*
 




Great as a playwright, novelist and poet, Samuel Beckett also wrote letters of enduring worth
Thư gửi bạn ta của Beckett
Note: Chắc thua của nhà biếm văn Mít số 1 hải ngoại, BBT!
*
But that makes the letters of these years all the more precious. Beckett, by all accounts, was the most courteous of men, and it seems that even at the height of his fame he still tried to answer as courteously as he could the hundreds of letters he received. But the sixty-year-old smiling (or, more often, in the photos we have of him, scowling) public man now knew exactly where his priorities lay: after spending the mornings on his correspondence he would devote the afternoons to his own writing. In the 1930s, however, there was no public man, and we have to see the letters as merely one of many ways in which an ambitious, confused and tormented young writer attempted to discover who he was and what it was he wanted out of life and art. These early letters, in other words, are, like the early poems and stories, in the strict sense essais, the trying out of a voice, a tone, even, at times, another language.
*
Số TLS 13 March 2009 có vài bài thú vị. Bài về Valery: Đại gia của các đại gia [Myths of France: Những huyền thoại của nước Tây mũi lõ], như T.S. Eliot nâng bi ông: nhà thơ đại diện của nửa đầu thế kỷ 20 ("không phải Rilke, không phải Yeats, không phải bất cứ một ai khác"). Cuốn tiểu sử mới nhất về Valéry, của Michel Jarrety, "hoành dương" cú nâng bi của Eliot [This new biography broadens the specification]: Một cái đầu lỗi lạc, uyên bác, móc nối nhất, best-connected, của thời của ông ta, nhà trí thức Tây mũi lõ tối hậu; the ultimate French intellectual, le contemporain capital...
Bài về điệp viên Anh trong lực lượng SOE [Special Operations Executive], những chiến sĩ bí mật của Churchill, Churchill's secret Warriors, trong Đệ Nhị Chiến, cũng tuyệt.
Nhân đọc những lá thư của Beckett, TLS cho đăng lại bài điểm kịch Trong Khi Chờ Godot, 1956, khi Beckett vừa xuất hiện trên nền trời văn học Âu Châu, cũng thật tuyệt. Liền lập tức TLS đã ngửi ra nhà vô địch của một cõi hàm hồ,
champion of ambiguity.
Trong những bài văn tự sự, [MolloyWatt, tiếp theo sau Godot], Mr. Beckett trình bầy hình ảnh ngược ngạo, paradoxal figure, của một người rất có tài, và có thể, một thiên tài, sử dụng tất cả những tài năng trời cho mình với một kỹ năng lớn lao để đẩy độc giả của mình tới tình trạng chán ngán mệt mỏi, buồn cật lực, a state of tired disgust and exasperated boredom.... Thông điệp của Beckett như là một tiểu thuyết gia có lẽ là một sự chán ngán trần trụi, a blank despair, và thông điệp của Godot, thì gần gụi với một sự an ủi mang tính tôn giáo, a message of religious consolation.

"Chẳng có gì xẩy ra. Chẳng ai tới. Chẳng ai đi. Thật đáng sợ. Nhưng mà,"


*&

Trân trọng giới thiệu tác phẩm mới nhất của Thảo Trường
Bià Nguyễn Đồng & Nguyễn Thị Hợp


Nam nay ky niem 100 ngay sinh cua Simone Weil, cac nha xb ra ca chuc quyen sach ve ba - co 1 chi tiet cam dong: Camus kinh phuc S. Weil, sau khi duoc giai Nobel, ve di tham mo^. Simone.
Bac khoe khong?

*
Prodigieuse anecdote pour terminer: Il vient d’apprendre que la première chose que Camus a faite à son retour du prix Nobel, c’était d’aller se recueillir sur la tombe de Simone Weil. Prodigieuse anecdote pour terminer.
Một giai thoại tuyệt vời để kết thúc... Mắt nhà thơ đỏ hoe: Milosz vừa được biết, vừa đi lãnh Nobel về là Camus ra mộ Simone Weil để thăm viếng .
[Nhờ Milosz mà tôi hiểu ra được rằng], để cho lời dối trá trở thành sự thực, thì cứ phải để chính nạn nhân nói ra 'sự thực' đó!
*

Après le déjeuner dont il est question ici, tandis que Kundera rejoint ses étudiants des Hautes Etudes, Milosz devient prolixe et tout excité à l’idée de parler de Simone Weil. Il m’apprend quelque chose qui, je crois, est encore ignoré. Il avait décidé de traduire un livre de Raymond Aron, qui lui aussi l’avait bien reçu à Paris. Mais, au milieu de son travail, il a décidé de s’arrêter en découvrant qu’il n’était décidément pas suffisamment d’accord avec le livre qu’il traduisait, et que son univers était décidément plus proche de celui de Simone Weil et de Camus que de celui d’Aron. Au moment de me quitter, ce poète au port impérial a, me semble-t-il, les yeux humides. Il vient d’apprendre que la première chose que Camus a faite à son retour du prix Nobel, c’était d’aller se recueillir sur la tombe de Simone Weil. Prodigieuse anecdote pour terminer. Ils sont à Paris et ils sont jeunes. Ils n’osent pas encore penser qu’ils ont du génie. Ils ne sont pas reconnus. Ils en souffrent. Ils renient le stalinisme. On le leur fera payer. Ils se rencontrent. Camus, Milosz et Octavio Paz passent quelques soirées ensemble. Plus tard, bien plus tard, ils auront tous les trois le prix Nobel... 

Personnellement, et entre bien d'autres choses, je dois à Milosz d'avoir compris ce qu’étai l'importance réelle de l'aveu dans la discipline totalitaire. On s’est demandé pourquoi, dans les procès de Moscou, de Budapest, de Prague et d’ailleurs, les procureurs mettaient tant d’acharnement à obtenir que les accusés se chargent de fautes qu’ils n’avaient pas commises. Pourquoi surtout leur fallait-il persuader leurs accusés et le monde entier qu’ils demeuraient tout de même quelque part coupables? C’est Milosz qui le premier montre que, pour que ce mensonge devienne vérité, il était indispensable qu’il fût confirmé avec éclat par les victimes elles-mêmes.

http://hebdo.nouvelobs.com/hebdo/parution/p20040819/articles/a247752.htm
Ses idées (S. Weil) ont influencé beaucoup de penseurs, parmi lesquels Susan Sontag, Alfred Kazin et Czeslaw Milosz.  Le New York Times a décrit Simone Weil comme “l'un des esprits les plus brillants et originaux de France du vingtième siècle » mais   son plus grand admirateur était sans aucun doute Albert Camus qui a joué un rôle majeur dans la publication de son ouvrage après la guerre.
Những tư tưởng của bà ảnh hưởng tới nhiều tư tưởng gia, trong số đó có Susan Sontag, Alfred Kazin và Czeslaw Milosz. Tờ NY Thời Báo miêu tả bà, “một trong những tinh thần sáng chói nhất, uyên nguyên nhất của nước Pháp thế kỷ 20”, nhưng người ngưỡng phục bà nhất chắc chắn phải là Albert Camus, ông đã giữ một vai trò chủ chốt trong việc xuất bản tác phẩm của bà thời kỳ sau chiến tranh.

http://www.linestreet.net/frbackground.html
Tks. NQT
*
Trong tình bạn tuyệt vời giữa Camus và Milosz, có sự kính trọng của cả hai với S. Weil.  Khi Milosz bỏ chạy quê hương Ba Lan của ông, xin tị nạn tại
Paris, không ai thèm chơi với ông, ngoài Camus, như Milosz kể lại trong một entry, trong cuốn ABC của ông. Nhân đây, post bài viết, cũng là một cách tưởng niệm Weil nhân 100 năm ngày sinh của bà.

Camus, Albert
*
But perhaps the deepest sense of Milosz’s political impact lies elsewhere; following in the great Simone Weil’s footsteps, he set forth a model of thought linking metaphysical passion with responsiveness to the plight of the simple man.
Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu xa nhất của thái độ chính trị của Milosz thì nằm ở một nơi nào đó; theo gót những bước chân của Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho mình một kiểu suy nghĩ, nối liền đam mê siêu hình với sự nhủ lòng, trước số phận của một con người bình thường.
Trí tuệ và những bông hồng
Thánh Simone

Sự câm lặng.

Chuyện xưa, một ông vua giấu sáu cậu con trai và một cô con gái vào trong rừng, vì bà vợ sau của ông vốn là một mụ phù thuỷ. Tuy nhiên bà phù thuỷ cũng tìm ra sáu đứa nhỏ, và ném lên mình chúng sáu chiếc áo sơ mi bằng lụa đã được phù phép, biến chúng thành sáu con thiên nga. Bà không biết sáu anh em còn một cô em gái. Cô bé đi tìm anh. May mắn làm sao, cô gặp được, bởi vì mỗi ngày họ có mười lăm phút trở lại dạng người. Khi từ giã, cô được mấy người anh cho biết: mấy người anh chỉ có trở lại làm người, khi cô ném lên mình họ sáu chiếc áo, do chính tay cô đan trong sáu năm, bằng một thứ cỏ gai.
Trong sáu năm ròng rã đó, cô không được cười, không được nói.
Cô bắt tay ngay vào việc.
Rồi một ngày đẹp trời, một ông vua ghé qua, và nhận ra một nhan sắc. Hỏi thế nào cũng không nói. Nhưng điều này không làm ông vua đổi ý, khi quyết định cưới cô làm vợ. Và họ có được một đứa con trai. Bà mẹ sai người bắt đứa bé, vu cho cô làm chết nó. Đối lại những lời cáo buộc, chỉ là sự câm lặng. Đứa bé thứ nhì, thứ ba, cũng vậy. Cô lặng câm, cặm cụi cúi xuống manh áo đang đan. Ông vua, dù lúc nào cũng thương vợ, nhưng đành phải kết tội chết. Ngày cô lên giàn hỏa cũng là ngày cuối cùng của thời hạn nghiệt ngã. Khi sáu con thiên nga xuất hiện, cô ném sáu chiếc áo lên mình chúng và lời nguyền hết linh. Cậu út, vì chiếc áo chưa kịp đan xong, vẫn lủng lẳng một cánh thiên nga.
Trên đây là tóm tắt một chuyện cổ (conte) của Grimm [Jakob Ludwig Karl 1785-1863, người Đức, cùng với người anh là tác giả Những Chuyện Thần Tiên (Fairy Tales, 1812-14) dựa theo chuyện kể dân gian].
 Và sau đây là tóm tắt chú giải của Simone Weil.
Bà cho rằng, trong những tư tưởng tuyệt vời của Platon, có những tư tưởng ông kiếm được, nhờ suy nghiệm về những huyền thoại. Bà tin rằng, những huyền thoại của chúng ta cũng có những tư tưởng đẹp. Và bà đã thử chọn lựa một cách thật tình cờ, chuyện sáu con thiên nga của Grimm, sau khi cẩn trọng người đọc: sẽ là thực những gì tôi sẽ nói.
Chúng ta phải để ý tới cái thời điểm mà người em gái ném lên mình những con thiên nga những chiếc áo cỏ. Bằng một cú ném áo, họ đã bị trù yếm; cũng bằng một cú ném áo như vậy, họ được giải thoát. Họ bị biến dạng đâu phải do lỗi của họ, và họ trở lại làm người, là do lòng yêu thương của cô em. Nếu họ bị biến dạng do những lỗi lầm mà họ đã phạm, có thể họ sẽ phải trải qua đau khổ, rồi mới được trở lại làm người. Trong câu chuyện, họ nhận điều xấu cũng như điều tốt, là từ bên ngoài. Câu chuyện sẽ khác hẳn, nếu cô em gái đi tìm một thứ dược thảo thần kỳ. Như vậy dược thảo cứu họ, chứ không phải cô em. Chúng ta tưởng rằng những chiếc áo cỏ đã giải thoát họ, không phải vậy. Chính cô em gái, bằng khổ nạn mà cô đã tự ôm lấy: cặm cụi đan áo cỏ trong sáu năm, không được cười, không được nói. Sự câm lặng phá huỷ lời nguyền, làm cho nó trở nên vô hiệu.
Im lặng. Không nói. Không cười. Trong sáu năm ròng rã. Ở đây, sự câm nín, nhẫn nhục trinh nguyên đã tác động. Tình yêu của ông vua, những lời buộc tội của bà mẹ chỉ làm tăng thêm thử thách. Phải cực kỳ khó khăn, cực kỳ khổ nạn, sự cứu rỗi mới rạng rỡ, đức hạnh mới bật ra. Cỏ gai đâu phải để đan áo! Ngay cả hành động đan áo cũng chỉ có một giá trị biểu tượng, chính hành động “không hành động” (không nói không cười), hay dùng từ của Simone Weil, chính cái gọi là hư vô của hành động (le néant d’action) mang trong nó, đức hạnh. Và theo bà, tư tưởng này đã tới được chốn sâu thẳm nhất của tư tưởng đông phương.
Bài học từ câu chuyện Grimm, sự câm lặng, bàng bạc trong tác phẩm của Weil, từ những năm chiến tranh. Thí dụ như trong Cahier VI: “Chủ đề về sự thơ ngây vô tội tự nguyện không chống trả. Những con thiên nga.” Và vào những giây phút cuối cùng của đời mình, trong “sổ tay ở Luân Đôn”, bà hình như tự đồng nhất với nữ nhân vật ở trong câu chuyện cổ tích: “Sự câm lặng của cô gái nhỏ trong Grimm [nhờ vậy] mà cứu được những người anh… Sự câm lặng của Đấng Ky Tô. Một thứ thỏa uớc thiêng liêng, một hợp đồng của Thượng Đế với chính Người, từ đó, thế gian bị kết án: chỉ tới được sự thực bằng [hành động] câm lặng.”
Tôi đọc Weil, và bỗng nhớ những đêm Cali không ngủ vì vụ Trần Trường. Tuy không phải là người Cali, nhưng đúng vào dịp đó, Jennifer tôi có mặt, và đã thường trực tham dự những đêm không ngủ. Ở đó, tôi đã gặp một anh bạn học từ những năm trung học. Cả hai đã từng sát cánh bên nhau, trong vụ biểu tình đầu tiên sau 1954, tại Sài Gòn, để phản đối phái đoàn CS trú ngụ tại khách sạn Majestic và khách sạn Ga-li-ê-ni những ngày sau di cư. Anh cho biết, kể từ ngày đó, bây giờ anh mới lại đi… biểu tình! Và còn gặp nhiều đồng nghiệp trước 1975, chưa từng bao giờ đi biểu tình. Có anh bạn cả đời chỉ cặm cụi làm việc, khi còn ở Việt Nam cũng như khi đã chạy qua Cali sau khi ra trại tù, vậy mà đêm nào cũng ra ngồi… thiền giữa trời!
Tôi nhận ra một điều, đa số những người đi biểu tình xử sự như anh: họ ngồi im lặng, không nói, không cười. Như đang cầu nguyện, trong câm lặng.
Và tôi hiểu ra một điều: đây là một cuộc lễ cầu siêu vĩ đại nhất, trong câm lặng, vào cuối thiên niên kỷ, cho tất cả những người đã ngã xuống vì cuộc chiến, và sau đó…
Và tôi tự hỏi, phải chăng những tiếng hò hét chung quanh sự câm lặng chính là “cú ném áo đầu tiên’, của một con mụ phù thuỷ có tên là “lịch sử của quá khứ”?
*
Cái sự được đọc S. Weil, của Gấu, là nhờ Steiner mà ra. Nhưng cuối đời nhìn lại, mới thấy, sự tình không đơn giản như vậy.
Có thể nói, Gấu "được đọc" Weil, là nhờ PCT!
Trong Hố Thẳm, hình như vậy, hay trong một bài viết nào đó tình cờ Gấu đọc được, thiên tài PCT chê Weil. Gấu ngu quá, tin liền.
Sau này ngẫm ra, đúng là nhờ ông, mà Gấu không đọc Weil suốt cuộc chiến, và chỉ đến khi thoát ra được, và, phải về già, phải trải qua đủ thứ trên đời rồi, thì mới "được đọc", và "đọc được" Weil.


”Phùng Lệ Lý Hayslip: Chưa có bằng tiểu học, viết sách “best-seller” (SGGP 12-3-09)
Note: Những bài viết như thế này, là chỉ cho biết một nửa sự thực. Báo trong nước, phải như vậy, nhưng khi một diễn đàn hải ngoại post lại thì cũng phải đi vài hàng tiểu chú, cho biết những thông tin trong nước vờ đi, rồi để độc giả tự nhận xét.
By the time she was 15, she had been imprisoned, starved, tortured, raped, and abandoned as a traitor by the VietCong, for whom she had loyally fought. She fled to Saigon, where she and her mother worked as housekeepers for a wealthy Vietnamese family, but this position ended after Hayslip's affair with her employer and subsequent pregnancy. Hayslip and her mother fled to Da Nang, and by the age of 16, Hayslip was supporting both her mother and an infant son by working the black market and as an occasional drug courier, and once even as a prostitute.
Wikipedia
Trong lần giao lưu sau buổi chiếu phim ở Hà Nội, một cô gái trẻ ngỏ lời xin được dịch ra tiếng Việt cuốn sách When Heaven and Earth changed places. Bà Lý lặng đi xúc động. Hơn 20 năm nay, bà vẫn thầm ước ao những người dân quê bà sẽ đọc cuốn sách này. Mong sao cuốn sách này sớm ra mắt để thêm nhiều độc giả VN có thể sẻ chia với bà những nỗi niềm.
SGGP
Dịch ra tiếng Việt, thì có bị thiến những khúc như sau đây diễn tả:
The story begins during Hayslip's childhood in a small village in central Vietnam, named Le La. Her village was along the fault line between the north and south of Vietnam, with shifting allegiances in the village leading to constant tension. She and her friends begin working as lookout for the northern Vietcong. The South Vietnamese learn of her work, arrest her and torture her. After she is released from prison, however, the Vietcong no longer trust her and sentence her to death. At the age of fourteen, two soldiers claim they will kill her in the forest. Once they arrive, both men decide to rape her instead.[2]
Sở dĩ cho tới nay chưa được dịch là vì lý do đó.
Bà Lý bị đám Chống Cộng hải ngoại không ưa, vì bà đã từng làm giao liên, nhưng trong nước cũng đâu có ưa bà?
VNCH có thể tha bà, nhưng VC đâu có chịu ? Gấu nhớ là bà từng bị đồng chí bắt đào huyệt tự chôn mình, và trước khi làm thịt bà, thì bề hội đồng, không lẽ giờ cho dịch những đoạn như vậy?
Bà sở dĩ tin vào Phật Giáo, vì bà tin vào sự tha thứ, nhưng cả hai Quốc Cộng đều đâu biết tha thứ là gì?


Life vs Death

Tình cảnh ‘sống sót’ của đám nhà văn nhà thơ VC, nhất là đám nằm vùng, thật trớ trêu, theo Gấu. Họ không thể quên đi cái quá khứ đỉnh cao chói lọi ngày nào, và cũng không thể nào vờ đi cái chế độ khốn kiếp hiện tại. Khi khóc vợ, nhắc lại những vần thơ đầy hào quang ngày xưa [thơ tình & cách mạng], vậy mà cũng nơm nớp sợ nhà nước kiểm duyệt thì thê lương quá, khốn nạn quá!
Trông mong gì ở đám này, ở trong nước?
Ở một Sến Cô Nuơng ở hải ngoại?
*
Cái sự so sánh với một viên kim cương của ông làm nhớ ra là ông còn là một thi sĩ. Vậy mà ông chẳng thèm nói tới thơ…
Tạp chí văn học Le Magazine Littéraire
Ismail Kadaré:
Về chuyện này, có ý do của nó. Thơ, ngược hẳn với đám nhà văn VC lúc nào cũng ra rả, coi đó là ngọn cờ đầu, của văn học, nó là sự tủi hổ của văn chương. Cái phần nhục nhã nhất, tủi hổ nhất, hay được phô ra nhất, khoe nhặng xị nhất, hồ hởi nhất, xã hội chủ nghĩa nhất, cộng sản nhất, ngu si nhất, đần độn nhất. Tất cả những nước CS khoe nhặng lên, chúng là những cây cột chống Trời của Thơ, khi nào thấy rêm mình là vịn thơ đứng dậy, in thơ loạn cào cào châu chấu… nhưng thôi, nói vậy đủ tởm, và tôi thật sự là quá tởm cái chuyện này. Đúng như thế, thơ là cái mang tội nhất trong các thể loại văn học của vùng cựu CS. Cái thứ hung hăng con bọ xít nhất, cái thứ thực chứng nhất của cái chế độ khốn kiếp nhất, nhất, nhất!
*
Prodigieuse anecdote pour terminer: Il vient d’apprendre que la première chose que Camus a faite à son retour du prix Nobel, c’était d’aller se recueillir sur la tombe de Simone Weil. Prodigieuse anecdote pour terminer.
Một giai thoại tuyệt vời để kết thúc... Mắt nhà thơ đỏ hoe: Milosz vừa được biết, vừa đi lãnh Nobel về là Camus ra mộ Simone Weil để thăm viếng .
Nhờ Milosz mà tôi hiểu ra được rằng, để cho lời dối trá trở thành sự thực, thì cứ phải để chính nạn nhân nói ra 'sự thực' đó!
*
Cái vụ tưởng niệm liệt sĩ này nọ của VC, theo Gấu, nhìn một cách nào đó, là cũng để cho lời dối trá biến thành sự thực. Thành ra phải đích thân nhà thơ khóc vợ, thì cái chân lý "Không có gì quí hơn" kia mới càng thêm sáng chói!
Có thể vì lý do đó mà nhà thơ nơm nớp sợ bị nhà nước kiểm duyệt?



The Lost Domain

Cuộc vạn lý trường chinh của Kadaré

... Votre comparaison avec un diamant rappelle que vous êtes aussi poète. Vous ne parlez pourtant jamais de poésie ...
Il y a une raison à cela. La poésie, contrairement à ce qu'affirmaient les écrivains de l'ex-bloc de l'Est qui la présentaient comme l'avant-garde de la littérature, était la honte de la littérature. La partie la plus honteuse, la plus déclarative, la plus enthousiaste, la plus socialiste, la plus communiste, la plus idiote. Tous les pays communistes se vantaient de défendre la poésie, de tirer les recueils de poèmes à des centaines de milliers d'exemplaires et... mais je ne veux pas en parler, cela me dégoûte de tout ça. En fait, je pense que la poésie est le plus coupable des genres littéraires de l'ancien bloc communiste. C'était le plus agressif, le plus positif pour le système.
Ông quá gắn bó với xứ sở của ông đến nỗi bị coi là một tay quốc gia.
Không tôi không quốc gia, không sô vanh. Nhưng, làm thế nào, tôi, một nhà văn Albanie, lại bịt miệng mình khi xẩy ra những cuộc tàn sát tại Kosovo, trong khi một nửa con số những nhà văn Âu Châu lên tiếng? Tôi nhớ một lần, trong một hội họp các nhà văn, một người la lên, khối Nato hãy ngưng những cuộc dội bom lên Serbe. Tôi nói: “OK, nhưng với điều kiện, ngưng những cuộc tàn sát tại Kovovo, bởi vì chúng còn ghê rợn hơn dội bom”. Một người nào đó trả lời tôi: “Chết làm gì có đẳng cấp”». Tôi trả lời, có chứ. Chết vì dội bom tồi tệ hơn vì tai nạn xe hơi mười lần. Tồi tệ hơn bị ám sát bằng dao đâm mã tấu chém một trăm lần. Tôi may mắn được Jean-Pierre Vernant, sử gia người Pháp, cũng có mặt bữa đó, bênh tôi.
Ông không nhận là nhà văn chính trị, nhưng chỗ nào ông cũng xía mũi vô. Rõ nhất là cuộc xung đột tại Kosovo, ông đã đứng vào vị thế chống lại Serb…
-Không phải như vậy. Tôi là một công dân như bạn, như hàng triệu người khác. Và đó là cái phần nhân loại của tôi. [Cela fait partie de mon humanité]… Bởi vì tôi quá được biết đến tại vùng Balkans, tôi phải xiá vô, tôi không có chọn lựa nào khác. Tôi không thể nói: "Không, không, tôi không tuyên bố gì hết, tôi là nhà văn, chuyện đó không có tôi. Nhưng tôi chưa hề nghĩ đến một vai trò chính trị. Bao nhiêu người đề nghị, đòi hỏi tôi làm điều đó, đóng một vai nhà chính trị. Họ rất nghiêm túc, bởi vì cái đó thuộc truyền thống vùng Balkans, nhà văn, nhà tiên tri, nhà chính trị... nhưng tôi từ chối."
Ông thực sự viết vào tuổi nào?
Tôi có thể trả lời như nhiều người khác, tôi bắt đầu viết khi 11 tuổi, có thể trước đó. Như những đứa trẻ, tôi viết những bài ngắn vào lúc 9 tuổi, nhưng chẳng ghê gớm gì ba thứ đó. Lần đầu tiên in bài, là trong một tập san nhà trường, khi học trung học. Những bài thơ. Nhưng với tôi, văn chương bắt đầu với cuốn tiểu thuyết đầu tay, viết năm 23 tuổi, khi tôi là sinh viên tại Học Viện Gorki, ở Moscow, trái tim của văn chương Xô Viết, bộ máy sản xuất ra những nhà văn Cộng Sản.
Ông chưa bao giờ là đệ tử, tín đồ đúng hơn, của dòng văn chương ‘hiện thực xã hội chủ nghĩa’ mà người ta giảng dậy tại thủ đô Liên Xô…
Tôi cũng không biết tại sao, ngay từ khi vừa mới đặt chân lên thiên đường là tôi đã cảm thấy mình bảnh hơn nó… Hiện thực xã hội chủ nghĩa, mọi người đều nói, nhưng chẳng ai biết nó ra làm sao. Thực sự, nó dựa vào một số qui luật mơ hồ nhưng tất cả mọi người đều vơ vào. Qui luật thứ nhất, hãy tràn đầy hy vọng và viết thứ văn chương ‘mai mãi mùa xuân'. Cái trực giác của tôi, khi còn là một thanh niên, xúi tôi làm ngược lại, nghĩa là, phải thay đổi khí hậu, phải chống lại thứ chủ nghĩa giáo điều về khí tượng học của họ [météo-dogmatisme] bằng một thứ chủ nghĩa phá ngang phá bĩnh về thời tiết [déviationisme climatique]. Kết quả là, trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi, mưa dài dài từ ngay trang đầu tới trang chót. Liền lập tức, câu hỏi khó chịu đầu tiên đối với tôi, khi lần đầu tiên tôi tới Tây phương, là: “Tại sao mưa rơi không ngừng trong cuốn tiểu thuyết của ông? Trong khi đó, Albanie là một xứ sở Địa Trung Hải…”.
Qui luật thứ nhì của hiện thực xã hội chủ nghĩa, là nâng bi, hoặc đội dĩa [nếu là nữ], "nhân vật hướng thượng"; nhưng mà, như bạn biết đấy “nhân vật hướng thượng, xả thân vì đại nghĩa”, là cái chết của văn chương!

*
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
« Pourquoi pleut-il sans cesse dans votre en roman? L'Albanie est pourtant un pays méditerranéen ... »
Tại sao mưa rơi hoài trên những trang tiểu thuyết của ông. Albanie, một xứ sở của vùng Địa Trung Hải, chỉ có mặt trời và biển, làm gì có mưa?

Man Booker Prize


Trò chuyện với dòng sông
Thanh Thảo viết về Tế Hanh

 Quê hương tưởng tượng

Câu chuyện của Saleem thực sự chỉ đưa anh ta đến tuyệt vọng. Nhưng nó được kể theo kiểu tiếng vọng đập đi đập lại, tự nó đẻ ra nó, tự nó nhân nó lên bằng cách đập lên nó, nhiều chừng nào tùy theo tôi có thể chừng đó, bằng tài năng của một tên Ấn độ là tôi. Đó là lý do tại sao chuyện đẻ ra chuyện, chuyện cũ đẻ chuyện mới, chuyện ‘nhung nhúc’ chuyện. Hình thức – đa dạng, rắc rối, phức tạp, làm bật ra cái sự đa đoan vô vàn của xứ sở - nó chính là đối trọng lạc quan, so với cái số phận thê luơng của cá nhân Saleem. Tôi tin, một cuốn sách được viết như thế, không thể là một tác phẩm tuyệt vọng.
Những nhà văn Ấn độ không cùng một chủng loại. Thí dụ, trong số chúng tôi, có những nhà văn gốc gác Pakistan. Có những người khác gốc Bangladesh. Những người khác nữa gốc Tây phương, Đông phương, và có cả những người gốc Nam Phi. Và V.S Naipaul, vào lúc này, thì lại là một trường hợp hoàn toàn khác hẳn. Cái từ “Ấn độ” ngày một trở thành một ý niệm tản mạn, manh mún, nếu không muốn nói tan hoang, mỗi nơi một mẩu. Những nhà văn Ấn độ ở Anh bao gồm những lưu vong chính trị, những di dân thế hệ đầu tiên, những kẻ bỏ xứ giầu có và thường là những thường trú nhân tạm thời, những người Anh nhập tịch, và những người sinh đẻ tại Anh chẳng hề bao giờ để mắt đến tiểu-đại lục.


Kỷ niệm đẹp trong đời viết văn

Đỉnh cao chói lọi

Dấu ấn CS và của truyền thống đè lên cuộc sống riêng tư của từng cá nhân là một trong những chủ đề lớn xuyên suốt những tác phẩm của DTH: Chuyện tình kể trước rạng đông cho chúng ta thấy bàn tay lông lá của Đảng thò ra ngăn cản một cặp không được sáp lại với nhau, trong khi trong Chốn Vắng, cô Miên bị Đảng bắt phải trở về sống với cái bóng ma của chủ nghĩa CS, nhập vào anh chồng cũ, tưởng là đã chết mất xác, bỗng một ngày xấu trời, từ địa ngục bò về. Những tình cảm cá nhân, nỗi ước ao xây dựng một cuộc sống gia đình riêng tư, thầm kín, chẳng là cái thá gì, chẳng có ký lô nào trước bổn phận đối với tập thể, đám đông… Đỉnh Cao Chói Lọi đẩy những thảm kịch cá nhân như vậy lên đến tột đỉnh, qua hình ảnh một vì thánh của đất nước, bị kết án, bởi vì là thánh, nên không được quyền làm người bình thường: Hình ảnh vị Chủ Tịch ở trong cuốn tiểu thuyết thì buồn bã, tang thương, rách nát, muốn làm người mà không thể làm người, không ai cho làm người nữa, thật khác xa hình ảnh vị cha già dân tộc.


Dọn


A Pedagogy of Hatred

I don't know if the world can do without German civilization, but I do know that its corruption by the teachings of hatred is a crime.
Cái việc dậy con nít hận thù là một tội ác. Cái sự thắng trận và băng hoại sau đó, chính là cái tội ác vì dậy con nít thù hận.