*
Notes

















Happy Valentine’s

Tình yêu từ cái nhìn đầu tiên - Thân Trọng Sơn
Tình đầu - Nguyễn Quốc Trụ
Chất liệu viết thư tình - Cao Nguyên
20 bài thơ gởi tình yêu - Đỗ Tư Nghĩa
*
Phu nhân Somerset
1  2

*

*

…. xem như gửi chút mùa Xuân cho người xa xứ.
Chúc anh và gia đình năm mới an lành và gặp nhiều may mắn.


nhớ ai buồn ngất trên vai áo

Viễn tượng

Họ đi ngang nhau như hai kẻ xa lạ,
Chẳng một lời, một cử chỉ
Nàng tới tiệm
Chàng hướng xe

Có lẽ nhói một cái,
Hay lơ là một tí
Hoặc lãng quên một tẹo
Và thế là trong một thoáng,
Họ yêu nhau
Thiên thu bất tận

Tuy nhiên chẳng có chi bảo đảm
Đó là Gấu và CM
Có lẽ đúng là hai đứa đó
Nếu nhìn từ xa
Đừng dí mắt thật gần

Tôi nhìn hai đứa từ trên cửa sổ
Và nhìn từ xa, từ phía bên trên như thế
Thường hú họa

CM biến mất quá cánh cửa kiếng
Gấu ngồi vô xe
Và tếch

Như chẳng có gì xẩy ra
Giả như có gì

Và tôi, chắc chắn vào lúc đó
Nhìn thấy như vậy
Và cố gắng thuyết phục bạn,
Ôi nnhững độc giả của tôi
Bằng bài thơ nho nhỏ tình cờ này
Rằng, buồn, buồn thật đấy
[To CM. The Bear]


*

Nhập nước Pháp, như là một kẻ xa lạ chẳng ai mời, vào năm 1939, Koestler bắt đầu viết Bóng đêm giữa ban ngày, cuốn sách nổi cộm nhất của ông, và, mặc dù viết trên 30 cuốn sách, với đa số, ông chỉ là tác giả của chỉ một tác phẩm. Bóng đêm vén màn cho độc giả Tây Phương nhìn thấy thành đồng chế độ, những cây cột trụ tâm lý của độc tài CS. Vào năm 1944, Koestler hiểu rằng người Nga sẽ kiểm soát phía đông Âu châu của Berlin, sau chiến tranh. “Chỉ trong hai năm, nó sẽ là một diễn dịch tự nhiên,” ông viết trong nhật ký. “Nếu tôi la lớn lên điều này, chẳng ai tin, và tôi có thể bị tống vô nhà thương điên”. Ông trở thành cây trụ cột của Hội nghị vì Tự do Văn hóa được thành lập bởi bàn tay lông lá của Xịa, vào năm 1950, để chống lại tuyên truyền và ảnh hưởng của Xô Viết. Tranh cãi sau đó liên quan tới hội nghị, là, liệu đám trí thức, khi khởi sự có biết gì về nguồn tiền trợ cấp. Scammell, tay viết tiểu sử Koestler nghĩ, không. Washington, bằng mọi giá, sẽ không giúp Koestler. Vào lúc đó, Scammell nhận xét, như nhìn rõ tim đen của Mẽo, “Xịa không muốn Chống Cộng ra mặt. Kín đáo, OK”.
Mít chúng ta, đọc tới đây, là bèn nghĩ tới tờ Sáng Tạo, và nguồn tiền trợ cấp của Mẽo, trao cho Mai Thảo. Và cũng bèn tự hỏi, liệu mấy ông kia, có biết không? Chắc không. Nguyên Sa, biết, nhưng không phải lúc thoạt đầu, mà sau đó, chắc là do MT xì ra, và khi xẩy ra đụng độ với TTT, NS tố nhóm Sáng Tạo nhận tiền của Xịa.
Cái sự kiện, TTT ‘không được ưa’ ở NS, và luôn cả ở MT, có thể là do ảnh hưởng của ông đối với đám viết lách liền sau ông, là HPA, NDD..., và Gấu.
Ông cùng đọc những cuốn sách với họ.
Hoặc hiểu họ.
Mai Thảo không đọc sách, nếu có, thì chỉ tới Sagan là hết. Đó là sự thực. Ông rành tiếng Tây, nhưng để đọc được đám hiện sinh, thí dụ, không phải cứ giỏi tiếng Tây. Gấu đã từng có kinh nghiệm này rồi, với ông anh Hiếu Chân. Một bữa, ông phán, mày đưa tao thử đọc cuốn La Nausée coi. Đọc chưa hết mấy trang đầu, ông đã vứt trả lại, phán, tao không hiểu được, tại sao tụi mày lại mê cuốn đó. Có ra cái gì đâu!
Mai Thảo đã từng dịch Sagan, Cô có thích Brahms? Đăng từng kỳ trên tờ Điện Ảnh, khi làm tổng thư ký cho tờ tuần báo này.
Mai Thảo không chịu nổi văn của Gấu. Chính ông đã từng nói ra, khi còn Sài Gòn, và sau này, khi ông đang nằm viện chờ đi, qua NMG cho biết, khi đem bài tạp ghi của Gấu viết về ông vô cho ông đọc, cũng là một cách "ai điếu". Người gật gù, "bây giờ nó viết, được!"
*
Trong cuốn Kẻ Lạ ở Quảng Trường, Koestler dành một chương cho Hội nghị Tự Do Văn Hóa, và tiền tài trợ của Xịa. Nhưng, trước khi nói chuyện tiền bạc, chúng ta nói về cuộc tình chót đời của ông, với cô thư ký Cynthia Jefferies. Khi họ quyết định cùng chết, K 77 tuổi, đủ thứ bịnh tật; Cynthia 55, hoàn toàn khỏe mạnh. Cái note của K. khi chết để lại mới thú:
To Whom It May Concern:
‘It is to her that I owe the relative peace and happiness I enjoyed in the last period of my life-and never before’
“Tôi nợ nàng sự thanh thản tương đối và hạnh phúc tôi được hưởng vào khúc chót của cuộc đời  - trước đó, tôi chẳng hề có”

Đúng, như "K" phán, trên đời này, chỉ có tình là đáng kể, và tình thật đẹp là tình thật sến, theo Gấu!
Đẹp tới đâu sến tới đó.
Cái cảnh anh cu Gấu chạy theo em khóc nức nở nơi cổng trường Đại học Khoa học Sài Gòn mà chẳng sến ơi là sến sao?
Bữa đó, Trời cũng khóc, mà khóc cũng thật là sến!
[Vậy mà cũng vưỡn chưa được coi cuốn phim của TNM.]
NQT

Tôi ngồi chờ nàng thật lâu. Cơn mưa vẫn tiếp tục. Cuối cùng, tôi chạy vào bên trong trường tìm nàng. Tôi gặp nàng đứng nói chuyện cùng mấy người bạn học. Nàng rời đám bạn, và hai đứa chúng tôi vừa đứng đợi ngớt mưa, vừa nói chuyện, những câu nói nhạt thếch. Khi mưa ngớt, chúng tôi thản nhiên chào nhau ra về, mỗi người đi một ngả đường. Khi nàng đi được một quãng khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và chạy theo, chạy thật nhanh. Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là không. Nàng lắc đầu. Tôi bảo nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi mệt và giận, muốn đánh nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe hơi đậu kế bên đường: đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước mưa rỏ trên khuôn mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình yêu, tôi đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối tình. Tôi bảo nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của tôi đối với nàng đã hết.
Sơ Dạ Hương

Hết gì đâu mà hết!
Đến già vẫn còn chết [vì nó]!
*
… a true romantic story of total devotion, absolute loyalty, unconditional surrender and true love.
George Mikes, Sunday Telegraph
Quả đúng là như thế, nhưng cái tay viết bài Intro cho cuốn Kẻ lạ ở Quảng trường, nhận xét, tinh tế hơn:
Cuốn sách này, trong cõi thâm sâu của nó, in essence, là một chuyện tình, nhưng “đếch” giống bất cứ một chuyện tình nào mà tôi đã từng đọc. Có lẽ, nên gọi nó, đúng hơn, câu chuyện về nỗi ám ảnh [the story of an obsession].
Vào Tháng Bẩy, 1949, Cynthia Jefferies, một cô gái xinh đẹp nhưng đau thương sầu muộn trong nỗi e thẹn và cũng khá ngốc nga ngốc nghếch, lúng túng vụng về, một cô gái từ Nam Phi, trả lời một mẩu tin cần người. Một nhà văn cần một cô thư ký tạm, temporary. Nhà văn là Arthur Koestler. Vào lúc đó, ông sống tại một căn nhà ở gần Fontainbleau [chỗ Bác Hồ đã từng ngụ ký hiệp định với Tây?], với Mamaine Paget, một trong hai cô gái xinh đẹp sinh đôi, sau đó ông lấy làm vợ, sau khi cuộc ly dị với bà trước xong xuôi. Cynthia thì sống ở Paris.
Cô có được cái job thư ký, và trong sáu năm tiếp theo, lúc ở Pháp, lúc Anh, lúc Mẽo. Trong thời gian này, cô có chồng, và rồi ly dị. Vào năm 1955, cô từ bỏ việc làm của cô ở New York, để trả lời một cái message của Koestler, và trở về Lơndon làm thư ký toàn thời gian. Vào giai đoạn nào họ trở thành hai người yêu nhau, độc giả cuốn sách hãy tự quyết định và rút ra lời kết luận. Nhưng chẳng nghi ngờ chi, Cynthia yêu Arthur hầu như ngay lần đầu nhìn thấy ông, trong cái cuộc phỏng vấn nhận việc, trong cái dáng điệu ngớ nga ngớ ngẩn của cô, tại Paris.
Họ chia sẻ cuộc đời cho nhau, vào năm 1955 đó, và vào năm 1965, họ làm lễ kết hôn. Vào Tháng Ba 1983, hai cái xác của họ được kiếm thấy, trong phòng khách của căn nhà của họ ở Montpelier Square, [căn nhà mà chúng ta thấy ở bià cuốn sách]. Koestler ngồi trên ghế bành, ly rượu brandy vẫn còn trong tay. Cynthia nằm sô pha, một ly whisky trên bàn kế bên. Ly nào cũng chứa một liều cực mạnh thuốc ngủ barbiturates.
Koestler lúc đó 77 tuổi. Trong bẩy năm cuối cùng, ông đau khổ với chứng bịnh Parkinson, lúc đầu còn kiềm chế được, nhưng ngày một tệ hại. Bốn năm chót, còn thêm bịnh leukaemia, vào thời kỳ chót. Cynthia, 55, hoàn toàn mạnh khoẻ.
Bên cạnh cái note của K, là những dòng của Cynthia: Tôi đã tính tính sổ làm thư ký cho K - một câu chuyện bắt đầu khi đường đời của chúng tôi đụng nhau vào năm 1949. Tuy nhiên, tôi không thể sống không có Arthur, mặc dù cũng một số vốn liếng riêng.
Tôi [Harold Harris] nghĩ, Cynthia quyết định cùng đi, khi nhận ra Arthur hết còn chịu đựng nổi gánh nặng cuộc đời.
Nguồn

Buổi đầu gặp gỡ Mr. Koestler mới khó chịu làm sao
How Unpleasant to Meet Mr Koestler
By Cynthia Koestler

Tôi sinh ra tại Nam Phi ngày 9 Tháng Năm 1927. Vào cuối tháng Giêng 1948 tôi rời Cape Town, để tới sống với mẹ tôi tại Paris. Đứng trên boong tầu, nhìn mảnh đất từ từ lùi dần, và cuối cùng lẫn vào vùng sương mù cuối chân trời, tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ trở lại.
Tại Paris, tôi gia nhập Alliance Francaise để làm quen trở lại và thực tập mớ tiếng Tây của mình. Mặc dù đã trải qua những ngày nghỉ hè tại bờ biển Normandy vào năm 1938, tôi chưa từng biết Paris. Tới mùa xuân, tôi bị cảm cúm, do thời tiết thay đổi. Rồi tôi kiếm được một chân thư ký tại cơ sở làm phim Warner Brothers. Công việc tưởng thích thú hoá ra thật nản, ngày ngày lo phân phát phim, ngoài ta còn phải sửa ba cái lỗi chính tả của hai ông sếp người Mẽo, viết tiếng Anh không nên thân, sau này, tôi thật ân hận khi biết họ gốc Đức và là những người may mắn chạy kịp đám Nazi, trước khi Lò Thiêu xẩy ra.
Làm được vài tháng, tôi đọc thấy một cái ad cần người trên tờ Herald Tribune. Một nhà văn cần một thư ký tiếng Anh, và tôi hăm hở viết thư xin việc. Tôi hơi thất vọng, khi biết ông ta không phải là “nhà văn thực sự”, như tôi tưởng bở, mà là một nhà tâm lý học, đang viết về lý thuyết Pavlov. Tên ông ta là Dr. Ishlondsky, một tay Bạch Vệ mang thông hành Mẽo. Tôi làm việc với ông ta mỗi ngày, trong một tháng, đánh máy cuốn sách của ông ta, và biết rành về Pavlov và lý thuyết vừa nghe kẻng trại tù VC một cái là anh tù VNCH nhỏ nước miếng!
[Note: Cái này là Gấu phóng bút, phóng dịch, xin độc giả TV tha cho cái tật bạ đâu xâu đấy!]
Sau ba tuần lễ, ông ta gửi tôi một cái note, cho biết ông ta rời Paris, đi miền nam nước Pháp. Khi mướn, ông không cho biết đây là một công việc tạm thời. Trên đường ra về, tôi lang thang trên phố, và ghé mua một tờ Herald Tribune, giở liền trang Cần Người, và đọc thấy cái ad: “Tác giả, khu vực Fontainbleau, cần thư ký bán thời gian, Viết về Hộp thư…”
Tôi vội vàng chạy tới Rond Point, nơi có một nguời bạn người Rumanian có một căn phòng, muợn cái máy chữ để đi một đường viết thư xin việc. Máy cà khổ, đánh chữ nọ xổ chữ kia, sau cùng tôi cũng hoàn thành tác phẩm, và thật tự hào về danh sách những việc làm đã qua của tôi, kèm lá thư xin việc.
Điều tôi không nói, ở trong đó, là, suốt đời, tôi thèm được làm việc cho một nhà văn.


Buổi đầu gặp gỡ Mr. Koestler mới khó chịu làm sao
How Unpleasant to Meet Mr Koestler
By Cynthia Koestler

‘It is to her that I owe the relative peace and happiness I enjoyed in the last period of my life-and never before’
“Tôi nợ nàng sự thanh thản tương đối và hạnh phúc tôi được hưởng vào khúc chót của cuộc đời - trước đó, tôi chẳng hề có”
*
Phu nhân Somerset
1  2

Có thể nói, Miss Trask đảo ngược hẳn cái lề thói cuộc đời mà chúng ta vẫn thường sống: Đẩy đời thực vào một xó xỉnh, chiếm càng ít không gian bao nhiêu, tốt bấy nhiêu, nhường chỗ cho giả tưởng. 

Bài này, đúng là tinh thần trang của K.
Hà, hà!
GNV

Hihi, một mặt nào đó, nó cũng là tinh thần của TV!!
Thay vì đẩy đời thường lùi vào một góc để dành chỗ cho giả tưởng, TV đẩy hiện tại vào một góc để quay về quá khứ.
K
*

Borges, trong Hồi ức của Shakespeare, nhắc đến De Quincey, ông này phán, bộ óc của chúng ta thì giống như miếng da lừa, a palimpsest. Bản văn mới phủ lên bản văn trước đó, cứ thế, cứ thế.
Nhưng gặp một tay có bộ óc khùng như GNV, thí dụ, thì cái bản văn cũ gọi là ‘quá khứ có BHD’ cứ luôn luôn là bản văn mới nhất, nó phủ lên mọi bản văn khác, kể cả bản văn sẽ có!

Ta cấm mi không được đem ta ra làm trò cười.
Mi đúng là thiếu… tự trọng!
[Thiếu tự trọng là chuyện quan trọng đối với mình, chứ chưa nói đến mình phải trọng người khác....]
Hà, hà!

*
-Anh coi thường em quá. Oanh ngăn xúc động dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình. Kiệt trở giọng giận dữ – Mình là cái quái gì. Anh chỉ mong được mọi người coi thuờng anh…
(Thanh Tâm Tuyền: Một Chủ Nhật Khác)
*
Người bị xe tuần tiễu bắn hồi ba giờ sáng ở rừng thông bên kia đường ra sân bắn là Kiệt. Tại sao Trung Úy Kiệt lại lần mò ra đấy? Ông ta bệnh nằm cả tháng nay bên tiểu khu mà. Ai biết. Đúng là Trung Úy Kiệt. Xác quàn bên Niệm Phật Đường. Nguyên băng M.16 vào bụng và ngực. Ai bắn? Đại Úy On, ông Đại Úy khùng. Khùng gì? Ai chẳng phải bắn trong trường hợp ấy.
Xác Kiệt nằm trên bàn, phủ vải, cuối gian phòng dài trần trụi. Đầu phòng đặt một bàn thờ Phật có tượng có đèn nhưng lạnh ngắt khói hương. Trên mặt sàn xi măng vương vài mẩu giấy xanh, đỏ, bệt sơn. Nơi này là chốn tụ tập của đoàn thiếu nhi Phật tử gồm các con em của trại gia binh, huynh trưởng là các sinh viên sĩ quan mộ đạo. Quanh vách gỗ căng những biểu ngữ về ngày lễ vu lan. Trong một góc bừa bãi những lon sơn, chổi cọ. Vài ba chiếc ghế bỏ giữa khoảng trống.
Một Chủ Nhật Khác