*
 



*

Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường

Trang Tin Văn 30.4.2005
Không hiểu sao, trang này hiện đang Top Ten, đầu tháng Tư 2009, qua server!
Không phải vì sắp tới 30 Tháng Tư, bởi vì chính Gấu cũng chẳng hề biết đến bài này, làm sao độc giả mò ra!

Cả bài dưới đây, cũng Top Ten!
Một thời để yêu, để hát, và để chết

Thư tín:
Chú Trụ,
Re: Mr. Bean.
Mới xem hôm qua. Và chợt nhận ra rằng, khi Mr Bean không cười khá giống chú Trụ (qua hình trên trang nhà). Không chừng, khi chú Trụ cười, lại giống Mr. Bean.
Re: Câu hỏi về bài thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Vâng, đã đọc. Chuyện văn thơ của các ngài thi sĩ đó có thể nói hoài chẳng dứt nhưng cũng có thể chung qui được một điều: 19 năm văn chương Miền Nam là một điểm son trong văn chương (toàn cõi) Việt Nam thời cận đại mà ảnh hưởng của nó vẫn còn đến ngày nay. Cháu chỉ sống trong thời đó chừng vài ba năm do sinh sau đẻ muộn. Chỉ biết được những dòng thơ lời hát đó qua người nhà và khi đi khỏi Việt Nam (cũng hơn ½ đời người). Nhưng vẫn ấp ủ nó trong lòng như một hoài niệm về thời hoàng kim nào đó. Điều thú vị là sau nầy về Việt Nam gặp những đứa em bà con, những người bạn mới đều sinh sau 75 và đều có chung một hoài niệm đó.
Lan N
*
Phúc đáp:
Cám ơn rất nhiều.
Thư viết đúng giọng Mr. Bean. Tuyệt vời!

Mr. Bean
*
Không chừng, khi chú Trụ cười, lại giống Mr. Bean.

Liệu có chuyện chấm hết, với Mr. Bean?
Sau Kỳ hè của Mr. Bean, tôi nghi vậy. Nhưng trước đây 10 năm thì cũng nghi vậy, với cuốn phim đầu tiên. [Cười]. Khi bạn ở lưng chừng đời, như tôi bi giờ, bạn sẽ cảm thấy ơn ớn, súng của mình không còn nhạy, mình 'lão hoá' mất rồi! Tôi luôn luôn coi me-xừ Bean là một nhân vật vượt thời gian, không có tuổi, và tôi muốn anh ta được hậu thế nhắc nhở, như là một tay súng nhanh nhạy, luôn luôn tâm niệm, bắn chậm thì chết, ở cái tuổi 30 hoặc 40.
Ông phịa ra tay này, từ ông, hay từ tình cờ, rồi gia giảm, thêm mắm thêm muối?
Đúng là một thứ từ tôi mà ra. Một kiểu hoá thân của tôi. Me-xừ Bean là cái khúc củi tự nhiên của tôi, khi nó được ra lệnh, hãy tỏ ra khôi hài, hoàn toàn bằng cử chỉ, điệu bộ, để cho ai cũng có thể nhìn thấy, và lập tức nhận ra. Ai thì cũng có những lúc nhăn nhó làm hề như thế cả, nhưng chỉ trong khi tập rượt thôi, không phải ở vào cái lúc bị đẩy ra giữa sàn đời.
Bằng cách nào, làm sao mà cái sự chọc cười, chọc quê của ông vượt biên cương, vượt các hàng rào cản của các miền văn hóa, một cách thật là ngon lành?
Đúng là nhờ cái thưở còn con nít của nó. Mr. Bean bản chất là một đứa bé, bị mắc bẫy, ở trong cơ thể của một người đàn ông. Tất cả các nền văn hoá nhận ra đứa trẻ cùng một đường hướng như vậy, chính vì thế mà nó vượt biên cương, vươn tới toàn cầu. Những cậu bé 10 tuổi thì có chung nhiều trò chơi, ở bất cứ một quốc gia, nhưng khi 30 thì súng của các cậu khác hẳn nhau! Chúng ta lớn lên, trưởng thành, và chính cái cảm tính đó, "súng của tao khác súng của mày", chia rẽ chúng ta!


*

Trong Stranger Shores, tập tiểu luận, [1986-1999] nhà văn nhớn, nhà phê bình nhớn, nhà văn Nobel, Coetzee đi một đường ai điếu hơi bị sớm nhà văn hiện còn sống, Josef Skvorecky: …  Looking back over his career, Skvorecky produces a humorously modest obituary: “After years of socialism… he was..”. [Nhìn lại  sự nghiệp văn chương.... ]. Không biết ông nhà văn này có quê không, nhưng mới đây, cho ra lò một cuốn thật hách xì xằng [xb năm 2004, bản dịch tiếng Anh, 2009], tờ TLS, số mới nhất đi một đường chào mừng: Josef Škvorecký's Ordinary Lives  A novel that reveals the horror inherent in life under totalitarianism, trong đó để nhẹ nhà phê bình nhớn, Nobel văn chương một câu: In 2002, in Stranger Shores, J. M. Coetzee published a premature obituary on Škvorecký’s literary career, implying he was finished as a writer.
Chính là do đọc bài viết của Coetzee, chê thật nặng nề, mà Gấu bỏ qua ông này, cho tới khi đọc bài viết trên TLS số mới nhất, thì mới ngã ngửa ra rằng, ông, cũng công dân Canada, cũng cư dân Toronto như Gấu, và, cũng mê Faulkner, như Gấu, tuy nhiên, đã từng là ứng viên Nobel văn chương, chưa kể cả lô giải thưởng này nọ.

Xin giới thiệu một bài viết, từ website của ông. Tin Văn sẽ dịch bài này, tặng mấy đấng VC nằm vùng, "mấy thằng ngu có ích", "mấy đứa con nít không hề biết đùa với lửa có khi mang họa, cho tới khi lửa đốt rụi ngôi nhà Miền Nam của chúng!"
They are — if you'll excuse the platitude — like a child who doesn't believe that fire hurts, until he burns himself.
Bài trên TLS vinh danh Josef, nhiều câu tuyệt cú mèo, như để bù lại cho tác giả về những bất công mà  Coetzee đối xử với ông

*
A REVOLUTION IS USUALLY THE WORST SOLUTION
Cách Mạng là giải pháp khốn kiếp nhất, thường là như vậy!
In October 1981 Skvorecky participated in an international conference held in Toronto, on the subject of "The Writer and Human Rights". The participants included Margaret Atwood, Stanislaw Bardnczak, Joseph Brodsky, Allen Ginsberg, Nadine Gordimer, Susan Sontag, Michel Tournier, and many others. Skvorecky's speech was a disturbing reminder that "human rights" can be and have been abused by regimes of the left as well as of the right. To some left-leaning members of the audience, it was not what they had come to hear.
FRANKLY, I FEEL frustrated whenever I have to talk about revolution for the benefit of people who have never been through one. They are — if you'll excuse the platitude — like a child who doesn't believe that fire hurts, until he burns himself. I, my generation, my nation, have been involuntarily through two revolutions, both of them socialist: one of the right variety, one of the left. Together they destroyed my peripheral vision. When I was fourteen, we were told at school that the only way to a just and happy society led through socialist revolution. Capitalism was bad, liberalism a fraud, democracy bunk, and parliamentarism decadent. Our then Minister of Culture and Education, the late Mr. Emanuel Moravec, taught us this, and then sent his son to fight for socialism with the Hermann Goering SS Division. The son was later hanged; the minister, to use proper revolutionary language, liquidated himself with the aid of a gun.
When I was twenty-one, we were told at Charles University that the only way to a just and happy society led through socialist revolution. Capitalism was bad, liberalism a fraud, democracy bunk, and parliamentarism decadent. Our then professor of philosophy, the late Mr. Arnost Kolman, taught us this, and then gave his half-Russian daughter in marriage to a Czech Communist who fought for socialism with Alexander Dubcek. Later he fled to Sweden. Professor Kolman, one of the very last surviving original Bolsheviks of 1917 and a close friend of Lenin, died in 1980, also in Sweden. Before his death, he returned his Party card to Brezhnev and declared that the Soviet Union had betrayed the socialist revolution. In 1981 I am told by various people who suffer from Adlerian and Rankian complexes that the only way to a just and happy society leads through socialist revolution. Capitalism is bad, liberalism a fraud, democracy bunk, and parliamentarism decadent. Dialectically, all this makes me suspect that capitalism is probably good, liberalism may be right, democracy is the closest approximation to the truth, and parliamentarism a vigorous gentleman in good health, filled with the wisdom of ripe old age.
There have been quite a few violent revolutions in our century, most of them Communist, some Fascist, and some nationalistic and religious. The final word on all of them comes from the pen of Joseph Conrad, who in 1911 wrote this in his novel Under Western Eyes:
...in a real revolution — not a simple dynastic change or a mere reform of institutions — in a real revolution the best characters do not come to the front. A vio- lent revolution falls into the hands of narrow-minded fanatics and of tyrannical hypocrites at first. Afterwards comes the turn of all the pretentious intellectual fail- ures of the time. Such are the chiefs and the leaders. You will notice that I have left out the mere rogues. The scrupulous and the just, the noble, humane, and devoted natures; the unselfish and the intelligent may begin a movement — but it passes away from them. They are not the leaders of a revolution. They are its victims: the vic- tims of disgust, of disenchantment — often of remorse. Hopes grotesquely betrayed, ideals caricatured — that is the definition of revolutionary success. There have been in every revolution hearts broken by such successes.
I wonder if anything can be added to this penetrating analysis? The scenario seems to fit perfectly. Just think of the Strasser brothers, those fervent German nationalists and socialists: one of them liquidated by his own workers' party, the other having to flee, first to capitalist Czechoslovakia, then to liberal England, while their movement passed into the hands of that typical "intellectual failure", the unsuccessful artist named Adolf Hitler. Think of Boris Pilnyak, liquidated while those sleek and deadly scientific bureaucrats he described so well — who were perfectly willing to liquidate others to bolster their own careers — bolstered their careers, leaving a trail of human skulls behind them.
Think of Fidel Castro's involuntary volunteers dying with a look of amazement on their faces in a foreign country where they have no right to be, liquidating its black warriors who for years had been fighting the Portuguese. Think of the German Communists who, after the Nazi Machtübernahme (the grabbing of power), fled to Moscow and then, broken-hearted, were extradited back into the hands of the Gestapo because Stalin honoured his word to Hitler; the Jews among them were designated for immediate liquidation, the non-Jews were sent to Mauthausen and Ravensbrück.
It is all an old, old story. The revolution — if you don't mind another cliché — is fond of devouring its own children. Or, if you do mind, let me put it this way: the revolution is cannibalistic. It is estimated that violent Communist revolutions in our century have dined on about one hundred million men, women, and children. What has been gained by their sumptuous feast? Basically two things, both predicted by the so-called classics of Marxism-Leninism: the state that withered away, and the New Socialist Man.
The state withered away all right — into a kind of Mafia, a perfect police regime. Thought-crime, which most believed to be just a morbid joke by Orwell, concocted when he was already dying of tuberculosis, has become a reality in today's "real socialism", as the stepfathers of the Czechoslovak Communist Party have christened their own status quo. The material standards of living in these post-revolutionary police states are invariably lower, often much lower, than those of the developed Western democracies. But of course, the New Socialist Man has emerged, as announced.
Not quite as announced. Who is he? He is an intelligent creature who, sometimes in the interest of bare survival, sometimes merely to maintain his material living standards, is willing to abnegate the one quality that differentiates him from animals: his intellectual and moral awareness, his ability to think and freely express his thought. This creature has come to resemble the three little monkeys whose statuettes you see in junk shops: one covers its eyes, another its ears, the third its mouth. The New Socialist Man has thus become a new Trinity of the post-revolutionary age.
Therefore, with Albert Camus, I suspect that in the final analysis capitalist democracy is to be preferred to regimes created by violent revolutions. I must also agree with Lenin that those who, after the various gulags (and after the Grand Guignol spectacle of the Polish Communist Party exhorting the Solidarity Union to shut up or else the Polish nation will be destroyed — and guess who will destroy it), still believe in violent revolutions are indeed "useful idiots".
In the Western world, such mentally retarded adults sometimes point out, in defence of violence, that capitalism is guilty of similar crimes. Most of these crimes, true, have occurred in the past, often in the distant past, but some are happening in our own time, especially in what is known as the Third World. But to justify crimes by arguing that others have also committed them is, to put it mildly, bad taste. To exonerate the Communist inquisition by blaming the Catholic Church for having done the same thing in the Dark Ages amounts to an admission that Communism represents a return to the Dark Ages. To accuse General Pinochet of torturing his political prisoners, and then barter your own political prisoners, fresh from psychiatric prison-clinics, for those of General Pinochet is—shall we say—a black joke.
Does all this mean that I reject any violent revolution anywhere, no matter what the circumstances are? I have seen too much despair in my time to be blind to despair. It's just that I do not believe in two things. First, I do not think that a violent uprising born out of "a long train of abuses and usurpations, pursuing invariably the same object" which "evinces a design to reduce" men "under absolute despotism" should be called a revolution; because when such a revolution later produces another "long chain of abuses and usurpation" and people rise against it, to be linguistically correct we would have to call such an uprising a "counter-revolution". In our society, however, this term has acquired a pejorative meaning it does not deserve.
Second, I do not believe that any violent revolution in which Communists or Fascists participate can be successful, except in the Conradian sense as quoted above. Because, quite simply, I do not trust authoritarian ideologies. Every revolution with the participation of Communists or Fascists must eventually of necessity turn into a dictatorship and, more often than not, into a state nakedly ruled by the police. Neither Fascists nor Communists can live with democracy, because their ultimate goal, no matter whether they call it das Führerprinzip or the dictatorship of the proletariat, is precisely the "absolute despotism" of which Thomas Jefferson spoke. They tolerate partners in the revolutionary effort only as long as they need them to defeat the powers that be — not perhaps because all Communists and Fascists are radically evil but because they are disciplined adherents of ideologies which command them to do so, since that is what Hitler or Lenin advised. The Fascists are more honest about it: they say openly — at least the Nazis did — that democracy is nonsense. Lenin was equally frank only in his more mystical moments; otherwise the Communists use Newspeak. But as soon as they grow strong enough, they finish off democracy just as efficiently as the Fascists, and usually more so.
All this is rather abstract, however, and since individualistic Anglo-Saxons usually demand concrete, individual examples, let me offer you a few. In Canada there lives an old professor by the name of Vladimir Krajina. He teaches at the University of British Columbia in Vancouver and is an eminent botanist who has received high honours from the Canadian government for his work in the preservation of Canadian flora. But in World War II, he was also a most courageous anti-Nazi fighter. He operated a wireless transmitter by which the Czech underground sent vi- tal messages to London, information collected by the members of the Czech Resistance in armament factories, by "our men" in the Protectorate bureaucracy who had access to Nazi state secrets, and by Intelligence Service spies such as the notorious A-54. The Gestapo, of course, was after Professor Krajina. For several years, he had to move from one hideout to another, leaving a trail of blood behind him, of Gestapo men shot by his co-fighters, of people who hid him and were caught and shot. After the war, he became an MP for the Czech Socialist party. But his incumbency lasted for little more than two years. Immediately after the Communist coup in 1948, Professor Krajina had to go into hiding again, and he eventually fled the country.
Why? Because the Communists had never forgotten that he had warned the Czech underground against cooperating with the Communists. And he was right: he was not the only one to flee. Hundreds of other anti-Nazi fighters were forced to leave the country, and those who would not or could not ended up on the gallows, in concentration camps, or, if they were lucky, in menial jobs. Among them were many Czech RAF pilots who had distinguished themselves in the Battle of Britain and then had returned to the republic for whose democracy they had risked their lives. All this is a story since repeated in other Central and East European states. It is still being repeated in Cuba, in Vietnam, in Angola, and most recently in Nicaragua.
In a recent article in the New York Review of Books, V. S. Naipaul tells about his experiences in revolutionary Iran. He met a Communist student there who showed him snapshots of Communists being executed by the Islamic Revolutionary Guards and then told him about his love for Stalin: "I love him. He was one of the greatest revolutionaries.... What he did in Russia we have to do in Iran. We, too, have to do a lot of killing. A lot.... We have to kill all the bourgeoisie." For what purpose? To create a Brezhnevite Iran, perhaps? To send tens of thousands of new customers to the Siberian Gulag? But obviously the bourgeois don't count. They were useful when they fought the shah, as the Kadets had been in 1917 while they fought the czar. Now they are expendable. They have become "Fascists", just like the Barcelonian anarchists denounced in the Newspeak of the Communist press decades ago in Spain, as described by Orwell in Homage to Catalonia. They have become nonpeople. James Jones once wrote, "It's so easy to kill real people in the name of some damned ideology or other; once the killer can abstract them in his own mind into being symbols, then he needn't feel guilty for killing them since they're no longer human beings." The Jews in Auschwitz, the zeks in the Gulag, the bourgeoisie in a Communist Iran. Symbols, not people. Revolutionsfutter.
When Angela Davis was in jail, a Czech socialist politician, Jiri Pelikan, a former Communist and now a member of the European Parliament for the Italian Socialist Party, approached her through an old American Communist lady and asked her whether she would sign a protest against the imprisonment of Communists in Prague. She agreed to do so, but not until she got out of jail because, she said, it might jeopardize her case. When she was released, she sent word via her secretary that she would fight for the release of political prisoners anywhere in the world except, of course, in the socialist states. Anyone sitting in a socialist jail must be against socialism, and therefore deserves to be where he is. All birds can fly. An ostrich is a bird. Therefore an ostrich can fly. So much for the professor of philosophy Angela Davis.
So much for concrete examples.
In his Notebooks, Albert Camus recorded a conversation with one of his Communist co-fighters in the French Resistance: "Listen, Tar, the real problem is this: no matter what happens, I shall always defend you against the rifles of the execution squad. But you will have to say yes to my execution."
Evelyn Waugh, whom I confess I prefer to all other modern British writers, said in an interview with Julian Jebb, "An artist must be a reactionary. He has to stand out against the tenor of the age and not go flopping along; he must offer some little opposition."
All I have learned about violent revolutions, from books and from personal experience, convinces me that Waugh was right.
Nguồn


NMG vs Lưu Vong
Tiểu thuyết là gì?
Cái, tiểu thuyết có thể nói, bất cứ dạng nào khác không thể nói, là cái gì?
Đó là câu hỏi cơ bản mà Hermann Broch đã từng đặt ra, và Carlos Fuentes dùng để mở ra  bài viết có tên là Tiểu Thuyết, ở trong một cuốn tiểu luận sắp xếp các đầu vào giống như của một cuốn từ điển, Điều Tôi Tin, This I Believe, An A to Z of a Life.
Một trong những câu trả lời, của Fuentes, là:
Tiểu thuyết tái dẫn nhập con người vào lịch sử. Trong thứ đại tiểu thuyết, con người được giới thiệu, với định mệnh của nó.
The novel is a reintroduction of the human being into history. In the greatest of novels, the subject is introduced to his destiny

Bày tỏ quan niệm sáng tác của mình, Nguyễn Mộng Giác nói rất rõ và rất cụ thể. Theo ông, tiểu thuyết là “một thể loại văn chương nhằm thỏa mãn nhu cầu muốn ngóng chuyện thiên hạ của người đời. Người viết tiểu thuyết là người kể. Người đọc tiểu thuyết là người muốn nghe kể. Người kể chuyện, giống như ông thầy đứng trên bục giảng giảng bài cho sinh viên ngồi phía dưới, phải kể thế nào để người nghe hiểu được câu chuyện của mình, nghĩa là cả hai bên phải nói cùng một ngôn ngữ, dùng cùng một tần số cho tín hiệu phát và thu, có chung một trục qui chiếu của lý luận và phương cách diễn đạt. Mà theo tôi, căn bản của tiểu thuyết là chuyện thế sự, là chuyện con người và cuộc đời.”( Dẫn từ “Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử / Nam Dao & Nguyễn Mộng Giác”, Văn Học Cali số 197, 2002; đưa lên Da Màu 9/9/2008)
THT
Tiểu thuyết quả là để nhằm thỏa mãn nhu cầu hóng chuyện của độc giả, nhưng đây chỉ là một khía cạnh của nó. Vả chăng, tiểu thuyết như cái dạng hiện thời của nó, là con đẻ của Âu Châu. Đông phương, thí dụ như TQ, có thứ truyện cổ, truyền kỳ, diễn nghĩa.. không có tiểu thuyết. Còn cái ví von tiểu thuyết gia là ông thầy giáo, độc giả như anh học trò, thì nhảm quá, thứ nhất quá coi thường độc giả, và thứ nữa, méo mó nghề nghiệp, NMG đã từng là ông thầy giáo, và cái ông khen câu này cụ thể cũng là thầy giáo luôn, hình như thế, thứ nữa, cả hai ông đều đếch biết thế nào là tiểu thuyết! Và điều này chứng tỏ, cả hai ông đều là tiểu thuyết gia dở, và từ đó, chứng tỏ, Gấu ngày nào phán về NMG là có lý của thằng cha Gấu!
*
Một ông thầy, khi đứng trên bục giảng, cố tìm cách cho bầy học trò đang ngồi ở trong lớp hiểu một bài học mà ông thầy thật rành, và, tuỳ trình độ học sinh, ông thầy cố tìm một ngôn ngữ thích hợp, vừa trình độ với họ, làm sao dám so sánh chuyện dậy học như vậy, với chuyện viết văn?
Chính tác giả cũng chưa biết cái thứ tác phẩm của mình nó ra làm sao, ngôn ngữ của nó thì sẽ thế nào, làm sao mà thầy [tác giả], trò [độc giả] nói cùng ngôn ngữ?
Phán loạn cào cào châu chấu như vậy, mà cũng có người hò theo?
*
V/v chính tác giả cũng không biết ngôn ngữ tác phẩm của mình sẽ ra làm sao.
Khi trả lời tờ Lire, Rushdie cho biết, khi khám phá ra giọng nói của Saleem Sinai là ông sướng điên lên, và biết mình là nhà văn, sau 10 năm dò dẫm, “Je me souviens encore du sentiment d'exaltation qui me submergea quand je découvris la voix de Saleem Sinai ainsi que la mienne par la même occcasion. Rétrospectivement, j'ai toujours pensé que c'est ce jour que je devins enfin écrivain, après dix ans de tâtonnements.”
Nhưng câu trả lời tờ The Paris Review mới thật là tuyệt vời: (1)
Mỗi cuốn sách phải dậy cho bạn làm thế nào viết nó, nhưng thời điểm quan trọng nhất là khi khám phá ra giọng nói của cuốn sách…. Joseph Heller có lần nói, ông phải làm sao kiếm ra được một câu văn chứa một trăm câu văn ở trong nó. Và chuyện đó đã xẩy ra khi ông khởi sự viết Catch-22, đúng vào lúc ông ông viết câu văn, Yossarian falling in love with the chaplain. Câu văn nói cho ông biết, những câu sau sẽ ra như thế nào. (1)

INTERVIEWER
What was it about Saleem Sinai that released you?
RUSHDIE
I'd always wanted to write something that would come out of my experience as a child in Bombay. I'd been away from India for a while and began to fear that the connection was eroding. Childhood-that was the impetus long before I knew what the story was and how big it would become. But if you're going to have the child born at the same time as the country, so that they're twins in a way, you have to tell the story of both twins. So it forced me to take on history. One of the reasons it took five years to write is that I didn't know how to write it. One early version opened with the line, "Most of what mattters in our lives takes place in our absence." I meant that children don't come naked into the world, they come burdened with the accumulated history of their family and their world. But it was too Tolstoyan. I thought, If there's one thing this book is not,- it's Anna Karenina. The sentence is still there in the book somewhere, but I buried it.
The third-person narration wasn't working, so I decided to try a first-person narrative, and there was a day when I sat down and I wrote more or less exactly what is now the first page of Midnight's Children. It just arrived, this voice of Saleem's: quite savvy, full of all kinds of arcana, funny but sort of ridiculous. I was electrified by what was coming out of my typewriter. It was one of those moments when you believe that the writing comes through you rather than from you. I saw how to drag in everything from the ancient traditions of India to the oral narrative form to, above all, the noise and the music of the Indian city. That first paragraph showed me the book. I held onto Saleem's coattails and let him run. As the book developed, as Saleem grew up, there were moments where I felt frustrated by him. As he got older, he became more and more passive. I kept trying to force him to be more active, to take charge of events-and it just didn't work. Afterwards, people assumed the book was autobiographical, but to me Saleem always felt very unlike me, because I had a kind of wrestling match with him, which I lost.
INTERVIEWER
Have you written another book where the voice just arrives like that?
RUSHDIE
Each book has to teach you how to write it, but there's often an important moment of discovery. The only thing that's comparable was when I was writing Haroun and the Sea of Stories, in which the big problem was tone of voice, how to walk the line that would allow both children and grown-ups to get pleasure out of it. There was a particular day when, after some false starts, I wrote what is now the beginning of the book. And again I thought, Oh, I see, you do it like this: "There was once, in the country of Alifbay ... " I had to find that once-upon-a-time formula. Because the thing about the fable is that the words used are very simple but the story is not. You see this in Indian fables like the Panchatantra stories, in Aesop, and even in modern fables, like Calvino's books. You say something like, Once upon a time there was a cat who wore boots as high as his knees and used a sword. Words of one syllable, but the thing created is very strange.
Joseph Heller said that once in a while he would find a sentence that contained a hundred more sentences. That happened to him when he started Catch-22, the moment he wrote the sentence about Yossarian falling in love with the chaplain. That sentence told him where the rest of the novel was going. That happened to me when I wrote the beginning of Midnight's Children and Haroun. I had that light-bulb moment. But when I wrote The Satanic Verses I had hundreds of pages before I wrote the scene that is now the beginning of the novel, these people falling out of the sky. When I wrote that scene I thought, What's this doing here? This doesn't belong here.
 *
Thành thực mà nói, NMG không hề có một văn phong, và có vẻ như ông chưa từng bao giờ băn khoăn về chuyện văn phong. Gấu nhận ra điều này, tình cờ, lần qua Cali, tá túc tại nhà ông, và được ông cho coi bản thảo cuốn Sông Côn Mùa Lũ: Không hề có lấy một dấu vết sửa chữa, dù chỉ một câu văn! Ông viếr ra câu nào, là khỏi cần sửa. Khủng khiếp thật.
Lần đó, có cả Gấu Cái. Bả sửng sốt nói, thằng cha Gấu nhà tui chưa kịp viết ra, là đã lo sửa rồi! Mà nếu thấy tôi làng chàng đứng đó, là mặt một đống!
*
Tiểu thuyết tái dẫn nhập con người vào lịch sử. Trong thứ đại tiểu thuyết, con người được giới thiệu, với định mệnh của nó.
Câu của Fuentes, có thể áp dụng vào trường hợp NMG, qua những trường thiên tiểu thuyết của ông, như Sông Côn Mùa Lũ, Mùa Biển Động.
NMG là một nhà văn tham vọng cùng mình, không phải thứ nhà văn thường thường bậc trung như ông giả đò khiêm tốn.
Trong văn chương hiện đại, có hai tay bắt Nguyễn Huệ đội mồ sống lại để phục vụ cho tham vọng văn học & chính trị của họ, đó là Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Mộng Giác. Một ông, cho Quang Trung ra Bắc, sau khi đuổi Mãn Thanh, xong, nhớ chuyện Cao Biền dựng cột đồng, bèn nhét cứt vào miệng đám sĩ phu Bắc Hà, hy vọng chúng tỉnh ra, bớt ác đi; một ông muốn đổi hẳn căn cước, định mệnh Mít, thay vì Nam, thì Bắc tiến!
Cả hai đều thất bại. Trước NHT, đã có Vũ Trọng Phụng. Thất bại.
Với NMG, lực bất tòng tâm. NMG thiếu sức tưởng tượng của một nhà văn, theo Gấu. Nhà văn cần sự tưởng tượng, không phải chỉ để thực hiện tham vọng lớn, mà là thứ thật nhỏ, làm sao hoàn tất chỉ một câu văn, theo như Rushdie, khi trả lời The Paris Review, trên đây.
*
Trong những định nghĩa, tiểu thuyết là cái quái gì, bảnh nhất, chắc chắn là của Lukacs, và do đó, chúng ta nhận ra, tiểu thuyết là của Âu Châu.
Lưu vong và tiểu thuyết
Tiểu thuyết là để diễn tả về cõi không nhà siêu việt
(The form of the novel is, like no other one, an expression of transcendental homelessness)
G. Lukacs, Lý thuyết về Tiểu thuyết.
Hai lý thuyết về tiểu thuyết "dễ cảm nhận nhất" của thế kỷ chúng ta, một của Lukacs, một của Bakhtin, đều chất chứa những cảm quan về tình trạng vô gia cư, vô địa táng.
Với Lukacs: Hình thức tiểu thuyết, không như bất cứ một hình thức nào khác, là để diễn tả tính vô gia cư siêu việt. Nó là thể dạng thứ ba trong lịch sử văn chương Âu châu, sau hùng ca (epic), và bi kịch (drama, tragédie). Nó "cưu mang" (embody) cơn khủng hoảng cảm tính của Âu-châu. Cuộc Cách mạng Pháp và thời đại Nã Phá Luân cho thấy, những thường nhân - cuộc sống vốn chỉ quẩn quanh xó nhà, hoặc ở bên ngoài lịch sử - nhận ra một điều: họ có mắc míu tới lịch sử, hay ngược lại. Đây là những đòi hỏi mang tính "toàn trị" (totalitarian claims) đưa đến chủ nghĩa Marxism. (Bởi vậy, thật không có gì là cường điệu khi nói, chủ nghĩa Cộng sản là con đẻ của Cách mạng Pháp: lịch sử là "của chúng ta" chứ không dành riêng cho đám nhà nghề, hoặc giai cấp ở trên. Điều này giải thích tại sao cuộc cách mạng vô sản lại bắt đầu ở Nga, mà không ở một nước nào khác: giai cấp quí tộc Nga vẫn coi tiếng Pháp mới là thứ tiếng "đáng nói" nhất. Paris luôn luôn là thiên đàng của đám trí thức Nga, Cộng-sản hay không Cộng-sản. Nó cũng giải thích những mắc míu kéo dài tới tận bây giờ giữa những người Cộng-sản, chủ nhân mới của đất nước Việt Nam, và "ông thầy cũ" là nước Pháp.)
Không giống như những đạo quân "tiền nhiệm" của thế kỷ 18, vó ngựa viễn chinh của quân đội Nã Phá Luân mang theo thông điệp, suốt Âu-châu: ý thức chính trị của cuộc sống hàng ngày, của những con người bình thường. Lịch sử không còn là những thư khố, những ông hoàng. Tiểu thuyết của Scott đã manh nha sự thay đổi, với một cách nhìn mới mẻ về sức nặng và sự đa dạng của sự kiện lịch sử. Lukacs là người đầu tiên chỉ ra điều này.
Ông là người Hungary, lớn lên tại thủ đô Budapest (Từ điển bách khoa toàn thư Cassell: Lukács Georg 1885-1971, triết gia Hungary, một trong những sáng lập viên của chủ nghĩa Marx 'Tây-phương' hay "Hegelian', một dòng triết chống lại với chủ nghĩa Marx của khối CS chính thức). Kinh nghiệm "không có nhà" của ông là do thời gian lưu vong tại Áo, Đức, và Liên-bang Xô-viết, hai thời kỳ bị rẻ rúng, "nghỉ chơi với mi", bên trong Đảng CS Hung, rồi bị đầy đi Romania sau cuộc Cách Mạng Hung vào năm 1956. Ông gia nhập Đảng CS là vì muốn "vượt" "ý thức không nhà siêu việt": giấc mơ thiên đường CS mới "hoành tráng" làm sao đối với ông!
Trong Lý thuyết về Tiểu thuyết (1916), lưu vong có nghĩa: trục xuất ra khỏi Hy Lạp cổ. Theo chân Hegel, Lukacs tin rằng thế giới Hy Lạp trở thành ngạt thở đối với những thời đại tiếp theo sau nó. Đây là một thế giới khép kín. Chúng ta không thể thở được nữa trong một thế giới khép kín. Hùng ca Homer do đó mở đường cho tiểu thuyết. Tiểu thuyết: hùng ca của một thế giới bị thần thánh bỏ rơi. Nói một cách khác, tiểu thuyết bắt đầu cùng với cái chết của thượng đế. Tiểu thuyết bắt đầu cùng với giấc mơ của con người: tìm lại tính siêu việt đã mất. Những xã hội nặng chất tôn giáo không phải là môi trường thuận lợi của giả tưởng, là vậy. Don Quixote (của Cervantes) cho thấy một điều: thần Ky-tô đã tự ý vắng mặt, ra khỏi thế giới, và những cá nhân con người bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa và bản chất, và chỉ có thể tìm thấy, trong cái linh hồn "vô gia cư vô địa táng" của họ.
Tiểu thuyết, theo Lukacs, là hình thức văn chương chính, la principale forme littéraire, của một thế giới trong đó, con người cảm thấy không ở nhà của mình, mà cũng không hoàn toàn xa lạ. Chỉ có tiểu thuyết, khi có sự đối nghịch cơ bản giữa con người và thế giới, giữa cá nhân và xã hội. Hùng ca diễn tả sự tràn đầy của linh hồn và của thế giới, của bên trong và bên ngoài, đó là một vũ trụ mà những câu trả lời đã có sẵn, trước khi những câu hỏi được đặt ra, một vũ trụ có hiểm nguy, nhưng không có hăm dọa, có bóng râm nhưng không có tối mù... Dùng một hình ảnh của ông, giữa văn chương của tuổi thơ và của thời trai trẻ (hùng ca) và văn chương của ý thức và của cái chết (bi kịch), tiểu thuyết chính là thể loại văn chương của sự trưởng thành hùng tính (Le roman est la forme de la maturité virile).
Vẫn theo ông, không một nhà văn nào có thể tạo nên một tác phẩm có giá trị, nếu đặt để trong đó, những câu hỏi, những vấn đề mà chính anh ta đã vượt qua. Bởi vậy, nhân vật chính ở trong tiểu thuyết là một kẻ vấn nạn (un être problématique), một tên khùng, hay một tội phạm, bởi vì anh ta luôn tìm kiếm những giá trị tuyệt đối mà chẳng hề biết; sống hết mình với chúng, chính vì vậy mà không thể tới gần. Một cuộc tìm luôn luôn tiến mà chẳng tới, một chuyển động mà Lukacs định nghĩa bằng công thức: "Con đường tận cùng, cuộc hành trình bắt đầu" (Le chemin est fini, le voyage est commencé).
NQT
*
Người viết tiểu thuyết là người kể.
NMG
Câu khẳng định này, hơi bị mơ hồ.
Người viết tiểu thuyết, là tác giả cuốn tiểu thuyết.
Còn người kể, thì còn tuỳ.
Bởi vì, như Simenon trả lời The Paris Review: Mọi nhà văn cố tìm hắn ta qua những nhân vật của hắn, qua tất cả những gì hắn viết ra. Như thế, tất cả những nhân vật trong tiểu thuyết đều là nhà văn, và đều là người kể!
Người kể ở đây, chắc là NMG muốn nói tới “the narrator”. Mà như chúng ta đều biết, có nhiều “narrator”, hoặc ở ngôi thứ nhất, ngôi thứ nhì, ngôi thứ ba, ngôi thứ nhất số nhiều… vv và vv… Đám tiểu thuyết mới, Butor chẳng hạn, khoái dùng ngôi Vous, You, Bạn… Có người khoái ngôi thứ nhất, tôi, cho ra cái vẻ tự truyện.
Người đọc tiểu thuyết là người muốn nghe kể.
Chưa chắc. Bởi vì người đọc, khi nhập đồng, nhập vào nhân vật kể, và trở thành người kể. Thứ tiểu thuyết độc thoại nội tâm, thí dụ, người đọc thường dễ trở thành người kể. Độc thoại mà!


“La Peau”de Malaparte
Thua ai, thua anh bộ đội Cụ Hồ, thì còn vinh dự nào bằng!
Tuy nhiên, mọi thứ, hễ anh sờ vô, là trở thành hư ruỗng.
Anh vừa mới cười với một cô gái trong trắng, xong, là cô ta biến thành điếm!
Một khi mọi lý tưởng chỉ là cứt đái, thì lá cờ độc nhất, cho một con người, là làn da của chính anh ta.

"Không gian chính trị có giới hạn của Việt Nam đang ngày càng thu hẹp. Chính quyền đã trấn áp cộng đồng mạng, đóng cửa các website và cầm tù những người thông qua mạng internet để thách thức đảng Cộng sản".
BBC
Nhận định trên đây, cũng còn là nội dung bài diễn thuyết, Viết trong Bóng tối, Writing in the Dark, của David Grossman, The Arthur Miller Freedom to Write Lecture, New York, April 24, 2007 [Hình như có cả Dương Thu Hương tham dự, như là thành viên, và đại gia Trịnh Lữ, quan sát viên..?].
Grossman nhớ tới những lời của chú chuột, ở trong một ngụ ngôn nhỏ, ‘A Little Fable’, của Kafka. Khi cái bẫy ngày càng thắt lại, con mèo gầm rú ở bên ngoài, chú chuột nói, “Than ôi, thế giới ngày càng thu hẹp lại”. [Alas, the world is growing smaller everyday].
Sau bao nhiêu năm sống trong cực điểm của chế độ bạo tàn về chính trị, quân sự, tranh chấp tôn giáo, tôi [Grossman] thật buồn mà báo cáo với quí vị là con chuột của Kafka có lý: thế giới ngày càng nhỏ lại. Tôi có thể nói với quí vị về khoảng trống, the void, ngày càng mở ra, giữa cá nhân và nhà nước bạo tàn, và cái khoảng trống này thì không trống rỗng, empty. Nó ngày một đầy ứ lên, bởi sự lãnh đạm, thói đểu giả, cynicism, và trên tất cả, sự chán chường, thất vọng. Sự chán chường thất vọng khiến con người chẳng còn muốn cựa quậy nhằm thay đổi hoàn cảnh, và 'khủng' hơn nữa, nỗi tuyệt vọng về con người, về chuyện tại sao con người lại thoái hoá, băng hoại tới mức như thế, trong cách cư xử giữa con người.
Grossman nói thêm, con chuột của Kafka có lý, khi kẻ ăn thịt chờn vờn trước mặt bạn, thế giới của bạn càng thêm nhỏ hẹp lại.
Và, cũng vậy, là ngôn ngữ mô tả thế giới, nó cũng thu hẹp lại.


100 năm ngày sinh của Simone Weil

Co ai "noi nang" chi may bai cua Weil khg vay?
Khg biet co ai kien nhan doc?
Phúc đáp: Cần gì ai đọc!
Tks. Take care. NQT
*
Date: Tuesday, March 31, 2009, 5:05 PM
Bac viet phach loi nhu the nay - ky qua...
*
Thi phai phach loi nhu vay, gia roi
*
Gia roi phai hien ma chet!
Đa tạ.
Nhưng phách lối đâu bằng Steiner: Ta là bọ chét trong lông sư tử mà thôi


Sao bac ghet talawas...?
Communism calls to the nobler impulses of the human heart, yet in its nature there is something that "breeds lies, makes people lie and twist facts, imposes deception." Why should that be so? Lessing cannot say. "These are deeper waters than I know how to plumb" (p. 65). What she does know is that she gave her allegiance to the Party. The Party chose her to visit Russia as a member of what was supposed to be a representative delegation of British intellectuals and she went. Out of dedication to the greater cause, she did not afterward publish the truth about what she saw in Russia, even though she (now) records that at least one ordinary Russian was prepared to risk his life to tell the delegation that what they were being shown was a lie. She was no mere rank-and-file member: she served on the committee of a Party Writers' Group. ("Accustomed as I am to being in a false position - sometimes I think it was a curse laid on me in my cradle - this was the falsest”, she writes forty years later.) She even wrote fiction according to the Party's prescription - for instance, the oft-anthologized story “Hunger” ("I am ashamed of it," she writes now) (pp. 95, 78).
THE AUTOBIOGRAPHY OF DORIS LESSING
Chủ nghĩa CS, mặt trời chân lý chói qua tim, làm tim đập nhoi nhói những nhịp đập thật bảnh, thật người, nhưng quái quỉ thay, có một cái gì thật tởm lợm ở trong nó, nó nuôi dưỡng dối trá, khiến người ta dối trá, vặn vẹo sự thực, đặt để lường gạt. Lessing tự hỏi, bà tự trả lời, nước sâu quá, gầu của tôi không làm sao tới.
Coetzee khều nhẹ lại, nhưng bà biết rõ chuyện, nhờ nó mà bà vô Đảng…
Cái sự Chống Cộng của đám Yankee mũi tẹt hải ngoại, qua diễn đàn tà ma ác quỉ, có cái gì đó lấn cấn, y chang thái độ của Lessing. Họ đều đã từng hưởng ơn mưa móc của chế độ, đã từng bệ về nhà mình, “cái gọi là” chiến lợi phẩm, sau khi ăn cướp được Miền Nam, thành thử há miệng mắc quai. Chắc chắn như vậy.
Liệu chúng ta đã từng, nghe, đọc, một trong những tên này thốt lên, như Lessing: Tôi xấu hổ vì chuyện đó?
Hình như, độc nhất, chỉ có Bùi Tín, dám nói ra, tôi sám hối?
*
Tui tin rằng, có vài cô bé, trong có tui, nên học thực tập yêu với một người đàn ông lớn tuổi hơn, khi họ ở cái tuổi ô mai.

Stalin khốn kiếp hơn Hitler cả hàng ngàn lần. Nếu những trí thức gia như Heidegger, và Paul de Man, bị xét xử vì tội phò Nazi, tại sao lũ khốn khóc Stalin không bị trừng trị?
Mà, quái quỉ thật, chẳng ai để ý đến chuyện này?
Trong cả ba nhà văn nổi tiếng nổi lên từ Nam Phi, chẳng có ai học xong trung học, cả ba đều tự học tới chỉ, và trở thành những nhà trí thức đến tận lỗ chân lông. Điều này cho thấy, sự quyết tâm, của những người trẻ tuổi ở mép bờ của đế quốc, bởi vì họ tin rằng chỉ có cách đó, mới có được cuộc sống mà họ thèm khát: cuộc sống của trí tưởng.
*
Nếu nói về ngổ ngáo, độc miệng, yêu quái dị, thì TTNgh. thua bà Lessing này.
Bà gọi phê bình gia là lũ chấy rận hút máu mủ nhà văn.
Yêu quái dị: she records, she has been more interested in the "amazing possibilities" of the vagina than in the "secondary and inferior pleasure" of the clitoris. "If I had been told that clitoral and vaginal orgasms would within a few decades become ideological enemies ...I'd have thought it a joke.": Tôi quan tâm đến những chiêu yêu quái dị của cái cửa mình, hơn là cái lạc thú thứ cấp, và nội tại, của cái hột le. Nếu có người nói với tôi, cái hột le và cái cửa mình người đàn bà, chỉ trong vài thập kỷ, sẽ trở thành những kẻ thù ý thức hệ, thì tôi nghĩ đây chỉ là một chuyện khôi hài."
As someone whose life has had a substantial public and political component, Lessing confesses a certain respect for people who don't write memoirs, who "have chosen to keep their mouths shut." Why then her own autobiography? Her answer is candid: "self-defense." At least five biographers are already at work on her. "You try and claim your own life by writing an autobiography".
Bà thú nhận, rất phục những người không viết hồi ký, tự thuật, những người chọn cái chuyện ngậm miệng ăn tiền. Như vậy tại sao bà lại viết. Câu trả lời cũng thật là ngây thơ, thành thật: Tự vệ.
*
Lại nói về yêu quái dị.
Hồi ở trại tị nạn chuyển tiếp Thái Lan, trong lúc chờ phái đoàn phỏng vấn, tái định cư tại một đệ tam quốc gia, vào một buổi trưa nóng nực, Gấu nghe một bà hàng xóm nói oang oang, hồi còn con gái, rồi hồi mới lấy chồng, bà hay thẹn, chẳng bao giờ dám nhắc tới chuyện phòng the, hay những chuyện tục, nhưng ông chồng của bà lại rất thích nói tục, làm tục, ổng biểu, phải tục, thật tục, như con vật thì mới sướng hết cỡ thợ mộc như là con người vào những giây phút như thế đó.
Thế rồi bà kể tiếp, ông chồng bà có một thói quen, khi ngủ, bắt bà phải nựng thằng nhỏ, "ru mãi ngàn năm", thì mới dỗ giấc ngủ của thằng lớn được!
Lúc đầu, tui ngượng quá, tuy chỉ có hai vợ chồng. Nhưng sau đó, tui ghiền, cứ mỗi lần nằm ngủ, là phải nựng thằng nhỏ mới ngủ được!
Đau khổ nhất, là, những ngày sau đó, ổng chán tui, cứ hất tay tui ra, không cho nựng thằng nhỏ nữa.
Ôi chao, sao khủng khiếp quá, không hẳn tui ghen, mà tôi thèm nựng thằng nhỏ!


The Lost Domain
Cuộc vạn lý trường chinh của Kadaré

Quê hương tưởng tượng

Kỷ niệm đẹp trong đời viết văn

Đọc loáng thoáng cuốn Vera, của tay Stacy Schiff, Gấu mua xon, từ đời nào, viết về bà xã của Nabokov, vớ được một ‘giai thoại’ thật thần sầu. Vera, một lần, khi một nhà xb xin chân dung ông chồng, đã gửi đi một tấm, khi Nabokov còn là một đứa con nít, kèm ghi chú: "Bạn cứ nhìn vào mắt thằng bé con này, là thấy ra tất cả những tác phẩm của ông chồng tôi".
[If U look carefully into the baby’s eyes, U can see all of my husband’s books].
Kể cho Gấu Cái nghe, bả bĩu môi, sao hay bằng câu của ta. Mà mi đâu có nhớ?
Gấu, nhớ.
Lần đó, tờ Sóng Văn của tay Sao Mai, Gấu cộng tác, qua sự giới thiệu của nhà thơ LH, có làm một cuộc phỏng vấn, không phải nhà văn, mà vợ nhà văn. Gấu Cái trả lời, có hai câu thật bảnh.
Kỷ niệm nhớ đời, trong cuộc đời làm vợ nhà văn nhớn, Gấu Nhà Văn.
Đó là lần rước dâu, từ Cai Lậy về Sài Gòn. Năm đó, lụt lớn [1966, hay 67, Gấu không nhớ rõ].(1)  Có những đoạn đường phải dùng đò. Trên đò, có đủ khổ đau, đủ dùng, không chỉ đời này, mà còn cho đời sau, không chỉ cho “hai”, mà “ba” người ngồi trên đò.
Gấu nhà văn chỉ có vài truyện ngắn, vậy mà có đến vài hình dáng đàn bà…?
Ôi dào, toàn là bản nháp không à. Bản thực sự, viết về tui, ông ta không đủ tài viết ra.
*
Câu của Gấu Cái quả là bảnh hơn nhiều, nếu phải so với câu của Vera.
Bạn có nhớ con thuyền Noé?
Và cuộc di tản ra biển sau 1975?
*
Câu của Vera, còn thua cả câu của Sáu Dân, ngay sau khi giải phóng Sài Gòn.
Nhìn vào vầng trán cháu ngoan Bác Hồ thành phố, thấy cả tương lai Mít.
(1) Gấu Cái đọc, đoạn trên, bực quá, chửi, lấy nhau năm nào, mà mi cũng quên ư?


Simenon trả lời tờ The Paris Review
Cách đây chừng một năm, cỡ đó, ông và tôi có nghe một tay phê bình ‘yêu cầu’, tiểu thuyết bây giờ nên trở về với thứ tiểu thuyết viết trong thế kỷ 19.
Không thể được, hoàn toàn không thể được, theo tôi. Bởi vì chúng ta sống trong một thời mà nhà văn không bị rào cản và họ tha hồ vẽ vời, trình bầy nhân vật của họ. Bạn có thể vẽ ra một cuộc tình qua một câu chuyện thật dễ thương, 10 tháng đầu tiên của một cặp tình nhân, như trong văn chương đời xửa đời xưa. Rồi bạn có một kiểu thứ nhì của chuyện tình: cặp tình nhân bắt đầu thấy thấm đòn của nhau, và cảm thấy chán, đó là thứ văn chương cuối thế kỷ vừa rồi, và nếu bạn đi tới chút nữa, người đàn ông lúc đó chừng năm chục tuổi, và anh ta cố kiếm ra một cuộc đời thứ nhì, người đàn bà ghen, và bạn còn có thêm những đứa trẻ làm vướng cẳng họ nữa, và đó là kiểu thứ ba. Chúng ta đang ở kiểu thứ ba này. Chúng ta không ngưng lại, khi họ lấy nhau, chán nhau, chúng ta đi tới tận cùng.
Qua cái nối kết liên tục như thế, tôi thường nghe người ta nói về bạo lực trong văn chương hiện đại. Tôi cũng khoái bạo lực, nhưng tôi muốn hỏi, tại sao ông viết về nó?
Chúng ta quen với chuyện, đẩy con người tới giới hạn của họ.
Và bạo lực liên can tới chuyện đó?
Nhiều hoặc ít. Chúng ta không còn nhìn con người theo cái nhìn của triết gia; trong một thời gian dài, con người luôn được quan sát theo cái kiểu có một Ông Trời, và người đàn ông này là ông vua của sáng tạo. Chúng ta hết còn coi người đàn ông này là ông vua của sáng tạo. Chúng ta nhìn người đàn ông hầu như mặt nhìn mặt. Một số độc giả vẫn muốn đọc thứ tiểu thuyết tạo sự an tâm, chúng đem đến cho họ một cái nhìn thoải mái về nhân loại. Chuyện đó hết rồi.
Và nếu độc giả đọc ông, ấy là vì ông làm cho họ hiểu ra được những rắc rối, khó khăn, troubles, của họ? Vai trò của ông là nhìn vào chính mình và-
Đúng vậy. Nhưng không phải chỉ là vấn đề, nghệ sĩ lục lọi họ, mà còn lục lọi người khác, với kinh nghiệm của chính anh ta. Họ viết với lòng thân ái, vì họ cảm thấy người khác thì như họ.
Giả như không có độc giả, ông vẫn viết?
Hẳn nhiên rồi. Khi tôi bắt đầu viết, tôi không hề nghĩ sách của mình bán được. Hay nói rõ hơn, đúng hơn, khi tôi bắt đầu viết thứ văn thương mại - những câu chuyện cho báo chí, và những thứ như vậy - để kiếm tiền sống, tôi không gọi những thứ đó, là viết. Nhưng mỗi buổi tối, tôi viết lăng nhăng, cho chính mình,  chẳng hề có ý nghĩ những thứ đó sẽ được đem ra in, xuất bản.
Ông có lẽ là một trong những người có quá nhiều kinh nghiệm viết thứ văn thương mại. Như vậy thì đâu là khác biệt giữa thương mại và không thương mại?
Tôi gọi ‘thương mại’, không chỉ trong văn chương, nhưng còn trong âm nhạc, hội hoạ, và điêu khắc - bất cứ một nghệ thuật – thứ được làm ra cho một thứ công chúng, xuất bản, tuyển tập, như thế đó. Lẽ dĩ nhiên, ngay văn thương mại cũng có thứ bèo, thứ khá hơn bèo. Những cuốn sách của tháng, thí dụ; tuy nhiên, thứ này, cũng có những tác phẩm được làm tới nơi tới chốn, chẳng thua gì tác phẩm nghệ thuật, thứ bảnh nhất. Không hẳn hoàn toàn như vậy, nhưng cũng xém một tí! Cũng thế, với những tạp chí, có những bài viết thật tuyệt. Nhưng hiếm, cực hiếm, thứ bảnh thật bảnh, ấy là vì, khi nghệ sĩ viết thứ thật bảnh, họ không hề có trong đầu cái ý nghĩ, mình viết cái này ra là để làm hài lòng thằng cha, con mẹ độc giả nào!

Đỉnh cao chói lọi