*

1
2
3


TTT 10 years Tribute

The saxophone
Has a vulgar tone.
I wish it would
Let me alone.

The saxophone
Is ordinary.
More than that,
It's mercenary!

The saxophone's
An instrument
By which I wish
I'd never been
Sent!

Langston Hughes: Conservatory Student Struggles with Higher Instrumentation [in“The Weary Blues”]

Helen Vendler: The Unweary Blues
The Collected Poems of Langston Hughes

Dạ khúc  

Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta

Bóp chết mọi hi vọng

Nên anh dìu em đi xa

Ði đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối

Ôi môi em như mật đắng

Như móng sắc thương đau

Ði đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris

Ðể anh được làm thi sĩ

Hay nửa đêm Hanoi
Anh là thằng điên khùng

Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới

Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng

Sao tuổi trẻ quá buồn

Như con mắt giận dữ

Sao tuổi trẻ quá buồn

Như bàn ghế không bầy

Thôi em hãy đứng dậy
Người bán hàng đã ngủ sau quầy

Anh đưa em đi trốn
Những giày vò ngày mai

TTT: Liên Đêm Mặt trời tìm thấy

*

The New Yorker April 7, 2014

Kẻ biến mất

Lúc này trời ấm áp, ngồi ở cổng, vào lúc đêm
Một người nào đó chợt nhớ tới một người hàng xóm
Chuyện xẩy ra cũng đã hơn ba mươi năm rồi
Sau bữa ăn chiều, bà làm cú tản bộ
Và chẳng bao giờ trở về nhà nữa
Với ông chồng và mấy đứa nhỏ.

Chẳng ai lúc này còn nhớ nhiều về bà
Ngoại trừ, như thế nào, bà nở nụ cười, và nét mặt trở nên suy tư
Bất thình lình, và chẳng hiểu tại sao, khi được hỏi
Như thể bà đã ôm trong lòng một điều gì bí mật
Hoặc, cực đau lòng, khi chẳng thể nào có một.


*

Cuốn này, thấy lâu rồi, nhưng không dám đụng vô. Bìa cứng, xót tiền quá, và đọc, thì cũng cực quá.
Nhân Tết Mít, bèn bệ về, vì, cũng có ý, đi 1 đường tưởng niệm ông anh nhà thơ, bằng cái bài của bà nữ phê bình mũi lõ này, về Langston Hughes. 

Lần đầu GCC nghe cái tên ông nhà thơ da đen này, là qua thơ TTT.
Nghê thuật đen.
Đen, với ông anh là da đen, là Jazz...
Nhưng với GCC, là…  cơm đen!

Như cái note dưới đây

Suicide's Note:
The calm,
Cool face of the river
Asked me for a kiss



& *


448

I died for Beauty - but was scarce
Adjusted in the Tomb
When One who died for Truth, was lain
In an adjoining Room -

He questioned softly "Why I failed"?
"For Beauty", I replied -
"And I - for Truth - Themself are One -
We Bretheren, are", He said -

And so, as Kinsmen, met a Night –
We talked between the Rooms –
Until the Moss had reached our lips -
And covered up - Our names -

This little fable, stemming ultimately from the motto "Beauty is Truth, Truth Beauty" spoken by Keats's Urn, is one of many poetic attempts to reconcile the Good, the True, and the Beautiful (traditionally known as the "Platonic Triad"). Perhaps no poet has been able to give equal weight to all three concerns. Keats himself was in fact beginning to put new emphasis on the Good in his last works, but he had spent most of his short life thinking about the relation of Beauty (aesthetic creation and its product) to Truth (both philosophical and representational). Dickinson resolves the old quarrel between the truth of Beauty and the truth of Reason by letting Reason deny the existence of the quarrel: '''We Bretheren, are; He said - ". How is it that these "Bretheren," if they are indeed brothers, have never met until the grave unites them? Dickinson allows the person who died for Beauty, who is the "lead speaker" of the poem, to revise the relationship a little: they are "Kinsmen,” but have strayed into a shared domain only now. "Truth" is male in this narrative, as the pronouns tell us; it seems probable that Dickinson intend "Beauty" to be female. Each a hemisphere, together they make a whole.
    Why have Truth and Beauty died? Truth puts the question first, to Beauty: "Why did you fail?" (in the sense of "weaken and die"). "For Beauty:' she replies. "And I - for Truth:' he says, but continues with his declaration of their intimate relationship (as though Beauty would not know, unless he told her, that Truth is her Brother). Beauty had apparently never thought about her relation to Truth; she was self-sufficient. But Truth had thought about his relation to Beauty-he had ascertained what his complement must be. This interesting asymmetry has separated them until now; but Truth has convinced Beauty that a near-relation of hers, a Kinsman, lies in the Room adjoining hers in the Tomb. Dickinson will not attempt a complete fusion. A wall separates Beauty from Truth, and it does not disappear.
    When we use an expression such as "He died for God and Country,' we envisage a battle; when we say, "She died for her faith:' we envisage a martyrdom. Apparently, Beauty and Truth have died in affirmation of the values they endorse; society will not permit their continued existence. Yet there is no recrimination in these two who have been so steadfast, nor any indictment of the values opposed to their own. They were not executed; they merely "died" or "failed" for Beauty or Truth. The idiom "I died [failed] for Beauty" substitutes a weak verb of nonaction for a strong verb of action, as in “I fought for Beauty" or "I spoke for Beauty." In the Tomb, the adversary no longer matters; to "fail" in the service of a cause places agency within the self, rather than in the hands of an enemy ("I was martyred for Beauty").
    In any case, what seems to be-astonishingly-the first mutual recognition of Truth and Beauty softens the impact of the grave, to which Beauty is “scarce/Adjusted" (as though it were a new climate). She is "Adjusted"; he is “adjoining": Dickinson's graphic and phonetic "matches" confirm the relationship of the two ideals. Beauty's "Tomb" matches Truth's "Room." They are Kinsmen indeed. Their warm talk continues, until-in one of Dickinson’s startling flashes of metaphor-they metamorphose into their own Tombstones.
    Eventually, but mercifully only after some time, the moss on the stone will grow high enough to obliterate the names of these Kinsmen, as, in a second flash-forward to the future, the lips that were enabling speech in the Tomb fall silent when the moss covers their names. It is not the attrition of the time and weather that obliterates the names, as it would be in an ordinary cemetery; rather, in Dickinson's gentle close, it is the beneficent green of nature that eventually resolves all distinctions. As "Tomb" rhymed with "Room" in the first instance, now "Rooms" rhymes with "names" as even the highest Platonic concepts gradually disappear under the Moss.
    The simplicity of both fable and diction has made "I died for Beauty - "none of Dickinson's best-known poems, but under the simplicity lies a real inquiry into the relations of Truth and Beauty. The fact remains that they can never occupy the same room, however much their lips can express kinship in words.

Helen Vendler: Dickinson, Selected Poems and Commentaries 


Đọc cái còm của nữ phê bình gia Thụy Khuê-Yankee mũi lõ, thì hoá ra là, bài thơ này, “mắc mớ” tới bài thơ Phượng Hoàng & Bồ Câu, của Shakespeare, TTT dùng làm đề từ cho Một Chủ Nhật Khác, và xoay quanh thứ tình yêu “Chiêm Ngưỡng & Kính Trọng”, tức tam giác tình lý tưởng, the Platonic-triad, mà em BHD đã từng phán, thứ tình yêu đó cũng làm Hương...  sợ!

Nếu như thế, TTT, đọc/dịch Dickinson, và hiểu, bài thơ, đúng như Vendler cắt nghĩa?

Thảo nào BHD….  sợ!

Phượng Hoàng và Bồ Câu

Cái đẹp, sự thật, sự hiếm quí
Ân sủng rất mực giản dị
Táng tro cốt nơi đây.

Cõi chết Phượng Hoàng nương náu
Và ngực Bồ Câu đoan trinh
Trong thiên thu an nghỉ.

Không lưu truyền tông tích
Chẳng bởi tật nguyền
Vì chưng hôn phối thanh khiết.

Vẻ thật không sao thật
Dáng đẹp phô, hão huyền
Sự thật cùng cái đẹp đã mai một.

Trước quanh quách đôi linh điểu
Hằng chân thật hoặc mỹ miều
Vọng gửi khúc kinh cầu ngưỡng mộ.

Thanh Tâm Tuyền dịch

The Phoenix and the Turtle

Beauty, truth, and rarity,
Grace in all simplicity,
Here enclosed'd in cinders lie

Death is now the phoenix' nest,
And the turtle's royal breast
To eternity cloth rest,

Leaving no posterity -
"Twas not their infirmity,
It was married chastity.

Truth may seem but cannot be;
Beauty brag, but 'tis not she;
truth and beauty buried be.

To this urn let those repair
That are either true or fair;
For those dead birds sigh a prayer.

William Shakespeare
Tứ tấu khúc


Tình yêu, tình yêu, anh mơ tưởng hạnh phúc còn em nghĩ hạnh phúc không có, "Je t’aime parce que tu veux l’impossible", và chàng trả lời, "Muốn hưởng hạnh phúc thì ít nhất phải tin hạnh phúc có." Nhưng hạnh phúc ở đâu, ở trên trời, hay ở dưới đất, hay ở địa ngục? Chúng tôi sẽ phải làm một điều thiện vĩ đại để có vé vào thiên đàng, hay một điều ác thật ghê rợn, để chiếm lấy địa ngục, cho chỉ hai đứa?
(Thứ tình yêu chỉ gồm có chiêm ngưỡng và kính trọng, thứ amour platonique mà anh nói đó cũng làm Hương sợ).

BHD không nhắc tới ngôi mộ, nhưng mà là địa ngục, còn khủng hơn cả Dickinson!

The Phoenix And The Turtle poem by Shakespeare is perhaps his most obscure work, verging on the metaphysical as an allegorical poem about the death of a perfect love. The Phoenix And The Turtle was published untitled in 1601 as one of the Poetical Essays appended to Robert Chester’s ‘Love’s Martyr’.
http://www.nosweatshakespeare.com/shakespeares-poems/the-phoenix-and-the-turtle/

Phượng Hoàng & Bồ Câu là 1 bài thơ cực kỳ u tối, khó hiểu. Chúng ta tự hỏi, tại làm sao TTT lại dùng nó làm đề từ cho cuốn tiểu thuyết?
Bây giờ, lại thêm 1 cú bí hiểm thứ nhì, là bài thơ dịch Dickinson.
Tin Văn sẽ đi 1 đường tiếng Mít, và sau đó, độc giả tùy nghi....

Bài ngụ ngôn nho nhỏ, bắt nguồn từ “Cái Đẹp là Sự Thực, Sự Thực Cái Đẹp” của Keats’s Urn, là 1 trong nhiều toan tính thi ca nhằm hòa giải Cái Tốt, Cái Thực và Cái Đẹp - hiểu theo truyền thống như là tam giác [tình] lý tưởng. Có lẽ chưa có ai đem đến một sức nặng đồng đều cho cả ba. Keats, chính ông, thực ra đã bắt đầu coi trọng Cái Tốt, trong những tác phẩm sau cùng, nhưng ông trải qua hầu hết cuộc đời ngắn ngủi để suy tư về liên hệ của Cái Đẹp (sáng tạo mỹ học và những sản phẩm của nó) với Sự Thực (cả về triết lý lẫn trình diễn). Dickinson giải quyết cuộc lèm bèm cũ rích này, về sự thực của Cái Đẹp và sự thực của Lý Lẽ, bằng cách, để Lý Lẽ chối bỏ sự hiện hữu của 1 cuộc lầu bầu như thế, Chúng ta là bằng hữu, là bạn quí, là tín hữu,  là… Anh ta phán. Bạn quí như thế nào, gặp nhau ở đâu (chắc ở Quán Chùa, “Chúa Ơi!”- thuổng NDT), cho đến khi nấm mồ kết nối họ. Dickenson để cho nhân vật chết vì Cái Đẹp, làm phát ngôn viên dẫn đạo của bài thơ, xì ra tí ti, về liên hệ, chúng là là đạo hữu, bị nhốt chung vào 1 nấm mồ. “Sự Thực” là “đực”, trong dòng kể, như đại danh từ “he” cho thấy. Nếu như thế, thì có thể, Dickinson coi “Cái Đẹp” là “cái”. Mỗi bên nửa trái cầu, cùng nhau, họ làm thành trọn ổ.
[Trong MCNK, nhân vật Hiền sau cùng biến mất, và Duy, có lần tính hỏi Kiệt, Hiền đâu rồi. Khi dịch bài thơ của Dickinson, có thể TTT  nhắm trả lời Duy, Hiền ở chỗ đó đó, chỗ mà Kiệt đưa cô tới, rồi trở về với vợ con. Và cái truyền thuyết về 1 miền đã mất, sản sinh ra những tác phẩm như Anh Môn, Gatsby, MCNK, sau cùng, do Dickinson trả lời: Nấm Mồ.]


*

*

*
*

Hai bài thơ, một mở ra, một chấm dứt cuộc chiến Mít.
Cùng đề tặng TTT

Il ritorno d'Ulisse

Returning from a lengthy trip
he was astonished to find
he had strayed to a country
not his place of origin

For all his encounters in scattered spots
with the black paper hearts of men
shot by the arquebuse
his bow-and-arrow story
did not happen

Then there was Penelope's
Castilian grandmother
blocking his entry at the garden gate
wordless and busy with embroidery

Sure, the grandchildren
are smiling in the background
apparently better disposed
towards foreigners

Their furtive hopes
still almost too small
for the naked eye
(But the idea is good
and the noise far away
even the building)

Sebald

Note: Bài thơ này làm nhớ một, hai bài thơ trong Thơ Ở Đâu Xa, tả cảnh anh tù, nhà thơ, sĩ quan VNCH, gốc Bắc Kít, về quê Bắc Kít ngày nào, và, tất nhiên, còn làm nhớ bài thơ của TTY, Ta Về.

Ta Về 

Trở về sau 1 chuyến dài dong chơi địa ngục
Hắn kinh ngạc khi thấy mình lạc vô 1 xứ sở
Đếch phải nơi hắn sinh ra 

Trong tất cả những cú gặp gỡ ở những điểm này điểm nọ rải rác, tản mạn
Với những trái tim giấy đen của những người bị bắn bởi cây súng mút kơ tông
Thì giai thoại, kéo cây cung thần sầu, bắn mũi tên tuyệt cú mèo, đếch xẩy ra. 

Và rồi thì có bà ngoại Tây Bán Nhà của bà vợ Penelope của hắn
Bà chặn đường đếch cho hắn đi qua cổng vườn
Đếch nói 1 tiếng, và tỏ ra bận rộn với cái trò thêu hoa văn khăn tay
Gửi người lính trận vượt Trường Sơn kíu nước, hà, hà! 

Tất nhiên rồi, chắc chắc là có lũ con nít
– không phải lũ con nít nhếch nhác kéo nhau coi lũ tù Ngụy đi qua thôn nghèo –
chơi ở vườn sau, chúng có vẻ rất tự nhiên, cười đùa với khách lạ 

Những hy vọng ẩn giấu của chúng
thì vẫn quá nhỏ nhoi,
với con mắt trần trụi 

(Nhưng ý nghĩ thì tốt
Và tiếng động thì xa
mặc dù tòa nhà)

Ba tập thơ, của TTT, TTY, và của Sebald, lạ, là có cùng 1 air.

Với TTT, là tìm lại vừa được thơ, vừa được cái chất thiền vốn là cốt lõi của thơ ông, theo nghĩa “bạo động của bạo động”, như Gấu có lần lèm bèm.

Thơ Tô Thùy Yên, theo Gấu, có sự “gò”, theo nghĩa của cụm từ “tour de force”, của Tẩy.
Cực hay, nhưng cũng cực… cực!
Cực giống Sebald, ở chỗ, không có “footnotes”, là không làm sao nắm được. Thí dụ, bài thơ tặng TTT, trên.

Sebald, thì như 1 nhà phê bình gọi ông, kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, và ông cũng nghĩ về mình, đúng như thế:

Ghost Hunter

Eleanor Wachtel [CBC Radio’s Writers & Company on April 18, 1998]:
Sebald viết một kinh cầu cho một thế hệ, trong Di dân, The Emigrants, một cuốn sách khác thường về hồi nhớ, lưu vong, và chết chóc. Cách viết thì trữ tình, lyrical, giọng bi khúc, the mood elegiac. Ðây là những câu chuyện về vắng mặt, dời đổi, bật rễ, mất mát, và tự tử, người Ðức, người Do Thái, được viết bằng 1 cái giọng hết sức khơi động, evocative, ám ảnh, haunting, và theo cách giảm bớt, understated way. Di dân có thể gọi bằng nhiều cái tên, một cuốn tiểu thuyết, một tứ khúc kể, a narrative quartet [Chắc giống Tứ Khúc BHD của GCC!], hay, giản dị, không thể gọi tên, sắp hạng. Ông diễn tả như thế nào?

WG Sebald: Nó là một hình thức của giả tưởng văn xuôi, a form of prose fiction. Theo tôi nghĩ, nó hiện hữu thường xuyên ở Ðại lục Âu châu hơn là ở thế giới Anglo-Saxon, đối thoại rất khó chui vào cái thứ giả tưởng văn xuôi này….

EW: Một nhà phê bình gọi ông là kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, ông có nghĩ về mình như thế?
WGS: Ðúng như thế. Yes, I do. I think it’s pretty precise… (1)

Riêng về tập Thơ Qua Sông, qua Nước, thì có câu của Walter Benjamin, như 1 vinh danh thật là tuyệt vời dành riêng cho ông:

"To perceive the aura of an object we look at," wrote Walter Benjamin, referring more to the work of art than to landscapes, "means to invest it with the ability to look at us in return"
"Để cảm nhận hào quang của vật mà chúng ta nhìn vô", W. Benjamin viết - ông muốn qui nhiều về nghệ phẩm hơn là về phong cảnh - "có nghĩa là đầu tư nó, tiêm chích nó, cái khả năng nhìn trở lại chúng ta".


Cali Tháng 11, 2012

Wed, Dec 19, 2012

MERRY CHRISTMAS
Ong TRU chi HONG va gia dinh.
Noel 2012
NDT

Chúc hai bạn Thuần & Hương mọi điều tốt lành trong Mùa Giáng Sinh và Năm Mới
Xin gửi lời chúc đến tất cả bạn bè Cali & SJ & SD
Take care, plse.
Thân

NQT và gia đình 

Trong chuyến đi Cali tháng 11, do nhà NDT có khách ghé thăm, lại dặn chỗ trước, Gấu phải qua nhà bạn Bạn tá túc. Lúc đầu ngại lắm, vì nghe thiên hạ đồn, ông này khó lắm, tưởng dzậy mà không phải dzậy đâu, đừng tưởng bở!
Không ngờ thật là tuyệt vời, và Gấu cứ gật gà gật gù, phải như thế chứ! Không lẽ Gấu nhận lầm người…  quân tử!
Hà, hà!

Gấu ruột ngựa, cũng chẳng giấu. Ông cười, gật gù, quả có phần đúng, tôi khôn quá. Khôn “vừa vừa” như Bắc Kít, mà còn bị ông chửi tơi bời hoa lá cành, nữa là 1 thằng Quảng Nôm thứ cực kỳ Quảng Nôm như tui!
Và thế là, được dịp, ông bèn nói về những ngày đi tù VC, và cái khôn của ông, để sống sót Cái Ác Bắc Kít.
Nghe, thì lại như thấy đang đọc (Một ngày trong đời) One Day in the Life of Ivan Denisovich của Solzhenitsyn.


Hồi mới quen bạn C, và được bạn đưa về nhà bạn, rồi sau đó, coi là nhà của Gấu, ông anh nhà thơ rất thương Gấu, một phần vì cái sự giỏi toán của Gấu.
Gấu nhớ có lần Cụ C nói với thằng bạn của con mình:

Thằng T nó bảo tao, bạn của thằng C toàn thứ quái quỉ, thông minh quá mức thường. Mẹ không thể so thằng C với chúng được. Nhất là thằng… Trụ. Nhưng so với những đứa trẻ khác, thì thằng C lại ở trên mức bình thường!

Thời gian đó, Cụ còn nghèo lắm. Thế rồi Gấu học Bưu Điện, rồi ra trường, rồi đi làm, rồi làm bồi Mẽo, túi rủng rỉnh xu, chiều nào cũng lên xóm rồi mới về nhà, có khi ngủ luôn trên đó, và thường là như vậy, nhất là những ngày còn ở Phú Nhuận. Ngã Năm, Ngã Sáu, Khu Xóm kế nhà thương Cộng Hòa... cũng kể như là nhà của Gấu, và thế là Gấu gần như chẳng hề trở lại cái ngõ ngày nào, ở sau nhà hội tỉnh Gia Định. Xóm Gà.
Lần trở lại, khi trở lại Sài Gòn, sau khi đã 'lại được làm người', Gấu quên luôn căn nhà cũ. Ghé một căn nhà ở cuối cái sân nằm trong khu, mà Gấu đinh ninh là căn nhà ngày nào, hỏi, hóa ra là nhà một cán bộ VC.

Thế là đành đi ra, nhưng không được, nhất định không được, căn nhà đó, đích thị căn nhà đó. Quay trở lại, tìm cho ra... chân lý… một bà trong xóm, từ trong nhà nói lớn ra, nhà của hai ông sĩ quan Ngụy ở đằng kia kìa.
Hóa ra là, ở cuối sân, còn một con hẻm nhỏ nữa, nhà Cụ ở cuối con hẻm.

xom_ga





HNT Số 555 February 14, 2003

 Tin Văn

 1. Mỗi trường hợp mỗi khác.

Thus it is enough for the poet to be the bad conscience of his age.
Saint-John Perse. Diễn văn Nobel (1960).
(Là ý thức tự phán của thời mình, vậy là quá đủ cho nhà thơ).




* *

*

Đọc mấy đấng “lề trái” ở trong nước, như tên vô lại NV, thấy cực tởm, so với đám lề phải, ấy là vì chúng nghĩ chúng chọn “phiá của nước mắt”, như ông Dương Tường phán, thành ra tên nào tên đó chửi nhà nước dữ lắm, và giọng văn rất càn dỡ, đểu giả, tinh ròng độc Bắc Kít, ấy là vì chúng nghĩ, lương tâm chúng trong sạch.

Ở bên dưới những câu văn độc địa của NHT, ở những tác phẩm đầu, tinh ý thì lại nhận ra tấm lòng nhân hậu của ông, nhận ra cái ý của Kafka, trong cuộc đấu sinh tử tay đôi, duel, giữa nhà văn và thế giới, nhà văn chọn thế giới.
Làm sao mà có chúng ta ở trong thứ văn chương nhơ bẩn của NV được.

Trong bài viết “Con người, con vật chính trị, L’homme, une bête politique”, trong số Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, 7&8 2007, đặc biệt về cái ngu đần, một phát kiến hiện đại (la bêtise, une invention moderne), tác giả Perrine Simon-Nahum phán, một xã hội dân chủ vận hành tốt đòi hỏi công dân của nó một sự phán đoán sáng sủa, rõ ràng (un jugement éclairé). Nhất là khi mà những đấng trí thức, tầng lớp tinh anh, chính chúng, lại là bằng cớ của sự phạm tội mù quáng (Surtout quand les “intellectuels” font eux-mêmes preuve d’un coupable aveuglement). Trong phần “Sự đồi bại trí thức” (“Perversions intellectuelles”), tác giả bài viết viện dẫn Raymond Aron: Tiếp theo những nghiên cứu của Élie Halévy về bản chất của những chủ nghĩa toàn trị và sự yếu hèn của những chế độ dân chủ, R. Aron bèn tóm lấy đề tài này, ngay từ năm 1937, trong 1 bài viết trên “Tập san siêu hình và đạo đức” (Revue de métaphysique et de morale) nhắm vào chính trị kinh tế của “Front populaire” (Mặt Trận Bình Dân?). Áp dụng vào tầng lớp trí thức, trong 1 bài viết vào năm 1948, trên tờ Le Figaro, Aron đề ra trước tiên, những “nghịch lý của chủ nghĩa CS”: "Được coi thuộc giai đoạn giải phóng con người, một chế độ thành lập những trại tập trung, những hộ chiếu đi lại trong nước, les passeports intérieurs, cảnh sát chính trị, une police politique, siêu việt hơn thứ của những sa hoàng, như vậy là vượt quá giới hạn của sự ngu đần, cà chớn, đồi bại mà ngay cả 1 tên trí thức sau cùng cũng chấp nhận”.
Điều Aron kết án thì không nhắm vào chuyện, tôi chọn lề phải hay lề trái (nguyên văn, sự tham dự ý thức vào một ý thức hệ), mà là sự đồi bại trí thức.
Chúng ta gặp đúng trường hợp những những đấng tinh anh Bắc Kít ở đây, những đấng như Nobel Toán, Diễn đàn Bô xịt, hay tên vô lại NV. 



.*

Boris Pasternak 

Pasternak's poems are like the flash of a strobe light-for an instant they reveal a corner of the universe not visible to the naked eye. I fell in love with these poems as a child. They were magical, fragments of the natural world captured in words that I did not always understand. Pasternak was my father's favorite poet. In the evenings he often recited his poems aloud, as did Marina Tsvetayeva, a friend of the family who often came to our house in those years before the war.
Long afterwards, George Plimpton and Harold Humes brought the live Pasternak into my life. A year or so after the resounding success of Doctor Zhivago, when the dust had begun to settle on the scandal of his being forced to give up the Nobel Prize, they sent me on a mission to Moscow to interview the poet for The Paris Review.
I'll never forget that sunny day at Peredelkino in the winter of 1959-1960, a few months before Pasternak died. The sparkling snow, the fir trees, the half torn note pinned to the door on the veranda at the side of the house: "I am working now. I cannot receive anybody. Please go away." On an impulse, thinking of the small gifts I was bringing the poet from admirers in the West, I did knock. The door opened.
Pasternak stood there, wearing an astrakhan hat. When I introduced myself he welcomed me cordially as my father's daughter- they had met in Berlin in the twenties. Pasternak's intonations were those of his poems. In an instant the warm, slightly nasal singsong voice assured me that my parents' country still existed and that it had a future as real as that sunny day. Today, no matter how harsh life in Russia is, that flash of feeling is proven true. Russia has survived, and the natural world around us which Pasternak celebrated is as wondrous as ever.

- Olga Carlisle

Thơ của Pasternak thì như “strobe light” – nhoáng 1 phát, nó vén lên một góc vũ trụ, mắt thường, mắt trần không nhìn thấy. Tôi tương tư những bài thơ, ngay từ khi còn  là 1 đứa trẻ. Chúng mới thần kỳ, ma mị làm sao, những mảnh vụn của thế giới tự nhiên, bình thường được tóm bắt vào những từ mà tôi luôn không hiểu.
Pasternak là nhà thơ “favorite” của ông già tôi. Vào những buổi chiều tối, ông thường lớn giọng đọc cho tôi nghe những bài thơ của Pasternak, hay của Marina Tsvetayeva, một nguời bạn trong gia đình, thường tới nhà tôi những năm trước chiến tranh.
Mãi, mãi, sau đó, George Plimpton and Harold Humes mang một Pạt sống vào trong cuộc đời của tôi. Một năm, hay cỡ đó, sau cái không khí sang sảng kêu như chuông, của Dr. Zhivago, khi bụi đã bốc lên xóa mờ xì căng đan - bị bắt buộc không được nhận giải - họ, hai đấng trên, trao cho tôi mission, tới Moscow, gặp nhà thơ, làm 1 cú phỏng vấn cho tờ The Paris Review.

Tôi không bao giờ quên được ngày nắng đó, ở Peredelkino, vào mùa đông 1959-1960, chỉ vài tháng trước khi Pasternak mất. Tuyết long lanh, những cây linh sam, một nửa mẩu giấy găm trên cánh cửa hành lang bên phiá căn nhà: “Lúc này tôi đang bận việc. Tôi không tiếp ai. Làm ơn khi khác.” Nghĩ đến những gói quà nhỏ tôi mang tới cho nhà thơ từ những người mến mộ ông, từ Tây Phương, bất giác tôi giơ tay gõ cửa. Cửa mở.
Pasternak đứng đó, đội 1 cái mũ astrakhan. Khi tôi tự giới thiệu, ông niềm nở đón tiếp, như là cô con gái của ba tôi - cả hai đã từng gặp nhau ở Berlin, vào thập niên 1920. Giọng nói của ông như giọng thơ của ông. Trong một thoáng, cái giọng nói ấm áp, có tí giọng mũi, nghe như hát, bảo đảm cho tôi một điều, là xứ sở của cha mẹ tôi vẫn hiện hữu, và nó đã có 1 tương lai, thực, như ngày nắng này. Bây giờ, dù cuộc sống ở Nga cực nhọc cỡ nào, cái thoáng chốc của cảm giác đó, được chứng thực. Nga xô đã sống sót, và cái thế giới thiên nhiên chung quanh chúng tôi mà Pasternak ăn mừng, thì thần kỳ, tuyệt cú mèo, như vẫn là, như mãi mãi vưỡn là.

*

Đọc bài viết 1 phát, thì cái đầu óc bịnh hoạn của Gấu Cà Chớn lại hiện ra cái cảnh 1 nhà thơ hải ngoại, đi cùng, cũng 1 nhà thơ hải ngoại - bạn của GCC, nhưng còn là cựu sĩ quan VNCH, bỏ chạy kịp trước 30 Tháng Tư 1975, không có lấy 1 ngày cải tạo làm thưốc chữa bịnh lưu vong - bèn bò về, xin yết kiến nhà thơ HC, và 1 ông châm cái đóm, hầu thuốc lào nhà thơ số 1 Đất Bắc!

Và nhà thơ HC bèn an ủi hai nhà thơ hải ngoại, quê hương của chúng ta vưỡn còn!
Thơ Mít vưỡn còn!
Lá diêu bông cũng vưỡn còn, nhưng thuộc hàng chiến lược, hàng xuất khẩu quan trọng, qua xứ người nhiều rồi!


Tưởng nhớ Thanh Tâm Tuyền

[13.3.1936 - 22.3.2006]

Bếp lửa reo đời quá vãng
Mãi nhớ em dẫu ngày chưa kịp tới
NLV

As a young man he liked to say he was heimatlos, homeless, without a country. He even asserted a right to decide his own origin. "We are born, so to speak, provisionally, it doesn't matter where; it is only gradually that we compose, within ourselves, our true place of origin, so that we may be born there retrospectively.”
Coetzee viết về Rilke

Khi còn trẻ, ông thích nói về mình, tôi thì không nhà, không nước. Ông còn đòi cho mình cái quyền được quyết định gốc gác của riêng  mình. "Chúng ta sinh ra, thì cứ nói, theo kiểu dự trữ, chẳng quan trọng gì cái chuyện, sinh ra ở đâu. Dần dà, bạn sẽ tạo nên, ở bên trong bạn, cái nơi chốn thực sự cội nguồn, và nếu như thế, chỉ một khi nhìn ngoái lại, bạn mới phải tự hỏi, hình như quê của mình là ở cái chỗ kia kìa, cái xứ Đoài mây trắng lắm của riêng mình đó..."

Mai Thảo có lần kể một anecdote về TTT. "Hắn" nói, bạn cầm một cây lao, quay người lại, và phóng mạnh, cây lao tới đâu thì là quá khứ của bạn tới đó, cắm xuống chỗ nào thì là đó là nơi bạn sinh ra.
Một lần, một buổi sáng sớm, chỉ có hai anh em, ngồi nhâm nhi ly cà phê tại Quán Chùa, nhắc tới Mai Thảo đời thường, TTT đưa ra nhận xét, nhớ đại khái, đàn ông sống độc thân, ở vào cái tuổi đó, rất dễ mất quân bình [Đàn bà chắc cũng vậy?],  khó chịu lắm, Mai Thảo không thế. Gấu nhắc lại anecdote trên, ông cười, nhân đó kể câu chuyện về anh chàng học trò xóm nhà lá, ở mãi cuối lớp, không chịu nghe ông thầy giảng bài, còn chọc phá mấy người ngồi bạn cùng bàn, sẵn chiếc khăn lau bảng trong tay, ông vo tròn thành một cục, sự tức giận anh học trò khiến ông thêm sức mạnh chăng, vì cái khăn vo tròn như cục đạn bắn thẳng tới tận cuối lớp, cùng tiếng thét giận dữ của ông thầy, "Mang nó lên đây!", khiến anh học trò líu ríu làm theo, Gấu bỗng nhớ đến câu văn để đời của ông, qua miệng nhân vật Thạch:
-Em đã biết tay anh chưa ? (Chửi tục!).
*
D. H. Lawrence: Đừng bao giờ tin tưởng nghệ sĩ. Hãy tin câu chuyện kể.
Câu này thật đúng, với Bếp Lửa.
Trong lời tựa, lần xuất bản thứ tư, TTT viết:
Được viết một hơi – khoảng đâu hai ba tháng – được in ngay sau khi viết – không có một quãng cách nào để kịp lùi, nhìn lại – quyển Bếp Lửa là quyển duy nhất của tôi chỉ có một lần bản thảo.
Chúng ta tự hỏi, bằng cách nào, mà chỉ trong hai ba tháng, viết xong một cuốn tiểu thuyết thơ tạo "dấu ấn" cho cả một thời đại như thế?
Chỉ có thể giải thích, thời gian viết, là hai ba tháng, chỉ là thời gian xổ ra hết, tất cả cuốn sách đã được tích tụ ở trong đầu.
Cũng vậy, là Thơ ở đâu xa, như ông kể lại, khi được thả, ông ngồi gập mình, "thổ ra" tất cả những bài thơ tù chứa chất ở trong đầu, trước khi về gặp lại vợ con.


*

Dante

Chàng đếch thèm trở lại
Ngay cả sau khi mất
Thành phố Hà Lội của chàng
Rời bỏ, chàng đi thẳng một mách
Vì chàng mà tôi hát bài hát này
Đêm. Một bó đuốc. Nụ hôn sau cùng.
Bên ngoài, âm thanh số mệnh – Như gió hú
Từ Địa Ngục, chàng gửi cho nàng một lời trù ẻo.
Ở Thiên Đàng, nàng vẫn giữ chàng ở trong đầu
Chàng không bước chân trần, muộn trong đêm
Bị quyến rũ, như 1 tên tội đồ
Qua Hà Lội - phản bội, đầy hờn oán
Thành phố chàng chân thành ao ước.

*

A WORD ABOUT DANTE

Sopra candido vel cinta d'uliva
Donna m'apparve, sotto verde manto
Vestita di color di fiamma viva

I AM HAPPY THAT at today’s celebration I am able to attest that my entire conscious life has passed in the radiance of this great name, that together with the name of this great genius of mankind-Shakespeare-this name was inscribed on the banner under which my path began. And the question that I dared to ask the Muse also contains this name-Dante.

. . . And here she was. She gazed at me and waited
Attentively, her veil tossed overhead.
I ask her: "Was it you then who dictated
The script of Hell to Dante?" "I," she said. (1)

For my friends and contemporaries the greatest, unattainable teacher was always the stern Alighieri. And between two Florentine bonfires Gumilyov sees how

The poor exiled Alighieri
With an unhurried step descends to Hell.

And Osip Mandelstam dedicated years of his life to the study of Dante's work and wrote an entire treatise, A Conversation with Dante, and often refers to the great Florentine in his poetry:

From rough stairways, from squares,
from angular palaces
Alighieri sang the circle
of his Florence more mightily
with wearied lips

Mikhail Lozinsky triumphantly carried out the heroic feat of translating The Divine Comedy's immortal terza rima into Russian.
The critics and readers in my country regarded this work highly.
    I have brought together all my thoughts on art in lines graced by that same great name:

Even after his death he did not return
To his ancient Florence.
To the one who, leaving, did not look back,
To him I sing this song.
A torch, the night, the last embrace,
Beyond the threshold, the wild wail of fate.
From hell he sent her curses
And in paradise he could not forget her-
But barefoot, in a hairshirt,
With a lighted candle he did not walk
Through his Florence-his beloved,
Perfidious, base, longed for ...

Translated by Ronald Meyer

(1)

THE MUSE

When at night I await the beloved guest,
Life seems to hang by a thread. "What is youth?" I
demand
Of the room. "What is honor, freedom, the rest,
In the presence of her who holds the flute in her hand?"

But now she is here. Tossing aside her veil,
She considers me. "Are you the one who came
To Dante, who dictated the pages of Hell
To him?" I ask her. She replies, "I am." 

1924

Nữ Thần Thi Ca

Ðêm, ta đợi vị khách quí
Ðời như treo sợi chỉ
"Tuổi trẻ là cái chi chi"?",
Ta hỏi căn phòng
“Danh dự, tự do, cái còn lại,
Thì là cái gì, trước nàng, người cầm cây sáo ở trong tay? 

Nhưng bây giờ, nàng ở đây. Kéo cái mạng che mặt qua một bên,
nàng nhìn ta ra ý dò hỏi. “Bà có phải là người đọc từng trang Ðịa Ngục
cho Dante chép, phải không?” Ta hỏi nàng.
“Không phải ta, thì là ai?”

A Word About Dante

Akhmatova delivered her "A Word About Dante" at the celebration marking the 700th anniversary of Dante's birth, held in Moscow's Bolshoi Theater on October 19, 1965. This was Akhmatova's last public appearance.

1. Akhmatova has taken her epigraph from Dante's The Purgatorio. The lines in John Ciardi's translation (New York, 1961) read: "A lady carne in view: an olive crown / wreathed her immaculate veil, her cloak was green, / the colors of live
flame played on her gown."
2. Akhmatova quotes the last quatrain of her 1924 poem "The Muse," here translated by Walter Arndt (Selected Poems, p. 87).
3. Akhmatova cites the concluding lines from Nikolai Gumilyov's poem "Florence." See his Stikhotvoreniia i poemy (Leningrad, 1988), pp. 397-98.
4. Osip Mandelstam's Conversation about Dante was written in 1933, but not published in the USSR until 1967. See Osip Mandelstarn, The Complete Critical Prose and Letters, edited by Jane Gary Harris (Ann Arbor, 1979) for an English
    translation.  
5. The lines from Mandelstarn's "I hear, I hear the early ice" (1937) are from David McDuff's translation of Mandelstarn's Selected Poems (New York, 1975), p.145.
6.    See Akhmatova's tribute to Mikhail Lozinsky.
7.    The translation of Akhrnatova's poem "Dante" (August 17, 1936) is from Complete Poems of Akhmatova, vol. 2, p. 117.


IN THE WOODS

Four eyes shine-four diamonds,
My two and the owl's two overhead.
How terrible is the tale that ends
With the death of my beloved.

My words ring out, senseless and mordant,
I'm lying in the grass, damp and green,
And from above, looking oh so important,
The owl listens, quiet and keen.

We're surrounded by firs that tighten our breath,
The sky, a black square, continues to hover,
You know, don't you, about his death,
He was killed by my elder brother-

It wasn't in war or its aftermath,
It wasn't in combat or bloody strife,
But coming to see me on a forest path
That my lover lost his life.

1911

Anna Akhmatova

Trong rừng

Bốn mắt long lanh - bốn viên kim cương
Hai của tôi, và hai của con cú ở phía bên trên đầu
Câu chuyện chấm dứt mới khủng khiếp làm sao
Với cái chết của người yêu dấu của tôi

Những lời của tôi thốt ra, vô cảm và cấu xé
Tôi nằm trên cỏ, ướt, xanh.
Và ở bên trên, nhìn một cách rất ư là quan trọng,
Con cú lắng nghe, trầm lắng, xót xa.

Bao quanh chúng tôi là cánh rừng linh sam
Rừng bóp nghẹt hơi thở của chúng tôi
Bầu trời, vuông đen, tiếp tục lờ lững
Bạn biết không, bạn biết mà, về cái chết của anh ấy
Anh ấy, thằng em Nam Kít, bị thằng anh ruột Bắc Kít làm thịt.

Không phải trong cuộc chiến hay là sau đó
Không phải trong trận đánh, hay cuộc xung đột đẫm máu
Nhưng hãy tới gặp tôi trên con đường rừng
Người yêu của tôi mất cuộc đời của anh ấy.

No one absorbs the past as thoroughly as a poet, if only out of fear of inventing the already invented (This is why, by the way, a poet is so often regarded as being “ahead of time”, which keeps itself busy rehashing clichés). So no matter what a poet may plan to say, at the moment of speech he always knows the inherits the subject. The great literature of the past humbles one not only through its quality but through its topical precedence also. The reason why a good poet speaks of his own grief with restraint is that as regards grief he is a Wandering Jew. In this sense, Akhmatova was very much a product of the Petersburg tradition in Russian poetry, the founders of which, in their own turn, had behind them European classicism as well as its Roman and Greek origins. In addition, they too were aristocrats.

Joseph Brodsky: The Kneeling Muse

Chẳng ai hấp thụ quá khứ thông suốt, đầy đủ, trọn vẹn, như là một nhà thơ, ấy là vì chàng sợ lập lại điều ông cha đã từng phịa ra. Đó là lý do tại sao nhà thơ rất ư bị coi “đi trước thời” của mình, và thời của mình, chính nó, thì luôn luôn bận bịu với cái việc làm mới những bản kẽm [cứ như là khâu vá màng trinh!]. Thành thử, dù thi sĩ loay hoay hì hục, vào cái lúc mà anh ta cất tiếng, là anh ta thừa biết mình 1 thứ hậu duệ thừa hưởng đề tài từ ông cha. Cả 1 nền văn chương lớn của quá khứ cúi đầu chào anh ta, không phải chỉ qua những phẩm chất, mà còn qua tiền đề bài nói chuyện của nó nữa. Cái lý do tại làm sao một nhà thơ bảnh - như ông anh của GCC chẳng hạn [không đa đa siêu thực, khởi từ ca dao qua tự do] – nói về nỗi đau của riêng anh ta, với một sự kiềm chế [nhà thơ chớ bao giờ khoe vết thương của mình, chớ bao giờ coi mình là nạn nhân của VC. Brodsky], bởi là vì, cũng với đau khổ riêng, anh ta tự coi mình là 1 tên Do Thái Lang Thang, một tên Mít mất mẹ nước Mít.

THE MUSE

When at night I await the beloved guest,
Life seems to hang by a thread. "What is youth?" I
demand
Of the room. "What is honor, freedom, the rest,
In the presence of her who holds the flute in her hand?"

But now she is here. Tossing aside her veil,
She considers me. "Are you the one who came
To Dante, who dictated the pages of Hell
To him?" I ask her. She replies, "I am." 

1924


Thơ Mỗi Ngày


WILD ROSES ARE BLOOMING
(FROM A BURNED NOTEBOOK)

And thou art distant in humanity ...
Keats

No normal greeting on a holiday,
But this wind comes, rough and dry, to bring you
A rich aroma of decay,
The taste of smoke and some verses too,
A few poems written in my hand.

4. FIRST LITTLE SONG

Triumphs, vacant and shuttered,
The mysterious non tryst,
Speeches never uttered,
Words that don't exist.
Looks that do not see
Don't know where to go,
And only tears are happy
That they at length may flow.
The clawing wild roses, alas!
Go with this, hand in glove,
And it will come to pass
They'll call this undying love.

Earthly fame's like smoke, I guess-
It's not what I asked for from those above.
I brought so much luck and happiness
To all the men I blessed with love.
One's alive even at this date,
Mad for a girlfriend he met somewhere.
The other turned bronze and stands in wait
Covered with snow, in the village square.

1914


Anna Akhmatova

Lyn Coffin

Marina Tsvetaeva 
TTT 10 years Tribute


Trong bài tưởng niệm TTT của Đặng Tiến, có nhắc tới nhân vật Đinh Ngọc Mô, có 1 thời làm MC chương trình Đố Vui Để Học. Tay này mê văn TTT, nhớ nhiều câu thật “độc”.
Cái chuyện nhớ văn TTT, hiểu được,
là vì văn của ông thực sự là thơ, và trên cả thơ, là thi ảnh, hay ảnh tượng, thay vì là ẩn dụ.
Có thể nói, trường hợp "viết văn là làm thơ", và "làm thơ bằng ảnh tượng, thay vì sử dụng ẩn dụ", của TTT, là độc nhất trong chốn võ lâm giang hồ.
Có 1 tác giả tương xứng với nó, là Bachelard, với cuốn Thi Học của Không Gian.
Trong thư gửi đảo xa, TTT bật mí điều này, khi ông thố lộ, ông rất mê Bachelard.
Trong bài viết về ông từ năm 1972, “Bếp Lửa trong Văn Chương”,Gấu đã đưa ra ý này, và có đưa ra vài thí dụ.
Trong bài tưởng niệm TTT của Nguyễn Chí Kham, cũng cực mê văn TTT, có kể lại trường hợp gặp ông trong tù, vì cùng là sĩ quan VNCH, và trong lần gặp lại đó, NCK có đọc cho ông nghe 1 vài câu văn gắn chặt vào hồi ức, TTT rất ư là cảm động.
Nhưng chưa khủng bằng 1 anh chàng mê văn Kafka, như Stach kể lại trong bộ sách khổng lồ của ông, về Kafka.
Post ở đây, vì, có lẽ, khó mà có 1 trường hợp thứ nhì.

V/v DNM.
Có thời gian mê 1 em học Trường Sơn, và em này, có 1 cái tên tuyệt vời, và cũng đẹp tuyệt vời, người yêu 1 thời của bạn C, em trai TTT.


http://www.tanvien.net/gioithieu/dang_tien_ttt.html

Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế. Bản thân Thanh Tâm Tuyền về sau, trong tập Thơ ở đâu xa cũng trở về với những thể thơ truyền thống. Nhưng đây là những bài thơ làm trong lao lý, trong những hoàn cảnh đặc biệt, không cho phép chúng ta suy diễn về lý thuyết. Dù sao ông đã mở ra những chân trời mới và cách tân quan niệm thi ca.

Tôi còn một chứng từ riêng: bạn tôi là Đinh Ngọc Mô, nhiều người biết vì có thời phụ trách mục Đố vui để học trên truyền hình Sài Gòn, quen nhau từ 1965 tại Đà Lạt, gặp lại nhau 1970 tại Paris. Lúc ấy, Mô sống vất vả, lang bang, đi đàn hát trong các nhà hàng Việt Nam để mưu sinh. Một tối về khuya, dọc Boulevard des Italiens, Mô đã đọc thuộc lòng cho tôi nghe những trích đoạn dài của Bếp lửa mà anh tâm đắc và cho là tân kỳ. Thuộc thơ Thanh Tâm Tuyền đã là khó, thuộc văn xuôi lại không dễ. Vắng tin nhau khá lâu, có người mách là Mô đã qua đời, đã tự tử bên Canada. Tôi không muốn tin, nhưng mỗi lần mở truyện Bếp lửa, là tôi tìm lại những đoạn Mô đã đọc, cho đến bây giờ sách đã vàng ố, tả tơi, rách nát như cuộc đời của chúng tôi. Trước khi kể lại chuyện này, tôi rà lại tin tức, thì bè bạn bốn bể năm châu đều xác nhận chuyện buồn. Mà tôi vẫn chưa tin, và muốn hỏi Mô: Mô ơi, thật à? Cậu ấy vui tính, hay đùa.


http://www.tanvien.net/Presentation/tuong_nho_ttt.html

- Anh viết câu mở trong cuốn Ung Thư thật là tuyệt vời.

Và anh nghe tôi đọc: Giữa vùng nước đục ngầu, thành phố nghiêng chìm dưới đôi cánh phi cơ.

Anh Tâm rất hiểu tôi là người ham mê đọc tiểu thuyết. Anh cũng biết, tôi thích cuốn sách anh đã viết, nên chiều đó, với nguồn cảm hứng trong văn chương, anh rất vui lắng nghe tôi nói về cuốn tiểu thuyết của anh. Lúc này, tôi nhắc đến Thạch, Ðồng, An, Liên, và Nga là những nhân vật trong cuốn Ung Thư. Và, trong Ung Thư có một chi tiết thật cảm động, tôi rất thích đó là bối cảnh Hà Nội trong cơn hấp hối, thành phố sắp tan rã, suốt đêm Thạch đi tìm Liên khắp Hà Nội, nhưng không có nàng, sau đó anh trở về lại con hẻm cũ nơi có nhà nàng ở, đứng đầu hẻm với nỗi nhớ người yêu Thạch bụm tay lên miệng cất tiếng hú gọi tên Liên... Liên... Liên, tiếng hú vang dội đã làm bầy chó rống lên, sủa ran cả một khu phố. Tôi gợi lại chi tiết nhớ được đó, anh Tâm mỉm cười nhìn qua tôi, tôi đọc được ở trong cặp mắt anh một niềm vui rất thơ trẻ.

Nhận xét của DT về Thơ ở đâu xa, không đúng, theo Gấu. Nhận định của Brodsky, về thơ Anna Akhmatova, áp dụng vào TTT, ở đây, làm rõ hơn.
Theo Brodsky, chỉ thi sĩ mới nhớ kỹ quá khứ, khi làm thơ vần, bởi là vì anh tránh sự lập lại quá khứ.
Và khi đi tù, làm thơ vần, là để dễ nhớ, để khi ra trại 1 phát, là cúi gập người, ghi lại những bài thơ chứa trong đầu.

No one absorbs the past as thoroughly as a poet, if only out of fear of inventing the already invented. (This is why, by the way, a poet is so often regarded as being "ahead of his time" which keeps itself busy rehashing clichés.) So no matter what a poet may plan to say, at the moment of speech he always knows that he inherits the subject. The great literature of the past humbles one not only through its quality but through its topical precedence also. The reason why a good poet speaks of his own grief with restraint is that as regards grief he is a Wandering Jew. In this sense, Akhmatova was very much a product of the Petersburg tradition in Russian poetry…

At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova-which explains her popularity and which, more importantly enabled her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of human ties: cherished, strained, severed. She showed these evolutions first through the prism of the individual heart, then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics anyway.
Brodsky: The Kneeling Muse


Nguyễn Trường Trung Huy reacted to this.

Hqcbm Thanh Thuý đọc bài này chưa? Một bài rất hay viết về quê hương Dran.





Khói sương như không muốn rời khỏi Dran. Hẳn đây là những dải lụa trời rồi. Nó cứ quần quanh thung lũng, kéo nhau lê thê từ đỉnh cao sườn bắc Trạm Hành vòng theo cánh cung sườn núi xuống đầu đèo Sông Pha, qua suối Cát, vắt các…
By BAOMOI.COM

Note: Bài này tưởng niệm DC & TTT thật tuyệt.


*


But can poetry address the terrible, barbaric violence now engulfing Syria? One thinks of Adorno’s claim about poetry after Auschwitz.

Thơ làm gì được, trước...  VC?
Sau.... VC mà còn làm thơ thì thật là dã man!

This is talk. Auschwitz was a catastrophic disaster, but humanity has gone through many catastrophic disasters. On the contrary, I believe that writing starts with asking questions and uncovering the sources of evil, wherever they come from. Because with Adorno’s words, he prevents us from posing questions and forces us to accept. This is wrong. I do not agree with him. Now the writing starts, after Auschwitz.

Còn lèm bèm được thì cứ lèm bèm. Tớ không đồng
ý với xừ Adorno nào đó!


Văn Học số Xuân Đinh Sửu [129&130], trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ viết: "... rằng sau Auschwitz, 'nếu cá nhân nào đó mà còn làm được thơ thì thật là dã man' (sic), và 'mọi văn hóa sau Auschwitz chỉ là rác rưởi'.
Tôi chưa từng được quen biết, trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên không lạm bàn rông rài. Chỉ "trộm" nghĩ rằng câu nói của ông [ta] có vẻ như... "vung tay quá trán". Có thể đổi được chăng những câu phê phán này thành... "sau Auschwitz mà còn làm thơ... Trời ơi, Tuyệt!"?  Hay là, "Mọi văn hóa sau Auschwitz là những nhánh kỳ hoa bung lên từ bãi dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu bọ lúc nhúc, thối um"?

Đêm Tận Thất Thanh  là một nhánh kỳ hoa đó...

Tôi không may mắn (?) từng đọc tác giả Adorno nói trên....

Loxahatchee, Florida 5-2-97
24 tiếng trước Tết Đinh Sửu, ở Việt Nam
Võ Đình

TO THE MEMORY OF A POET

Like a bird, echo will answer me.
B.P. (Boris Pasternak)
[Như một con chim, tiếng dội sẽ trả lời tôi]

1.
That singular voice has stopped: silence is complete,
And the one who spoke with forests has left us behind.
He turned himself into a life-giving stalk of wheat
Or the fine rain his songs can call to mind.
And all the flowers that hold this world in debt
Have come into bloom, come forward to meet this death.
But everything stood still on the planet
Which bears the unassuming name ... the Earth.
2.
Like the daughter of Oedipus the blind,
Toward death the Muse was leading the seer.
And one linden tree, out of its mind,
Was blooming that mournful May, near
The window where he told me one time
That before him rose a golden hill,
With a winged road that he would climb,
Protected by the highest will.
1960
Akhmatova 

Boris Pasternak: 1890-1960, renowned Russian poet and novelist.

Oedipe mù, được cô con gái dẫn dắt
Nữ thần thi ca đưa anh tới cái chết của mình
Một bông hoa đoan, khùng, độc nhất,
Nở, vào đúng Tháng Năm đau buồn đó
Ở gần cửa sổ
Nơi ông đã có lần tâm sự cùng tôi
Ông nhìn thấy dựng lên một cảnh đồi vàng
Cùng con đường dốc có cánh
Và ông trèo lên
Được bảo vệ bởi Thánh Ý.

*

It seems that the voice we humans own
Will never sound, never celebrate,
Only a wind from the age of stone
Keeps on knocking at the black gate.
And it seems to me that under the sun
I alone remain-this honor's mine,
Simply because I was the first
Who wanted to drink the deadly wine.
1917
Akhmatova 

Có vẻ như cái thứ tiếng người mà chúng ta có đó
Nó sẽ chẳng bao giờ kêu lên
Chẳng bao giờ ăn mừng
Chỉ là tiếng gió từ thời kỳ đồ đá
Liên tục gõ lên chiếc cổng đen
Và hình như chỉ còn tôi, đơn độc dưới ánh mặt trời
Và đây là niềm vinh quang của tôi
Giản dị, ấy là vì tôi là người đầu tiên
Muốn uống ly rượu độc

TTT 2012

* *
*

Kafka’s Only Enemy

Kafka's social life is striking for the fact that he was generally well received by all: by men and women, Germans and Czechs, Jews and Christians alike. Not only was Kafka popular among his colleagues and superiors, who had known him for a long time, he was also at ease with the tables of strangers he might join at a hotel or sanatorium, and he was well liked by the more distant acquaintances of his close friends. In his everyday life, Kafka was friendly, helpful, charming, a sensitive listener, but also discreet. His witty, self-ironizing observations prevented anyone from seeing him as a sexual or intellectual rival.
Kafka kept his distance from any sort of public feuds, and we find no harsh words for him in the diaries or letters that his close contemporaries left behind.
    With one notable exception.
        "The longer I'm away from Kafka, the more I dislike him, with his slimy maliciousness."
            These words were written by the doctor and writer Ernst Weiss in a letter to his lover, the actress Rahel Sanzara. Weiss had been one of Kafka's few friends not from Max Brod's circle, and he competed with Brod in a certain sense. In Weiss's view, the only way that Kafka could conceivably solve all of the problems in his life was to extract himself from his many obligations and entanglements in Prague, and begin a new literary existence in Berlin.
    It is not entirely clear what led these two men to part ways, but it seems Weiss was angry that Kafka, who had long promised to write a review of his novel Der Kampf  (The Struggle), ultimately declined. The novel was published in April 1916, at a time when Kafka was suffering from a long spell of unproductivity and felt himself incapable of even the slightest literary work, but Weiss saw that as an excuse. "We plan to have nothing more to do with one another until things begin to go better for me," Kafka wrote to Felice Bauer. "A very reasonable solution."
    In the years after the war, the two writers managed a half-hearted reconciliation, but this did not quell Weiss's latent animosity, which experienced a resurgence after Kafka's death. Thus Weiss assured Soma Morgenstern, an admirer of Kafka, that Kafka had behaved "like a scoundrel" toward him. And as late as the 1930S, Weiss was still portraying his one-time friend as socially autistic, as he did in the magazine Mass und Wert (Measure and Value), even while expressing admiration for his literary work.

*

Kẻ thù độc nhất của Kafka.
Nhờ viết bài thổi cuốn sách mà cũng vờ, sao không thù?
GCC có nhiều kẻ thù là vậy!

&

Writers who spied
The unsurprising link between authorship and espionage
Nhà văn cớm

Cái link chẳng có gì là ngạc nhiên giữa viết văn và làm nghề gián điệp

Of the CIA spy, Alden Pyle, Greene’s narrator in “The Quiet American”, observes, “I never knew a man who had better motives for all the trouble he caused.”  
Về tên Xịa, Alden Pyle, nhân vật kể chuyện – anh ký giả già, ghiền
Hồng Mao, Fowler - trong Người Mỹ Trầm Lặng nhận xét, tôi chưa từng biết 1 tên với nhiều thiện ý, về tất cả trouble, do anh ta gây ra.

*
Greene chọn Norman Sherry, giáo sư văn chương đại học Trinity San Antonio, Texas, là người viết tiểu sử, là do mê ông này, khi viết về Joseph Conrad [Conrad’s Western World]. Nhất là sự kiện Norman Sherry, để viết về Conrad, đã thực hiện những chuyến đi thực tế tới vùng Viễn Đông và đặc biệt là những khám phá của Norman Sherry ở Tây Phi về Trái Tim Của Bóng Đen, của Conrad. Chính Greene đã tìm cách tiếp cận Sherry, qua một nhà báo, William Igoe. Ông này nói với Sherry, trong một bữa cùng ăn trưa, “Có một tay, đúng là một huyền thoại của chính thời đại của anh ta, và tay này rất mê tác phẩm của bạn”. Sau đó, hai người gặp gỡ, vào lúc đó, như Sherry sau này mới biết, Greene đang bị gia đình và bạn bè đòi hỏi, phải kiếm cho ra một tay viết tiểu sử về mình. Và trong khi ông đang tỏ ra thích thú bởi nụ cười rất ư là đặc biệt, và cặp mắt xanh của Greene, bất thình lình, ông này nói: “Bạn khó mà viết về tôi, như là bạn viết về Conrad. Bạn khó có thể viết về tôi, bởi vì bạn không thể tới Sài Gòn." [Bối cảnh của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng là Sài Gòn thập niên 1950. Câu nói của Greene là vào năm 1974, tình hình chiến sự và thái độ của nhà cầm quyền miền nam không cho phép Sherry tới đây, như đã từng tới Phi Châu, khi viết về Conrad.]
 *

Khó khăn thứ nhì, Greene đòi hỏi, Sherry, người viết tiểu sử của mình, phải "theo từng bước chân của tôi". Thế là Sherry phải đi thực tế tới những nơi từng làm bà đỡ cho những tác phẩm lớn của Greene, như Mexico, Liberia, Cuba, Việt Nam, và cả lố những vùng chẳng hề thân thiện với đám mũi lõ. Trong khi cố gắng hoàn thành lời hứa, đi theo những vết chân của tôi, ông đã tới những vùng như Haiti, Argentina, Paraguay, Japan, Malaya, Sierra Leone, và nhiều nơi khác nữa, và trong những chuyến đi thực tế như vậy, đã bị mù sáu tháng, bị sốt rét tại Africa, và hoại thư, khiến ông mất một khúc ruột tại Panama.

  Sherry gần như xục xạo tới từng chi tiết trong đời Greene, và ông khám phá ra, tất cả những nhân vật của Greene đều có nguyên mẫu ở ngoài đời, và nguyên mẫu số một, còn ai trồng khoai xứ này nữa, nếu không phải là chính chàng!

   Điều này gây trở ngại lớn. Greene sống, đến mút chỉ đời mình, và có rất nhiều mối tình, tình nào cũng lâm ly bi đát. Có nhiều mối tình cùng xẩy ra một lúc, sóng đôi sóng ba mí nhau. Ông làm điệp viên cho MI6, phản gián Anh. Ông hít tô phe. Đi xóm hằng bữa! Càng "đi" nhiều càng viết khỏe. Làm sao nhuần nhuyễn tất cả, mà vẫn tôn trọng sự kín đáo, vẫn bảo vệ đời tư của tất cả, và nhất là của Greene? Bản thân Greene cũng chơi tới hai cuốn nhật ký, viết song song, hai ấn bản khác nhau, để giấu giếm những lần đi chơi điếm, hoặc tới động hút. Có lần ông viết cho Catherine Walston, một trong những cô bồ lâu ngày của mình: "Nếu có ai cố tìm cách viết tiểu sử của tôi, người đó sẽ thấy rắc rối, phức tạp làm sao, và rất dễ lầm đường lạc lối như thế nào."

  Nhưng như trên đã viết, cái chiều sâu thăm thẳm của tác phẩm của Greene chỉ được vén mở, nếu chúng ta nhìn lại giá sách của ông, và nhận ra rằng, người đi trước, “thần tượng” của ông, chính là Henry James, hay nói theo Zadie Smith, trong tiểu thuyết của Greene cũng như của James, tất cả những thăng trầm của một kiếp người, “những thói đời”, đều được đem lên bàn mổ. Cá tính nhân vật, mà người đọc cảm thấy như là nói về chính mình, và hãnh diện về chúng [“Tốt lành như tôi đây, còn nó, bạn thấy đấy, chỉ là một tên đểu giả”], đột nhiên bị lột trần, và chẳng là cái đếch gì cả khi bị đẩy tới cực điểm: Chiến Tranh, Chết Chóc, Mất Mát, Đổ Vỡ, Tình Yêu…. Đúng như Greene nhận xét: Bản chất con người không đen và trắng, mà là đen xám, hay đúng hơn, xám xịt.[Human nature is not black and white but black and grey].

Chính trong cái bầu khí xám xịt đó, là Sài Gòn thập niên 1950, mà cuộc tình tay ba, trong Người Mỹ Trầm Lặng, với ba đỉnh của nó, được mở ra: tính dễ bị mua chuộc, mà cũng rất ư là thành thực, không mầu mè, của một cô Phượng [với giấc mơ lấy chồng Mẽo, làm dâu Mẽo, hay tệ hại hơn, làm dâu Đài Loan, Đại Hàn… như những cô Phượng hiện nay ở Việt Nam…], tính dãn ra, chẳng còn muốn vướng vào những vấn đề của một xứ xở thuộc địa như Việt Nam, của anh mũi lõ già nghiền thuốc phiện, là Fowler, và sự ngây thơ của một anh Mẽo trẻ tuổi đẹp trai, thiện nguyện viên, hay cố vấn Pyle! Đúng là một tam giác lý tưởng để dựng nên một cuốn tiểu thuyết lý tưởng! Nó làm cho Zadie Smith [trên tờ Guardian] nhớ tới trò chơi “jack straw”, trong đó mỗi người chơi, tới lượt mình, rút một cọng rơm mà không đượcđụng những cọng rơm còn lại. Tài nghệ của tiểu thuyết gia ở đây, là làm sao cân bằng cả ba, bắt từng nhân vật đối diện với chính mình, và với hai kẻ kia, trong tấn trò đời, với tất cả những lên voi xuống chó, những hy vọng, những thất bại - và nhất là, phải làm sao cho độc giả đừng trông mong có được một nhận định, đánh giá sau cùng, khi gấp sách lại, [và thở phào, rằng, việc đọc của ta như vậy là xong!]. Greene không thích những độc giả của ông có được sự hài lòng, thoải mái, theo nghĩa này: “Khi chúng ta không chắc chắn, như vậy là chúng ta vưỡn còn sống!”

 
Trường hợp Người Mỹ Trầm Lặng, bầu khí mang chất đạo hạnh trong đó được xây dựng từ từng mỗi viên gạch của nó, như Zadie Smith đã nói tới, về một hệ thống đạo đức được so đo đong đếm đến từng chi tiết. Nó làm Zadie Smith nhớ tới Henry James trong tác phẩm Những Người Âu Châu, nhưng có khác, với Greene, câu chuyện không xẩy ra ở trong một căn phòng, mà là ở trận địa. Có gì là chắc chắn khi lọt vào một trận địa. Độc giả, như Greene, bị đẩy vào trong những cuộc tranh chấp dơ dáy, bẩn thỉu, tởm lợm nhất của thế kỷ, thí dụ như cuộc chiến Việt Nam, và rất nhiều cuộc chiến khác, một khi con người vẫn cứ lăn xả vào nhau, chém giết nhau, cho dù những “nghĩa cả” đã trở nên tối mò mò, chẳng ai còn tin tưởng vào chúng nữa. Những nhân vật của Greene làm bật ra sự bất toàn, tính không thể nào xác định được, của cái gọi là đạo đức, đạo hạnh, sự lẫn lộn, chẳng biết đàng nào mà lần, một khi con người sống ở trong một cuộc chiến không [làm sao] chấm dứt. Nhưng, cho dù vậy, tại Việt Nam, trong Người Mỹ Trầm Lặng, Phượng và tay phóng viên Fowler đã tìm được nhau, đúng là một sự chúc phúc, quá mức mong đợi ít ra là đối với Fowler. Đây đúng là một sự cứu nguy vào phút chót, sắp sửa chìm lỉm thì vớ được sợi thừng cứu mạng!

“Tôi là một kẻ có niềm tin lớn lao vào Lò Luyện Ngục”, Greene đã từng trả lời như vậy, trong một cuộc phỏng vấn. “Lò Luyện Ngục, với tôi, là có ý nghĩa…. một khi bị ném vào đó, con người có ấn tượng về sự du di, chuyển động. Tôi không thể nào tin vào Thiên Đàng. Mọi người cứ ỳ ra, ở đó. Đâu còn có điều gì để mà làm nữa!”

 Ở Lò Luyện Ngục đó - ở cuộc chiến Việt Nam đó – Fowler vô trước, sau tới anh chàng thiện nguyện, cố vấn Mẽo, đẹp trai, trẻ măng. Anh này tin vào Thiên Đàng. Anh ta tới, được trang bị bằng cả một tự sự lớn [a great narrative], về Việt Nam. Anh ta sẽ bắt ép Việt Nam phải “thích hợp” với nó – Tiền Đồn Chống Cộng cho cả một trái đất sẽ không còn Cộng Sản nữa, thí dụ vậy. Anh ta có một câu chuyện của anh ta về Fowler, và ngược lại, Fowler cũng có một câu chuyện riêng của mình, về tên thực dân mới ngu si đần độn, cứ tưởng mình sẽ đem tự do dân chủ theo kiểu Mẽo đến cho thuộc địa cũ của Tây, và đây là giọng kể chính của cuốn tiểu thuyết. Cả hai tay này lại có những câu chuyện của riêng của họ về Phượng. Chẳng có một câu chuyện nào tin được. Chúng đều được dựng lên, theo yêu cầu của từng cá nhân, cho hợp với vai trò của mình. Greene hiểu rất rõ, những toan tính vị kỷ, nằm nơi đáy sâu con người, sẽ đẩy con người đi tới đâu. Ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, những toan tính cá nhân này được hiện rõ ra, trên cái nền chính trị, và cùng với nó, là một xứ sở. Qua Phượng, người đọc cảm thấy, đây là một người đàn bà thực, đang hít thở không khí, không phải là một ý tưởng về một người đàn bà mà Pyle đang chôm từ Fowler.

Gừng càng già càng cay, càng ngày, tính ngây thơ ngốc ngếch, mù tịt về thế giới của anh chàng cố vấn Mẽo Pyle càng nổi lên cùng với cuốn truyện, kể từ khi được xuất bản, đúng như Fowler cảnh cáo anh ta:

“Tôi cầu mong Chúa làm cho anh hiểu được những gì anh đang làm ở đây. Ôi, tôi hiểu rất rõ, những nguyên nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp của anh.  Chúng luôn luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi anh có được một vài ý hướng xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm được một tí, về thế thái nhân tình, về con người. Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ Mẽo của anh đấy, Pyle ạ.”

Nhưng theo Zadie Smith [Guardian], Pyle không chịu học. Sau cùng, anh ta cho rằng, niềm tin quan trọng hơn hoà bình, tư tưởng sống động hơn con người. Sự ngây thơ của anh ta, trên bình diện thế giới, chẳng khác gì một thứ chính thống giáo [fundamentalism]. Đọc lại cuốn truyện càng củng cố thêm lên nỗi sợ của  Zadie Simith, về tất cả những me-xừ Pyle trên toàn thế giới. Họ đâu có muốn làm cho chúng ta bị thương tổn. Chúng tôi tới với bạn là do thiện ý, do niềm tin, cơ mà? Nhưng chính những me-xừ Pyle này làm chúng ta đau khổ, làm thương tổn chúng ta. Thành quả lớn lao của Greene ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, là cho tên già đểu giả, Fowler, nhân danh “nghĩa cả”, khi chỉ vào đống xác người mà Pyle coi, đó chỉ là biểu tượng. Fowler, và những người như anh ta, đều lý tưởng quá đủ, để mà chứng minh rằng, trên trái đất này, chẳng có một lý tưởng nào xứng đáng để mà lăn xả vào nhau, chém giết lẫn nhau,  vì nó. Khi Pyle hỏi Fowler, như vậy, anh tin vào điều chi, “Tôi tin, tin chứ. Tôi tin, mình đang tựa lưng vô tường, và có một họng súng ở đằng kia kìa”. Pyle lắc đầu: “Tôi đâu tính hỏi bạn như vậy”.

Nhưng tác phẩm của Greene là đúng như vậy đó. Ông mang tới cho người đọc, một hy vọng, thứ hy vọng mà một người quan sát viên dán mắt vào sự kiện đem lại cho chúng ta. Theo nghĩa đó, Greene là tay ký giả bậc thầy. Ông dâng hiến cho chúng ta những chi tiết, và những chi tiết chính chúng, sẽ chiến đấu, trong một cuộc chiến đấu nhằm chống lại những thùng rỗng kêu to, nói rõ hơn, những ý nghĩ, tư tuởng lớn lao, nhưng vô ngã, vô vị, vô hình, vô ảnh, như của Pyle.

Ruth Franklin trên tờ Người Nữu Ước, tìm ra, Thượng Đế là ở trong những chi tiết, ngược hẳn với Zadie Smith, trên tờ Guardian, bà thấy Ma Quỉ ở trong những chi tiết, khi đọc Greene. Nhưng bà thêm vô, cứu chuộc cũng là từ đó.

Và có thể, đó cũng là của Greene, như ông từng có lần cầu nguyện, “Một vài người trong chúng ta có thiên hướng tin yêu Chúa. Một vài người khác, có thiên hướng tin yêu con người. Cầu xin làm sao thiên hướng của tôi đừng bị phí phạm”.

Cầu sao được vậy.

Nó quả đã không bị phí phạm.

NQT

Trở lại với Zadie Smith. Greene, 1 cách nào đó, là Thầy của Gấu. Thế là bèn mò đọc thêm về Zadie Smith. Mua vài cuốn của bà, trong có cuốn Changing my mind, On beauty… Hoá ra bà này còn mê cả Barthes. Rồi lại thấy Thầy Đạo dịch ZS trên Gió O nữa chớ!

30 Tháng Tư mà đọc bài này cũng thú.
Rảnh thì đọc thêm bài của đệ tử
của GG, viết cả 1 cuốn sách về thầy của mình.
* *

GG by Pico
Pico Iyer

Theo GCC, cuốn Người Mỹ Trầm Lặng được phát sinh, là từ cái tên Phượng, đúng như trong tiềm thức của Greene mách bảo ông.
Cả cuốn truyện là từ đó mà ra. Và nó còn tiên tri ra được cuộc xuất cảng người phụ nữ Mít cả trước và sau cuộc chiến, đúng như lời anh ký giả Hồng Mao ghiền khuyên Pyle, mi hãy quên “lực lượng thứ ba” và đem Phượng về Mẽo, quên cha luôn cái xứ sở khốn kiếp Mít này đi!


Sách Báo

*     *

http://www.economist.com/news/books-and-arts/21695369-fun-and-philosophy-paris-smokey-and-bandits

Existentialism

Smokey and the bandits
Fun and philosophy in Paris
Mar 26th 2016 | From the print edition

Quán Chùa ở Paris: Khói, Sex, và Hiện Sinh
 
At the Existentialist Café: Freedom, Being and Apricot Cocktails.
 By Sarah Bakewell. Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus; £16.99.

EXISTENTIALISM is the only philosophy that anyone would even think of calling sexy. Black clothes, “free love”, late nights of smoky jazz—these were a few of intellectuals’ favourite things in Paris after the Simone de Beauvoir was “the prettiest Existentialist you ever saw”, according to the New Yorker in 1947. Her companion, Jean-Paul Sartre (pictured) was no looker, but he smoked a mean Gauloise. Life magazine billed their friend, Albert Camus, the “action-packed intellectual”.
Certainly there was action. One evening in Paris, a restaurant punch-up involving Sartre, Camus, de Beauvoir and Arthur Koestler spilled out on to the streets. In New York another novelist, Norman Mailer, drunkenly stabbed his wife at the launch of his abortive campaign to run for mayor on an “Existentialist Party” ticket in 1960. In addition to such excitements, existentialism offered a rationale for the feeling that life is absurd.

Countless adolescents, both young and old, have discovered the joys of angst through the writings of Sartre and his ilk. In her instructive and entertaining study of these thinkers and their hangers-on, Sarah Bakewell, a British biographer, tells how she was drawn as a teenager to Sartre’s “Nausea” because it was described on the cover as “a novel of the alienation of personality and the mystery of being”.
It was over apricot cocktails on the Rue Montparnasse that Sartre and de Beauvoir glimpsed a novel way to explore such mysteries. The year was 1932, and their friend Raymond Aron, a political scientist and philosopher, had just returned from Germany with news of the “phenomenology” of Edmund Husserl and Martin Heidegger. “If you are a phenomenologist,” Aron explained, “you can talk about this cocktail and make philosophy out of it!” The idea was to glean the essence of things by closely observing one’s own experience of them, preferably in mundane settings. Sartre and de Beauvoir set out to do just that.
Drawing on considerable personal knowledge, Sartre delved into “the meaning of the act of smoking”, among other things. Observing the behavioural tics of waiters, he noted that they sometimes seemed to be play-acting at being waiters. This led to labyrinthine reflections on the nature of freedom and authenticity. De Beauvoir’s efforts were more focused. By dissecting female experience of everyday life, she illustrated the ways in which gender is shaped by self-consciousness and social expectations. Ms Bakewell plausibly suggests that de Beauvoir’s pioneering feminist work, “The Second Sex”, was the most broadly influential product of European café philosophy of the period.

When Norman Mailer was asked what existentialism meant to him, he reportedly answered, “Oh, kinda playing things by ear.” Serious existentialists, such as Sartre, earned their label by focusing on a sense of “existence” that is supposedly distinctive of humans. People are uniquely aware of—and typically troubled by—their own state of being, or so the theory goes. Human existence is thus not at all like the existence of brute matter, or, for that matter, like the existence of brutes. People, but not animals, find themselves thrown into the world, as existentialists liked to say. They are forced to make sense of it for themselves and to forge their own identities.

The café philosophers came to regard each other’s existence as particularly troubling. Except for Sartre and de Beauvoir, who remained an intellectually devoted pair until his death in 1980, the main characters in post-war French philosophy drifted apart with varying degrees of drama. So did the German philosophers who inspired them.
Sartre’s embrace of Soviet communism, which he abandoned only to endorse Maoism instead, led Aron to condemn him as “merciless towards the failings of the democracies but ready to tolerate the worst crimes as long as they are committed in the name of the proper doctrines”. Ms Bakewell credits the existentialist movement, broadly defined, with providing inspiration to feminism, gay rights, anti-racism, anti-colonialism and other radical causes. A few cocktails can, it seems, lead to unexpected things.

*     *

Bài Tạp Ghi đầu tiên của GCC, là viết về Quán Chùa Saigon. Và về đám bạn hữu Tiểu Thuyết Mới, Hiện Sinh và không khí văn chương của thời mới lớn của GCC @ Saigon
Vào cái thời bây giờ, cả ba tờ báo, Người Kinh Tế, Văn Học Tẩy, và tờ điểm sách Ăng Lê, đều viết về cái mùi hiện sinh thời đó, ở Paris, toát ra từ bướm de Beauvoir!
Có 1 thứ triết học, là, hiện sinh, mà cái mùi của nó, là, sexy!
EXISTENTIALISM is the only philosophy that anyone would even think of calling sexy. Black clothes, “free love”, late nights of smoky jazz—these were a few of intellectuals’ favourite things in Paris after the Simone de Beauvoir was “the prettiest Existentialist you ever saw”, according to the New Yorker in 1947.
Sài gòn bảnh hơn nhiều, có hơn 1 bướm de Beauvoir:
Bướm anh lên em nhé, mưa không ướt đất, bướm mèo đêm, lao vào lửa, bướm vết thương dậy thì, vòng tay học trò.
Ra tới hải ngoại, vẫn còn bướm, nhà có cửa khóa trái!

TTT 2012

TTT

có hoa có cỏ và lệ đá
có tiếng xuân về gọi vang vang
có ai về gióng hồi chuông mới
khép lại một lần với lưu vong

Đài Sử

Thư tín:

@ Sonata: Thần Ky Tô, Chúa Ky Tô thì cũng rứa. Ở đây dùng chữ Thần, để đúng nội dung của Lukacs.
Kẻ vấn nạn, dịch từ "être prolématique", vấn nạn khác vấn đề, problème, Việt Nam ta hình như dùng tưới, như nhau!
Regards

NQT

Có thể nói, với nhân vật Tâm, trong Bếp Lửa, lần đầu tiên chúng ta gặp thứ nhân vật, như là “kẻ vấn nạn”,  kẻ mang trong mình “căn bịnh siêu hình”, [le mal ontologique, nỗi đau bản thể học] đúng theo nghĩa của Lukacs, về nhân vật tiểu thuyết.

Cái thế giới "về chiều" trong Bếp Lửa chẳng đã tiên đoán mọi tai ương giáng lên nước Mít sau đó, sau 1954?

*  

Vào cuối thập niên 1930, thủ đô Paris, miếng mồi ngon của những hồ nghi và của quỉ sứ, en proie aux mêmes doutes et démons, như phần còn lại của Cựu Lục Địa, nhưng còn là đất hứa, bếp lửa trí thức, un foyer intellectuel, của những nhà văn chọn lưu vong, như Walter Benjamin.

GCC tưởng tượng ra cái cảnh TTT ngồi thư viện Hà Nội, đọc Mác xít, chờ “di tản”, (1) và cảnh GCC, ngồi thư viện Gia Long Sài Gòn, liền sau đó, những ngày sau 1954, chờ...  cuộc chiến hứa hẹn những điều khủng khiếp, và trong khi chờ, đọc Hồ Hữu Tường, “Con thằn lằn chọn nghiệp”, đọc… Trần Đức Thảo, [mấy thứ này là sách cấm, cũng như sách Mác Xít mà TTT đọc ở thư viện HN, bà cụ Chất biểu Gấu, nó đọc Mác Xít nhiều quá, đến nỗi bị ghi tên vào Sổ Đen. Nên nhớ TTT là giáo sư dậy Mác Xít ở Đại Học Đà Lạt], thực sự là chép, những trang tiếng Tây, như chép Kinh Phật, Bí Kíp… vì làm sao mà đọc, cuốn Phénoménologie et matérialisme dialectique (Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng). [Minh Tâm. Paris 1951].
Ui chao hồi đó sướng thật, chỉ tiếc 1 điều, tiếng Tây tệ quá!
Và tất nhiên, nhớ BHD!
Hà, hà!

(1)

Bếp Lửa, "miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng. Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân vật trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.

Tác phẩm thứ nhì của tôi, Ung Thư (1970) có thể coi như tiếp nối Bếp Lửa. Ung Thư là chấp nhận giữa "vô thường", và chút hơi ấm của nỗi chết (l'existence de notre acceptation entre la vanité et la tièdeur de mort). Cuốn sách chẳng bao giờ được in ra...

*   *

Cuốn này tuyệt lắm. Mới ra lò!

33
Kalka Writes a Poem and loves It


Although Kafka occasionally tried his hand at poetry, only a few of his attempts survive, most of them just a few lines jotted down without a title. There is no indication in his own autobiographical writings or in Max Brod's memoirs that Kafka ever considered publishing them. He also never attempted to put his lyric talents to the test by undertaking a more extensive work (as he did for drama with "The Warden of the Tomb").
    However, Kafka did treasure a few of his verses and consider them worth preserving. For instance, a calendar page from September 17, 1909 contains the following untitled poem:

         Little soul
    you spring up dancing
  lay your head in the warm air
raise your feet from the glistening grass
blown in gentle movements by the wind


Kafka committed this poem to memory; about two years later, at a coffeehouse, he spontaneously wrote these lines in the autograph book of the collector Anton Max Pachinger (see Find 19).

    Kafka also carefully preserved the calendar page on which this poem was written. It was kept between the leaves of one of the octavo notebooks he used from 1917-18 in Zurau [Siiem], where he spent eight months on a farm with his sister Ottla. Kafka may have placed the page there while he was using the notebook, perhaps during a brief visit to Prague. Or it may have accidentally been placed in the Zurau notebook while Max Brod wall working on Kafka's papers after his death. But in any case, Kafka must have held onto the poem until he died, since it was only after his death that Max Brod had access to the octavo notebooks.

Chúng ta đã biết tài vẽ của đảo xa. Trong 1 bức thư gửi từ Đà Lạt, TTT khen tài vẽ của đx, và thú
thực, ông mù tịt trò chơi này.
Kafka, ở đây, làm thơ, và thích Nó!


*  

Câu thứ 99, là bài ai điếu Kafka, của Milena - một thứ đảo xa của ông - thì cứ phán đại như thế, đã có trên Tin Văn, lấy từ "Thư Gửi đảo xa/milena" của Kafka.
Coi lại, thiếu phần tiếng Anh, sẽ bổ túc sau, thêm cái còm của Stach


 Ai Điếu Franz Kafka
http://www.tanvien.net/cn/cn14_aidieu.html
Milena Jesenska


Dr Franz Kafka, một nhà văn Đức, sống ở Prague, và chết ngày hôm kia, ở Viện điều dưỡng Kierling, gần Klosterneuburg bei Wien. Ở đây ít người biết ông, bởi vì ông là một người sống ẩn dật, một hiền nhân luôn mang nỗi sợ cuộc đời. Trong nhiều năm, ông đau khổ với căn bệnh phổi, và tuy loay hoay tìm cách chữa trị, ông lại như muốn nuôi căn bệnh đó, cưu mang nó trong tư tưởng của ông. Có lần ông viết trong một lá thư: khi trái tim và linh hồn không thể chịu đựng nó được nữa, buồng phổi sẽ chịu giùm nửa gánh nặng, như vậy là nó được chia khá đồng đều - căn bệnh của ông là vậy. Nó cho ông một sự dịu dàng kỳ diệu, và một sự tinh khiết trí thức không đắn đo, câu thúc. Tuy nhiên, chỉ riêng về mặt hình hài thể chất, Franz Kafka dồn lên hai vai của căn bệnh, toàn thể nỗi kinh hãi cuộc đời. Ông là một người cả thẹn, luôn khắc khoải, nhẫn nại, dịu dàng, tuy những cuốn sách ông viết ra thì thật ghê sợ, và đau đớn. Ông đã nhìn thế giới như đầy những quỷ dữ vô hình, vò xé, và tiêu huỷ những con người vô phương chống đỡ. Ông quá tiên tri, quá thông minh để có thể sống, và quá yếu ớt, để chiến đấu. Ông yếu ớt như những con người cao đẹp yếu ớt, những con người không thể chiến đấu chống lại nỗi sợ bị ngộ nhận, chống lại trò ma muội, hay tính toán chi ly, bởi vì họ thừa nhận ngay từ đầu, cái điều của riêng họ, đó là đừng mong chi một sự trợ giúp; sự nhẫn nhục cam chịu này chỉ làm cho kẻ thắng thế hổ thẹn. Ông hiểu thế nhân, một sự hiểu biết mà chỉ một ai cao cả, có một sự mẫn cảm hoài hoài mới có thể có được. Chỉ một ai cô đơn. Chỉ một ai, trong một thoáng nhận ra kẻ khác, hầu như một nhà tiên tri. Sự hiểu biết thế giới của ông thật phi thường, và sâu thẳm; chính ông là một thế giới phi thường và sâu thẳm. Ông đã viết những cuốn sách có ý nghĩa nhất của nền văn chương Đức hiện đại, những cuốn sách cưu mang trong nó sự chiến đấu của thế hệ hôm nay xuyên suốt thế giới - trong khi kìm giữ mọi thiên vi. Chúng thực, trần trụi, và đau thương nên hết đỗi tự nhiên ngay cả khi có tính biểu tượng. Chúng đầy sự khinh miệt khô cằn và là cảm quan của một người nhìn thế giới một cách rõ ràng đến không thể chịu đựng được nó, một người mà nỗi chết không rời, kể từ khi người đó chối từ mọi bon chen hay tìm nơi ẩn trú, như những người khác thường làm, trong những ảo tưởng này nọ, của lý trí, hay của vô thức - kể luôn cả những con người cao cả. Dr Franz Kafka đã viết "The Stoker", chương thứ nhất của một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời, vẫn chưa được xuất bản (đã xuất hiện bằng tiếng Czech trên Neumann's Cerven (1), "the Judgment", sự xung đột của hai thế hệ; "The Metamorphisis", cuốn sách mãnh liệt nhất của văn chương Đức hiện đại; "In the Penal Colony"; những tuyển tập Meditation và A Country Doctor. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Before the Law (2), còn trong dạng bản thảo, sẵn sàng để in ấn, từ nhiều năm. Nó là một trong những cuốn sách, một khi đọc, cho (ta) cảm nghĩ về một thế giới được miêu tả hoàn hảo đến nỗi mọi phê phán sau đó đều chỉ là phù phiếm. Tất cả những cuốn sách của ông vẽ nên sự ghê rợn của những ngộ nhận thầm kín, của niềm ngây thơ tội lỗi giữa những con người. Ông là một nghệ sĩ và là một người với một lương tâm khắc khoải, đến nỗi ông có thể nghe, trong khi những người khác, điếc, cảm thấy, chính họ đang yên ổn.

(Národni Listy, June 6, 1924)

 (1) Milena muốn nói tới tuần báo Kmen, cũng của S. K. Neuman.

 (2) Đây là muốn nói tới cuốn Vụ Án. Milena chỉ biết có truyện ngắn Before the Law. Hiển nhiên, bà không biết cuốn tiểu thuyết chót của Kafka, Lâu Đài. (Ghi chú của nhà xb Kafka Library).

Nguyễn Quốc Trụ chuyển ngữ


Immediately after Kafka's death on June 3, 1924, the journalist and translator Milena Jesenská was asked to write an obituary for the Prague-based Czech daily Natodni Listy-apparently they were aware of her special relationship to Kafka. Her text appeared there on June 6 as a "Daily Notice." German-speaking readers did not become aware of this obituary until 1962, when the Vienna magazine Forum published a German translation.
    Since Jesenska only had a few hours to write the obituary, the text reflects what she knew of Kafka's works at the time. For instance, "The Stoker," which she had translated into Czech herself, is the first chapter of the novel Der Verschollene (known in English as Amerika, The Man Who Disappeared). The novel that she refers to as Before the Law is The Trial; she was clearly thinking of the parable "Before the Law," contained within the novel. She knew this parable, which had already been published in a Czech translation, but probably had not seen the manuscript of The Trial, which had been in Max Brod's desk drawer for years.
    Jesenska also had to cite the statements from Kafka's letters about the psychic origins of his lung disease from memory. In fact, Kafka had written to her four years earlier: "[I] am only thinking of the explanation that I concocted for my own illness at the time, and which applies to many cases. It was that the brain could no longer bear the sorrows and pains it was subjected to. It said: 'I give up; but if there's anyone else here who has a stake in holding it all together, let him shoulder part of my burden, and then it can go on a little while longer.' The lungs answered this call; after all, they didn't have much to lose. These negotiations between brain and lungs, which took place without my knowledge, may have been terrible."

Reiner Stach

KAFKA IN PRAGUE, Summer 1996
by Peter Haigh
http://www.tanvien.net/ngoai_gia/Milena.html


*  

Kafka, hàng độc

http://tanvien.net/Day_Notes/Kafka_Coupable.html

Sài Gòn là Gấu, và Gấu là Sài Gòn. Sài Gòn sẽ chẳng bao giờ hoàn tất đến như thế, đặc biệt Sài Gòn đến như vậy, và nó sẽ chẳng bao giờ lại như vậy, như trong đời của Gấu, khi ở Sài Gòn!
Gấu “dịch loạn” câu, "Kafka was Prague and Prague was Kafka. It had never been so completely and so typically Prague, nor would it ever again be so as it was during Kafka's lifetime.

Cái “Sài Gòn là Gấu và Gấu là Sài Gòn”, áp dụng chung cho tất cả chúng ta, Miền Nam, và nó là 1 chân lý, bị cố tình hiểu lầm ra là, toan tính phục hồi cái xác chết VNCH.

Cái "gì gì" lịch sử có thể viết lại nhưng không thể làm lại! [Châm ngôn lừng danh của SCN] (1)


MEMORIAL EULOGY

The text of my eulogy delivered at the memorial service for Kafka in Prague was slightly longer than the version subsequently published in the Berlin Kunstblatt. I can no longer recall exactly what the editor deleted. The suggestion of Kafka's future greatness and effectiveness, so self-evident today, may at that time not have sounded so convincing to many people.
There Goes Kafka

IN MEMORIAM FRANZ KAFKA

"I see gathered together here the friends and admirers of a man and a literary artist whose highest human quality simultaneously produced his most powerful poetic magic. In any case, if ever there was a perfect instance of the congruence of life and artistry, it applies to Franz Kafka. This extraordinary man created as he lived, in the self-chosen hardships of a heartfelt prose made possible by the involuntary modesty of genuine discernment. The life of such men is fully appreciated only by those closest to them. Their death, however, unites dispersed people, their death in no wise represents something negative but rather a great fact of the spirit-intellect, a nucleus of mysterious and ever cumulative solidarity.
"How could we better do obeisance in the presence of a phenomenon, which knew from truth, purity, and ingenuousness how to build throughout its life, except we ourselves become aware of our own conscience through the instumentality of this presence? How can we, a generation of very unstable values, carry away with us more viably and lastingly this model thrusting itself so powerfully upon us except by making it an effective part of ourselves? At the very moment the remains are being removed from us and entrusted to inscrutable depositories a new and better heart seems to be growing for us in our attachment to this dead man. This fact perhaps represents some of the sense, wisdom, and comfort acquired from this departure. "The truth, revered friends, is at home only where spirit-intellect and life are unable to operate without each other. They fail almost completely to correlate as regards most of us though they may do so partially in the case of a few. But only where the qualities of human nature are intimately related to the qualities of style, only there is it possible to lend credence to that style. . . . A human being should not include within himself an artist, nor should an artist include within himself a human being. Only when the two contours cohere does the word become flesh. "Franz Kafka was a fanatic of the truth within himself. We know, there is not a single decorative line in his entire works, no forced smiling about his precious prose in its totality, no calculated pomp. The recurring fragmentariness of his creativity bears witness to us of his compulsion to the truth. Because he wrestled with his projections for truth's sake, he destroyed them; he destroyed them because he wanted to reveal their innermost being, their inner truth. . . . And so it seems to me, he had only a single brother: Kierkegaard - and only a single guideline, namely, that only he who persists till the end can become blessed.
"Today a few still realize what a master departed from us in Franz Kafka, and there is scarcely anyone in the realm of our contemporary German literature sufficiently neighborly to thank Kafka for his gift to her-indeed, it is questionable whether she is even aware of his gift to her. . . . And so we must continue to wait till those delicate organs sprout again which are necessary for apperceiving profundities and excellencies. . . . In our day Knut Hamsun might possibly be able to render thanks to this noble but unpretentious and modest but great literary artist who in a modern sense aroused our pleasure in antiquity. I can think of no one else. "Of this I am sure, however, that about and around the work of the wondrous genius of Franz Kafka acclaims of veneration and love will accumulate more and more and that this legacy will with unifying power continue to, attract all men of goodwill."
Johannes Urzidil: There Goes Kafka


Kết cục thì nó phải như thế đó: Đếch làm sao giải thích được!
http://www.tanvien.net/TG_TP/Kafka_File.html

Trên TLS, số 7 Sept 2012, GABRIEL JOSIPOVIC điểm 1 số sách mới ra lò về Kafka - vị thầy gối đầu giường của Sến - đưa ra nhận xét, vào cái ngày 23 Tháng Chín này, thì kể như là đúng 100 năm, ngày Kafka viết cái truyện ngắn khủng ơi là khủng, “Sự Xét Xử”. Và có thể nói, vào giờ này, độc giả chúng ta cũng chẳng hiểu ông nhiều hơn, so với những độc giả đầu tiên của ông, và có lẽ sự thể nó phải như thế, nghĩa là nó phải chấm dứt bằng cái sự đếch làm sao hiểu được Kafka!

Ở đây, cũng phải đi 1 đường ghi chú ngoài lề!

1. Cuốn Bếp Lửa của TTT, chấm dứt bằng lá thư của 1 tên Mít, là Tâm, bỏ đất mẹ ra đi, đếch thèm trở về, viết cho cô em bà con, buộc vào quê hương thì phải là ruột thịt, máu mủ. (1)
Quái là, đây cũng là nhận xét của Walter Benjamin, về Kafka: Cái con quái vật, con bọ VC, do Chúa Sẩy Thai mà có đó, nó chỉ trở thành bọ, vào 1 buổi sáng, khi ngủ dậy, ở trong căn nhà của bố mẹ nó.
Điều này giải thích, sự kiện, Nobel Toán Mít phải nhận cái nhà cho bố mẹ xong xuôi, rồi mới bỏ đi được!

2. Cuốn Sinh Nhật của bạn quí của Gấu, khi mới ra lò, Gấu đề nghị, nên đổi tít, là Sinh Nhạt, và còn đề nghị viết bài phê bình điểm sách, “Đi tìm 1 cái mũ đã mất”:
Ui chao, đây đúng là chuyện xẩy ra với tác phẩm của Kafka, theo bài điểm trên như đoạn sau đây cho thấy:

Truyện ngắn mà Brod gọi là "Prometheus", được kiếm thấy trong Sổ Tay Octavo Notebooks, của Kafka, đã được gạch bỏ [crossed out]. Câu kết thúc của truyện: “Giai thoại thường toan tính giải thích cái không thể giải thích; bởi vì dưng không trồi lên sự thực [chữ của TTT, trong Cát Lầy], nó phải lại chấm dứt trong không thể cắt nghĩa được”
[Nguyên văn: "Legend attempts to explain the inexplicable, because it arises from a ground of truth, it must end in the inexplicable”]

Nói rõ hơn, nhân loại không làm sao đọc được Kafka, vì có 1 thằng cà chớn Gấu "nào đó", nẫng mẹ mất cái nón đội đầu của ông!
Bạn quí của ông, là Brod, thì cắt mẹ mất chim của Kafka, để biến ông thành Thánh!
Thánh đâu cần chim!

(1)

Thanh,
Không ngờ Thanh còn nhớ đến anh.
Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không còn ai nhớ đến anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây liên lạc nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi quên nhau ngay, thì ở quê hương hay một phương trời nào khác gì nhau.
Một hôm tình cờ anh nghe đài phát thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết cho Thanh nhưng anh nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên anh rồi như mọi người. Được thư Thanh anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc Nga thôi viết văn rồi nhỉ? Bên này anh cũng có người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát lại là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khỏe, được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh lấy tên anh đặt cho một đứa con của Minh để anh được đinh ninh anh còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình suốt đời. Thanh hãy can đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có một sự gì ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để cùng bám chặt quê hương, nếu không chúng ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
Tâm

Viết xong tại Thủ Dầu Một
vào tháng 10-1956

Đọc cái thư thấy sến ơi là sến.
Nhưng phải như thế, thì mới cân bằng được với cái nội dung của 1 cuốn sách, viết về anh Bắc Kít, Hà Lội, chưa sống đã già, chưa già đã chết, trong Bếp Lửa.

*  

Hiền trong MCNK, có gì giống nhân vật Khúc Phi Yến trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, của Kim Dung, xuất hiện rồi biến mất. Duy, bạn Kiệt, đã từng tính hỏi bạn mình, Hiền đâu rồi? Còn Kiệt, thì thú thực với bà vợ Thuỳ, anh đưa cô ta tới…  đó, rồi trở về với em, với con.

Đó, là chỗ nào?
TTT không thể ngờ được, chỗ đó, là… internet!

Bởi là vì với ông, chỗ đó, là ở trong bài thơ Dickinson, mà ông đã từng dịch, để tạ lòng tri kỷ, trong đó có Duy, và những độc giả của ông.
Chỗ đó, là… nấm mồ! Trước, Gấu cứ nghĩ, đó là 1 lost domain, như trong anh Môn, thí dụ, hóa ra không phải.

http://www.tanvien.net/Roman/as_22.html

Duy muốn hỏi Kiệt: Hiền đâu? Hiền ra sao?



[Milena letters to Max Brod]

[Bạn có thể tưởng tượng, đây là thư của "đảo xa", gửi cho MT, viết về TTT!]

Dear Herr Doktor:

[beginning of August 1920]

... Obviously, we are all capable of living, because at one time or another we have all taken refuge in a lie, in blindness, enthusiasm, optimism, a conviction, pessimism, or something else. But he has never fled to any refuge, not one. He [Kafka] is absolutely incapable of lying, just as he is incapable of getting drunk. He lacks even the smallest refuge; he has no shelter. That is why he is exposed to everything we are protected from. He is like a naked man among the dressed ... Everything he is, says, and lives cannot even be called truth; actually, it is predetermined being, being in and of itself, being with nothing added that might allow him to distort his picture of the world- whether into beauty or distress. And his asceticism is completely unheroic-hence all the greater and loftier. All "heroism" is lying and cowardice. This is not someone who chooses asceticism as a means to an end; here is a man who is forced to be ascetic because of his terrible clairvoyance, his purity and inability to compromise.
    There are very intelligent people who also refuse to make compromises. But they don magic glasses and see everything in a different light. That's why they don't need any compromises. That's why they are able to type quickly and have their women. He stands beside them and gazes at them in wonder, at everything, even this typewriter and these women. He will never understand.
    His books are amazing. He himself is far more amazing. Many thanks for everything. I wish you all the best. I'm allowed to visit you when I come to Prague, am I not? I send you my most heartfelt greetings.

Hiển nhiên tất cả chúng ta đều có thể sống, bởi là vì lúc này lúc khác, chúng ta đều có thể kiếm ra nơi ẩn náu, trong 1 lời dối trá, trong sự mù lòa, hưng phấn, lạc quan, tin tưởng, biếm thế, hay một điều gì khác. Nhưng anh ta [Kafka] không làm được như thế, anh ta chẳng bao giờ chạy tới bất cứ 1 nơi ẩn náu, không một nơi ẩn náu. Anh ta tuyệt đối không thể nói dối, như anh ta không thể say rượu. Anh ta không có lấy 1 chốn ẩn náu cho dù nhỏ bé nhất. Anh ta không có 1 nơi trú ẩn. Chính vì thế mà anh ta cứ thế phơi ra trước mọi thứ, mọi điều mà chúng ta được che chở, từ chúng. Anh ta như thể 1 kẻ trần truồng, giữa đám người ăn vận quần áo. Mọi thứ, mọi điều anh ta là, nói, và sống, không thể, ngay cả, được gọi là sự thực; sau cùng, đây là một sinh vật được tiền định, tính toán từ trước, một sinh vật ở trong nó, và của chính nó, có mà chẳng cần hư vô thêm vào, cái hư vô có thể cho phép anh vặn vẹo hình ảnh của anh ta về thế giới - trở thành cái đẹp, hay sự chán chường, kiệt quệ. Và chủ nghĩa khổ hạnh của anh ta thì hoàn toàn không-anh hùng - từ đó, tất cả lớn lao, cao vời vợi. Mọi “chủ nghĩa anh hùng” thì là dối trá, hèn nhát. Đây không phải là 1 kẻ chọn khổ hạnh, như là một phương tiện đưa tới cứu cánh; dây là 1 người đàn ông bắt buộc khổ hạnh bởi là vì cái tiên tri khủng khiếp của anh ta, sự trong trắng của anh ta, và cái không thể thoả hiệp của anh ta.

Letter in the Sofa
1957
Life finds a thousand ways to cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu nhau


TTT 10 years Tribute


Cái cuộc duel, "giữa cuộc đời và mi, hãy đâm vào lưng mi", “GCC vs TTT”, thực sự, đã có người nhìn ra, từ lâu rồi.
Vị này quả là hiểu Gấu đến tận cùng của từng cơn đau “thực”, từng nỗi vui “tạm”, qua những lời chúc SN.
Không có vị này, K, và bạn của vị này, O, trang TV không thể có được cái sự uyên bác, bề thế của nó như hiện nay.

Tks both of U
NQT

Gửi chú

hỏi nhỏ: có bao giờ chú nghĩ địch thủ “chính yếu” của chú là ttt chứ không phải ai khác? không phải bất kỳ một ai khác (nhấn mạnh).
mỗi đòn tung ra thì đều có một đòn trả -sớm hay muộn. trước hoặc sau- (cháu không đưa chứng từ, để nghiễm ra mới thú). mà đòn thứ nhất là cái dáng ngồi nơi bàn viết lần đầu chú gặp, đây mới là đòn quyết định, đòn chí tử. không phải đòn “đọc cọp” (sách bếp lửa bán xon ngoài vỉa hè).
và đòn địch thủ không còn thì rất khó lĩnh hội và không dễ nhận ra, đây là đòn trả thật độc.
chú nghĩ thử xem.
chỉ để vui. làm chim mồi. không hàm một ý gì khác.

luôn mong cô chú nhiều sức khoẻ

kính


vô lý. của một ngày
 
sự  nhai. lại của những con. bò
làm. nên kỷ niệm
thật ra. cái độc ác. của con sói. và
con rắn khác. nhau
nhưng. cái chết nào. do chúng. mang
lại. đều thật khủng. khiếp
những. âm mưu được. đổ tháo ra. biển
hay bỏ. vào bao và. buộc thật chặt. miệng lại
đố. bạn
làm. thể nào để. ở mãi với. một ngày
nếu không phải. là cái chết. vào ngày. đó
sự giúp đỡ. của súng ống để. thực hiện cái. chết
đó là. niềm kiêu hãnh. của những người. mặc. quân phục
người. đàn bà ngồi. khóc nức. nở
bên vệ đường. vào buổi. trưa
không hiểu. tại sao
trời. không một vì. sao
được. mất. là lẽ thường. trong cuộc. sống
năng lượng. không. mất
chỉ biến. dạng
như. những cái. lưỡi
có ai tin. rằng vẫn người. đàn bà đó
ngồi khóc nức. nở
cho đến tận. bây giờ chờ. quốc tang
sự. thật
bài toán. cho đứa trẻ. hôm nay
là. những con. số
9014537
vô. nghĩa
mà đáp số. là
30.4.1975

Đài Sử

Today at 3:02 PM

Tuyệt. Tks. Tôi không "mặc khải" ra được điều này.
Bởi vậy, chỉ “trong nhà” mới nhận ra, cũng chỉ “trong nhà” mới thấy chất trí tuệ ở TTT & DS!

Best Wishes To All
Take Care
NQT

TB: Sự thực TTT viết văn & làm thơ & sống, quá nghiêm khắc, và làm nhớ đến Kafka, hơn, dù người ta khám phá ra 1 Kafka thật tếu.
TTT cũng có cái tếu của riêng ông, nhưng vẫn như Kafka, vẫn cực kỳ thê thảm.
“Nhà văn ở trong hang”, hình ảnh 1 Kafka, với 1 TTT ngồi ở góc nhà, co cả hai chân lên cái ghế, mà chẳng giống nhau ư? (1) 

(1)

Người đời gọi ông nhà văn này là người ở hang, un "habitant de la cave", một con chuột của chữ, chỉ cần cây viết, cái đèn bão, để sống sót [un rat de l'écriture qui n'avait besoin que d'une plume et d'une lanterne pour survivre].

Cả con trai & thằng em không tới cõi đó được!

Nhớ 1 lần, trong 1 bài Tạp Ghi, ông viết về 1 tay nào đó, viết nhảm quá, làm hỏng ly cà phê buổi sáng của ông.
Thật nghiêm khắc, thật tếu, với cả người cho lẫn người nhận

Gấu gặp đúng tình trạng đó, khi mới ra hải ngoại, đọc ông số 2, buổi sáng, vô tòa soạn, cầm ly cà phê lên uống, nhìn quanh đệ tử, hất hàm nói, này, ở Sài Gòn có người chết đói đấy, ở ngay bên hông Chợ Bến Thành!
Gấu cũng “hư mẹ ly cà phê buổi sáng”, như ông số 1!
[Chuyện này đã kể ra vài lần rồi, nay nhắc lại, vì vẫn ấm ức ly cà phê, và vì, nhân 30 Tháng Tư năm nay!]

&

A Critic at Large April 11, 2016 Issue

Encrypted

Translators confront the supreme enigma of Stéphane Mallarmé’s poetry.
By Alex Ross
http://www.newyorker.com/magazine/2016/04/11/stephane-mallarme-prophet-of-modernism

Mallarmé’s place in the English-speaking world is somewhat tenuous. As Blake Bronson-Bartlett and Robert Fernandez point out in their new collection of translations, “Azure” (Wesleyan), he lacks the wide fame of Baudelaire and Rimbaud, who, with their drug-taking and other bohemian exploits, “set the bar for trailblazing misbehavior in philosophy and the arts from the early to the late twentieth century.” Mallarmé is bland by comparison. He taught English in Paris and elsewhere in France; he married a German woman, Marie Gerhard, and had two children; he presided over a Tuesday gathering of fellow-poets; he published relatively little.

Yet his influence has been immense. Paul Claudel and Paul Valéry moved in his shadow; so, to varying degrees, did Eliot, Pound, Joyce, and, especially, Wallace Stevens, who staged similar collisions of grand abstraction and mundane reality. Mallarmé also affected the visual artists of his time, having helped to define Impressionism in an 1876 essay; Manet, Whistler, Gauguin, and Renoir made portraits of him, Degas photographed him. In music, the advent of modernism is often pegged to Debussy’s 1894 composition “Prelude to ‘The Afternoon of a Faun,’ ” a meditation on Mallarmé’s most famous poem. John Cage and Pierre Boulez, masters of the musical avant-garde, studied Mallarmé’s explorations of chance and discontinuity. Perhaps the most prolonged resonance was in French philosophy and theory. From Sartre and Lacan to Blanchot and Derrida and on to Badiou, Julia Kristeva, and Jacques Rancière, French thinkers have defined themselves through interpretations of Mallarmé. If you can crack these poems, it seems, you can crack the riddles of existence.

Tình cờ, đọc trong The New Yorker, số mới ra tuần này, April 11, có tí mắc mớ tới, không phải thơ TTT, mà là Mallarmé.

Trên TV có kể 1 giai thoại về Mallarmé, chiều vào tối, ông ngồi trầm tư bên lò sưởi, trong khi đệ tử, ký giả, thính giả…  ngồi xa xa, kính cẩn chờ Người phán về Thơ.
TTT cũng đã từng như thế!
Trên TV đã từng kể, cái lần ông ngồi, cũng như thế, và phán, thơ bi giờ bịnh.
Thế là sáng hôm sau, mấy tờ lá cải tờ nào cũng loan tin, thơ bi giờ, thơ hôm nay, bịnh!
Bài trên The New Yorker viết về nỗi khốn khó của mấy tay dịch thơ Mallarmé, giống trường hợp nhà thơ NDT không làm sao đọc được bài thơ Dạ Khúc của TTT!

Cái gì gì, ngồi Quán Chùa mà mơ tí Paris, để làm thi sĩ, Chúa ơi!

*


Fri, 24 Mar 2006 01:14:44 -0800 (PST)

[…] xin chia buồn với anh về sự ra đi của ông Thanh Tâm Tuyền, một người dường như đã mang một phần đời của anh.
Hay, anh mang một phần đời của ông ấy?
K

Tks
NQT

Nhà bạn Chất lúc đó chỉ có mỗi một phòng khách, bên trong là phòng ăn, bên trong nữa là cái bếp. Kế bên bếp, ở bên ngoài, là nhà tắm. Chỉ có vậy. Lần đầu Gấu tới, thấy anh Tâm ngồi góc bên trái, phía cuối phòng khách, đưa cả hai chân lên chiếc ghế, trước mặt anh là một cái bàn nhỏ, chẳng thèm để ý đến thằng em, bạn thằng em. Có muốn lịch sự chào thì cũng chẳng làm sao cho anh ngẩng đầu lên được.

Bạn bè anh Tâm dù có muốn ngủ lại cũng chẳng có chỗ. Thất Hiền tối đến, dẹp hai chiếc ghế xa lông phòng khách, trải một tấm nệm xuống sàn, là xong. Sau này, cụ buôn bán khá ra, bèn mua luôn tầng trên, làm một cái phòng cho anh Tâm, một cầu thang gồm mấy bực xi măng lên thẳng sân thượng, không qua nhà dưới, làm thêm một phòng gỗ, sàn gỗ, phòng Cậu Chất, như cô người làm thường gọi. Trong nhà có một cầu thang gỗ, lên hết cầu thang, phía bên trái, phòng Cậu Chất, bên ngoài có bao lơn gỗ, có cây me lòa xoà cành lá. Tới khi hai ông con có gia đình, cụ mua thêm căn nhà phía bên cạnh, trước là nhà anh Thu, bạn anh Tâm. Gia đình anh Tâm sau ở đây, nhà cũ bên kia thuộc phần Cậu Chất. Cụ ở bên Cậu Chất với Cô Nga, vợ Cậu Chất.

Buổi tối, những ngày sau ngày thứ nhất đó, những lúc hai ông con không có nhà, Cụ một cái ghế bành, Gấu một cái ghế bành, ngồi cái kiểu đưa cả hai chân lên ghế. Cụ kể cho Gấu nghe, những ngày ở Hà Nội. Những ngày "Thằng Tâm" mê đọc sách Mác Xít ở thư viện Hà Nội bị phòng nhì Pháp ghi tên vào sổ đen. "Thằng Tâm" dậy học, đạp xe vào tận Hà Đông. Hai bà cháu nói về cô Lara, người tình của Bác Sĩ Zhivago, cuốn sách gối đầu giường của Gấu những ngày đó đó. Nói  về những nhà văn Mỹ, đọc qua bản dịch tiếng Việt, của nhà xb Zhiên Hồng. Về Hawthorne, về một truyện ngắn của ông mà cả hai bà cháu cùng suýt soa.
Câu chuyện một người khách lạ lỡ độ đường ghé căn nhà lủng lẳng bám vào vách núi. Trong đêm khuya, bên bếp lửa, khách nói về thế giới bên ngoài, và cô gái con chủ nhà chăm chú nghe, mơ màng nghĩ đến một cuộc đời khác, ở đâu đó bên dưới, ở nơi xa xa. Đêm đó có bão, tuyết lở, núi lở, khách và gia đình chạy ra hầm trú ẩn. Đá đổ lấp kín tất cả, nhưng căn nhà lơ lửng bám vào vách núi thì chẳng chút suy suyển.

*

 Tranh Ngọc Dũng

"Thơ Ở Đâu Xa" ra đời cũng là một cái may, cho độc giả yêu thơ TTT.

Lần đầu nói chuyện với nhà thơ, qua điện thoại, ông cho biết, khi đó mới qua, chỗ đó ồn quá, tính dời đi chỗ khác, thế là đành phải lấy hai ngàn của một tay 'Mạnh Thường Quân". Đâu có biết thơ chẳng ai thèm mua. Nếu biết trước, đã chẳng in ra làm gì.
Nhân đó, ông kể chuyện, hàng xóm của ông, toàn dân da đen, dễ chịu lắm, dễ chịu lắm...

Trường hợp TTT làm nhớ tới Xuân Sách.
Với Chân Dung, ông nhìn ra chân tướng của từng nhà văn Bắc Kít, và cộng tất cả, ra toàn cảnh cõi văn Bắc Kít, mà hậu quả tất yếu của nó, là cuộc ăn cướp, và 1 đất nước như hiện nay.
Những trường hợp khí khái, tất nhiên, có, nhưng cái khí hậu chung là, như ông viết, điêu tàn ư, đâu chỉ điêu tàn.

TTT, vứt Ung Thư vô sọt rác, và thay vào đó, là Một Chủ Nhật Khác, số phận 1 tên tinh anh Miền Nam, được Ngụy cho đi du học, nhưng bò về, để kịp chết trong cuộc chiến.
Thần sầu!
Giả như có, chỉ 1 tên đó?
Trước đây, lúc mới ra hải ngoại, Gấu đã mường tượng ra tên này, ông bạn Khờ của GCC.
Đếch phải.
Mừng hụt.
Nhưng, câu hỏi đẻ ra câu hỏi, tại sao lại như thế?
Tại sao trong ngàn ngàn tên như thế, không có lấy 1 tên?
Rồi đám Bắc Kít ra đi sau 1975, cũng không có 1 mống ra hồn?

All great poets are untranslatable, their music audible only in their native tongue. Tất cả những nhà thơ lớn thì đều không thể dịch. Dịch 1 phát là mất mẹ cái gọi là âm điệu, nhạc tính của tiếng mẹ đẻ.
Bởi thế mà Võ Phiến phán, làm sao dịch thơ, thịt mất mẹ hết, chỉ còn xương.
Lại còn có thứ thơ trí tuệ nữa chứ! Nhảm quá.

Bài viết về Mallarmé thật tuyệt. Mượn hoa tiến Phật, Tin Văn sẽ đi luôn hai bài, một về thi sĩ Ocean Vương, và một, về Mallarmé, trong dịp tưởng niệm 10 năm ông anh đi xa. Bài trên The New Yorker về Mallarmé còn gôm thành 1 cục nhiều cõi thơ lớn, nhà thơ lớn….