*







Ghi chú trong ngày


Cái trang web này, GCC chẳng đọc được 1 nửa chữ, vậy mà cũng giới thiệu...  Tin Văn, qua server cho biết.
Gõ Google: Tiếng Czech.
Bạn ra lệnh cho Google dịch trang net tiếng Czech, thì cũng ra được nội dung của nó, không hoàn hảo, tất nhiên, nhưng bảnh hơn rất nhiều, so với… dịch loạn! (1)
Chứng cớ: Bữa trước trên trang Hậu Vệ, có 1 vị so sánh bản dịch ra tiếng Mít, thơ Rimbaud, của HPA, bạn quí của GCC, với của Google. Kết quả, bản của Google bảnh hơn!

*&

Note: Hai cuốn đều mới ra lò, 2011.
Cuốn của Woolf là bài cũ lượm lại, in thành sách.
Cuốn của Viện Sĩ Ưu Tú Nhân Dân [tuy rất thù chủ nghĩa toàn trị] & Nghiên cứu sinh & Thầy & Enfant terrible [Vargas Llosa gọi ông] cũng... được: Thơ của Tư tưởng từ Cổ Hy Lạp tới...Celan.

Chắc cũng giống thơ…. tán gái của Mít thôi.
Chưa chắc đã hách hơn thơ DTL!
Hà, hà!

Toute pensée commence par un poème.
(Every thought begins with a poem.)
-Alain: "Commentaire sur 'La Jeune Parque," 1953
Il y a toujours dans la philosophie une prose littéraire cachée, une ambiguité des termes.
(There is always in philosophy a hidden literary prose, an ambiguity in the terms used.)
-Sartre: Situations IX, 1965
On ne pense en philosophie que sous des métaphores.
(In philosophy one thinks only metaphorically.)
-Louis Althusser: Éléments d'autocritique, 1972

Nhưng có lẽ cái nick tuyệt nhất dành cho Vị Viện Sĩ Ưu Tú của Nhân Dân, là của Ben Hutchinson, khi điểm cuốn mới nhất của G. Steiner, trên tờ TLS, số 30 Tháng Ba, 2012:

Hãy Nghe Thầy Cả Nói
Hear The High Priest.
The question of style is thus at the heart of the argument. Much of Steiner's previous work has circled around this issue without quite addressing it directly: the pioneering theoretical speculations on translation in After Babel (1975), the wager on the metaphysical resonance of art in Real Presences (1989), the distinction between "invention" and "creation" underlying Grammars of Creation (2001). In this sense, The Poetry of Thought represents the culmination of a life-time's work: in both philosophy and literature, asserts Steiner, "style is substance". The title of the book plays on the slippage between the subjective and objective genitive, evoking both the poetry inherent in thought and poetry about thought. Over the course of the book, Steiner identifies a range of stylistic aspects common to both, from rhythm and repetition to dialogue and aphorism, from fragment and setting to counter-factual verb forms such as the subjunctive and the future. While the comparative methodology allows him to juxtapose French pluperfects with German prepositions, the music of language, Steiner argues, is universal: Claude Levi-Strauss's claim that "the invention of melody is the supreme mystery of man" recurs throughout Steiner's ceuvre, itself a kind of musical motif. If this new book opens with the concession that language has neither the performative power of music nor the elegant precision of mathematics, it is language, for Steiner, that defines the human.

Câu chuyện văn phong thì ở ngay trái tim của mọi luận cứ. Đa phần tác phẩm của Steiner, trước cuốn này, thì đều chàng vàng chung quanh vấn đề văn phong, tuy không trực tiếp bàn thẳng vô: những ức đoán mang tính lý thuyết, khai phá về dịch thuật trong “Sau Babel”, 1975; cú đánh cược về cộng hưởng siêu hình của nghệ thuật trong “Hiện Diện Thực”, 1989, sự phân biệt giữa “phát minh” và “sáng tạo” làm nền cho “Văn Phạm của Sáng Tạo”, 2001. Theo nghĩa đó, “Thơ của Tư Tưởng” là tụ đỉnh của trọn đời viết lách suy tưởng của Steiner: Trong cả hai, triết học và văn học, “văn phong là bản chất”.

Bulgakov and Stalin on stage
Bulgakov và Stalin lên sàn diễn:

Men and monsters
Người và Quỉ.

Two new plays explore the relationship between art and tyranny
Hai vở kịch mới thám hiểm, khai phá mối liên hệ giữa nghệ thuật và độc tài.


EVEN without the constraints of censorship, Stalin’s reign lends itself to surrealism. How else to convey its mad caprices, the incomprehensible scale of his cruelty and the spiralling paranoia?

Chẳng cần kìm kẹp kiểm duyệt, triều đại Stalin tự nó mò tới cõi siêu thực.
Liệu có cách nào khác, ngoài siêu thực ra, chuyển tải cơn khùng điên, rồ dại, tính thất thường, cái mức độ không làm sao hiểu được về sự độc ác, và cơn hoang tưởng xoắn ốc của nó?

Both productions explore the relationship between tyranny and creativity: the artistic kind, but also the humbler urge to create private love and lives in crushing times. “The Master and Margarita” proclaims that “manuscripts don’t burn”. “Collaborators” is less sure of art’s resilience: “the monster always wins”, Stalin insists. “Collaborators” hints at the structural similarities between writing and governing. Both are lonely work, requiring the imposition of an arbitrary order on unseen, notional individuals—only, in the case of the tyrant, the people are real.

Collaborators, những kẻ hợp tác ở đây, chính là những kẻ chấp nhận thứ văn học phải đạo mà BNT nhắc tới, khi cho rằng, trong thời gian có cuộc chiến, thì nhà văn MB có thể “bợ đít” BBP, nghĩa là hợp tác, làm cớm, chó săn... cho nhà nước.
"Quỉ luôn luôn thắng", Stalin phán

Cả hai vở kịch khai phá liên hệ giữa độc tài và sáng tạo: sáng tạo của nghệ sĩ, và một đòi hỏi khiêm tốn: sáng tạo tình yêu, và những cuộc đời riêng tư trong những thời kỳ nghiệt ngã. "The Master và Margarita" phán, “những bản thảo không thể cháy”. Văn học phải đạo [Collaborarors: Những kẻ hợp tác] thì không chắc chắn ở sự co rãn, tính đàn hồi của nghệ thuật: “quỉ luôn luôn thắng”, Stalin nhấn mạnh.
"Văn học phải đạo" nhắm tới một sự giông giống, tương tự, về mặt cấu trúc giữa viết văn và cai trị. Cả hai thì đều là công việc cô đơn, đòi hỏi sự đặt để của 1 thứ mệnh lệnh, một thứ trật tự độc đoán, lên những cá nhân con người không nhìn thấy, có có tính quan niệm -  nhưng chỉ có điều này là khác biệt, giữa hai thứ, quỉ và người, độc tài và nghệ thuật: trong trường hợp bạo chúa, những con người, [hay dùng chữ VC], nhân dân, là có thực. 


Eleven


Người Mẹ trong tác phẩm Jamaica Kincaid

Note: Đang “Top Hit”, theo server.
Làm sao mà độc giả TV mò ra nó, và làm cho nó thành...  “Top Hit?”

Đọc lại bài trả lời phỏng vấn của Kincaid, v/v liên hệ giữa mẹ/con gái, thí dụ như dòng sau đây, “Bạn không bao giờ được ruồng rẫy con nhưng bạn phải cho con được quyền ruồng rẫy bạn”, GCC bỗng nhớ đến những dòng của Thảo Trần:

… rồi khi lớn lên thêm ba mớ chữ nghĩa lại làm cho con hợm mình và tưởng đâu chính mình mới là người có quyền tha thứ cho đấng sanh thành. (1)

Còn 1 chi tiết thần sầu, server cho biết:
Thường thì con số độc giả vô TV, ngồi lỳ quá 1 tiếng đồng hồ, cỡ 2%.
Bi giờ 11-12%
Khủng thật!
Tks
Many Tks

GCC


My ‘Confession’
June 23, 2011

Fang Lizhi, translated from the Chinese by Perry Link.

Đọc cái bài “thú tội” này, của tay Sakharov Tẫu, GCC không làm sao không nhớ đến trường hợp nhà thơ “Hùm Cầm” ngồi nắn nót viết tự kiểm để Đảng, đúng hơn, Tố Hữu cho về nhà làm thơ tán gái tiếp, hay trường hợp NBC, thay vì đứng quay mặt về Lăng Bác, cầm bửu bối Nobel, hô, “biến”, thì nhận cái nhà cho bố mẹ ở, đền ơn sinh thành, và qua Mẽo dậy học!

Hà, hà!

GCC

Đọc cuốn sách mới của Henry Kissinger,“Về Trung Hoa”, tôi biết được là, ông ta đã gặp Deng Xiaoping ít nhất là 11 lần – hơn bất cứ với một nhà lãnh đạo TH nào – và đề tài của 1 trong những lần lèm bèm giữa hai ông, là, liệu Fang Lizhi sẽ thú tội và hối lỗi.
Vào ngày 3 Tháng Sáu, 1989, Deng ra lệnh cho xe tăng quân đội TQ đè bẹp cuộc nổi dậy không bạo động của sinh viên tại Thiên An Môn. Vào đêm ngày 5 Tháng Sáu, Raymond Burghardt, cố vấn chính trị của Tòa Đại Sứ Mẽo ở Bắc Kinh đến khách sạn, nơi vợ chồng tôi đang tạm ở, và mời chúng tôi “tá túc” [“take refuge”] ở Tòa Đại Sứ, như là “khách mời của Tông Tông Bush”. Ông ta nói, ông bà muốn ở bao lâu thì ở. Cú mời mọc này liền trở thành “bước ngoặt” [point of contention] trong liên hệ Mẽo & Tẫu.
Chừng 5 tháng sau đó, vào ngày 9 Tháng 11, Deng tiếp “bạn quí”, “old friend”, như ông ta diễn tả Kissinger, và nhắc tới “trường hợp Fang”. Deng biểu "bạn quí", ông đang sửa soạn thả Fang và gia đình, và đá đít ra khỏi TQ, [tức là cho qua Mẽo!], và nếu như thế, liệu phía Mẽo có thể bắt Fang đi 1 đường thú tội.
"Bạn quí" trả lời, nếu nhà cầm quyền Mẽo bắt Fang thú tội, thì sự tình còn tệ hại hơn nhiều, so với “kệ cha ông ta, thú với chả thiếc”!


Fang Lizhi, Chinese Physicist and Seminal Dissident, Dies at 76

by New York Times — Cập nhật : 08/04/2012 18:33

Nhà bác học đối lập Phương Lệ Chi ("Sakharov Trung Hoa") từ trần. Chữ "seminal" trong tựa đề bài báo NYT, xin các dịch giả đừng dùng chữ "tinh dịch" (như có vị đã dịch "cha tôi bị ung thư tử cung"), mà nên dịch là "quan trọng". Có thể xem bản tin tiếng Việt của VOA : http://www.voanews.com/vietnamese/news/china-dissident-obit-4-7-12-146543725.html

Nguồn: Diễn đàn F!

Còm của Gấu Cà Chớn:

Đểu giả thiệt.
Đúng là bản chất của Diễn Đàn F!

Toàn 1 lũ Bắc Kít!
Bắc Kít di cư, rồi bỏ chạy cuộc chiến, rồi bợ đít VC, rồi làm cớm cho VC nữa chứ!

Mấy anh này bỏ chạy, chẳng biết tí chó gì về cuộc chiến, lầm "pháo kích" với "oanh kích", khi bị độc giả chất vấn, bèn chặc chặc, thì cũng "ầm" một tiếng, khác gì nhau đâu!

Hà, hà!

Hồi mới ra được hải, ngoại, và biết đến Diễn Đàn F, qua NTV [anh phán, mày phải đọc tụi nó, hà, hà!], GCC hết sức sững sờ vì giọng điệu hận thù đám Ngụy, bồi Mỹ, VNCH của lũ này.
Những từ như cờ ba que, là của chúng.
GCC lắc đầu, chúng thù Ngụy còn hơn cả VC Bắc Kít thù Ngụy.

Đến giờ này thì cũng vẫn vậy!

Đám Trùm Bắc Kít ở Bắc Bộ Phủ cũng không ưa chúng. Đếch cho về. Ngay đến sư phụ của chúng, là PXA, tức Cao Bồi, ‘bạn của GCC”, người dâng Miền Nam cho Bắc Kít, BBP không ưa, mà còn tính làm thịt. Điều này là do PXA nói ra, nghe, không phải GCC phịa!

Ông không đi nổi, không phải địa ngục chật cứng lũ VC, như ông nói, mà vì không có nơi nào "dung" nổi ông, y chang trường hợp Tướng Loan, bị "thế giới tự do" xua đuổi!

Có 1 cái gì đó, của Bắc Kít, rất ghê sợ, rất đáng tởm.
Đọc Sến Cô Nương, đọc Đông Bê, đọc Thái Dúi… là ngửi ra liền!
Văn Sến lạnh, độc, và ác. Đông Bê cũng thuộc loại cực độc, cực ác, Thái Dúi cũng rứa. Cái mà chúng cực thiếu, là sự khiêm nhường, và cái gọi là… cứu rỗi!
Tại sao lại nói tới sự cứu rỗi ở đây?
Hà, hà, GCC sẽ lèm bèm tiếp.

Oanh kích vs Pháo kích

Sự khác biệt giữa hai từ oanh kích và pháo kích còn là đề tài trọng tâm, của nhà văn Đức W.G. Sebald, trong cuốn “Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt”, xb sau khi ông mất vì tai nạn xe hơi, [sorry, cuốn này xb khi ông còn sống, nhưng GCC mua, sau khi ông mất!], khi ông tự hỏi, tại sao văn chương Đức lại vờ đi một đề tài quan trọng như thế: Những cuộc "oanh kích” của quân đội Đồng Minh huỷ diệt những thành phố Đức?
Và ông tự trả lời, người Đức vốn có thói quen không phô ra những vết thương, những tủi nhục có tính cách riêng tư, trong gia đình.

Nếu như thế, người Việt chúng ta, nhất là người dân Miền Nam, cũng có thói quen không phô ra những tủi nhục, khi họ bị người anh em Miền Bắc cho ăn “pháo kích”, như một cách nhắc nhở, chào mừng những ngày lễ lớn của dân tộc: Ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, Sinh Nhật Bác…

Nếu có chăng, thì là chút lòng ưu tư của "Tướng Givral", khi ông mủi lòng trước những cái chết của thường dân, và có thể, run sợ về một cái chết của chính ông ta, bởi vì những trái rốc kết vốn vô tình, và mù loà, cho nên ông bèn ra lệnh cho ngưng pháo kích.

Đêm nay ngưng pháo kích!

Ôi chao Gấu lại nhớ đến Bác, và nỗi lòng của nhân dân Mít, khi biết Bác không ngủ, lo lắng cho Bác, và dặn dò Bác, ngày mai nhớ ngủ bù nghe Bác, nếu không, không ngủ mãi, là trở thành điên, thành khùng!

Đêm nay Bác không ngủ
Ngài mai Bác ngủ bù!

Hậu quả của những vụ pháo kích, nếu có chăng, chỉ là chứng đái dầm của một cô gái, [cô gái lớn của Gấu], ngay khi còn là một thai nhi nằm trong bụng mẹ đã phân biệt ra được tiếng réo của những trái pháo khi bay qua, và sau này, ngay cả khi đã thành lập gia đình, vẫn còn mắc chứng đái dầm.
*
Thì, như Ông Thánh Của Lò Thiêu, Jean Améry, phán: Một khi bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
*

Tra từ điển!
Tếu thật. Từ ngữ ở trong từ điển là từ chết. Nó chỉ sống lại, khi con người tưới lên đó, bằng mồ hôi, bằng máu, bằng tuyệt vọng, bằng hy vọng...
Chúng giống như những...  Dracula, đang tơ lơ mơ ngủ, đang được ông TCS ru mãi ngàn năm, và cứ phải ngửi thấy mùi máu người, hay là những giọt nước mắt cam lồ, thí dụ như của một bà trong truyện ngắn Biển của Miêng [xin đọc
Linh Hồn Của Biển] thì mới tỉnh dậy !


Facing History

Note: Bài trên BBC. Có hai lỗi, Livre de poche, Vie de chien, [không phải en]
[Mới vô BBC, 11.4.2012; 2h.40 local time, thấy sửa rồi, nhưng vờ cám ơn GCC!
Cũng được!]

[GCC đọc Chuyện Kể Năm 2000]

Note: Cái truyện ngắn Người Chăn Kiến, khi mới ra lò, GCC tính đi 1 đường rồi… quên!
Tuy nhiên, cái lần quên mới đây, mới thật nhảm.
Lần đó GCC đọc 1 truyện ngắn của mũi lõ, thần sầu, quái làm sao, làm nhớ đến Người Chăn Kiến, nhưng không làm sao tìm ra nối kết giữa cả hai.
Ghi ở đây, như đặt 1 viên gạch, biết đâu...
Hình như có 1 hậu quả khủng khiếp của những ngày tù lên BNT, như GCC vẫn mơ hồ nghĩ tới, khi nghĩ tới ông, nhất là sau lần gặp ở Hải Phòng & Đồ Sơn, lần về Việt Nam.

Lần qua Mẽo, gặp HL, người giới thiệu DTL với Đại Học Mẽo, và từ đó, đưa bạn ta vô văn học sử Mẽo, em cũng nói, "có 1 cái gì đó", ở nơi BNT, như em đã từng gặp, lần ông qua Mẽo.

Cái gì đó, là cái gì, nhỉ?

Đọc bài phỏng vấn cũng không nhận ra.

Hay là nó nằm ở câu này:

“Ai đã bước vào nhà tù, vĩnh viễn không thoát khỏi nó. Hãy thận trọng, những ai được quyền xử lý con người!" (1)

Câu nói của BNT có vấn đề theo tôi.
Nó làm Gấu nghĩ đến câu của Jean Améry, một nạn nhân Lò Thiêu: Một khi bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Nhưng không phải, bởi vì câu của BNT hình như muốn nhắn nhủ nhà nước VC đúng hơn.
Ở những nước dân chủ, chẳng có ai được cái quyền xử lý con người, mà chỉ có pháp luật. Cá nhân phạm tội, đưa ra tòa, tòa quyết định theo luật pháp. Làm gì có chuyện xử lý con người. Làm gì có chuyện trồng người 100 năm. Người đâu có phải cây?

Bác Hồ đại nhảm!

Thời chiến tranh, làm văn học minh họa, văn học “phải đạo”, điều đó hiểu được. Bây giờ không thể thế. Bạn đọc đã bội thực, chúng ta đã chán chúng ta.
BNT

Cái chết của văn học Mít VC là ở chỗ đó. Chẳng thể nào có văn học phải đạo, dù trong bất cứ trường hợp nào. Lúc đó chúng ta đã phải chán chúng ta rồi. Cái hậu quả bây giờ là do cái nguyên nhân ngày trước Khi chấp nhận văn chương phải đạo, thì các nhà văn MB có thấy…  nhục không?  Đánh thắng Miền Nam đã, nhục tí tí, vinh quang dài dài! Đất nước thống nhất, nhà đất, đất nước rộng hẳn ra, ai cũng có bổng lộc, còn than gì nữa. NQT


Cái "truyện ngắn" của một bà “sơ đực rựa” [Sơ Dạ Hương], đăng trên Văn ngày nào, [9/1967], Thời Còn Trẻ Tuổi, sau được đưa vô tập truyện Những Ngày Ở Sài Gòn, và Lần Cuối Sài Gòn với cái tít 


*

@ Harvard, 2005

“Bref, j'ai survécu”. “Ngắn gọn, tôi đã sống sót”.
Viết, là vấn đề thể lực, question de force. Nếu bạn viết trong ba năm trời, ngày nào cũng viết, bạn phải mạnh. Mạnh về thể chất, physique, và về tinh thần, mental.
Kẻ nào dậy sớm sống tới hai đời, quelqu'un qui se lève si tôt peut presque vivre deux vies.
Tôi thích đọc sách. Tôi thích nghe nhạc. Tôi sưu tầm dĩa nhạc. Và những con mèo. Vào lúc này, tôi không có con mèo nào. Nhưng trong khi đi dạo, nhìn thấy 1 con mèo là tôi cảm thấy hạnh phúc.

Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Nhựt Bản, Tháng Ba, 2012

*

Looks, số đặc biệt về Nhật Bản, Tháng Ba 2012


Ý tưởng của anh Chu Hà về sự dị biệt / đối nghịch giữa “bên ni và bên nớ” (tức là miền Đông và miền Tây Hoa-kỳ) rất là thú vị. Tôi không ở Mỹ, nên không biết gì về điều này. Ở Úc, thỉnh thoảng tôi cũng nghe người ta nói về sự “kỵ rơ” giữa Sydney và Melbourne, nhưng tôi chưa thử tìm hiểu thấu đáo xem cái sự “kỵ rơ” này thực sự ra sao và ở mức độ nào.

HNT

"Kỵ rơ" là cái quái gì?

“rơ” là từ tiếng Tẩy, “jeu”. Nếu phiên âm qua tiếng Việt, thì có thể dùng từ “dzơ”, thí dụ, nhưng không thể “rơ”, vì sẽ phải uốn lưỡi khi đọc.
Khả năng tiếng Việt của “tay này” rất ư là tệ. “Fail” dịch ra tiếng Việt là "vấp ngã"! Anh gọi những trường hợp Lê Công Định chống nhà nước VC, bị VC bắt đi tù, là "vấp ngã", và cám ơn rối rít không phải Lê Công Định mà sự vấp ngã của ông!
Vậy mà có anh còn phổ thơ thổi!

Cả hai diễn đàn văn học DM và HV, thì đều không rành tiếng Việt. Đó là sự thực.
Dịch dọt như thế mà chửi chê người khác là dịch loạn.
Vả chăng làm gì có sự sai trái ở đây mà nhìn nhận. Một nhận định sai thường chỉ được coi là hiểu lầm. Sai trái cái con khỉ.
Nên nhớ, trong tiếng Việt, khi dùng đến từ "sai trái", thì phải là 1 trường hợp rất nặng nề.
Tiếng Việt như thế này, thì “hết nước nói” [fi ní lô đia!]

Cũng 1 nguyên tắc phiên âm như trên, khi chuyển từ "savon" qua tiếng Việt, là “xà phòng”, không thể “sà phòng được”.
Tuy nhiên, luật nào thì cũng có ngoại lệ, từ “sadique”, qua tiếng Việt là ‘sa đích”, [như nhà thơ NS đã đặt nick cho GCC, tên "sa đích văn nghệ"!], vì nếu chuyển thành “xa đích”, thì lại quá xa, mất luôn nguồn tiếng Tây của từ.

*

Don Draper of Existentialism

Đối diện lịch sử, Facing History

Adam Gopnik viết về Camus, trên The New Yorker, April, 9, 2012

*

Tin động trời: Sartre tính nhờ...  Văn Cao làm thịt Camus!
Nhưng Văn Cao lúc đó, đói lả, được Vũ Quí cho ăn bát cơm, lấy sức đi làm thịt tên Việt Gian Đỗ Đức Phin!
Hà, hà!

**

*

Do Hội Sách Nhựt tại Paris


Nỗi Buồn Hoa Phượng

Nhà thơ TTT có lần ngồi Quán Chùa, nhân lèm bèm về nhạc sến, đúng hơn, nhạc có lời, ông phán, GCC nhớ đại khái, ở trong chúng, có cái gọi là nhịp của thời gian.
Bạn nghe 1 bản nhạc sến, là nhớ lại 1 cái thời nào đó liên quan đến nó.
Bản Tình Nhớ với Gấu là thời gian đi trình diện nhập ngũ tại Quang Trung, viết rồi.
Ngày mai đi nhận xác chồng, là thời gian ở nông trường cải tạo Đỗ Hoà, đang loay hoay viết.
La plus belle pour aller danser, là thời gian thằng em nghêu ngao, chờ đi xa.

Với Nỗi Buồn Hoa Phượng, của vị nhạc sĩ vừa mới ra đi, với GCC, cái thời của nó, là thời gian học Đệ Tứ, trường Thành Công, ở khu Hoà Hưng, của thầy Chu Tử, tức Chu Văn Bình, bạn của ông anh rể của GCC, là nhà văn Nguyễn Hoạt, và còn là nhà báo với cái nick Hiếu Chân.
Chu Tử là hiệu trưởng, và là giáo sư dạy Pháp Văn, lớp của GCC.
Trường có thể chỉ là cái vỏ để ông làm chính trị. Vốn thành lập trường có thể là của Cao Đài.
Ông bị Diệm bắt, và sau 1 thời gian giam giữ lâu quá, không có cớ để bắt, thành ra cũng không có cớ để tha, chúng ghép ông vào 1 băng ăn trộm xe hơi, để chụp hình đăng báo, cùng đồng bọn, và sau đó, thả.
GCC có nhìn thấy tấm hình đó, trên 1 nhật báo ở Sài Gòn.
Thả, ông làm báo tiếp, tờ Sóng Thần, viết văn, và nổi tiếng với tác phẩm Yêu.

Lần đầu tiên GCC biết đến cái gọi là “lưu bút ngày xanh” là ở trường Thành Công.
Hết năm học, một em, còn nhớ, người Nam, đưa cho GCC 1 cuốn sổ nho nhỏ, GGC nhớ là, đẹp lắm, và nói, anh viết vài dòng lưu bút cho em!
Ui chao, thế là Gấu bèn viết.  Không còn nhớ viết cái gì, nhưng chắc là cũng vãi linh hồn lắm!
Trong thời gian học trường Thành Công, GCC gặp lại cô gái ở Hà Nội, con 1 người bạn của bà cô, Cô Dung, của Gấu. Nhà cũng ở khu đường gần hồ Hallais, cô Gấu hay tới xoa mà chược, và Gấu tới, để lấy tiền đi mua bánh mì baguette, ở lò bánh mì Michaux, ở đường Trường Thi, gần Bờ Hồ.
Nhờ vậy, mà được nhìn thấy cô gái.

Gặp lại ở Thành Công.

Cô học ở 1 lớp ở bên dưới. Gấu học 1 lớp ở trên lầu. Gấu mò ra đúng chỗ cô ngồi, và 1 bữa, để cái thư của Gấu ở nơi ngăn bàn học.
Cũng chẳng nhớ 1 tí gì, về nội dung bức thư tình.
Cô gái đem thư trình ông giám hiệu.
Thời gian đó, Chu Tử đã bị bắt. GCC học trường Thành Công, tuy là trường tư, nhưng không phải đóng học phí, hay chỉ phải đóng 1 nửa, lâu quá chẳng nhớ, nhờ cái thư của ông anh rể đưa cho Thầy Chu Tử.
Tay giám hiệu trừng trị GCC bằng cách quyết định, mi từ nay phải đóng học phí.
Học không lo, lo tán gái!

GCC  trở lại, không phải trường Thành Công, mà là trường Thánh Mẫu, đối diện với trường Thành Công, mãi sau đó, khi đã đậu Tú Tài I, vô Chu Văn An, quen bạn C, em nhà thơ TTT, và nhờ vậy, quen biết Bà T, bạn của bà cụ C.

Cái cô gái trong Những con dã tràng, là con gái của bà T.
Cô học trường Thánh Mẫu.

GCC rất nhiều lần tới trường Thánh Mẫu, để chờ, nhìn thấy cô, tan học, lên chiếc xích lô, về nhà, còn GCC lẽo đẽo đi bộ, cũng về nhà, nhà mình.
Mai đi đến trường đón em tiếp!

GCC đã viết về cảnh này trong Một Người Anh

*

Điều phải nói

"Why only now, grown old,/And with what ink remains, do I say:/Israel's atomic power endangers/an already fragile world peace?" he writes, before answering his own question: "Because what must be said/may be too late tomorrow."
Gunter Grass

Tại làm sao bi giờ, già quá rùi, còn tí mực còn lại, tui lại để cho tay tui dính mùi "giang hồ gió tanh mưa máu"?
Bởi là vì cái phải nói thì phải nói, trước khi quá muộn, vào ngày mai.

Nghe như giọng GCC, đếch phải Gunter Grass!

Hà, hà!

Gunter Grass vừa đi một bài thơ, “Điều phải nói”, tố cáo Israel âm mưu làm cỏ, [wipe out, annihilation] Iran, gây hiểm họa cho hòa bình thế giới.

“Tớ quá già rồi, và bằng những giọt mực chót, cảnh cáo nước Đức của tớ, coi chừng lại dính vô tội ác [“supplier to a crime”]." (1)

Bộ Trưởng ngoại giao Israel, đọc bài thơ, phán, thơ vãi linh hồn [“pathetic”], và cái việc ông ta, Grass, chuyển từ giả tưởng qua khoa học viễn tưởng, coi bộ ngửi không được, poor taste.

(1)

Günter Grass pointe tout particulièrement le silence de l'Allemagne, "culpabilisée par son passé nazi", qui refuserait de voir le danger constitué par l'arsenal nucléaire israélien. Un arsenal "maintenu secret -, et sans contrôle, puisque aucune vérification n'est permise" et qui "menace la paix mondiale déjà si fragile", insiste l'écrivain. Il en profite pour rappeler que l'Allemagne s'apprête à livrer un sixième sous-marin à Israël. Berlin et Tel Aviv ont en effet conclu un contrat en 2005 sur la vente de sous-marins Dolphin, qui peuvent être équipées d'armes nucléaires. Enfin, Günter Grass réclame la création d'une agence" internationale pour contrôler les armes atomiques israéliennes, tout comme l'AIEA le fait pour les activités nucléaires iraniennes

Grass đặc biệt nhấn mạnh tới sự im lặng của nước Đức, “do tội lỗi bởi quá khứ Nazi”, thành ra vờ, làm ra vẻ không nhìn thấy hiểm họa của võ khí nguyên tử của Israel. Một võ khí nguyên tử “được giữ bí mật, không kiểm cha, kiểm mẹ, vì đếch ai được phép”…


Eleven

Tác giả/tác phẩm ảnh hưởng nặng nề lên Pat [Patricia Highsmith] là Dos/Tội ác và Hình Phạt. Như… Sến, em gặp ông già rậm râu là mê liền, năm em 13 tuổi!
Trong nhật ký, em coi Dos, là "Thầy", và coi Tội Ác là 1 cuốn tiểu thuyết suspense, trinh thám nghẹt thở.
Thomas Mann phán, Tội Ác là một trong những cuốn tiểu thuyết trinh thám lớn lao nhất của mọi thời.
Cuốn trứ danh của Pat, Những kẻ lạ trên tàu, Strangers on a Train, là từ Tội Ác mà ra. Em phán: "Tôi có ý nghĩ của riêng tôi về nghệ thuật, và nó như vầy: điều mà hầu hết mọi người coi là kỳ quặc, thiếu tính phổ cập, fantastic, lacking in universality, thì tôi coi là cực yếu tính, the utmost essence, của sự thực."
Tzvetan Todorov, khi viết về sự quái dị trong văn chương, đã cho thấy, bằng cách nào tiểu thuyết trinh thám hiện đại đã thay thế truyện ma quỉ của quá khứ, và những nhận định của ông áp dụng rất OK với tiểu thuyết của Pat: “căn cước gẫy vụn, bể nát, những biên giới giữa cá nhân và môi trường chung quanh bị phá vỡ, sự mù mờ, lấp lửng giữa thực tại bên ngoài và ý thức bên trong”, đó là những yếu tố thiết yếu làm nền cho những đề tài quái dị.

*

Note: Báo nhà [Canada]. GCC biết đến nó, là qua NTV.
Số đặc biệt về vùng Balkan.

Trong bài viết của “Guest Editor”, Biên Tập Khách Mời, Amila Buturovic: Về Mất Mát có thực Hồi Phục chưa chắc đã có thực, Of Certain Losses and Uncertain Recoveries, có trích dẫn câu thần sầu của Szymborska, làm đề từ:

“Each of us wished to have a homeland free of neighbors and to live his entire life in the intervals between wars”

Mỗi tên Mít chỉ mong một quê nhà đếch có hàng xóm láng tỏi Mít, và sống trọn đời mình, ở khoảng giữa những cuộc chiến.

Ui chao, đúng là cuộc đời của Gấu, [lại liên tưởng!]: Cả 1 cuộc đời ở giữa hai cuộc chiến, và đếch có hàng xóm Bắc Kít!

Hà, hà!

Remembering Sarajevo
by Aleksandar Hemon

Mapping a geography of the soul.

*

I wanted from Chicago what I had got from Sarajevo: a geography of the soul

Bài viết này tuyệt quá.
Cũng 1 thứ đi và về chẳng cùng 1 nghĩa như nhau, và làm GCC nhớ lần trở về nơi 1 thời vang bóng, tức lần trở về Đất Bắc, sau hơn nửa thế kỷ xa cách, chủ yếu, là để tìm gặp 1 thằng Gấu, khác, có thể vẫn còn ở lại Đất Bắc, đếch bỏ đi Nam.
Bạn có nhớ một Orhan khác, trong Istanbul? (1)
Để tìm lại Tuổi Thiên Đường
Để biết ông cụ Gấu mất đúng vào ngày nào [vì ở trong Nam, gia đình Gấu cúng ông cụ vào cái ngày 30 Tết, tức là ngày ông cụ rời gia đình, để bị anh học trò làm thịt].
Để đến chỗ ông cụ bị làm thịt, thắp 1 nén nhang. GCC hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, và lại bỏ đi, đếch về nữa, vì sợ bị đá đít như Thầy Cuốc, hoặc quá nữa, bị VC làm thịt như ông bố của mình đã từng bị!
TV sẽ lai lai ba sợi dịch dọt sau.

Lần  trở về Hà Nội, thằng bé ngày xưa và là tui ngày nay, một ông già, cũng cố đòi cho được, không phải tuổi thiên tài như me-xừ Schulz, nhưng mà là... tuổi thiên đường, sau bao phen dọ dẫm về nó.

Trong một lần dọ dẫm, tôi đã kể qua, về lòng biết ơn của một đứa bé nhà quê may mắn được ra Hà Nội học, nhờ có một bà cô làm me Tây, ông Tây này là kỹ sư sở hoả xa Đông Dương.

Tôi viết, làm me Tây, vì thực sự như vậy. Hai người sống với nhau đã lâu. Khi Nhật chiếm Đông Dương, họ phải chạy qua bên Trung Quốc. Tôi nhớ có lần nghe bà cô tôi nói, cái ông Tây trẻ ở cùng chung villa ngay bên hồ Hallais rất thương bà, nhưng tình nghĩa những ngày hoạn nạn khiến bà không thể bỏ ông Tây già, lớn hơn bà tệ lắm cũng hơn chục tuổi. Chỉ tới khi hiệp định Genève ký kết, họ mới làm giá thú, để hoàn tất thủ tục nhập nước Pháp.

Cái villa mà hai ông Tây ở đó, nằm trên đường Nguyễn Du, Hà Nội. Ông cậu tôi lắc đầu khi nghe tôi hỏi thăm về con phố ngày xưa, nói, bây giờ nó có một cái tên khác, và rồi ông ghé sát tận tai tôi nói nhỏ, đường Hàng Lờ. 

Ngày xưa, đứng trên đường Hàng Lờ nhìn vào, bên cạnh villa về phía bên phải, là một viện bảo sanh, bên trái, một tòa nhà chỉ có bốn bức tường cao, nghe nói bị ma ám, cứ ngày xây, đêm đổ, và là nơi cư ngụ của một hai gia đình nghèo. Cả hai bên, tôi đều gây chuyện, và đều làm cho bà cô của tôi bực mình. Với những gia đình nghèo, là một chuyện giữa tôi và đám con nít nhỏ tuổi hơn. Chúng gây sự trước, và khi xẩy chuyện, tôi bị buộc tội bắt nạt con nít.

 Còn bên trái, là vào những ngày Hà Nội nhốn nháo, kẻ ở, người đi vào nam, cả một khu phố quanh hồ Hallais, ban ngày biến thành Chợ Trời, và ban đêm, Chợ Trộm. Đêm nào cũng nghe tiếng người la, Cướp, Cướp. Đêm, thay vì ngủ trong nhà, tôi kiếm một góc khuất khuất ở sân trước, để săn trộm. Luôn thủ sẵn một cây gậy.

 Đi đêm mãi có ngày gặp ma. Một bữa trộm vào nhà thiệt. Chúng lựa đúng chỗ tường thấp, nơi tôi thường leo vô, mỗi lần trốn nhà đi xem xi nê về muộn. Nhưng hóa ra là chúng chỉ mượn đường, để viếng nhà bảo sanh kế bên. Nửa đêm, nghe tiếng mấy bà đẻ la, tôi giật mình chồm dậy, thấy mấy tên trộm đang leo tường ra ngoài đường. Đuổi theo, chúng làm rớt một chiếc bàn ủi, như để chia phần cho tôi.

 Đúng là để gieo họa, bởi vì sáng hôm sau, mấy bà đẻ xúm nhau đứng trên ban công nhìn sang thằng bé bằng những cặp mắt nghi kỵ. Thế là bà cô tôi tế cho một trận. Bà chửi cháu thì ít, nhưng hàng xóm thì nhiều. Sau thằng con ông chủ viện bảo sanh, hình như cũng học trường Nguyễn Trãi với tôi, nói cho ông bố biết, và ông sang tận nhà xin lỗi.

 Bài học đầu tiên trong đời, do bà cô dậy, chớ ôm lấy chuyện thiên hạ mà có khi mang họa, tôi đã không học được, bởi vì, mãi sau này, khi vào Sài Gòn, tôi lập lại y chang sự ngu ngốc kể trên. Chuyện này, tôi đã kể trong truyện ngắn Lần Cuối, Sài Gòn. Nay xin trích đăng ở đây, để độc giả cười thêm một trận.

 ****

 "Ôi, ôm Em trong tay mà đã nhớ Em ngày sắp tới" (Thơ Thanh Tâm Tuyền). Hãy cho tôi thăm lại con phố Bonnard (?), nơi có bót Hàng Ken (1), chú bé di cư ngày nào ngơ ngác rụt rè làm quen, tự mình khám phá Sài Gòn. Gần gốc cây kia, chỉ còn trong cậu bé ngày xưa, một người đàn ông đánh đập dã man một người đàn bà. Không quên bài học Công Dân, chú bé chạy vào bót Hàng Ken, méc mấy ông cảnh sát. Chú bị ăn bạt tai, cùng những lời sỉ vả, người ta đánh "dzợ" người ta, mắc mớ gì tới mày, hả thằng con nít? Đồ Bắc Kỳ di cư vô đây làm tàng! Ôi bài học đầu tiên khi tìm cách làm quen thành phố, được thời gian gọt rũa trở thành một nốt ruồi son đáng yêu biết là chừng nào, trên khuôn mặt "cô bé". Trên khuôn mặt Sài Gòn.

 NQT

Chú thích. (1): Bót Lê Văn Ken, như bạn Thảo Trường còn nhớ, và cho biết. Tks. NQT


Storm Over Young Goethe
April 26, 2012
J. M. Coetzee

Liệu có thể coi, đây cũng là 1 trường hợp “dịch loạn”?
Passion vs Tenderness
Sorrows vs Sufferings vs Passions [du jeune Werther]…
We are in the sphere of the tender passions, and the word at issue is eine Leidenschaft. Leidenschaft is, in every sense of the word, “passion”; but what is “passion”? Why does Malthus mute “passion” to “tenderness” (or why does his French intermediary mute it to tendresse)?


What We Talk About When We Talk About Anne Frank by Nathan Englander (Weidenfeld & Nicolson, hardback, out now). Reading this deeply felt and unsettling collection reminded me of walking into the forest of concrete slabs that form the Holocaust Memorial in Berlin. To begin with, all seems simple; soon you are in deeper, and darker, than you expected. The linking theme is Jewishness, and the Jews in Nathan Englander's stories, whether orthodox or secular, are preoccupied by fine distinctions - between neurosis and humour, piety and superstition, legal contract and human trust. The first and last stories deal with the effects of the Holocaust as it casts its long shadow down the generations; in each, Englander's spare, unshowy prose enhances a sense of devastation. The book comes so larded with compliments - from Jonathan Franzen,Jennifer Egan and Dave Eggers, among others - that you set out feeling certain it will disappoint. It doesn't.
Intel Life

Chúng ta nói gì khi chúng ta nói về… Anne Frank.
GCC hỏi BHD.

Đọc tập truyện thấm thật sâu, gây nỗi quan hoài, lo lắng này, như thấy mình đang đi vô 1 khu rừng làm bằng những phiến đá mỏng tạo thành Đài Tưởng Niệm Lò Thiêu ở Berlin. Để bắt đầu, thì lại có vẻ như rất ư là đơn giản; chẳng mấy chốc, bạn cảm thấy sâu quá, tối quá, sâu tối hơn rất nhiều so với bạn dự đoán. Đề tài nối kết là Do Thái Tính, và những người Do Thái trong tập truyện, Chính Thống Giáo hay là Thế Tục, thì đều quan tâm đến những sự phân biệt tinh, mịn, nguyên – giữa loạn thần kinh, hay tiếu lâm, giữa mộ đạo và mê tín, giữa hợp đồng hợp pháp hay là lòng tin cậy giữa con người. Truyện đầu và cuối đụng tới hậu quả của Lò Thiêu, như nó đổ cái bóng của nó xuống hàng hàng thế hệ; trong mỗi truyện ngắn, văn của tác giả, thanh đạm, kiềm chế, tạo sự tan hoang, rã rời ở nơi người đọc.
Nhiều người thổi nó quá, toàn những bậc thầy, như Jonathan Franzen,Jennifer Egan and Dave Eggers … có thể làm bạn ngại, và có thể còn làm bạn bất bình, thất vọng, nhưng không phải như vậy.
Đọc thì biết, BHD biểu GCC.

Note: GCC mua tờ Intel Life, một phần là do đọc bài điểm sách trên. Nhưng bữa nay đi trả phim mướn, tại cái mỏ phim cũ, ghé tiệm sách, thấy 1 bài trên tờ TLS, dài hơn, thú hơn nhiều. Sẽ “đi” liền.

Cậu có “đi”  không?

Ui chao lại nhớ cái lần đầu tiên ghé xóm, cùng đám bạn Nam Kít, cùng làm trang VHNT của tờ Mã Thượng. Có HPA, DVB [sau là dân biểu]. Chúng bỏ mặc GCC ngồi trơ cu lơ một mình, và khi bà má mì hỏi, cậu có đi không, GCC tưởng bà đuổi, lắc đầu,"Tôi không đi"!

Hà, hà!

Do cái bài viết phạng “anh cu D”, mà GCC biết đến blog của bà Béo (1)
Ui chao, sao giống Gà Mái Gáy quá.
Cũng đéo, đù, cũng tuyệt cú mèo, cũng phê bình, phê biếc…

Chán quá. GCC lại nhìn ra cái bà Bắc Kít mất vịt, ra tận đầu ngõ…. (2)

*

Thảo nào, Bà Béo mê Nguyễn Viện, 1 trong những nhà văn số 1 của trong nước!

Cái tởm của những tay như NV này, là chúng không thể làm được điều mà Jane Fonda đã làm. (1)
Bà quá đau lòng vì cái vụ ngồi lên nòng súng bắn máy bay Mẽo tại Hà Nội, và than, tôi mang nỗi ân hận qua quá bên kia nấm mồ của mình.
Đám nhà văn VC Bắc Kít này, đứa nào thì cũng đầy kít, vậy mà không làm được điều Jane Fonda, đã làm, hay Grass đã làm:
Chúng chửi VC như chúng là... Thánh, sạch hơn cả Thánh!

What Remains [Cái tít này là của Sến, nhưng trước đó, thì có nữ văn sĩ Đông Đức, xài rồi] (2)
Chẳng lẽ còn lại đống kít này ư?

Đọc bà Béo viết về Hồng Y Nguyễn Văn Thuận mới ghê: Bà biết cả chuyện NVT là.... Xịa!
*

AFP BỊA ĐẶT

AFP hôm qua đưa tin, Việt nam rút visa của phái đoàn Vatican vào điều nghiên việc phong thánh cho Hồng y Nguyễn Văn Thuận.
Thông tin này là hoàn toàn bịa đặt. Việc phái đoàn này chưa vào là sự thu xếp nội bộ của Vatican và, chính quyền hẳn không sợ Vatican đến độ phải cấm nhập cảnh mấy ông thầy tu.
Hồng y Nguyễn Văn Thuận người gốc Huế. Sinh năm 1928 mất năm 2002. Trước giải phóng ông là Giám mục Nha Trang. Sau 75 ông bị  bắt đi tù 2 năm vì liên quan đến CIA.
Đính chính: (Beo đánh máy lộn không đọc dò lại) Hồng y Nguyễn văn Thuận bị đi tù 2 năm chứ không phải 12 (từ 76 đến 78).

Còn đây là BBC:

Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận bị chính phủ cộng sản bắt năm 1975, trải qua 13 năm tù, tại nhiều trại giam khác nhau, trong đó có chín năm biệt lập.
Sau khi được thả năm 1988, Ngài sống lưu vong ở Rome, được bổ nhiệm chức Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình của Vatican năm 1998.
BBC cho biết, có cái vụ rút visa.

Note: Cái hình DTH chỉ có tính minh họa!

*

Hình Paris Match

“J’AURAIS FAIT N'IMPORTE QUOI POUR ÊTRE AIMÉE. JE SUIS UN CAMÉLÉON”
"Tôi làm bất cứ điều gì để được yêu.
Tôi là con cắc kè"

-Finalement, que regrettez-vous le plus?
Sau cùng, điều bà ân hận nhất?

De ne pas avoir été une mère exemplaire. Je me rattrape avec mes petits-enfants. Et puis, évidemment, il y a eu Hanoi. En 1972, je me suis fait photographier, riant, assise sur un lance-missiles nord-vietnamien pour viser les soldats américains, sans me rendre compte de ce que je faisais. Je l'ai payé très cher, et on me le reproche encore. J'irai dans ma tombe en regrettant cette photo.

Không là 1 người mẹ gương mẫu. Tôi chuộc lỗi này qua mấy đứa cháu. Và, tất nhiên, Hà Lội. Vào năm 1972, tôi ngồi chụp hình ở cái trụ bắn hoả tiễn vào máy bay Mẽo của VC, chẳng hề nghĩ đến hậu quả cái điều mình làm đó. Tôi trả giá quá đắt cho tấm hình. Người ta vẫn còn trách tôi, và tôi mang theo với tôi vào đến tận tấm mồ của mình, sự ân hận của mình.
Gần như bài phỏng vấn nào, Jane cũng nói ra nỗi ân hận của bà.

Không 1 tên VC,  nằm vùng hay Bắc Kít, nói ra điều như Jane Fonda Hà Lội. Cái tội chúng đẩy cả nước Mít xuống hố nặng hơn cái tội của Jane Fonda nhiều.
Có vẻ như dân Mít ở trong nước đã kiếm ra được cách trừng trị tụi Mafia Đỏ: Làm thịt chúng, bằng cách gài bom vô nhà chúng ở. Hay trước khi chết, thì cũng phải thịt được vài thằng…
Có thể rồi sẽ xẩy ra cái cảnh, 1 người dân Mít chạy tới ôm hôn thắm thiết đồng chí Tấn Dũng, hay vị Chủ Tịch Lước, và "cờ lích" 1 phát, và ình 1 cú!

Chẳng ai cầu mong chuyện đó, nhưng có lẽ chỉ còn có cách đó. Khi Mẽo dội bom Hà Nội, là cũng sử dụng cách đó, để bắt Bắc Kít ngồi vô bàn hội nghị. Chết cả Miền Nam chúng đâu cần, nhưng chết “con chó” nhà chúng là không được!

Tất nhiên, chó chết, chủ nó cũng chết!
Bom mù mà!

Cái còn lại

Gunter Grass:

Christa Wolf thuộc thế hệ trong có cả tôi. Chúng tôi đều bị đóng dấu bởi chủ nghĩa Quốc Xã và sự “ngộ” ra muộn - quá muộn - về tất cả những tội ác mà người Đức đã phạm phải trong quãng thời gian chỉ trải dài 12 năm. Kể từ đó, cái gọi là hành động viết, đòi hỏi, mi đã làm cái gì trong 12 năm đó, nghĩa là, phải giải thích những dấu vết còn lại của năm tháng kể trên.

Bữa nào rảnh GCC sẽ đi 1 đường về những nhà văn được Bà Béo nhắc tới, và sẽ chỉ ra cho thấy, cái mà đám nhà văn VC thiếu, cực thiếu: Tụi mi đã từng nhận ra, như Grass nhận ra, như trên, chưa?

PD có bản nhạc, cũng 1 thứ “Kinh Cầu”, nhà nhạc sĩ thiên tài của giống Mít cầu xin Thượng Đế cho ông “đi lại từ đầu”. GCC hoảng quá, cũng năn nỉ Thượng Đế, xin Ngài đừng, đừng: Mấy em nhí may mắn vuột khỏi bàn tay lông lá của ông ta, chắc chắn là sẽ không thoát, trong cái lần ông đi lại từ đầu này đâu!

Hà, hà!

GCC tự hỏi, giả như Cuộc Chiến Mít được làm lại, từ đầu, thì nó sẽ như thế nào?
PD sẽ theo kháng chiến, và không bỏ về thành, không khổ sở vì đời đời đau "vết thương di tản", nào di tản từ chiến khu về Hà Nội, từ Hà Nội vô Sài Gòn, từ Sài Gòn qua Mẽo, rồi xin được về chết ở quê hương, hết còn đau vết thương di tản, và được VC cho phép, nhưng phải sau khi nhà xb Phương Nam giơ cục bạc ra nhử nhử!

Và những ông như Nguyễn Viện, những Sến Cô Nương, hay Cao Bồi, ["bạn của Gấu"], rồi Võ Đại Tướng [ông có chịu bớt đi 1 số thương vong trong số 3 triệu Mít…].
Họ sẽ ‘đáp ứng’ ra sao?

Ui chao, đây chính là đề tài mà Nathan Englander, tác giả tập truyện ngắn, Chúng ta nói gì khi chúng ta nói về Anne Frank, tưởng tượng ra, “the Anne Frank game”: giả như một Lò Thiêu thứ nhì xẩy ra, ai trong số những người hàng xóm, Gentile neighbors, sẽ che giấu họ?


“Tầm này rồi giai trẻ khó bỏ bùa mê thuốc lú được lắm bác Việt kiều ạ”
Blog Beo

Không biết Bà Beo có tính nhắn gì GCC không, nhưng cũng thấy... nhột, và delete mấy dòng nặng nề ở trên, và sorry, very sorry.
Hà, hà!


Maggie Fergusson
Six Good Books
NOVELLA
The Buddha in the Attic
by Julie Otsuka (Fig Tree, hardback, out now). In a prequel to her acclaimed debut, which told the story of a Japanese-American family sent to an internment camp in 1942, Julie Otsuka explores the deracination of a shipment of Japanese "picture brides" who sailed into San Francisco in 1919. Escaping the drudgery of the paddy fields, and a culture of entrenched chauvinism, most find they have exchanged one bell for another. Their husbands submit them to sexual degradation and back-breaking toil; their children feel they belong nowhere; after Pearl Harbour, most are transported to camps in Utah. In eight linked narratives, Otsuka writes chiefly in the first person plural- "On the boat we were mostly virgins" - laying experiences one on another until they form an incantation: a restrained but vivid memorial to lives that left little trace.
SHORT STORIES

What We Talk About When We Talk About Anne Frank by Nathan Englander (Weidenfeld & Nicolson, hardback, out now). Reading this deeply felt and unsettling collection reminded me of walking into the forest of concrete slabs that form the Holocaust Memorial in Berlin. To begin with, all seems simple; soon you are in deeper, and darker, than you expected. The linking theme is Jewishness, and the Jews in Nathan Englander's stories, whether orthodox or secular, are preoccupied by fine distinctions - between neurosis and humour, piety and superstition, legal contract and human trust. The first and last stories deal with the effects of the Holocaust as it casts its long shadow down the generations; in each, Englander's spare, unshowy prose enhances a sense of devastation. The book comes so larded with compliments - from Jonathan Franzen,Jennifer Egan and Dave Eggers, among others - that you set out feeling certain it will disappoint. It doesn't.
Intel Life

Chúng ta nói gì khi chúng ta nói về… Anne Frank.
GCC hỏi BHD.

Đọc tập truyện thấm thật sâu, gây nỗi quan hoài, lo lắng này, như thấy mình đang đi vô 1 khu rừng làm bằng những phiến đá mỏng tạo thành Đài Tưởng Niệm Lò Thiêu ở Berlin. Để bắt đầu, thì lại có vẻ như rất ư là đơn giản; chẳng mấy chốc, bạn cảm thấy sâu quá, tối quá, sâu tối hơn rất nhiều so với bạn dự đoán. Đề tài nối kết là Do Thái Tính, và những người Do Thái trong tập truyện, Chính Thống Giáo hay là Thế Tục, thì đều quan tâm đến những sự phân biệt tinh, mịn, nguyên – giữa loạn thần kinh, hay tiếu lâm, giữa mộ đạo và mê tín, giữa hợp đồng hợp pháp hay là lòng tin cậy giữa con người. Truyện đầu và cuối đụng tới hậu quả của Lò Thiêu, như nó đổ cái bóng của nó xuống hàng hàng thế hệ; trong mỗi truyện ngắn, văn của tác giả, thanh đạm, kiềm chế, tạo sự tan hoang, rã rời ở nơi người đọc.
Nhiều người thổi nó quá, toàn những bậc thầy, như
Jonathan Franzen,Jennifer Egan and Dave Eggers … có thể làm bạn ngại, và có thể còn làm bạn bất bình, thất vọng, nhưng không phải như vậy.
Đọc thì biết, BHD biểu GCC.


*

Một sự tình cờ thú vị. Số báo Lire, Đọc, trên, có bài nói chuyện, entretien, với Patrick Chamoiseau, tác giả cuốn “Dấu vết Lỗ Bình Sơn”, “L’Empreinte à Crusoé”, 258 p, Gallimard, 18,50 Euros.
LBS là ai, thì các bạn biết rồi!
Tay này phán cũng hách lắm,  chẳng thua gì… LBS: "Một tác phẩm phải bắt đầu từ bất khả, nếu không, mất thì giờ". [Une oeuvre doit partir de l'impossible, sinon, c'est une perte de temps"]

Ui chao lại nhớ… BHD.
Em phán, bằng tiếng Tây, ta thương mi, vì mi muốn điều bất khả. [Je t’aime parce tu veux l’impossible]

Hà, hà!

Tình yêu, tình yêu, anh mơ tưởng hạnh phúc còn em nghĩ hạnh phúc không có, "Je t’aime parce que tu veux l’impossible", và chàng trả lời….,

Lan Hương

Hồi Ký Viết Dưới Hầm

Cái “ý thức sáng suốt là một bệnh hoạn”, cái “ý thức khốn khổ” của tác giả Hồi Ký, của Dos sau này đã đè nặng lên toàn thể khí hậu văn chương, triết học Âu châu, nhất là ở những tác giả thuộc chu kỳ hiện sinh như Sartre, Camus. Chúng ta có thể thấy rõ ràng, cuốn tiểu thuyết La Chute, Sa đọa, đang được dịch trên Văn, của Camus, như một cuốn Hồi Ký được viết lại bằng giọng văn của thế kỷ hai mươi, và gã Clémence, nhân vật chính trong La Chute, trốn chui trốn nhũi đến một góc tận cùng trái đất, rồi cứ thế mà tự sỉ vả mình, sỉ vả thế giới, chỉ là hậu thân của tác giả thiên Hồi Ký viết dưới hầm. Hơn nữa, cái tâm trạng tôi là một người riêng biệt, còn họ là “tất cả mọi người”, của gã đã trở nên một cas chung, một phénomène cho tất cả những nhân vật trong những cuốn tiểu thuyết thuộc loại lớn, những tác phẩm đặt nặng vấn đề ý thức hệ, thời đại tính, ý thức, thời đại, lịch sử…. G. Lukacs gọi đó là những “héros poblématiques”, theo nghĩa, những nhân vật này bị đẩy đến những cảnh ngộ khốn khổ, bị du vào cái thế “trên đe dưới búa” (chữ của ông Vũ Khắc Khoan trong “Thần Tháp Rùa”]…

GCC đọc Hồi Ký Viết Dưới Hầm của Dos, bản dịch tiếng Việt của Thạch Chương.


Tôi làm báo



*

Janpan Crisis
Thảm họa Nhựt

GCC xuống phố, vớ cuốn trên cùng với 1 số báo Thế Giới Ngoại Giao trong có bài viết “Một nhà văn, một xứ sở”, về thảm họa động đất và sóng thần, 11 Tháng Ba 2011, ở Nhựt.
Tác giả bài viết Ikezawa Natsuki là tiểu thuyết gia Nhựt, đã từng đoạt giải thưởng Akutagawa.
Câu văn Oé lấy làm đề từ cho chuyến đi thăm Hiroshima:
Qui donc, dans les temps à venir, pourra comprendre [. .. ] qu'après avoir connu la lumière, nous avons été amenés ainsi, de nouveau, à basculer dans les ténèbres ?
SEBASTIEN CASTILIAN
De arte dubitandi (1562)
Kẻ nào, trong số hậu duệ của chúng ta sẽ giải ra được nghi án thê lương sau đây:
Sau khi con người biết ánh sáng, nó lại quay lại với bóng tối?
*
« Si un accident entrainant la fonte du coeur nucléaire se produisait à Tokaimura ou à Fukushima, les dommages que devrait supporter la société japonaise seraient trop lourds » écrivait en 1993 le romancier Ikezawa Natsuki dans « Une fin joyeuse ».
Dans un texte inédit, il tire les lecons de la catastrophe. Une facon de saluer la littérature japonaise, invitée du Salon du livre de Paris, du 16 au 19 mars. 

IKEZAWA NATSUKI

*

Động đất và sóng thần làm chúng ta tái khám phá ra mấy điều sau đây:
Thứ nhất, thiên nhiên đếch ưa con người. Nó có đó không phải để hớn hở chào đón con người. Thiên nhiên bất nhân coi con người như rơm rác!
Thứ nhì, con người có khả năng làm lại. Ngay cả những đấng khóc lóc thảm thiết, tưởng không thể sống được, sau thảm họa, thì cũng có bữa thò tay ra dọn dẹp, nếu đồng loại cũng làm như vậy, tuy vẫn trông cậy ở sức mình.
Thứ ba, đừng tin bất cứ nhà nước, nhất là nhà nước VC!
Thứ tư, tai ương có khi là dịp để đổi thay.


 

Hoa cho Bùi Hằng

Cái bài viết của ông nhà văn Quê Choa đang được hải ngoại, trong có Bi Bì Xèo, bộ lạc Cờ Lăng, diễn đàn Hậu Vệ... khen nức nở, dởm, theo GCC.

Dởm nhất, là ở điểm này:
Tác giả sợ VC quá, sau khi viết lại càng sợ, bèn đóng cửa tiệm, viện lý do "cơm áo không đùa với khách thơ".

Nhưng, điều này mới khốn nạn, thay vì ông ta, và những phần tử tinh anh của Bắc Kít, Trung Kít… như ông, quay mặt nhìn vào lăng Bác Hồ, và sau đó điểm mặt Bắc Bộ Phủ, chúng ông sẽ cho tụi bay 1 trận, thì ông ta… nhờ, vái... Ông Giời:

Trời đã thấy rất rõ điều đó. Họ có thể coi khinh sự phỉ nhổ của nhân dân nhưng họ không thể không sợ trời. Và nhất định trời sẽ cho họ một hậu vận thảm hại. Nhất định là như thế, lưới trời lồng lộng, họ làm sao mà chạy thoát.  Chị hãy tin như vậy đi và hãy nở một nụ cười.

Một lũ vô thần trong có ông QC, kêu Ông Giời, tiếu lâm như thế, chửi bố thiên hạ như thế, vậy mà cũng khen um lên.
Kêu Ông Giời, thì cũng có nghĩa là chịu thua lũ ác, đành để cho nó muốn làm gì thì làm.
Nhè Trùm VC mà rủa, "chúng không thể không sợ trời"!

Hannah Arendt đã từng cảnh cáo đám “vừa đéo vừa run” [xin lỗi nói tục, vì ông này nổi tiếng trên chốn giang hồ do & nhờ viết tục] như ông Quê Cha này rồi:

 

Salvation or Ruin?
Cứu Rỗi hay Điêu Tàn? 

Trong một xã hội tan rã, một khi thế hệ trẻ mù lòa đi theo chân lý muôn đời, hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu nhân dân, tai ương thảm họa là điều không thể tránh khỏi, và được báo trước. Nhưng chính cứu rỗi, chứ không phải điêu tàn mới là điều "tới mà chẳng ai biết trước, chẳng ai trông chờ, chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính nó, chứ không phải điêu tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con người. 

[Mô phỏng Hannah Arendt, trong Franz Kafka: A Revaluation, trong Essays in Understanding 1930-1954, nhà xb Schocken Books, New York: In a dissolving society which blindly follows the natural course of ruin, catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin, comes unexpectedly, for salvation and not ruin depends upon the liberty and the will of men]. 

Chỉ một khi thế hệ trẻ, tốt nghiệp Harvard, trở về nước, bằng tự do và ý chí của chính họ, từ chối không chịu ngồi lên đầu nhân dân, thì mới mong có cứu chuộc được.
NQT

Source

Nhân chuyện Quê Choa, GCC bỗng nhớ đến 1 đoạn trong Đông Ki Xốt, do Manguel kể, trong A Reading Diary, và “phiếm”:

Don Quixote, trên đuờng hành hiệp, thấy 1 thằng bé bị chủ trói vô gốc cây, đánh đập tàn nhẫn. Hỏi, người chủ nói, nó bị đánh vì lười biếng, chứ không phải vì đòi tiền luơng chủ không trả. Don ra lệnh cỏi trói, và trả tiền lương cho thằng bé, thì chủ than, không mang theo tiền, chờ về nhà lấy. Thằng bé biết, nếu theo chủ về nhà, không có Don, thì từ chết đến bị thương.
Và đúng như thế, Don vừa lên ngựa đi, là thằng bé lại bị buộc vô cây ăn đòn tiếp.
27 chương sau đó, Don gặp lại thằng bé, và Người bèn khoe khoang với bàn dân thiên hạ, về vụ giải cứu, thằng bé năn nỉ Don, lần sau đừng làm chuyện như vậy nữa, nếu lại thấy nó gặp chuyện không may.
Anh bồi Sancho bèn tặng thằng bé 1 mẩu bánh mì, một miếng phó mát, trước khi từ giã, và nói, hãy cầm lấy, bởi vì cái sự rủi ro của mi, có phần trách nhiệm ở tụi này.
Manguel “phiếm”: Cái bất công, cái ác thì tràn lan, và chúng ta thì bất lực, không làm sao thắng nổi, đó là ‘vấn đề’.

Và ông kết luận bằng câu của Gide, khi nghe tin Gandhi bị ám sát:
“Như thể Chúa bị đánh bại”.
"It is as if God had been defeated."

Theo GCC, câu than của Gide, là đúng vào trường hợp nước Mít. Cả cuộc chiến đẹp đẽ như thế, đẻ ra lũ khốn kiếp như thế, chẳng đúng là Ông Giời bị đánh bại, là gì?

Tụi mày làm thịt tao rồi, bây giờ lại vái tao ư?

Hà, hà!


Thôi để tôi lấy ví dụ cụ thể để minh chứng cho cái sự sống được bằng văn cho anh nghe, như là Nguyễn Ngọc Tư…

Nguyễn Ngọc Tư là trường hợp đặc biệt. Ở dưới miền quê đó thì giống như một chiếc đũa trong bó tăm thì người ta mới để ý thôi chứ ngang ngang như Nguyễn Ngọc Tư ở TPHCM hay Hà Nội đầy nhưng có ai đụng tới đâu. Bởi nó không có chất đặc sản. Đó là nhu cầu của xã hội bạn ạ! Giá trị xã hội không phải là giá trị duy nhất. Đó là cái giá trị mà xã hội cảm thấy có thể lợi dụng được. Như bạn cũng thấy những người như Nguyễn Ngọc Tư ở nơi khác cũng có nhưng ở miền Tây tỷ lệ học vấn rất thấp, tự nhiên có một cô như thế thì họ đưa lên thôi. Thực sự càng về sau cô ấy viết ngày càng dở. Những cái hồn nhiên nhất, chắt lọc nhất thì ở lần đầu tiên rồi, sau này chỉ nối dài ra thôi.

Thế còn Nguyễn Quang Lập, có vẻ nhà văn này sống cũng khỏe lắm cơ mà!?

Tôi nghĩ thu nhập của anh Lập là viết báo thôi chứ không phải viết văn. Với quan hệ của anh ấy thì chỉ viết báo, kịch bản thôi chứ có thuần túy văn chương đâu. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có lần trả lời phỏng vấn rằng nhuận bút của ông ấy cả trong lẫn ngoài nước là 80.000 USD. Mà đó là nhuận bút của hai mươi mấy gần ba mươi năm rồi. Bạn chia ra xem thế thu nhập của ông ấy bao nhiêu? Đó là cái đỉnh của Việt Nam còn như thế thì những người khác làm sao mà sống được. Công ty tôi đang làm thuộc một tập đoàn rất lớn của Thụy Điển. Thụy Điển có mức sống rất cao. Nhiều lúc tôi nói đùa với những người Thụy Điển rằng nước của họ có phải là thiên đường không? Họ bảo Thụy Điển rất xã hội chủ nghĩa.. Tôi bảo chưa chắc, thiên đường là nơi con người ta sống được bằng sở thích…

Nguồn

Tình cờ, đang viết về Bọ Lập thì vớ được bài viết trên.
Anh TD này phán nhảm thật. Nhất là về Cô Tư. Cái này là do đố kỵ, và ấu trĩ.
Thiếu.... thiên lương nữa.
Đúng là không đọc được Cô Tư thật.

Một cây viết lương thiện, có thiên lương, không bao giờ phán ẩu về 1 tác giả khác. Những phán đoán của anh Thái Dúi này về Cô Tư, quá khốn nạn, bởi vì bản thân anh ta viết có ra cái gì đâu. Viết, theo nghĩa sáng tác, không phải trộ thiên hạ bằng ba thứ đọc điệc, trí thức trí thiếc. Những người hơn Cô Tư ở thành phố, là những ai? Ăn nhờ, kéo dài hào quang hồi đầu, như thế nào, phải chứng mình, phải dẫn chứng.
Nổ cho thật lớn, thì ai cũng làm được hết, nhưng 1 tác giả tự trọng không làm.
Bản thân GCC khi phán về ai, là có dẫn chứng, có thí dụ, không hề phán ẩu.

Hơn nữa, không thể dựa vào mức thu nhập để đánh giá 1 cây viết. Chính cái sự thành công về tiền bạc, về danh vọng, nếu có, của Cô Tư mới có vấn đề, bởi vì một số tác phẩm của cô, đa số độc giả không đọc tới, hoặc, nổi, trong có anh Thái Dúi.
Còn điều này cũng rất quan trọng, là văn phong.
Thái Dúi không viết nổi thứ văn đó.

Trong bọn đạo đức giả, mà tay viết VC Đông Bê kê ra, dưới đây, phải thêm tên Thái Dúi.

Bọn đạo đức giả

Báo chí đang định kết tội bộ phim ngắn "Hai phòng ngủ", đề tài tốt nghiệp của sinh viên điện ảnh, là phim nóng này nọ. Bộ phim này tôi đã xem và thấy là một bộ phim bình thường, cùng lắm là xếp loại phim không thích hợp cho trẻ em dưới 15 tuổi. Tôi chợt nhớ tới Thánh Thán và thấy rằng ở xã hội Việt Nam hiện nay có 2 loại người phải tuyệt đối cấm xem, đọc và bàn luận nơi công cộng các tác phẩm nghệ thuật: một là nhà báo và hai là công an văn hóa, tư tưởng, tuyên giáo. Đó là hai loại người chưa trưởng thành về nhân cách và thẩm mỹ. Toàn xã hội phải thật sự nghiêm khắc với hai loại người này bởi vì chính bọn chúng là nguyên nhân làm thui chột các tài năng nghệ thuật và sự phát triển nghệ thuật. Trong ứng xử xã hội nên coi hai loại người này dưới hạng gái điếm và trộm cắp. Các tác giả nghệ thuật nên đề trước tác phẩm của mình rằng tác phẩm này được làm ra cho tất cả mọi người thưởng thức trừ loại nhà báo và công an văn hóa, tư tưởng, tuyên giáo. Chỉ có làm như vậy thì nền nghệ thuật Việt Nam mới có hy vọng.

Thái Dúi là nick của một bạn tù VC của Gấu, hồi ở Phạm Văn Cội, Củ Chi. Khi GCC mượn nick này, là nhớ đến cái nick Thiệu - mà 1 anh bộ đội ở khu nhà Gấu, theo chính sách tam cùng của VC những ngày Quân Quản, tức ngay sau 30 Tháng Tư - đã đặt tên cho con chó của anh ta. Anh rất cưng con chó.
Anh TD này tưởng là Gấu chửi anh ấy, bèn gửi mail, viết, ông đúng là 1 tên vô học.

Cái gọi là đặc sản ở nơi Cô Tư, theo GCC cũng có vấn đề, và nó liên quan tới thẩm mỹ, cái “gu” ngửi ra nhanh 1 tác phẩm thuộc loại Thầy, một khi mà tác phẩm này vượt lên khỏi cái cảm quan đương thời về văn học. Ở nơi Thái Dúi, khi anh VC này coi Cô Tư là đặc sản, là… chê cô, nhưng với GCC, gọi Cô Tư là đặc sản thì lại liên quan tới cái gọi là thiên tài của nơi chốn, và thiên tài này bộc lộ ra, khi có 1 tai ương xẩy ra.
Kim Dung có nói nơi nào có tai ương, thì ở nơi đó có thuốc, nếu không chữa trị nổi, thì cũng làm dịu đi nỗi đau khổ.
Thí dụ, Faulkner, chẳng hạn, thiên tài này dính liền với cuộc nội chiến Nam Bắc của Mẽo. Không có cuộc chiến đó, chưa chắc đã có một thiên tài Faulkner.
Không có tai ương 1954, làm sao có TTT với cuốn Bếp Lửa?
Đó cũng là ý của câu thơ của Holderlin: Nơi nào có tai ương, nơi đó có cứu rỗi.
Hãy coi sự phá sản của thiên tài của nơi chốn của Miền Bắc, ở 1 ông như NHT là thấy ngay ra sự quan trọng của 1 Cô Tư của Miền Nam, và cái gọi là “kéo dài vinh quang”, ăn theo quá khứ những tác phẩm đầu của Cô.

Những nhận định của tay Thái Dúi về Bọ Lập cũng nhảm. Thái Dúi đâu có biết ‘sáng tác’ là cái gì, dù cũng bày đặt viết tiểu thuyết lịch sử!
Cái khó nhất của viết văn là bạn phải làm sao cho người đọc, đọc vài hàng thôi, là ngửi ra mùi văn của bạn. Nguyễn Quang Lập, khi mới xuất hiện, qua bài viết Cục Uất trên VHNT của PCL, là Gấu đã nhận ra, còn anh TD này có viết hoài thì Thái Dúi vẫn là Dái Thúi.

Alexander the Great

“What if we gave countries their freedom, then conquered them again?”
Hay là chúng ta cho tụi Ngụy tự do, rồi lại mở thánh chiến, để cứu… Đảng?


Beckett: Storming for Beauty
March 22, 2012
John Banville

Banville điểm “Thư Gửi Bạn Ta” của Beckett

Seventeen copies sold, of which eleven at trade price to free circulating libraries beyond the seas. Getting known.
—Krapp’s Last Tape

In 1969, when news came that her husband had been awarded the Nobel Prize for Literature, Suzanne Beckett is said to have exclaimed, “Quelle catastrophe!” She knew her man.

“Ever tried. Ever failed. No matter. Try again. Fail again. Fail better.”
Worstward Ho

Note: Cái tít này, Worstward Ho, NTV đã từng dịch là “Tiến Lên Tàn Mạt.”

Nhưng Ho, ở đây, làm liên tưởng đến Bác Hồ, và những tiếng la trên toàn thế giới, vào thời kỳ đó, "Ho, Ho, Ho!", và như thế, cái tít còn tiên đoán sự tàn mạt của xứ Mít.

Lạ thay là sự liên tưởng!
[To K. NQT]

« Đúng là 1 thảm họa », Gấu Cái than, khi GCC được Nobel.
Hà, hà!

Tôi muốn tình tôi

Je voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle qui crut m'aimer
Samuel Beckett

Bản tiếng Anh của chính tác giả:
I would like my love to die
and the rain to be raining on the graveyard
and on me walking the streets
mourning her who thought that she loved me

Bản của Gấu:

Gấu muốn tình Gấu chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
trên đường phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa khóc
người
tưởng
rằng người yêu Gấu

Beckett một thoảng nhớ
Tôi muốn tình tôi


*

GCC có gần như đủ sách truyện của ông này. Cuốn mới tậu gọn nhẹ, đi đâu dễ mang theo. Trong có bài về Kẻ Xa Lạ của Camus, GCC chưa được đọc!  

Thực sự, có hai lý do khiến GCC vồ liền cuốn của Vargas Llosa: Ngoài bài về Camus, còn 1 bài về Lolita. Đọc thoáng đã thấy đã, và có thể, còn làm giầu thêm, nhiều, cho 1 "BHD vs Lolita"  của GCC sắp xuất hiện trên Tin Văn.

Bởi vì cho đến bây giờ, chưa ai nhìn ra, Lolita, như 1 tuổi thơ Nga đã mất của Nabokov, như 1 BHD và xứ Bắc Kít của Gấu già!



Già mà vẫn còn nói dóc quá xá

Thursday, March 8, 2012 1:57 AM

FROM:

TO:

Tình cờ lang thang trên Google tìm tài liệu về Lolita, đọc được 1 câu từ trang Tin Văn:
"Bởi vì cho đến bây giờ, chưa ai nhìn ra, Lolita, như 1 tuổi thơ Nga đã mất của Nabokov, như 1 BHD và xứ Bắc Kít của Gấu già!"

Ông nói thế thì nói dóc quá xá. Cái ý đó có từ khuya rồi. Ông ít đọc mà ông lại coi trời bằng vung.
Ông thử gõ hàng chữ "lost childhood" nabokov lolita lên Google thì sẽ thấy ngay 12,100 kết quả.

Trên mạng bán sách Amazon ở Canada người ta cũng đã viết công khai:
"Humbert does not actually love Lolita herself, but he loves her for the fact that she resembles his lost childhood love"
http://www.amazon.ca/Lolita-Vladimir-Nabokov/dp/0679723161

Ở một trang mạng khác người ta cũng viết:
"Nabokov is at pains to point out that his sorrow is not for loss of his estate and fortune, but for the loss of his childhood"
http://www.ardis.co.uk/fiction/nabokov.htm

Hôm nay tôi đọc cuốn "Figurations of Exile in Hitchcock and Nabokov" của Barbara Straumann, ở trang 52 cũng có viết:
The nostalgia for a "perfect childhood" also underpins the refrigeration of exile as a loss of childhood in Speak, Memory (and in The Real Life of Sebastian Knight and Lolita).
Thôi đi ông. Già rồi, hết chuyện gì làm hay sao mà nói dóc quá xá vậy?
A.L
[Canada]

Phúc đáp:

Cám ơn bạn. Đúng như bạn viết, đây là do ít đọc, coi trời bằng vung, chứ không phải là nói dóc.
Sự thực, Gấu chỉ tính nói đùa.
Bởi vì, trên TV đã từng viết về Nathalie Sarraute, và cái tuổi thơ Nga đã mất của Bà, và cái ý nghĩ tuổi thơ đã mất của Nabokov, là Gấu “thuổng” từ đó. (1)
Chưa kịp viết ra thì đã được bạn nhắc nhở.
Đây cũng còn là do ỷ y. Giả như vô Google thì đã biết rồi.
Trân trọng

NQT

(1)

Kỷ Niệm

Đọc số báo đặc biệt về Đứa bé & Nhà văn, [Phụ trang văn học của tờ Le Monde], Gấu thấy Gấu, ở trong thằng bé chưa thành nhà văn Camus: cũng có một ông bố bỏ đi mất tiêu. Số phận ông bố của Camus thì quá rõ ràng, ông tử trận. Còn ông bố của Gấu thì bị một đấng học trò thủ tiêu, nhưng thực sự ra sao, thì chẳng ai hay. Thế rồi Gấu lại thấy tuổi thơ của mình sao giống của ‘em’ Nathalie Sarraute, bị một miền đất chôm mất!

Đọc, bồi hồi nhận ra, hình dáng trong trí tưởng tượng về một BHD, là từ cái tuổi thơ bị Miền Bắc giam cầm đó.
Một cách nào đó, có thể nói, BHD bước ra từ cái bóng của… Lolita.

1989. Trong một bài viết ở phía sau tác phẩm, Nabokov kể lại, phút hạnh ngộ giữa ông và cô bé kiều diễm, thời gian ông bị những cơn đau đầu thường trực hành hạ. Và một thoáng nàng - la palpitation de Lolita - đã lung linh xuất hiện, khi ông đang đọc mẩu báo, thuật câu chuyện về một nhà bác học đã thành công trong việc dậy vẽ cho một chú khỉ ở một vườn thú. "Tác phẩm đầu tay" của "con vật đáng thương" là hình ảnh mấy chấn song của cái chuồng giam giữ nó.
Trong chuyến đi dài chạy trốn quê hương, trong mớ sách vở vội vã mang theo, tôi thấy hai cuốn, một của Nabokov, và một của Koestler. Tôi đã đọc Darkness at Noon" qua bản dịch "Đêm hay Ngày" do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất bản cùng một thời với những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng vô tình đánh dấu cuộc di cư vĩ đại với gần một triệu người, trong có một chú nhỏ không làm sao quên nổi chiếc chuồng giam giữ thời ấu thơ của mình: Miền Bắc, Hà-nội.
Lần Cuối Sài Gòn
*
Khi gặp BHD, Gấu nhận ra liền, tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà quê, thấp thoáng ở trong dáng đi, nụ cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng với chiếc răng khểnh của Em, là vậy.
Ngoài ra, còn là nỗi ước mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của Gấu!
Hà, hà!
Nhưng, bằng cách nào mà BHD lại ‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu, và vừa đi vừa ngoái lại, lắc đầu:
Mi đâu có thương yêu gì ta! Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta đời thuở nào, và Hà Nội của mi ở trong con bé con đó!
Khủng khiếp nhất, là, kể từ khi Gấu lấy một em miệt vườn làm vợ, cái xứ Bắc Kít trả thù mới tàn bạo làm sao: Ta nguyền rủa đời mi, hễ cứ gặp bất kỳ một em Bắc Kít, là khốn khổ khốn nạn, là bấn xúc xích, là đều nhìn thấy một BHD của mi ở trong em đó!
*
Un Exil Fondateur
Một Lưu vong, Trùm.
Dans toute l'œuvre de Nathalie Sarraute résonne sa jeunesse russe qui lui fut volée.
Trong tất cả tác phẩm của Nathalie Sarraute vang vọng lên tuổi trẻ Nga của bà, bị chôm mất!

Ui chao, không lẽ đây là BHD?
Alors, cette petite fille a un réflexe très étrange: elle tue sa mémoire. On lui a volé son pays, eh bien, elle tue les souvenirs de son pays. C'est fini pour elle. Elle est morte, haute comme trois pommes.
Và nàng có một phản ứng thật lạ: nàng làm thịt hồi ức của nàng. Người ta chôm mất của nàng một xứ sở, vậy thì nàng làm thịt tất cả những kỷ niệm về miền đất đó!
*
Un Exil Fondateur
Dans toute l'œuvre de Nathalie Sarraute résonne sa jeunesse russe qui lui fut volée.

Il était une fois Nathalie Sarraute. Il était cette petite fille, le front droit, les yeux attentifs, Nathalie, quelque part en Russie.
Le début du siècle. Sa Russie est là, de tous les côtés, autour d'elle. Par-dessus la barrière de bois peinte en vert et les gros soleils aux pétales jaunes et aux graines noires, il y a, dans la maison de bois découpé comme une dentelle, derrière la fenêtre aux rideaux très blancs, un chat noir qui ne dort pas, mais qui fait semblant, et, dans une grosse bonbonne sombre transparente, la confiture de fraises, les fraises ronndes ou pointues nagent, aussi netttes que des billes, dans le sirop rouuge. Sous les rayons penchés du soir, la couche de neige bleu et rose est l'édredon qui garde au chaud l'herrbe de la route, parce que la route, à Ivanovo, n'est pas de pavés ni de terre, mais tout en herbe.
Dans la maison, aux murs faits de troncs d'arbre tout ronds et gris posés les uns sur les autres, plane un silence d'une qualité inoubliable, un silence poudreux, céleste, et sur ce silence, les paroles se posent en douceur, comme en secret: «Mam, gdié ? .. », «Vot, tak ... », « Potchimou ... » ...
Et, d'un coup d'un seul, la petite fille se retrouve dans la chambre sans vie, sans couleur, d'un appartement, dans une rue qui n'a pas le moindre caractère, à Paris. Les sons y cassent les oreilles.
Alors, cette petite fille a un réflexe très étrange: elle tue sa mémoire. On lui a volé son pays, eh bien, elle tue les souvenirs de son pays. C'est fini pour elle. Elle est morte, haute comme trois pommes.
Mais elle est là, encore, avec son front droit et ses yeux attentifs, assise par terre, jambes repliées, dans un coin de la chambre noire et, comme rappelle Nathalie Sarraute qui aime bien les phrases toutes faites parce qu'elles sont plus humbles, «petit poisson deviendra grand ».
A partir de ce jour-là, la petite fille dépaysée, dépossédée, l'enfant déportée, se ferme presque une fois pour toutes à plusieurs franges d'ondes, plusieurs franges de sensations. Elle ne perçoit plus les gens, les choses de la vie que dans un vide de limbes, fantomatique. Et, désormais, un seul «phénomène» va lui parvenir, va l'atteindre, la toucher, la blesser, la surprendre: c'est les mots qu'elle entend. Les mots qui sont dits près d'elle.
Tout se passe comme si ces paroles « précipitaient» en elles-mêmes, agglutinaient en elles-mêmes, phagocytaient l'ensemble des autres sensations visuelles, tactiles, gustatives, et même auditives, que Nathalie Sarraute s'interdit, dont elle se prive volontairement puisqu'on l'a privée de ses confituures de fraises et du chat noir dans la fenêtre, de sa neige rose et bleu et du silence de son isba.
Ce ne sont pas les mêmes paroles. Ce n'est pas du russe, c'est du français. Ce sont des mots plus secs, aux arêtes plus coupantes, et lui chantent moins. Et ces paroles tombent de partout, montent de partout, comme si les gens, ici, ne savaient vivre que par elles, aller et venir que par elles, se sentir être que par elles. Nathalie est révulsée et aimantée par ces paroles, qui occupent le champ entier de ses facultés perceptives.
Il faut bien reconnaître que l'une des choses les plus étonnantes de la vie, c'est lorsque vous surprenez, dans la rue, dans un autobus, dans un café, deux personnes qui parrlent, qui parlent d'affilée, sans pause, de n'importe quoi, comme des machines, sans presque s'écouter l'une l'autre, comme si le nœud crucial, le nerf central du corps humain, et de la conscience, c'était ça : produire à tout prix des mots, et avoir à portée de la main quelqu'un pour les écouter. Comme si les paroles, même creuses, même inutiles et nulles, existaient plus que les personnes, avaient pris leur place, ici bas.
Et il y a, partout, sans cesse, mille autres situations, mille autres emplois, des paroles: les paroles de piège, de tentative d'investissement, de blessure maligne, de farfouillage indiscret ...
A lire Nathalie Sarraute, oui, nous saisissons mieux qui nous sommes, et comment nous nous y prenons pour nous débrouiller dans nos jours. Mais, avant tout, nous tombons sous l'emprise de la voix unique de Nathalie Sarraute, une voix plutôt lente, plutôt calme, d'un rythme assez régulier, comme si elle «parlait pieds nus» dans un chemin de campagne, épousant les formes vivantes du sol.
Il semble pourtant que l'emprise de la voix de Nathalie Sarraute, il semble, disons carrément les choses, que notre amour de Nathalie Sarraute, tienne à une autre raison: c'est que dans chaque page, dans la plus petite page qu'elle écrit, se serrent, blottis, muets, tremblants, bruissants, souriants ou en larmes, tous les souvenirs qu'elle a tués, toute cette enfance qui lui fut volée, et que, même dans son livre nommé Enfance, elle n'a pas dite. Chaque fois que Nathalie Sarraute aura desserré les lèvres, elle les aura gardées fermées sur un secret, sur la plus grande souffrannce. Chaque fois qu'elle a parlé, elle s'est tue.
MICHEL COURNOT (23 juillet 1986)

Source

Gấu già, sắp xuống lỗ, sau khi BHD đã bỏ đi xa, không chỉ một, mà tới hai lần, vào một lúc thất thần, [xuất thần thì cũng rứa], bỗng giải ra được cái nghi án, tại làm sao mà vào phút cuối cùng bỏ chạy quê hương [Sài Gòn], lại cố mang theo cuốn Lolita của Nabokov.

Il était une fois Nathalie Sarraute. Il était cette petite fille, le front droit, les yeux attentifs, Nathalie, quelque part en Russie.

Ngày xưa có cô bé BHD, có vầng trán thông minh, có làn da đen nhẻm, có chiếc răng khểnh, có cặp mắt nhìn tra hỏi, tại làm sao mà mi yêu ta, mà đúng là mi yêu ta, nhìn cặp mắt lé của mi là ta biết liền…

Hà, hà!


Alexander the Great

“What if we gave countries their freedom, then conquered them again?”
Hay là chúng ta cho tụi Ngụy tự do, rồi lại mở thánh chiến, để cứu… Đảng?

Có lẽ chưa bao giờ trong xã hội Việt Nam sự hấp dẫn giới tính của người phụ nữ được tinh giản thành công về hai bộ phận cơ thể, chân và ngực, như bây giờ.

PTH

Thú thực GCC không ngửi được câu văn trên.
Sự hấp dẫn giới tính là cái quái gì?

Văn của bà này rất độc, theo GCC.
Lạnh và độc.
Mấy bài mở blog của bà, chửi VC mà chẳng độc sao?

Khác hẳn GCC.
Hà, hà!

GCC chưa hề viết độc về VC.
Không lạnh, không độc, không thù, không hận, nhưng cay đắng, thì có.
Thê lương, cũng có.

Câu văn trên, ít ra viết như vầy:

Chưa bao giờ trong xã hội VN, cái đẹp cơ thể của người phụ nữ lại được đẩy lên đến cực điểm như bây giờ, nhất là ở hai bộ phận, chân và ngực [trật tự của hai từ này thì còn tùy].

Theo GCC, đây là sự thái quá của bây giờ, so với ngày xưa: Vào thời kỳ chiến tranh, phụ nữ Bắc, do phải thồ hàng nặng quá, nên người cứ lùn tịt xuống, mất cả ngực lẫn chân.

Tởm nhất, là mỗi lần Sến phán, là cả một lũ thi nhau hít hà, đăng đi đăng lại, blog này blog nọ.


Hoa cho Bùi Hằng

Cái bài viết của ông nhà văn Quê Choa đang được hải ngoại, trong có Bi Bì Xèo, bộ lạc Cờ Lăng, diễn đàn Hậu Vệ... khen nức nở, dởm, theo GCC.

Dởm nhất, là ở điểm này:
Tác giả sợ VC quá, sau khi viết lại càng sợ, bèn đóng cửa tiệm, viện lý do "cơm áo không đùa với khách thơ".

Nhưng, điều này mới khốn nạn, thay vì ông ta, và những phần tử tinh anh của Bắc Kít, Trung Kít… như ông, quay mặt nhìn vào lăng Bác Hồ, và sau đó điểm mặt Bắc Bộ Phủ, chúng ông sẽ cho tụi bay 1 trận, thì ông ta… nhờ, vái... Ông Giời:

Trời đã thấy rất rõ điều đó. Họ có thể coi khinh sự phỉ nhổ của nhân dân nhưng họ không thể không sợ trời. Và nhất định trời sẽ cho họ một hậu vận thảm hại. Nhất định là như thế, lưới trời lồng lộng, họ làm sao mà chạy thoát.  Chị hãy tin như vậy đi và hãy nở một nụ cười.

Một lũ vô thần mà kêu Ông Giời, tiếu lâm như thế, chửi bố thiên hạ như thế, mà cũng khen um lên.
Kêu Ông Giời, thì cũng có nghĩa là chịu thua lũ ác, đành để cho nó muốn làm gì thì làm.
Nhè VC mà phán, chúng không thể không sợ trời!


Hannah Arendt đã từng cảnh cáo đám “vừa đéo vừa run” [xin lỗi nói tục, vì ông này nổi tiếng trên chốn giang hồ do & nhờ viết tục] như ông Quê Cha này rồi:

 
Salvation or Ruin?
Cứu Rỗi hay Điêu Tàn? 

Trong một xã hội tan rã, một khi thế hệ trẻ mù lòa đi theo chân lý muôn đời, hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu nhân dân, tai ương thảm họa là điều không thể tránh khỏi, và được báo trước. Nhưng chính cứu rỗi, chứ không phải điêu tàn mới là điều "tới mà chẳng ai biết trước, chẳng ai trông chờ, chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính nó, chứ không phải điêu tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con người. 

[Mô phỏng Hannah Arendt, trong Franz Kafka: A Revaluation, trong Essays in Understanding 1930-1954, nhà xb Schocken Books, New York: In a dissolving society which blindly follows the natural course of ruin, catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin, comes unexpectedly, for salvation and not ruin depends upon the liberty and the will of men]. 

Chỉ một khi thế hệ trẻ, tốt nghiệp Harvard, trở về nước, bằng tự do và ý chí của chính họ, từ chối không chịu ngồi lên đầu nhân dân, thì mới mong có cứu chuộc được.
NQT

Source

Nhân chuyện Quê Choa, GCC bỗng nhớ đến 1 đoạn trong Đông Ki Xốt, do Manguel kể, trong A Reading Dary, và “phiếm”:

Don Quixote, trên đuờng hành hiệp, thấy 1 thằng bé bị chủ trói vô gốc cây, đánh đập tàn nhẫn. Hỏi, người chủ nói, nó bị đánh vì lười biếng, chứ không phải vì đòi tiền luơng chủ không trả. Don ra lệnh cỏi trói, và trả tiền lương cho thằng bé, thì chủ than, không mang theo tiền, chờ về nhà lấy. Thằng bé biết, nếu theo chủ về nhà, không có Don, thì từ chết đến bị thương.
Và đúng như thế, Don vừa lên ngựa đi, là thằng bé lại bị buộc vô cây ăn đòn tiếp.
27 chương sau đó, Don gặp lại thằng bé, và Người bèn khoe khoang với bàn dân thiên hạ, về vụ giải cứu, thằng bé năn nỉ Don, lần sau đừng làm chuyện như vậy nữa, nếu lại thấy nó gặp chuyện không may.
Anh bồi Sancho bèn tặng thằng bé 1 mẩu bánh mì, một miếng phó mát, trước khi từ giã, và nói, hãy cầm lấy, bởi vì cái sự rủi ro của mi, có phần trách nhiệm ở tụi này.
Manguel “phiếm”: Cái bất công, cái ác thì tràn lan, và chúng ta thì bất lực, không làm sao thắng nổi, đó là ‘vấn đề’.

Và ông kết luận bằng câu của Gide, khi nghe tin Gandhi bị ám sát:
“Như thể Chúa bị đánh bại”.
"It is as if God had been defeated."

Theo GCC, câu than của Gide, là đúng vào trường hợp nước Mít. Cả cuộc chiến đẹp đẽ như thế, đẻ ra lũ khốn kiếp như thế, chẳng đúng là Ông Giời bị đánh bại, là gì?
Tụi mày làm thịt tao rồi, bây giờ lại vái tao ư?

Hà, hà!


Can Hollywood tell the truth about the war in Bosnia?

Angelina Jolie's In the Land of Blood and Honey was bound to draw controversy when people still live in denial

In the Land of Blood and Honey – review

Liệu có, chỉ 1 tên VC, dám nói sự thực về cuộc chiến Mít? Có vẻ như đây cũng là 1 đề tài cho đám làm phim Mít

“The clarity of everything is tragic”
Witold Grombrowicz
Sự sáng tỏ của mọi điều, mọi vật thì bi thương.
All memory is individual, unproductive – it dies with each person. What is called collective memory is not remembering but a stipulating: that this is important and this is the story about how it happened, with the pictures that lock the story in our minds…
Susan Sontag
Mọi hồi nhớ thì có tính cá nhân, không sản xuất - nó chết cùng với mỗi con người. Thứ hồi ức tập thể, là thứ được nhà nước nhào nặn, không phải là tưởng nhớ, hồi nhớ....
Charles Simic trích dẫn, trong Archives of Horror, điểm cuốn Nhìn Nỗi Đau của Kẻ Khác, Regarding the Pain of Others, của Susan Sontag.
Bài viết của Simic, là cũng nằm trong cùng 1 dòng với phim của Angelina Jolie.
Nhân dịp cuốn phim ra lò, TV scan, giới thiệu bạn đọc, và sẽ chuyển ngữ sau.


Ghi chú về định nghĩa về 1 vị độc giả lý tưởng
The ideal reader holds, for a book, the promise of resurrection.
Robinson Crusoe is not an ideal reader. He reads the Bible to find answers.
An ideal reader reads to find questions.
Độc giả lý tưởng ôm khư khư cuốn sách hy vọng 1 lời hứa tái sinh
Lỗ Bình Sơn không phải là 1 độc giả lý tưởng. Anh ta đọc Thánh Kinh để tìm câu trả lời.
Một độc giả lý tưởng đọc để tìm câu hỏi.




*


Alert: Thành phố Toronto đang đợi bão tuyết
9:18 PM, 23.2.2012

May quá, thoát bão!
A winter storm that was expected to cover the Greater Toronto Area with a blanket of fresh snow Friday arrived late and didn't deliver the blow it promised.
Một trận bão tuyết tính trùm lên Đại Thủ Phủ Toronto, may sao, tới muộn, và quên không thực hiện lời hứa…
Tuyết đang xuống mù trời!

*

Les philosophes face au nazisme

Triết vs Nazi

Que la patrie de Kant et de Nietzsche, de Hegel et de Husserl, ait pu bâtir la machine de mort nazie pose encore des questions philosophiques qui n'ont pas trouvé toutes leurs réponses. Comment les philosophes ont-ils interprété le nazisme ?

Rằng, sự kiện, quê hương của những đấng Kant, Nietzsche, Hegel, và Husserl có thể xây dựng cái nhà máy tử thần Nazi, thì vẫn còn làm đẻ ra nhiều câu hỏi triết học mà chưa có câu trả lời.
Những triết gia cắt nghĩa chủ nghĩa Nazi như thế nào?

Căng thiệt.
Tình cờ làm sao, GCC có câu trả lời, của Alberto Manguel, trong cuốn vừa mới tậu hôm qua, 22 Tháng Hai, 2012: Độc giả lèm bèm về đọc. A Reader on Reading.
Đúng ra, 1 bài viết.

Điệp Viên của Chúa

"They're putting down their names," the Gryphon whispered
in reply, "for fear they should forget them before the end of the trial."

Alice’s Adventures in Wonderland, Chapter II

AS OUR READING TEACHES US, our history is the story of a long night of injustice: Hitler's Germany, Stalin's Russia, the South Africa of apartheid, Ceausescu's Romania, the China of Tiananmen Square, Senator McCarthy's America, Castro's Cuba, Pinochet's Chile, Stroessner's Paraguay, endless others form the map of our time. We seem to live either within or just on this side of despotic societies. We are never secure, even in our small democracies. When we think of how little it took for upright French citizens to jeer at convoys of Jewish children being herded into trucks, or for educated Canadians to throw stones at women and old men in the reservation of Oka when the natives protested the building of a golf course, then we have no right to feel safe.
The trappings with which we rig our society so that it will remain a society must be solid, but they must also be flexible. That which we exclude and outlaw or condemn must also remain visible, must always be in front of our eyes so that we can live by making the daily choice of not breaking these social bonds. The horrors of dictatorship are not inhuman horrors: they are profoundly human - and therein lies their power. "There is a remedy in human nature against tyranny," wrote optimistically Samuel Johnson, "that will keep us safe under every form of government." And yet any system of government based on arbitrary laws, extortion, torture, slavery lies at a mere hand's grasp from every so-called democratic system.

Những điều ghê rợn của độc tài, chuyên chế, chuyên chính, toàn trị... không phải là ngoại con người, ngoài hành tinh, thuộc hành tinh khác, thuộc hành tinh tro…. Chúng hoàn toàn là của con người, từ con người mà ra - và cũng từ con người mà ra quyền năng của chúng. Nhưng có một thứ thuốc chữa ở trong bản chất, ở trong tính tự nhiên của con người, chống lại bạo chúa, bạo tàn, độc tài... nhờ  nó mà con người được an toàn dưới bất cứ 1 hình thức chính quyền nào...

Kim Dung cũng phán như thế: Ông kể về 1 xứ Bắc Kít, ở đó lạnh lắm, con người, không có quần áo, thì bèn lấy rơm để đắp. (1)
GCC từ đó đề xuất, thay vì cái đẹp, như Dos phán, thì là cái đói, sẽ cứu chuộc nhân loại!

(1)

Kim Dung cho rằng thiên nhiên khi "bịa đặt" ra một tai ương, thường cũng bịa đặt ra một phương thuốc chữa trị nó, quanh quẩn đâu gần bên thảm họa. Ông kể về một thứ cỏ chỉ có ở một địa phương lạnh khủng khiếp, và người dân nghèo đã dùng làm giầy dép. Những người dân quê miền Bắc chắc không thể quên những ngày đông khắc nghiệt, và để chống lại nó, có ổ rơm.



*

Vietcong Execution, Saigon, 1968
Photo by Eddie Adams

Note: Bài này tháng nào cũng "top", theo server.

Bài viết của Horst Faas, Trưởng phòng hình ảnh AP về vụ Tướng Loan xử bắn VC trên đường phố Sài Gòn.
Gấu post, và quên dịch ra tiếng Việt, bữa nay đọc, hóa ra ông còn viết về Gấu nữa, đúng hơn, về công việc gửi hình của Gấu, khi làm cho UPI.
Ông còn giải ra 1 “nghi án”, về người cứu Loan, khi bị VC hăm làm thịt, sau khi xử Bẩy Lốp. Ông bị  1 tay VC chuyên bắn sẻ, bắn què cẳng, và tay này tính "kết liễu" Loan thì ông được 1 tay ký giả người Úc, Pat Burgess, cõng, cứu thoát.
Gấu khi còn làm trên Đài VTD, có nghe 1 tay ký giả Pháp, làm cho AFP, nói với Gấu, chính anh ta cứu Loan.
Hoá ra không phải.
Faas viết, vào những ngày đó, gửi 1 tấm hình là mất 20 phút, và thường phải lập lại [in those days it took 20 minutes to transmit a single photo, which often had to be repeated].
Chính xác là 15 phút. Và thường phải lập lại, nếu thời tiết xấu, vì gửi bằng phương pháp vô tuyến điện.
So với bây giờ, chỉ cần giơ cái điện thoại, bấm 1 phát, là xong, không phải 1 pose, mà cả 1 “You Tube”!

*

Gấu đang gửi Radiophoto cho UPI.
Bên cạnh là ông Hưng, AP Radiophoto operator.
Đài Liên Lạc VTĐ thoại quốc tế, số 5 Phan Đình Phùng, kế bên Đài Phát Thanh Sài Gòn.
Bức hình trên sau 1975 đã được gửi tới văn phòng ODP tại Bangkok, để xin đi Huê Kỳ, theo diện nhân viên Mẽo.

Hình chụp thời gian viết “Cõi Khác”:  

Đau khổ nhất là những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày tháng ngây ngô bên mớ máy móc, nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành phố xa lạ phía bên ngoài địa ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao, trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng mình sợ hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang cùng ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không còn chỗ để ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người Nhật, người Mỹ, hai gã chuyên viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất nước này hay không, chỉ muốn la lớn tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế giới, cả loài người đều nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.

Nhìn tấm hình, Gấu nhớ ra là, khi đó, cái tay trái còn chưa sử dụng OK. Như vậy là chụp sau cú ăn mìn VC ở Mỹ Cảnh, 1965

Bài viết của Faas, Gấu thấy trên trang báo điện tử của Dirck Halstead, TheDigitalJournalist, Sếp UPI đầu tiên của GCC.
Cái sự có địa chỉ của Me-xừ Dirck này thì cũng thú vô cùng, GCC hình như cũng đã nói rồi.
Mười năm làm cho UPI là 1 thời gian dài, lại vào những năm cuộc chiến không còn hứa hẹn mà ngày ngày bầy ra những điều khủng khiếp, bây giờ đi 1 đường hồi tưởng thì cũng "ấn tượng" lắm nhe!
Khi Gấu làm cho UPI, ngoài AP ra, chưa có hãng tin nào có văn phòng hình ảnh. GCC chưa có sếp. Hãng có hình, cho người mang lên Đài, là Gấu bèn gửi, cuối tháng xuống hãng lấy tiền. Chừng đâu một, hai tháng sau đó, Dirck mới qua Sài Gòn.

Gấu có cái job UPI là nhờ Nguyễn Thành Tài, một nhiếp ảnh viên của UPI.
Anh thấy AP có ông Hưng, bèn giới thiệu Gấu với UPI. Mà Gấu hồi đó, quá tệ, cũng chẳng biết ám ơn anh gì cả.
Không biết thật. Không biết cả chuyện anh giới thiệu nữa. Anh chẳng thèm nói. Nhờ chị Linh, nữ điện thoại viên mạch Paris cho Gấu hay mà cũng mãi sau này.

Khuynh hướng lúc đó là mướn nhân viên Bưu Điện, vì máy móc cũng để ở Bưu Điện, nhân viên điều hành thì cũng họ, như vậy dễ dàng, tiện lợi cho hãng. Ông Hưng cũng là dân Bưu Điện, bên Bưu Vụ, không phải VTD, nhưng bị Bưu Điện cho về vườn, sau khi ông bị an ninh bắt, vì có người tố là VC nằm vùng.

Vì là dân Bưu Vụ, cho nên ông thực sự không rành việc gửi hình. Thường ông để mức tín hiệu tối đa, cho chắc ăn, nên hỏng cẳng, bởi là vì tín hiệu tối đa, thì nhiễu, noise, cũng tối đa theo. Phải dân VTD như GCC thì mới biết điều chỉnh, sao cho tín hiệu tối đa, mà nhiễu tối thiểu. Vì hình UPI luôn luôn đẹp hơn hình AP khi xuất hiện trên mặt báo chí quốc tế, nên lúc đầu Faas nghĩ thằng "chuyên viên trẻ" chơi xấu. "Jeune Technicien" là nick ông gọi Gấu. Ông Hưng và sếp nói chuyện với nhau bằng tiếng Tây, vì ông Hưng không biết tiếng Anh. Faas bèn kêu 1 tay chuyên viên từ Tokyo qua, lên Đài ăn ngủ với Gấu cả hơn 1 tháng, cỡ đó, để chỉnh máy, và đồng thời căn chừng Gấu. Nhưng cái tay Isawas, -Gấu còn nhớ tên - hóa ra lại khoái Gấu quá, nhất là cái khoản nói tiếng Tây, đọc sách Tây, và đọc Faulkner, tếu thế. Anh là độc giả đầu tiên truyện ngắn Lan Hương, do Gấu dịch qua tiếng Anh, vừa dịch bằng miệng, vừa dùng tay để diễn tả thêm. Phục ra mặt!
Khi về Tokyo tiếc nhớ hùi hụi những ngày ở Sài Gòn!

Ra hải ngoại, Gấu mới hỡi ơi về cái chuyện Cô Tú là nhân viên AP.
Gấu đến AP hoài, mà không hề để ý đến Cô Tú.
Tiếc hùi hụi!

Hình như để bù trù cho cái sự “ngu ngơ mù lòa” [Bạn phải đọc Kim Dung thì mới “cảm” cái ý này, Kiều Phong chỉ vờ không nhìn Đại Ma Nữ mà biến thành thân tàn ma dại]: Cô Tú là nhà thơ Mít đầu tiên ở hải ngoại GCC được đọc, và bèn đi 1 đường "vinh danh": người tình của Cô là tiếng Việt, và đây cũng là luật bù trừ với nhà thơ.

Vì lời vinh danh Cô Tú mà GCC bị ông chủ báo HL "cà khịa", thơ “luân lý giáo khoa thư” mà cũng khen um lên như thế, không sợ mất tiếng nhà phê bình, tên "sa đích văn nghệ" NQT ư?

Hà, hà!

Cái mail của Dirck, lần gặp lại trên net.

From:
Date: Thursday, July 21, 2005 11:36:18 PM
To: Nguyen_Quoc_Tru
Subject: Re:
It's wonderful to hear from you Tru. How are you?
We missed you at the reunion in Saigon in May.

Tiibute to Châu Văn Nam

Gide, khi viết về Dos, đưa ra câu khủng: Tác phẩm lớn có sự đóng góp của Quỉ.
GCC chôm câu này, phán về "Cuộc Tình Trong Ngục Thất", của Nguyễn Thị Hoàng, có sự đóng góp của con quỉ chiến tranh trong câu chuyện 1 em Mít lặn lội xuống địa ngục cứu chồng.

V/v Luật bù trù. Có lẽ phải phán như vầy: Cũng sống sót cuộc chiến, nhưng GCC bị Cái Ác BK cắn trúng, còn Cô Tú thì lại được ân sủng:

"Ba mươi năm ở Mỹ làm được dăm bài thơ, viết được vài truyện ngắn. Lập gia đình vốn liếng được ba đứa con (2 trai, 1 gái: các cháu 22, 20, 19), một căn nhà để ở.... lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là người giầu có lắm.... trong túi luôn có một bài thơ đang làm dở. Thấy Trời rộng lượng với mình quá. Mấy chục năm trước Trời có lấy đi nhà cửa người thân. Bây giờ Trời lại đền bù. Còn quê hương thì lúc nào cũng thấy ở trong tim, chắc khó mà mất được..."

Source


In sách, gặp những trường hợp như thế này là sung sướng nhất, là khoái cảm của nghề nghiệp :p (Roland Barthes nói đến khoái cảm văn bản, le plaisir du texte, thì cũng có khoái cảm đọc trước hehe). Trường hợp này cụ thể là: những nhà văn không đặc biệt nổi tiếng, không phải nói đến tên một cái là độc giả văn học thông thường thích tìm hiểu biết ngay được là như thế nào, nhưng lại là những nhà văn đặc biệt giỏi, những người viết ra những thứ kinh dị huy hoàng.
Tập truyện ngắn Runaway của Alice Munro có một truyện theo lối suy tư về Shakespeare và bi kịch vô cùng cao thủ, không thể tưởng tượng nổi.
Tại sao người ta có thể viết được truyện ngắn đến mức như thế? Điều này chẳng hiểu nổi. Tôi đã rất cố gắng đọc thật kỹ Con thuyền của Nam Lê, và không thấy nổi tại sao nó lại được "highly acclaimed" như thế. Đó không phải là tài năng, đó là sự khéo léo, sự khôn ngoan trong chọn lựa. Điều đó tôi cũng thấy ở những người như Dao Strom, Monique Truong hay Lê Thị Diễm Thúy. Điều gì làm cho cũng những người qua Iowa như Yiyun Li viết được như thế, mà Nam Lê không được như thế?
Blog NL

Alice Munro là 1 tên tuổi lớn, độc giả bình thường và trong nước ít nghe về bà, nhưng với giới chuyên môn, bà là một tác giả viết truyện ngắn cự phách, và đã từng đoạt Man Booker.
Tuy nhiên, vấn đề mà GCC muốn nêu ra ở đây là, trí thông minh, “đoán trước những gì sắp xẩy ra ở trong 1 cuốn tiểu thuyết”, thí dụ, liệu có phải là 1 khí cụ để đánh giá một tác giả, hay tác phẩm của người đó?

Giả đúng như thế, thì, truyện trinh thám là dạng văn học số 1.
Đây là quan điểm của 1 số người, trong có cả Borges, nếu GCC nhớ không lầm.

Truyện ngắn của Borges, đa số đều giống như 1 truyện trinh thám. Cái truyện thần sầu của ông Phép Lạ Bí Ẩn mà chẳng khủng ư. Làm sao mà độc giả đoán ra nổi?

Quái 1 cái là, Borges gần như tiên đoán được cái thứ văn học Miền Nam sau 1975, và tất nhiên thứ kéo dài ở hải ngoại: Chỉ là "một năm" mà 1 anh nhà văn Ngụy xin Thượng Đế, để hoàn thành tác phẩm!

“Anh đã xin Thượng Đế cho anh một năm để hoàn thành tác phẩm: Quyền năng vô hạn của Người đã bảo đảm điều này. Vì anh, Thượng Đế đã hoàn thành một phép lạ bí ẩn: Sự thắng thế, dẫn đầu của đối thủ Đức sẽ giết anh, ở một giờ giấc nhất định, nhưng trong tư tưởng của anh, một năm đã qua đi, giữa lệnh bắn của viên đội, và cuộc hành quyết. Hoang mang, anh đi tới ngỡ ngàng; từ ngỡ ngàng tới cam phận, từ cam phận tới lòng tri ân bất ngờ.
Phép Lạ Bí Ẩn

GCC đã từng kể, về lần đi Montreal với NTV ghé thăm 1 ông bạn của anh, tay này chuyên về phim, trong bữa nhậu, GCC do hơi rượu bèn nói phét, phim ảnh Hồ Ly Út, chỉ cần coi nửa phim là GCC biết kết cục. Tay này bực quá, bèn lôi ra 1 phim ra. GCC coi, toát cả mồi hôi, tỉnh cả rượu, nói, thua, tôi không làm sao đoán ra cái kết cục của phim.

Đó là phim chuyển thể truyện ngắn chàng Hôi Chi cụt tai

Sau đó, Gấu kiếm truyện ngắn để đọc, thì mới ngớ người: Cái kết cục của phim khác hẳn kết cục của truyện.
Có 1 cái gì đó của Phép Lạ Bí Ẩn ở trong cái kết luận của phim.

Anh chàng Hôi Chi giỏi đàn, và được đám oan hồn Ngụy đêm đêm vời đi hát, vừa hát vừa kể lại cuộc chiến.
Sư phụ ngôi chùa Hôi Chi trú ngụ bèn sai người dùng bút vẽ lên khắp người Hôi Chi bản kinh trục quỉ, nhưng quên hai cái tai.
Quỉ Ngụy tới, không thấy Hôi Chi mà chỉ thấy hai cái tai, bèn vặt đem về trình.
Từ đó Hôi Chi biến thành anh chàng Hôi Chi cụt tai.
Truyện chỉ có vậy. Nhưng phim mới bảnh.
Ngay ngày hôm sau, giữa ban ngày ban mặt, cả 1 đoàn oan hồn Miền Nam xuất hiện, tới nghe Hôi Chi hát "giải oan cho cuộc bể dâu này", [chắc là có đọc bài thơ Ta Về của Tô Thùy Yên nữa] và sau đó tan biến, và đi đầu thai, không làm dân Mít nữa, hẳn thế!

V/v Đỉnh cao văn chương: Truyện trinh thám?

Giả đúng như thế, thì làm sao có chân lý, cổ điển là thứ người ta không đọc, mà đọc đi đọc lại?
Biết rồi, thì đọc làm khỉ gì nữa?

GCC bị mấy đấng độc giả, cũng thứ bạn quí, chê, có mỗi chuyện ăn mìn VC khi ham ăn ham uống tại Bar Mỹ Cảnh, chuyện thằng em trai tử trận, mà viết hoài!

Nhưng rất nhiều nhà văn cho rằng, chúng tớ là thứ có mỗi 1 truyện viết đi viết lại hoài.
Kafka mà chẳng có mấy truyện ngắn, không chỉ viết đi viết lại, còn kéo dài ra thành truyện dài.
Buzzati viết trong sổ tay: Mọi nhà văn, nghệ sĩ sống dai, dài, dở cỡ nào, thì cũng chỉ viết có mỗi một điều.” [“All writers and artists, however long they live, say only one same thing."].

The Palestinian poet Mahmoud Darwish: "I am myself alone an entire generation." (1)
Chỉ tớ không thôi, là cả 1 thế hệ.

Ui chao, y chang GCC: Chỉ mấy truyện ngắn quèn, cả 1 thế hệ văn chương Miền Nam, tụ vào cú Mậu Thân!


Note: Chỉ vì cục thịt mà vượt biên thì...  tức cười quá.
Có thể vì lý do đó, mà sau này, khi cả thế giới quá ớn dân Việt, tụi mũi lõ bèn lập ra cái gọi là thanh lọc để phân biệt giữa “bi kịch trí thức” và “bi kịch kinh tế”. Nếu kinh tế, như “cục thịt”, trên đây, là đuổi về với VC.
Thầy Cuốc đi sớm quá, nên không khổ như đám đi sau ngày mà báo chí hồi đó gọi là “deadline”, đường chết. Trước đó, bất cứ Mít nào ngồi  xuống thuyền bỏ nước ra đi, thì là thuyền nhân.
Như vậy là sau khi ra được hải ngoại, Thầy Cuốc phấn đấu vượt Thầy Viễn, thịt cá ê hề, và không còn bị ám ảnh “cục thịt” nữa?
Bài này, Gấu đã đọc rồi. Bây giờ Thầy Cuốc nhân Thầy chết, lại đem ra xào lại, nghĩa là lại bắt Thầy Viễn khổ thêm 1 lần nữa vì cục thịt.

Và như thế, thì nên đổi cái tít là "Nhớ cục thịt của Thầy Lê Trí Viễn".