt.
*
Thế hệ bỏ đi, cuộc tình bỏ đi.

Thế hệ bỏ đi, như Hemingway kể lại, trong Paris là một ngày hội, gốc gác của nó, là của một tay chủ gara, nơi Stein thường sửa xe. Một lần, "em" mang xế tới, thằng thợ trẻ tỏ ra không sốt sắng lắm trong vụ phục vụ người đẹp. Thế là em méc tay chủ. Tay này mắng thằng nhóc.
Stein sử dụng đúng từ này để đập Hemingway, đám viết lách cà chớn như mấy ông là một thế hệ vứt đi, vì đã được thải ra từ cuộc chiến, theo nghĩa:
-Tụi mày cứt quá, nên cuộc chiến đếch thèm giết.
-Tụi mày tuy sống sót cuộc chiến, nhưng thế nào cũng có bộ phận bị thương tổn, không còn hoạt động được nữa.
*
Ui chao, xém một tí, là súng của Gấu cũng bay vào hư vô, trong vụ ăn hai trái mìn claymore ở bờ sông Sài Gòn!
*
Hình như là Fitzgerald, nói về mình và về Hemingway: Ông nổi tiếng vì thành công, còn tôi, vì thất bại.
Hề Charlot cũng đã từng nói tương tự, về ông và Einstein: Ông nổi tiếng vì chẳng ai hiểu ông, còn tôi, ai cũng hiểu.
*
Happy Birthday. Chúc đại ca viết càng ngày càng bảnh. NLV
Tks.

Tiện đây, xin thông báo: Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, đều chỉ để sử dụng với tính cách cá nhân, [for personal use] và đều "free", xài vô tư, thoải mái.
Vì Gấu cũng trên bẩy bó rồi, nếu tính tuổi ta, thành thử cứ coi đây như là, "cho chắc ăn", sau những cú báo động hoảng như vừa rồi. NQT
*
Gấu dùng chữ "những", là vì bạn bè Gấu bị "hơn một cú" như cú vừa rồi. Cú trước khủng khiếp hơn nhiều, xẩy ra ngay sau khi Bông Hồng Đen ra đi. Một ông bạn, trong nhóm bạn ở Cali, thương tình, bèn mail cho Gấu biết tin. Tin Văn bèn đi một đường ai tín, khiến Gấu Cái càng thêm bực mình. Và bèn mail trả lời ông bạn, cho biết, ngay sau khi Gấu được ai tín, bèn xỉu, sẵn bịnh tim chơi bồi thêm, bèn phải chở đi nhà thương cấp cứu!
Anh bạn hoảng quá, và cũng ân hận, lỗi ở mình, nhưng bán tin bán nghi, bèn phôn cho một anh khác nữa, rất rành về mối tình của Bông Hồng Đen và Gấu.
Anh này gật gù, chắc đúng như thế đấy. Tao biết, thằng cha Gấu hồi đó mê BHĐ khủng khiếp lắm.
[Chính em LH cũng xác nhận chuyện này, bởi vì có lần Gấu hỏi, tại sao "iêu" Gấu, em trả lời, tại vì anh thương em nhiều quá, thành thử... tội nghiệp!]
Để tăng thêm trọng lượng cho lời tiên đoán của mình, anh kể chuyện, một lần Gấu nhờ anh trao giùm thư cho BHĐ, thời gian Gấu bị ông bô của em cấm cửa. Gấu dặn, vô, trao thư xong xuôi, rồi ra liền, báo cho tao biết, rồi có muốn ở lại tới giờ nào thì ở.
Anh ta vô, trao thư xong, gặp ông anh của LH, mải trò chuyện, rồi quên luôn thằng cha Gấu ở bên ngoài, khủng khiếp chờ đợi, cứ như chờ án tử hình!
Anh ta, lúc nhớ ra, thì đã ba, bốn giờ chiều, tức là lúc sửa soạn ra về.
Anh kể lại, tao ra ngoài đường, thấy mày ngồi trên chiếc xe đạp, tóc tai dựng đứng, trông thê lương không thể nào tưởng tượng được.
*
Nghe anh kể, Gấu nhớ ra liền. Hai thằng ăn sáng xong, là đi. Tới ngã tư gần nhà em, phía vườn Tao Đàn đi xuống gặp Gia Long, Gấu ngồi trên xe đạp chờ tới...  chiều.
Bữa đó, không chỉ mình Gấu lo, mà luôn cả anh bạn. Anh nói, tao đưa thư cho nó, nó không thèm cất đi, mà lại để ngay trên bàn, rồi ra lệnh, đó là lúc đang dọn nhà, từ Phan Đình Phùng lên, anh V. phụ em một tay, khiêng cái giường. Tao vừa sợ, vừa bực. Sợ ông via của nó bất chợt vô, vồ liền cái thư. Bực, vì em của mày coi tao như thằng hầu. Phụ một tay, khiêng cái giường cho em! Láo thế!
Sao không trao cái bực đó cho tao? Gấu thèm thuồng, hỏi lại!
*
Tao thèm được như mày! Anh kết luận.
Thèm cái cảnh, râu tóc rựng ngược, mặt mày méo xệch?
Sướng chưa!
NKTV

Cái đoạn trên, trích từ một trang TV cũ, viết sau khi đọc cái mail của một anh bạn, hỏi, này, mày chết chưa đấy, bởi vì chúng tao, lũ bạn cũ của mày ở Cali, đọc một bài viết của cái tay biếm văn số 1 hải ngoại, trong đó, nó có nhắc đến một thằng NQT [có mấy NQT?], và thằng này, chết rồi!

Tếu nhất, là cú đó xẩy ra đúng vào những ngày sắp sửa tới sinh nhật của Gấu!
Thế là bèn nhớ đến cái lần sinh nhật sau khi chết hụt mìn VC tại bờ sông Sài Gòn, được em ghé thăm, ban cho cái promise, ‘Je serai ta femme’, trên.
Hứa, chắc như đinh đóng cột như thế, vậy mà sau này bỏ Gấu mà đi, chính vì thế mà có cảnh chạy theo em khóc nức nở, như biết trước, sau này sẽ phải khóc Sài Gòn! (1)
(1)
Nàng là ai? Cái thành phố mà chúng ta đã chọn lựa?
(Qui est-elle, cette ville que nous avions élue?)
Hãy chừa riêng ra cho anh, những vết thương tình mà anh chia sẻ với Sài Gòn.
(Épargne-moi les blessures de l’amour partagé avec Justine).
Sài Gòn nghĩa là gì?
 

Còn một anh bạn nữa, sau khi nghe tin Gấu đi theo BHD, bèn mừng rỡ mà la lên, bảnh thật, đúng là nhà văn nhớn, vì trong đám chúng mình [anh viết mail trả lời 1 anh bạn], có thằng nào có được 1 cái chết hách như thế đâu!


Qiu

Thầy Vũ

Nhưng, liệu có ai bị đẩy xuống tầu không nhỉ?
Ui chao, Gấu có một kỷ niệm thật là tuyệt vời về một người bị đẩy xuống tầu, là bà cụ thân sinh của Gấu, những ngày tù cải tạo tại nông trường Đỗ Hoà, Cần Giờ, chiến khu Rừng Sát ngày nào.

Trại tù, đúng hơn, nông trường cải tạo Đỗ Hòa nằm ở giữa một vùng rừng tràm, như một cù lao giữa bạt ngàn sông rạch, vô phương trốn trại, ở phía bên kia con sông từ bến Sài Gòn đổ ra tới Vũng Tầu. Có một bến đò, ở bên này sông. Bà cụ Gấu mỗi lần đi thăm nuôi, là ra bến tầu Sài Gòn, lên con phà Cần Giờ, tới bến đò, xuống phà, ở đó có một cái ghe nhỏ, đưa thân nhân qua bên kia bờ sông.
Cho tới bây giờ, lâu lâu Gấu còn mơ thấy, cảnh bà cụ Gấu lóp ngóp bò vào cái ghe nhỏ, vượt con sông, nhiều lúc sông cũng chẳng hiền lành gì, đi thăm nuôi thằng con trời đánh không chết.

Thế rồi, bữa thăm nuôi lần đó, chẳng có con đò nhỏ nào hết! Tới khuya, Gấu nghe đám bảo vệ Trại bàn tán xôn xao, phà Cần Giờ bữa nay bị đám vượt biển cướp, lái mẹ ra tới Vũng Tầu, rồi ra biển lớn, thoát rồi!
Ui chao, Gấu nghĩ đến cảnh, biết đâu bữa đó, bà cụ Gấu có mặt trên chiếc phà đó, và, như vậy là cụ bị chúng cưỡng ép xuống thuyền, cưỡng ép vượt biển mất rồi.
Ở nơi xứ người, nửa chữ tiếng Anh không biết, làm sao cụ sống!
*

V/v ‘con sông chẳng hiền lành gì.’
Bất giác lại nhớ cái lần cũng đến gần 20 tên tù cải tạo như Gấu, thuộc một đội khác, buổi sáng sớm hôm đó, vượt sông, đi lao động ‘ngoài luồng’, nghĩa là, đi làm lén, cho những phi vụ lén, hoặc với một số gia đình thường dân cần lao động, hoặc với một cơ sở khác, tạo quỹ đen cho nông trường cải tạo Đỗ Hòa, GNV nghĩ, chắc vô túi mấy thằng cán bộ Trại; và ghe lật, chết tất cả.

Lạ, và thật khủng khiếp, mỗi lần nhớ, là Gấu nhớ luôn một điều, đó là một buổi sáng gần Tết, thời tiết rất lạnh.
Thế là cứ Tết đến, hoặc cứ mỗi lần lành lạnh, nhớ đến những ngày Đỗ Hoà, là, đôi khi, lại nhớ đến lần chết hụt đó.

Bởi vì, giả như đội của Gấu được trao phi vụ đó, nhỉ?


Thầy Chương

Hoàng Hạc Lâu

Bản dịch của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục

(Nam Phong tạp chí - năm 1923) 

Người tiên xưa cưỡi Hạc vàng cút,
Ở đây chi những lầu hạc trơ.
Hạc Vàng đã cút chẳng về nữa,
Mây trắng nghìn năm còn phất phơ.
Sông bạc Hán Dương cây xát xát,
Cỏ lên Anh Vũ bãi xa xa.
Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá?
Mây nước trên sông khách thẫn thờ.

Đây là bản dịch khá chối tai (rất trúc trắc) nhưng khá công phu, khá già tay (túc Nho) ; công phu ở chỗ : theo sát nhạc điệu của nguyên tác, sát cả ở những chỗ sai niêm, thất luật.

Len Deighton: Thi sĩ của truyện điệp viên


Ghi chú trong ngày

Trong Chiều Chiều Tô Hoài đã gay gắt riêng với Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, vì là, hay dù là, chỗ cố tri trước 1945 (tr.20). Phải chăng vì Hiếu Chân tránh gặp lại Tô Hoài sau 1975, vì chút hào khí tuyệt vọng của con người chiến bại, hay tự cho là như thế.  Còn phần Tô Hoài, thì không có vấn đề ấy; như cái lần  đưa đám ma ông Minh Đức, chủ nhà xuất bản, anh đã phải trả lời Nguyễn Tuân : « Trong đầu tôi không có câu hỏi nào về việc như ông hỏi »  (CBCA, 1992, tr. 57). Đây cũng là một câu nói chìa khoá, để tìm hiểu Tô Hoài. Có những câu hỏi Tô Hoài không bao giờ đặt ra. Nguyễn Tuân có vẻ không tin (tr. 57), nhưng mà đúng vậy. Ngược lại, có lúc anh  ấy đặt ra những nghi vấn rất chi là vớ vẩn. Cũng có thể Tô Hoài không biết là Hiếu Chân đã bị bắt và chết trong nhà giam Chí Hoà, 1985. Tôi dừng lại hơi lâu ở trường hợp Hiếu Chân, vì là một biệt lệ, có thể là duy nhất, nhưng có nguy cơ bị khuếch đại và xuyên tạc.
Đặng Tiến

Note: DT viết về TH, không đạt, do không đủ nội lực, đúng như thế, thứ nội lực mà chỉ những kẻ thực sự sống sót cuộc chiến, mới có được (1), và luôn có vẻ khệnh khạng, ra vẻ kẻ cả, và đúng giọng cay cú, của 1 kẻ chạy theo VC, viết về 1 kẻ bị VC đầy ải đến chết ở trong tù.
TH bảnh hơn nhiều, so với những gì mà DT xưng tụng, nhất là ở cái phần ác của ông. Hãy nhớ những gì TH viết về Doãn Quốc Sĩ, về Võ Phiến, về Ngụy, và nhất là, về chính ông ta, trong Ba Người Khác [nên nhớ, BNK là một thứ chân dung tự thuật của chính TH].
 Buông dao đồ tể mong thành Phật, hoặc thành cái gì kệ mẹ nó, đó là tâm sự, hoài bão của TH, những ngày cuối đời, theo GNV.

Khen thì phải khen tới nơi, như thế, chứ viết cái kiểu làng nhàng, lăng nhăng, như thế này, đừng mong có ‘nguy cơ bị khuyếch đại và xuyên tạc.’
Và, phải trích lại những gì TH viết về HC, thì người đọc mới có thể đánh giá những gì DT viết về HC & TH, tôi muốn nói, về những quen biết trước đó của họ, khi còn ở ngoài Bắc.
Hiếu Chân là ông anh rể của GNV, nhưng không vì thế mà có những dòng này. GNV đã tính viết về DT, nhân cái lần ông khóc Hoàng Cầm, nhưng do có người khuyên, hãy chờ 1 thời gian rồi hãy viết.
Có lẽ sẽ còn đi thêm vài đường về ông Chánh Tổng An Nam, không dở dở ương ương mãi được!
NQT

(1) Virtue, after all, is far from being synonymous with survival; duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's Item"
(Sống sót do nhập nhằng, không phải bởi đạo hạnh).

Cái sự sống sót của DT, là do nhập nhằng, không phải do đạo hạnh mà có được.
Điều này ảnh hưởng nặng nề vào cách viết của DT.
Một kẻ đã bỏ chạy, làm sao nói về cái kẻ bị VC bắt, và chết trong tù?
Làm sao viết về hào khí tuyệt vọng của kẻ chiến bại?
DT làm sao biết thứ hào khí tuyệt vọng này?

Cái người viết đúng về Tô Hoài, phải là Vương Trí Nhàn. Và cái thái độ của Tô Hoài, khi đọc, và cho phép đăng, không bỏ những gì viết thật là nặng nề về cái phần ác, độc của TH, cho thấy, ông thực tình mong hậu thế nhận xét thật đúng về ông, không phải theo cái kiểu hề tuồng mà lại khệnh khạng, như DT viết.
*

Giữa lúc có mặt mọi người nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Hội Nhà văn, Lê Đạt nhắc lại câu đùa mà tôi đã được nghe mấy lần:
Tất cả già đi, và trông anh nào cũng đểu giả, chỉ có lão Tô Hoài là đểu thật.
VTN

Những dòng cuối Chiều Chiều. Giọng Tô Hoài trầm xuống, nghẹn lại. Chấm dứt cuốn Tự Truyện như vậy là tài tình. Hay ở chữ tài. Quý ở cái tình. Chữ tài vẫn quý nhưng không hiếm. Cái tình vừa quý vừa hiếm, càng ngày càng hiếm, có cơ tuyệt chủng.
DT

Đểu thật!
Vua đểu!
NQT

Có thể nói rằng nếu chất người của một số người Việt Nam ta là ma thì Tô Hoài là một thứ ma thượng thặng, ma đến tận đường gân thớ thịt. Là ma, nên sống thế nào cũng được. Nên không biết sợ là gì. Nên cảm thấy mình có mắt ở mọi nơi. Nên lẩn khuất, sợ hãi, mà lại hăm hở hưởng thụ.
VTN
Câu phán thú, thực.
Gấu gọi là Cái Ác Bắc Kít, đấy!

Phan Thị Vàng Anh vs Vương Trí Nhàn vs Tô Hoài

Gấu đọc Tô Hoài rất sớm, và giấc mộng, sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc ông mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn thêm một câu nói, là giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi tới được nước Nam Kỳ.
Tưởng thoả mãn, mà thoả mãn thực, nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ khác xuất hiện!
Lúc thì ở nơi BHD, và cái nước Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính là cái xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ chạy!
Và ở trong bao nhiêu nước Nam Kỳ khác, do đọc sách mà có!
Trong những “nước Nam Kỳ” do đọc sách những ngày mới lớn mà có đó, có “Sa mạc Tartares” của Dino Buzzati.
Mới đây, đọc A Reading Diary, Alberto Manguel có viết về cuốn này, ông nói là đọc nó vào thời mới lớn, cũng như Gấu, đọc nó vào lúc mới lớn, tại nưóc Nam Kỳ, tại Sài Gòn, khi có BHD.
*

Có hai nhà văn Bắc Kít chúng ta cần đọc đi đọc lại, là Tô Hoài và Nguyễn Khải. Đọc NK thì phải nhớ câu phán của ông: Giá mà không có Đảng thì tôi đã trở thành một vị linh mục. Nhớ luôn những tác phẩm ông tấn công vào cái nôi tôn giáo ở Miền Bắc, là vùng Bùi Chu, Phát Diệm.
Tô Hoài, đừng bao giờ quên ông còn là tác giả của Dế Mèn. Giả như không có Đảng, liệu Cái Ác của ông vẫn còn nằm ẩn tàng ở trong cái vỏ ngây thơ của một tác giả chuyên viết chuyện cho nhi đồng?
Tuy nhiên, trong Quê Người, người đọc đã ngửi ra được Ba Người Khác, khi đọc cuốn sau, rồi đọc lại cuốn trước!
Nam Cao so với Tô Hoài, thua xa về khoản Ác siêu việt, vượt luôn cả hiện thực!
*
Còn một tay nữa, nhưng mới nháng lên như ánh lửa ma trơi thì đã vụt tắt rồi, là… Quê choa NQL!
Những entries đầu của anh, Cái Ác Trung Kít mà chẳng... "Thần" sầu, ư?
Đấy là chưa kể tới Cái Dâm, mà "Xìn Phóng" xém mất mạng vì phán "ẩu" về nó!
*
Thêm một bài viết thứ nhì của PTVA, về VTN, trên web phong diep. Đọc bài này, càng thấy PTVA không hiểu gì hết về tình trạng văn chương ‘tự thú’ của mấy đấng nhà văn Miền Bắc.
VTN cũng có hai mặt, y như mấy ông kia, thí dụ Tô Hải, Nguyễn Khải…
Nhưng với một con người như Tô Hoài, đừng mong ông viết thứ đó, và đúng như VA nói, [cung nô bộc của TH xấu quá!], ông nhờ một tên đàn em ở gần ông là VTN, nói giùm ông!
Nên nhớ VTN đã từng xém bị làm thịt vì cứ lo bới móc cái xấu của dân Mít, đâu đợi đến bài viết về Tô Hoài chúng ta mới nhận ra?
VTN? Cũng đừng mong ông công khai tự thú như Tô Hải, thí dụ!
Ông viết thật cay đắng về TH, là cũng để ngầm tự thú, và để xả xú bắp, sau bao nhiêu năm bị sư phụ ém tài!
Ui chao văn chương nó làm nhục con người làm sao, nhất là không có nó, thì làm sao có miếng ăn!
Chúng ta cũng đừng mong những dòng tự thú của VA!
Bài viết của VA về VTN cho thấy, còn lâu Mít mới có một ông thánh của Lò Cải Tạo!